Đàn Hương Hình epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
III-chương 4 - Giáp Con Đấu Hót
hẩu pháo mặc áo đỏ gầm vang như sấm lúc trời quang, gió quạt ngang, mi-ao ~~. Tớ cùng bố tớ đi thi hành án, trong lòng hoa nở đỏ vàng trắng xanh! Có bố thật là tuyệt! Mi-ao ~~, bố bảo giết người hay giết lợn, tớ thích đến nỗi nhảy cẫng lên. sáng nay tớ chén đẫy, cháo quẩy ở ghênh to, thịt bò ở ghênh nhỏ. Cháo quẩy có mùi máu, ăn như chuột nhắt. Thịt bò cũng có mùi máu, ăn như ăn chuột nhắt. Mi-ao ~~ Cọc đàn hương đã luộc kỹ, đã thử làm trên lợn, bố truyền nghề cho tớ, tay nghề của bố cao. Tớ đợi Tôn Bính đến, xiên cọc đàn hương, xiên xiên xiên từ đít đến đầu. Kìa đám đông ồn ào kéo đến, một phát pháo bắn lên trời cao. Lôi thôi to rồi, chiếc râu hổ hiển linh trở lại, trước mắt tớ, loài n mắt tớ, loài người biến sạch, chỉ còn là chó ngựa bò dê, rắn rùa hổ báo, lại có cả một con ba ba kếch xù ngồi kiệu tám người khênh. Đó là tên ôn dịch Viên Thế Khải. Đừng nghĩa rằng hắn là quan to, hắn còn lâu mới bằng bố tớ.
Miêu Xoang. “Đàn hương hình. Oa oa điệu.”
Tớ mở mắt toàn màu đỏ, chết rồi, cháy ở đâu rồi! Hì hì, không phải cháy, mà là mặt trời mọc. Trong rơm rạ có rất nhiều bọ, tớ ngứa ran khắp người; dầu cháo quẩy chưa chín đã ăn, khiến tớ đầy bụng suốt đêm, liên tục đánh rắm. Tớ thấy cha tớ bây giờ không phải là con báo đen, mà lại là cha tớ. Cha tớ tay lần tràng hạt, ngồi trên long ỷ, oai ra phết! Tớ thèm được ngồi ghế một tí nhưng ca tớ không cho, cha bảo long ỷ không phải ai cũng được ngồi, nếu không phải là đít rồng, ngồi vào sẽ bị lòi dom, bịp, bố đít rồng thì sao con không đít rồng? Cha không đít rồng con không đít rồng, vậy cha không phải là cha, con cũng không còn là con nữa. Từ lâu tớ đã nghe nói: “Rồng đẻ ra rồng, phượng đẻ ra phượng, chuột sinh ra để đào hang”. Cha ngồi trên ghế, nửa mặt đỏ, nửa mặt trắng, mắt nửa mở nửa nhắm, môi mấp máy mà lại không, hình như đang trong giấc mơ đẹp.
Tớ bảo, cha ơi cha, nhân lúc họ chưa tới, cho con ngồi ghế một tí cho đỡ nghiện. Cha nghiêm nét mặt:
- Chưa được, bây giờ chưa được!
Vậy khi nào mới được?
- Đợi làm xong việc này đã! – Cha vẫn nghiêm nét mặt, tớ biết, ông ấy cố làm nghiêm, thực ra ông rất thích tớ, thích chết đi được. Một thằng con trai như tớ ai gặp cũng thích, sao cha lại không thích? Tớ áp sát sau lưng, ôm lấy cổ cha, dùng cằm khẽ gõ vào gáy cha, nói, cha không cho con ngồi ghế thì nhân lúc họ chưa tới, kể cho con nghe chuyện Bắc Kinh. Cha ngán ngẩm, nói:
- Ngày nào cũng kể, đâu mà lắm chuyện thế?
Tớ biết ông ấy giả vờ ngán ngẩm thế thôi.Thực ra, ông ấy rất thích kể chuyện Bắc Kinh. Tớ bảo cha kể đi, nếu không có chuyện mới thì kể lại chuyện cũ. Cha bảo:
- Chuyện cũ thì còn ý nghĩa gì nữa? Có biết câu “Chuyện hay kể mãi, chó không thèm nghe” không?
Tớ bảo, cha, chó không nghe con nghe.
- Cái thằng! – Cha nhìn mặt trời, nói – vẫn còn thời gian, cha kể chuyện Quách Miêu cho con nghe.
Những chuyện cha đã kể, tớ không quên chuyện nào, tất cả một trăm bốn mươi mốt chuyện nhét trong đầu tớ. Đầu tớ như cái rương của thầy thuốc, có rất nhiều ngăn, mỗi ngăn là một chuyện. Rất nhiều ngăn vẫn bỏ trống. Tớ lướt qua các chuyện trong các ngăn, chưa có chuyện Quách Miêu. Mừng quá mừng quá mừng quá, chuyện này mới. Tớ kéo cái ngăn thứ một trăm bốn mươi hai, đợi nạp chuyện Quách Miêu. Cha kể:
- Những năm thời Hàm Phong, có hai cha con đến Thiên Kiều Bắc Kinh. Cha tên Quách Miêu, con tên Miêu Con, cả hai đều giỏi nhại tiếng. Con có biết nhại tiếng là gì không? Là bằng miệng, nhại được tất cả các thứ tiếng.
Họ nhại được tiếng mèo không?
Khi người lớn kể chuyện không được nói leo. Hai cha con hành nghề ở Thiên Kiều, nổi tiếng rất nhanh. Khi đó, cha mới là Cháu Ngoại ở chỗ Già Dư. Nghe chuyện, cha lẻn đi Thiên Kiều xem thực hư. Đến nơi, cha thấy rất nhiều người vây thành vòng tròn trên bãi đất trống. Khi ấy cha rất lùn, người gầy nhom, luồn dưới chân người khác vào bên trong. Chỉ thấy một thằng nhỏ ngồi trên chiếc ghế đẩu, trước mặt là một cái mũ để ngửa. Từ sau tấm màn bằng vải xanh vọng ra tiếng gáy của gà trống. Một con gáy, tiếp đó là mấy chục con gà trống khác chỗ gần chỗ xa gáy theo, nghe rõ cả mấy chú trống choai chưa đủ lông cánh đang tập gáy. Nghe rõ mấy chú trống choai vừa đập cánh phành phạch vừa gáy. Tiếp đó là một bà già đánh thức ông già và con trai dậy. Tiếng ông già ho, nhổ đờm, đánh lửa hút thuốc, gõ tẩu thuốc vào mép giường. Tiếng con trai ngáy, bà già giục dậy, con trai dậy, cằn nhằn, ngáp, mò mẫm mặc quần áo, tiếng mở cửa, đi tiểu sau nhà, tiếp đó, tiếng múc nước rửa mặt. Tiếng bà lão nhóm lửa đun nước, tiếng bễ thổi lửa. Sau đó, tiếng hai cha con ra chuồng bắt lợn. Tiếng lợn chạy quanh chuồng, tiếng lợn đánh vỡ vại nước tiểu. Tiếng lợn xộc vào chuồng gà, tiếng gà sợ hãi kêu cục tác, tiếng gà bay lên đầu tường, tiếng chân sau của lợn đã bị người con tóm, tiếng người cha cùng con trai lôi con lợn ra khỏi chuồng gà, tiếng con lợn kêu thét vì bị kẹt đầu ở chuồng gà, tiếng dây thừng trói chân lợn, tiếng người cha cùng con trai quẳng con lợn lên phản thịt, tiếng lợn giẫy trên phản, tiếng người con trai dùng chày đập đầu lợn, tiếng lợn sau khi bị đập đầu. Rồi tiếng người con trai mài dao trên đá mài. Tiếng người cha kéo cái liễn sành chuẩn bị hứng tiết. Tiếng lưỡi dao của người con thọc vào cổ lợn. Tiếng lợn bị chọc tiết. Tiếng tiết lợn vọt theo dao, lúc đầu tia xuống đất sau mới chảy vào liễn. Tiếp theo là tiếng bà lão bê chậu nước sôi đến, ba người hối hả làm lông lợn. Làm lông xong, tiếng người con mổ bụng lợn, lôi ni tạng ram tiếng con chó lao tới đớp khúc ruột lợn rồi bỏ chạy, tiếng bà lão đánh chửi con chó, tiếng hai cha ông lão móc thịt lợn lên quang treo, tiếng khách hàng đến mua thịt, có bà già, ông già, đàn bà và trẻ con. Bán xong thịt, tiếng đếm tiền, đếm xong tiền, tiếng cả nhà húp cháo. Đột nhiên, tấm màn được vén lên, mọi người thấy phía trong không có gì cả, chỉ mỗi ông già hom hem ngồi đó. mọi người vỗ tay. Thằng nhỏ cầm mũ đi một vòng thu tiền, những đồng xu rơi như mưa vào trong mũ, cũng có đồng rơi xuống đất. Cha mục kích chuyện này, nửa câu cũng không bịa, vẫn là câu muôn thuở: nghề nào cũng có Trạng nguyên.
Kể xong, bố lại tiếp tục nhắm mắt dưỡng thần, còn tớ chìm trong câu chuyện, không muốn ngoi lên. Chuyện bố kể là chuyện hai bố con. Tớ cảm thấy tất cả những câu chuyện mà bố kể về bố con đầu là chuyện của bố con tớ. Bố chính là ông lão Quách Miêu có tài nhại tiếng, còn tớ, chính là thằng con trai ngửa mũ đi một vòng thu tiền, m… eo m… eo m… eo!
Ơû Bắc Kinh, bố tớ đả biễu diễn không biết bao nhiêu lần kỹ nghệ giết người, hấp dẫn hàng ngàn hàng vạn người xem. Họ mê mẩn về tuyệt kỹ của bố tớ, tớ có thể hình dung họ ứa nước mắt vì xúc động, nếu như lúc đó tớ có mặt ở đấy, tay cầm ngửa cái mũ, đầu đội tấm da mèo, đi một vòng mà thu tiền thì hay biết đấy! Tớ vừa thu tiền, vừa nhài tiếng mèo, mi-ao mi-ao mi-ao, được biết bao nhiêu tiền nhỉ? Đúng là… Sao bố không về nhận tớ sơm sớm một tí, cho tớ đến Bắc Kinh. Nếu tớ sống bên bố từ nhỏ, bây giờ tớ đã trở thành Trạng Giết Người.
Hồi bố tớ mới về, có người khẽ bảo tớ, rằng bố cậu không phải là người. Không là người thì là cái gì? Là quỉ nhập tràng! Họ bảo, Giáp Con thử nhớ lại, khi mẹ cậu chết, mẹ cậu có nhắc tới bố cậu không? không hả? Chắc chắn là không. Mẹ cậu khi chết không nói cậu có bố, giờ bỗng nhiên có một ông bố như từ trên trời rơi xuống, như từ dưới đất chui lên, nếu không phải là ma quỉ thì là cái gì?
- Đ. mẹ các vị, mi-ao mi-ao mi-ao, tớ xách dao xộc tới bọn nói hớt. Tớ không có bố đã hơn hai mươi năm, mãi mới có một ông bố các người lại bảo không phải bố tớ không những không phải bố tớ mà là con quỉ! Các người đúng là gần chùa gọi bụt bằng anh! Tớ múa đao xông tới, tớ mà bổ một nhát thì xẻ dọc từ đỉnh đầu xuống tận gót chân. Bố tớ bảo trong Hình điển gọi cách chém này là “xả”, hôm nay tớ xả những kẻ bảo bố tớ không phải bố tớ. Họ thấy tớ nổi cáu, sợ vãi đái ra quần, bỏ chạy tán loạn. Mi-ao mi-ao mi-ao, bọn chuột dài đuôi rờ hồn! Bố tớ không phải tay vừa, tớ cũng không phải tay vừa đâu nhé! Mi-ao mi-ao mi-ao, kẻ nào không tin hãy thử xem, bố tớ là loại đao phủ ngồi long ỷ, Vua cho phép tiền trảm hậu tấu, gặp người chém người, gặp chó chém chó, tớ là tay dao tay búa của bố tớ, chém người như giết chó mổ lợn.
Tớ đòi bố kể chuyện nữa, bố bảo:
- Đừng quấy, chuẩn bị đi, đừng để đến lúc đó bấn tinh lên.
Tớ biết hôm nay làm việc lớn – ngày có việc lớn cũng là ngày đại hỉ của bố con tớ – Sau này còn khối dịp kể chuyện, miếng ngon đừng ăn hết một lần. Chỉ cần thi hành xong án Đàn Hương Hình, bố vui lên, còn lo gì bố không kể hết chuyện này chuyện khác. Tớ ra sau lều đi vệ sinh, nhân thể ngó bên ngoài một chút. Sân khấu, đài Thăng Thiên, đàn bồ câu bay trong nắng, tiếng vỗ cánh rào rào. Xung quanh sân bãi có một số lính, cọc gỗ, lính, cọc gỗ. Rìa bãi có mấy khẩu pháo nằm bẹp, có người bảo đó là pháo ba ba, tớ bảo đó là pháo chó. Pháo ba ba, pháo chó cũng thế, bóng nhẫy, sủa ông ổng, tấm lưới rêu trùm lên ba ba, tấm lưới lông trùm lên mình chó, mi-ao mi-ao mi-ao.
Tớ vòng ra trước lều, chân tay ngứa ngáy, muốn làm một việc gì đó. Ngày thường thì vào giờ này tớ đã mổ xong chó lợn, móc thịt lên giá đâu vào đấy, mùi thịt tươi theo chim vành khuyên bay khắp nơi, người mua thịt xếp hàng trước cửa, tớ cầm dao rựa đứng trước thớt, tóm lấy tảng thịt nóng hôi hổi hạ một nhát, cần chừng nào xả đúng chừng ấy, không sai nửa hoa. Khách hàng giơ ngón tay cái trước mặt tớ: Giáp Con giỏi thiệt! Tớ biết tớ giỏi, cần gì các người nói ra! Nhưng hôm nay tớ cùng với bố làm việc lớn, việc này quan trọng hơn giết lợn. Thế còn khách mua thịt thì sao? Làm sao bây giờ? Chịu, các vị ăn chay một hôm vậy.
Bố không kể chuyện cho nghe nữa. Chán thật! Tớ vòng ra chỗ bếp, lửa trong lò đã tắt, dầu trong ghênh phẳng lì, bóng loáng. Không phải dầu, mà là một tấm gương. Gương bằng đồng thau sáng trong, sáng hơn cả mặt vợ tớ, lộn ngược từng cái lông trên mặt tớ. Máu đen trước cửa bếp và trên vách lò. Đó là máu Ba Tống. Máu Ba Tống không chỉ bắn trước cửa bếp và trên thành bếp, mà còn bắn vào trong ghênh dầu. Phải chăng có máu Ba Tống nên dầu mới óng ánh như vậy? đợi khi thi hành xong án Đàn Hương, khênh chiếc ghênh dầu này về sân cho vợ làm gương soi. Nếu vợ đối xử không tốt với bố, tớ không cho soi. Tối qua, lúc tớ đang mơ mơ màng màng thì nghe thấy “Pằng” một phát, Ba Tống đã chúi dầu vào trong ghênh, lôi được ra thì đã chín quá nửa, hay thật, mi-ao mi-ao mi-ao! Thằng cha bắn giỏi! Bố không biết ai bắn, bọn quan quân nghe tiếng súng chạy tới cũng không biết. Chỉ tớ biết. bắn giỏi như vậy ở Cao Mật chỉ có hai người, một là Ngưu Thanh chuyên săn thỏ, một là quan huyện Tiền Đinh. Ngưu Thanh chỉ còn mắt trái. Mắt phải mù do súng phá hậu. Sau khi mù mắt phải, Ngưu Thanh bắn cực chuẩn. Hắn chuyên bắn thỏ đang chạy, hắn mà nâng súng lên là con thỏ về chầu Diêm vương. Ngưu Thanh là bạn thân của tớ, bạn thân của tớ là Ngưu Thanh. Còn một tay súng bắn giỏi như thần là quan huyện Tiền Đinh. Dạo tớ đi Bắc Đại Hoang hái thuốc cho vợ, tớ thấy quan huyện và hai tùy tùng là Xuân Sinh và Lưu Phác săn thỏ ở đấy. Xuân Sinh và Lưu Phác dồn cho thỏ chạy, quan huyện cưỡi ngựa vọt lên, rút súng lục bắn luôn không cần ngắm, con thỏ nhảy dựng cao nửa thước, chết liền.
Tớ nằm bẹp trong đám cỏ khô, nghe Xuân Sinh ngọt như mía lùi, tán dương tài bắn của ông lớn. Lưu Phác thì ngồi trên ngựa, đầu ngục trước ngực, nét mặt không biểu lộ gì. Vợ tớ có lần nói, tay chân thân tín của quan huyện tên là Lưu Phác, là con nuôi của phu nhân quan huyện. Anh ta là con trai một ông lớn, bụng đầy chữ, có bản lĩnh. Tớ không tin, có bản lĩnh thì sao phải đi làm đầy tớ? Có bản lĩnh thì phải như bố tớ, cầm đại đao, mặt bôi đỏ. Sật! Sật! Sật! Sật! Sật! Sật! Sáu cái đầu rơi xuống đất!
Tớ nghĩ bụng: quan huyện bắn không giỏi, chẳng qua là gặp may, ngắm trúng một con thỏ chết. Con sau chưa chắc đã trúng. Quan huyện hình như biết được ý nghĩ của tớ, giơ súng bắn lên một phát, con chim nhỏ đang bay rơi xuống như hòn đá, ngay bên cạnh tớ. Mẹ ơi, bắn giỏi thiệt! Mi-ao mi-ao. Con chó săn của quan huyện chạy tới, tớ cầm vội con chim. Con chim nóng bỏng trong tay tớ. Con chó sủa gâu gâu trước mặt ớ. Chó thì tớ không sợ. Chó sợ tớ. Tất cả chó ở Cao Mật trông thấy tớ là cụp đuôi bỏ chạy. Chó sợ tớ, chứng tỏ bản tướng của tớ giống bố tớ, đều là báo đen. Con chó của quan huyện rất hung hăng, thực ra, qua tiếng sủa, nó chẳng qua chó cậy gần nhà, cáo mượn oai hùm thế thôi, trong bụng nó sợ tớ. Tớ là Diêm vương của chó vùng Cao Mật. Thấy chó sủa, Xuân Sinh và Lưu Phác chạy tới. Lưu Phác thì không quen, nhưng Xuân Sinh thì là bạn. Hắn thường xuyên đến nhà tớ chén thịt chó, uống rượu, lần nào tớ cũng bán rẻ cho hắn. Xuân Sinh hỏi, Giáp Con đến đây làm gì? Tớ bảo tớ đến đào cây thuốc, vợ tớ đau, tớ phải kiếm cây đứt ruột thân đỏ lá xanh, làm thuốc cho vợ. Anh có biết cây đứt ruột không? Biết thì làm ơn chỉ cho tớ, bệnh vợ tớ không nhẹ đâu. Quan huyện đến trước mặt tớ, nheo mắt nhìn tớ từ đầu đến chân, hỏi tớ người ở đâu tên chi. Tớ không trả lời, cứ ú ớ trong miệng. Hồi nhỏ, mẹ tớ dạy, hễ gặp quan hỏi chuyện thì phải giả vờ câm. Tớ nghe thấy Xuân Sinh ghé tai nói nhỏ với quan huyện: “Chồng Tây Thi Thịt Cầy, hơi ngớ ngẩn…”. Tớ nghĩ bụng, đ. bà thằng Xuân Sinh, vừa nãy mi còn nói mi là bạn thân của tớ! Thế mà là bạn thân? Bạn thân mà nói bạn thân là hơi ngớ ngẩn! Mi-ao mi-ao mi-ao, đ. cụ mi, mi bảo ai hơi ngớ ngẩn? Tớ mà hơi ngớ ngẩn thì mi là ngớ ngẩn hoàn toàn!
Ngưu Thanh sử dụng cây súng tự tạo, bắn ra một chùm đạn ghém; quan huyện sử dụng cây súng tây, bắn ra đạn chỉ có một viên. Trên đầu Ba Tống chỉ có một lỗ đạn, anh bảo không phải là quan huyện bắn thì ai vào đấy? Nhưng vì sao quan huyện bắn chết Ba Tống? Ờ, tớ hiểu rồi, Ba Tống ăn cắp tiền của quan huyện, chắc là thế. tiền của quan mà thích lấy thì lấy sao? Anh ăn cắp tiền của quan, không bắn chết anh sao được? Đáng kiếp, đáng kiếp! Mi cậy cửa quan, gặp tớ không thèm chào một tiếng. Mi còn nợ tớ năm xâu tiền, đến nay vẫn chưa trả, ngươi không trả, tớ cũng chẳng dám đòi, giờ thì tớ tiền mất, còn mi thì toi mạng. Vậy mạng sống quan trọng hay tiền quan trọng? Tất nhiên là mạng sống quan trọng hơn. Mi cầm số tiền quịt của tớ mà đi chầu Diêm vương.
Đêm qua, sau tiếng súng, quan quân lập tức ùa tới. Họ hối hả lôi Ba Tống ra khỏi ghênh. Đầu hắn thơm phức, máu và dầu cùng rỏ giọt, chẳng khác bánh hồ lô chiên dầu. Mi-ao mi-ao! Quan quân đặt hắn xuống đất, hắn chưa chết hẳn, hai chân vẫn co giật như con gà bị cắt tiết. Quan quân giương mắt nhìn nhau, không biết nên làm gì. Một đầu mục chạy tới, ấn bố tớ và tớ vào trong lều, rồi hướng về phía viên đạn bắn tới, lẩy một phát đạn. Lần đầu tiên tớ nghe súng nổ ngay bên tai, súng tây, mà lại là súng Đức, bắn xa mấy dặm, đạn xuyên thủng tường. Quan quân bắt chước viên đầu mục, chĩa súng về phía viên đạn bắn tới, mỗi người nã một phát. Bắn xong, đầu nòng có khói trắng, mùi thuốc súng nồng nặc, chẳng khác thuốc pháo ngày Tết nguyên đán. Tiếp đó, viên đầu mục quát: “Truy kích!”. Mi-ao mi-ao, quan quân hò la, nhằm hướng vừa bắn, xông lên. Tớ định chạy theo họ thì bị bố tớ nắm tay giữ lại. Tớ nghĩ bụng, một lũ ngốc! Truy thì truy hướng nào? Chắc chắn quan huyện cưỡi ngựa, trong lúc các người loay hoay lôi Ba Tống ra ngoài, ông ta đã thúc ngựa chạy về huyện. Ngựa quan là ngựa xích thố, toàn thân màu hồng không sợi tạp, khi chạy như một quả cầu lửa, càng chạy dáng càng to, réo ù ù. Con ngựa của quan huyện vốn là của Quan công, ngày chạy ngàn dặm, không ăn cỏ, đói ăn đất, khát uống gió – đấy là bố tớ bảo thế. Bố tớ còn bảo, nên gọi ngựa là xích thố là ngựa ăn đất, ngựa uống gió. Ngựa mà ăn đất uống gió thì là tinh của loài ngựa. Khi nào tớ có một con ngựa như thế, tớ nhường bố tớ cưỡi trước, bố không nỡ cưỡi thì tớ cưỡi. Cái gì tốt thì nên nhường cho bố, tớ là đứa con có hiếu, có hiếu nhất vùng Cao Mật, có hiếu nhất phủ Lai Châu, có hiếu nhất tỉnh Sơn Đông! Mi-ao mi-ao mi-ao!
Quan quân truy kích một hồi, rồi lác đác trở lại. viên đầu mục bảo bố tớ:
- Già Triệu, để đảm bảo an toàn, Già không nên đi khỏi lều, đây là lệnh cu3a Viên đại nhân.
Bố tớ không trả lời, chỉ cười nhạt. Mấy chục quân quan vây chặt cái lều, mi-ao mi-ao mi-ao, biến bọn tớ thành bửu bối. Viên đầu mục thổi tắt ngọn nến, bố trí hai bố con tớ ở chỗ không có ánh trăng rọi vào. Ông ta còn hỏi bố tớ, cọc đàn hương ninh kỹ chưa, bố tớ bảo cơ bản được rồi. Viên đầu mục lôi củi trong bầu lò ra, tưới nước cho tắt, mùi tro rất thơm. Tớ khịt mũi rất mạnh. Trong bóng tối, tớ nghe bố nói một mình hoặc có thể là nói với tớ:
- Đây là ý trời! Hắn tế cọc đàn hương.
Bố, bố nói gì thế?
- Con ngủ đi, ngày mai làm việc lớn.
Bố, con đấm lưng cho bố?
- Khỏi.
Con gãi ngứa cho bố nhé?
- Ngủ đi – Bố hơi khó chịu, nói.
Mi-ao mi-ao.
- Ngủ đi!
Sau khi trời sáng, đám quan quân bố trí xung quanh lều rút đi, thay vào đó là một tốp lính Đức. Chúng phân tán xung quanh bãi, mặt quay ra, đít quay vào trong. Sau đó lại có một tốp quân quan, cũng phân tán xung quanh bãi, nhưng khác bọn lính Đức ở chỗ, mặt quay vào đít quay ra. Sau đó lại có sáu quân quan, sáu lính Đức, bốn đứng quanh lều, bốn đứng quanh sân khấu, bốn đứng quanh Thăn Thiên đài. Bốn đứng quanh lều, hai lính của Viên, hai lính Đức. Chúng đều ngoảnh ra, lưng quay vào trong. Cả bốn như thi nhau đứng nghiêm, thẳng đuỗn.
Bàn tay lần tràng hạt của bố dừng trong giây lát, một hòa thượng già đang nhập định, A di đà Phật. A di đà Phật, vợ tớ thường xuyên nói vậy. Tớ dán mắt vào tay bố. Mi-ao mi-ao, không phải bàn tay bình thường, đây là tay của triều Đại Thanh, cánh tay của đất nước, là tay của Từ Hi lão Thái Hậu và Đức Vạn tuế. Từ Hi lão Thái hậu và Đức Vạn tuế định giết ai thì giết bằng tay bố tớ. Lão Thái hậu bảo bố tớ: Ta bảo tên giết người, giết hộ ta người này! Bố tớ nói: Tuân lệnh! Tay của bố hay thật, để yên thì như con chim nhỏ, lúc cử động thì như đôi cánh. Mi-ao mi-ao. Tớ nhớ vợ có lần bảo, tay bố nhỏ tới mức quáo đản. Nhìn tay, càng cảm thấy ông không phải người thường, nếu không quỉ thì là tiên. Đánh chết thì anh cũng không tin đây là đôi tay đã giết hàng ngàn người! Đôi tay này chỉ thích hợp với nghề đỡ đẻ. Ơû quê tớ người ta gọi bà đỡ là Già Lành. Già Lành! Chà chà, tớ chợt hiểu vì sao ở kinh thành người ta gọi bố tớ là Già. Ông là bà đỡ. Bà đỡ thường là nữ, bố tớ là na, là đàn ông. Đàn ông ư? Đúng, đàn ông. Tớ kỳ cọ cho bố khi tắm, từng thấy cái chim bé tí, xanh lét như quả bầu chưa rụng rốn. Hì hì… cười cái gì? Quả bầu điếc! Hì hì… đồ ngốc! Đàn ông mà đỡ đẻ? Không sợ người ta cười cho sao? Đàn ông đỡ đẻ thì trông thấy cái kẽ nứt ở đít phụ nữ, không sợ người ta vác gậy nện cho một trận sao? Không hiểu, càng nghĩ càng không hiểu, thôi không nghĩ nữa, ai rỗi hơi thì nghĩ.
Bố tớ chợt mở mắt nhìn xung quanh rồi đeo tràng hạt lên cổ, đi đến trước ghênh. Tớ trông thấy trong ghênh có bóng của tớ và cả bóng của bố tớ. Dầu trong ghênh còn sáng hơn gương, soi rõ từng sợi lông trên mặt tớ. Bố cầm lên một cọc đàn hương, mặt dầu nhăn lại, vỡ ra. Mặt bố tớ cũng biến dạng, dài như mặt dê. Tớ giật thót, bản tướng của bố là báo đen, bản tướng của tớ vốn là con sơn dương, trên đầu có hai cái sứng. Mi-ao mi-ao, biết bản tướng của mình rồi đâm nản. Bản tướng của bố là báo đen, bản tướng của quan huyện là hổ trắng, bản tướng của vợ là rắn trắng, còn tớ thì lại là sơn dương râu dài. Sơn dương thì là cái thá gì, tớ không là sơn dương. Bố đưa cọc đàn hương ra chỗ có nắng, ngắm như ông thợ rèn ngắm thanh bảo kiếm vừa rèn xong. Dầu trên cọc mảnh như tơ chảy trở lại trong ghênh, tạo thành lúm đồng tiền trên mặt dầu. Bố thấy dầu đã chảy hết, liền rút miếng lụa trắng trong bọc ra lau thanh cọc, dầu thấm rất nhanh vào khăn. Bố để khăn xuống mặt lò, một tay cầm đốc, một tay cầm mũi, dùng sức uốn thanh cọc một cái. Thanh cọc uốn cong rồi trở lại như cũ. Bố tỏ ra rất mãn nguyện, rất ít khi bố vui vẻ như thế. Bố vui thì tớ như mở cờ trong bụng. Mi-ao mi-ao, đàn hương hình hay thật, nó làm bố tớ vui! Mi-ao mi-ao.
Bố đem hai cây cọc đàn hương vào trong lều, để trên chiếc bàn nhỏ, rồi quì xuống cung kính lạy mấy lạy, làm như trên bàn có thần linh, người trần mắt thịt không thể trông thấy. Lạy xong, bố trở lại ngồi trên ghế, che tay ngang mày xem mặt trời. Mặt trời đã lên cao một con sào. Thường thì vào giờ này, tớ đã bán hết thịt lợn, chuyển sang mổ chó. Sau khi ngó mặt trời, bố ra lệnh, mắt không nhìn tớ:
- Giết gà đi, con!
Mi-ao mi-ao mi-ao!
Lệnh bố ban ra, lòng tớ nở hoa! Mi-ao mi-ao. Sự chờ đợi đến nẫu ruột đã kết thúc, giờ phút tưng bừng đã tới. Tớ chọn trong rổ dao lấy một lưỡi sáng quắc đưa đến trước mặt bố. Bố gật đầu. Tớ đến bên con gà, nó sợ kêu cùng cục, ỉa một bãi cứt trắng. Thường thì vào giờ này, nó đứng gáy trên đầu tường, hôm nay bị xích chân vào cọc gỗ. Tớ một tay túm chặt cánh gà, chân dậm lên chân gà. Bố đã dặn, hôm nay không giết gà lấy thịt, mà lấy tiết. Tớ đặt cái bát màu đen dưới cổ gà để hứng tiết. Mình gà nóng rực, đầu ngọ ngoạy liên tục. Mày không ngoan còn không ngoan nữa hay thôi, chết đến nơi mà vẫn quậy phá, lợn khỏe hơn mày nhiều, chó dữ hơn mày nhiều tao còn không sợ, chẳng lẽ tao sợ mày? Tớ vặt lông cổ, chỗ da bị vặt lông co lại, tớ khứa một nhát. Thoạt đầu, vết khứa không có máu, tớ hơi hoảng vì nghe bố nói: hôm thi hành án nếu cắt tiết gà không có máu thì công việc sau đó chắc chắn không thuận. Tớ cứa lại một nhát, lần này thì tốt rồi, dòng máu màu đỏ tía vọt ra, y như thằng con trai đái lúc ngủ dậy. Mi-ao mi-ao, gà trống trắng nhiều máu, chảy đầy một bát to, còn tràn ra ngoài. Xong. Tớ quẳng con gà mềm nhũn xuống đất, nói, cắt tiết xong rồi.
Bố vẫy tớ, nét mặt cực kỳ vui vẻ, bảo tớ quì xuống. Ông dầm cả hai bàn tay trong bát như để cho tay uống no tiết. Tớ nghĩ, bàn tay bố có miệng, biết uống tiết. Bố cười hì hì nói:
- Nhắm mắt lại, con!
Bảo nhắm mắt thì tớ nhắm. Tớ là đứa con biết vâng lời. Tớ ôm đầu gối bố, dập trán bồm bộp vào gối bố, buột miệng kêu: Mi-ao mi-ao mi-ao… bố bố bố… Bố kẹp tớ giữa hai gối, bảo:
- Ngẩng mặt lên, con!
Tớ ngẩng mặt lên nhìn khuôn mặt kinh hồn của bố. Tớ là đứa con ngoan, biết vâng lời bố. Lúc chưa có bố thì tớ vâng lời vợ, khi có bố tớ vâng lời bố. Tớ chợt nhớ tới vợ, hơn một ngày chưa gặp, hắn đi đâu thế nhỉ? Mi-ao mi-ao, bố xoa cả hai bàn tay đầy tiết lên mặt tớ, tớ ngửi thấy mùi tanh hơn tiết lợn. Thực tình, tớ rất không thích bôi tiết gà lên mặt, nhưng bố rất nghiêm, không nghe lời sẽ bị lôi lên huyện đánh nát đít, năm mười mười lăm hai mươi gậy vào mông! Mi-ao mi-ao, hai bàn tay bố tớ lại nhúng vào bát, bôi nữa lên mặt tớ, không chỉ bôi mặt mà bôi cả hai tai. Trong khi bôi mặt, không hiểu vô tình hay cố ý, làm cho tiết vào cả trong mắt, xót quá, mi-ao mi-ao, nhìn cái gì cũng mờ mờ ảo ảo như nhìn qua màn sương màu hồng. Tớ cứ meo meo mà kêu bố, bố ơi, bố làm mù mắt con rồi! Tớ lấy mu bàn tay lau mắt, càng lau càng sáng, càng lau càng sáng; rồi đột nhiên sáng rực. Gay rồi, gay rồi, râu hổ thông linh rồi, mi-ao mi-ao, không thấy bố đâu cả, trước mắt tớ là một con báo đen. Nó đứng trên hai chân sau, hai chân trước thò trong bát tiết gà, máu từ tay rỏ tong tỏng như bị thương. Con báo đen bôi tiết gà lên bộ mặt đầy lông lá, bôi mãi cho đến khi mặt đỏ như lửa, như hoa mào gà. Tớ đã biết bản tướng của bố là báo đen nên không sợ. Tớ không thích râu hổ thông linh. Thông linh một lần đã quá đủ. Lần này lâu quá, mãi không trở lại hình ảnh cũ, rất phiền nhưng không biết làm thế nào! Trong lòng tớ vừa buồn vừa vui. Buồn vì chẳng nhìn thấy ai là người, vui vì không có người thứ hai nhìn thấy bản tướng con người như tớ. Tớ nhìn quanh, thấy lính của Viên và lính Đức đều là sói dài đuôi và chó cộc đuôi, vài đứa là những con lửng; có một bọn vừa giống sói vừa giống chó nhà, nhìn quần áo, tớ nhận ra đó là các đầu mục, có lẽ chúng là con đẻ của sói rừng phối giống với chó nhà, tớ gọi chúng là chó tạp. Chúng mất dạy hơn sói, dữ hơn chó nhà, đã bị chúng cắm hiếm khi sống sót, mi-ao mi-ao.
Ông bố báo đen của tớ sau khi bôi tiết gà lên mặt và chân trước, liếc nhìn tớ bằng cặp mắt đen láy, nhe bộ răng vàng khè mỉm cười với tớ. Mặc dù ông thay đổi rất đáng kể, nhưng nhìn thần thái và tác phong, tớ vẫn nhận ra. Tớ cũng ngoác miệng ra cười. Mi-ao mi-ao. Ông khệnh khạng đến bên chiếc ghế màu đỏ tía, đuôi đội quần lên rất cao. Ông ngồi xuống ghế, lim dim mắt, tỏ ra vô cùng thanh thản. Tớ ngó láo liên một hồi, ngáp một cái rồi ngồi xuống ghế đẩu sau lưng ông, ngắm cái bóng đài Thăng Thiên nằm méo mó trên mặt đất. Tờ sờ đuôi của bố. Ông thè cái lưỡi đầy gai liếm tóc trên đầu tớ, tớ rên lên, ngủ thiếp.
Những tiếng ồn làm tớ tỉnh giấc, mi-ao mi-ao, tớ nghe tiếng kèn đồng, tiếng tù và, tiếng trống cà rùng quyện vào nhau, lại cả tiếng đại bác nặng và khỏe nổi bật trên cái mớ âm thanh hỗn tạp đó. Tớ thấy cái bóng của đài Thăng Thiên đã rất ngắn. Trên đường phố, một khối sáng rực di chuyển về hướng bãi tập. Những khẩu pháo ở rìa bãi đã bỏ ngụy trang từ lúc nào, phô những chiếc nòng màu xanh đen, tuy cách rất xa, nhưng lông trên người chúng không thoát khỏi mắt tớ. Những khẩu pháo giống như những con ba ba, vươn cổ nhả ra một quả cầu lửa, sau khi nhả quả cầu lửa, lại thở ra một bụm khói trắng. Đám lang sói hoạt động như những con rối, trông thật tức cười. Mắt tớ rất xót. Nghĩ mãi, chắc là tớ đổ mồ hôi. Lấy tay áo lau mặt, tay áo đỏ lòm. Lau mặt thì không có gì đáng bàn, cái đáng bàn là trước mắt lại có sự thay đổi. Đầu tiên, mặt bố không còn là mặt báo đen nữa nhưng người vẫn là báo, phía sau đít vẫn đội lên một cục, hiển nhiên là đuôi vẫn còn. Sau đó là bọn lính gác đã trở lại đầu người, còn thân vẫn là sói, chó các loại. Dễ chịu hơn rồi, vì tớ cảm thấy còn có chỗ bấu víu, biết rằng tớ vẫn còn sống giữa con người. Nhưng thái độ của bố vẫn lạ lắm, có phần không giống con người. Không giống người thì vẫn là bố, lúc ông thè lưỡi to tướng liếm đầu tớ, tớ sung sướng rên lên hừ hừ.
Trong dòng người tiến vào pháp trường, có một cỗ kiệu màu xanh lan, đi trước kiệu là một lũ đầu người mình thú, tay cầm tàn lọng cờ quạt, khiêng kiệu là một lũ đầu người mình ngựa hoặc đầu ngựa mình người, một lũ nửa đầu trâu mình người. Phía sau cỗ kiệu là một con ngựa tây cao lớn, trên lưng là một quái vật đầu sói mình người. Đương nhiên, tớ biết đó là Tổng đốc Đức tại Thanh Đảo Caclôt. Tớ nghe nói con ngựa tây của lão đã bị súng tự tạo của bố vợ tớ bắn chết, con ngựa này chắc là hắn cướp của thuộc hạ. Phía sau nữa còn có một số ngựa, sau đám ngựa là cỗ xe tù, trên xe có hai lồng nhốt tù. Bảo là chỉ mỗi bố vợ tới chịu án đàn hương, sao bây giờ lại những hai cái lồng? Sau xe tù là đội ngũ dài dằng dặc, dân chúng kẹp hai bên. Trong lòng tớ đang ấp ủ một ý niệm, tớ đang tìm ý niệm của tớ trong đám người đông như kiến. chẳng nói cũng biết ý niệm đó là gì? Là vợ tớ. Sáng qua, hắn bị bố tớ làm cho sợ bỏ chạy, đến giờ vẫn chưa thấy hắn đâu, cũng không rõ hắn ăn gì chưa? Uống gì chưa? Tuy là rắn, nhưng hắn cũng như Bạch Tố Trinh, là con rắn lương thiện. Hắn là Bạch Tố Trinh, còn tớ là Hứa Tiên. Ai là Tiểu Thanh? Ai là Pháp Hải? Đúng rồi, Viên Thế Khải là Pháp Hải. Mắt tớ sáng lên, tớ đã trông thấy vợ trong đám phụ nữ, cái đầu dẹt ngẩng cao, cái lưỡi đỏ lòm thò ra thụt vào, đang nhích dần về hướng tớ. Mi-ao mi-ao, tớ định gọi to, nhưng bố tớ trừng cặp mắt báo, bảo tớ:
- Này con, không được nghiêng nghiêng ngó ngó!
Sau ba phát đại bác, quan giám hình bẩm với Viên Thế Khải và Caclôt đang ngồi bệ vệ giữa sân khấu:
- Ti chức Tri huyện Cao Mật kính bm Tuần phủ đại nhân, đã đến giờ ngọ, phạm nhân Tôn Bính đã soát đúng, đao phủ đã có mặt, xin đại nhân xuống chỉ.
Viên Thế Khải trên sân khấu rướn cái cổ ba ba, có cái gì như cái vung đội lưng áo lên – Chính là cái dù mà Hứa Tiên cho Bạch xà và Thanh xà mượn khi dạo chơi trên hồ. Cái dù ấy sao lại rơi vào trong áo Viên Thế Khải nhỉ? Oà, không phải dù, là cái mai ba ba, ba ba mà làm quan to đến nhường ấy thì vui thật! Mi-ao mi-ao, ba ba Viên nghiêng đầu sát mõm sói xám Caclôt, líu ríu nói câu gì đó bằng tiếng ba ba và tiếng sói, rồi cầm lấy ngọn cờ lệnh màu đỏ trong tay một thuộc hạ đứng bên cạnh, chém mạnh xuống! Nhát chém cực kỳ lợi hại, mạnh mẽ dứt khoát, như dao sắc chém đậu phụ, đủ hiểu đạo hạnh của con ba ba khổng lồ này ghê gớm đến mức nào! Đây không phải con ba ba thường, mà là ba ba cao cấp, ba ba thường thì không làm quan to đến như thế. Tất nhiên lão vẫn kém xa bố tớ. Quan giám hình thấy ngọn cờ đỏ đã chém xuống thì sững người, toàn thân dướn cao đến nửa tấc, mắt lóe lên xanh lét, nhìn mà kihếp! Râu hùm rung lên, răng hùm nhe ra, đẹp ra phết! Lão dài giọng hô to:
- Đến giờ… thi hành án!
Hô xong, người lão co rúm lại, râu xẹp trước ngực. Dù lão không xưng họ tên, nhưng tớ biết lão là Tiền Đinh. Dù mũ ô sa che lấp cái đầu hổ, dù cái áo bào đỏ che kín người, giấu kín đuôi, nhưng nghe giọng nói, tớ nhận ra ngay lão tri huyện. Hô xong, lão đứng lom khom bên bệ hành hình, trông thật tội nghiệp! Hơn chục khẩu pháo, mỗi khẩu nã liền ba phát, mặt đất run lên bần bật. Trước khi vào cuộc cùng với bố, tớ tranh thủ nhìn lướt một vòng. Tớ trông thấy bên rìu phát trường, dân chúng đứng dày đặc, nam có nữ có, già có trẻ có, có người vẫn giữ bản tướng, có người đã trở về hình người, có người đang trong quá trình biến hóa, nửa người nửa thú. Vì khá xa không trông rõ mặt từng người, hoặc phân biệt rõ trâu bò chó lợn, chỉ nhìn thấy to nhỏ toàn đầu là đầu lô nhô dưới nắng. Tớ vênh mặt lên, cảm thấy vô cùng vinh dự, mi-ao mi-ao. Tớ ngắm bộ quần áo mới toanh của tớ: áo mở kích màu đen, thắt lưng rộng bản bỏ múi màu hồng, quần rộng ống màu đen, ủng cao cổ da hươu, mũ ống cao ngất ngưởng trên đầu, tớ không thể nhìn thấy mũ, nhưng người khác nhìn thấy. Mắt, tai bôi một lớp dày tiết gà, nứt từng bệt, da mặt căng ra, rất khó chịu. Khó chịu cũng vẫn phải bôi. Đây là qui định của tổ tông truyền lại. Bố tớ thường nói: không qui củ bất thành khuôn viên. Tiết gà nứt thành nhiều vệt, nên trước mắt tớ có nhiều hình người của bố, lúc này, bố đang nửa người nửa báo. Tay bố đã trở lại tay người, mặt đã trở lại mặt người, nhưng tai thì vẫn là tai báo, dỏng lên, lông nhọn như gai, viền quanh tai. Bố giúp tớ sửa quần áo, nói khẽ:
- Con đừng sợ, cứ mạnh dan theo lời cha dạy mà làm. Đây là lúc cha con mình xuất đầu lộ diện rồi!
- Bố, con không sợ.
Bố âu yếm nhìn tớ, nói khẽ:
- Con khá đấy!
- Bố bố bố… biết không? Người ta bảo con với quan huyện tranh nhau múc cháo trong nồi đấy!
Tớ đã trông thấy trên xe có hai lồng nhốt tù, trong mỗi lồng có một Tôn Bính, trong hai lồng có hai Tôn Bính. Thoạt nhìn, hai Tôn Bính rất giống nhau, nhìn kỹ, hai Tôn Bính khác nhau rất xa. Bản tướng của hai Tôn Bính, một là gấu đen, một là lợn đen. bố vợ tớ là một đại anh hùng, không thể là lợn, chỉ có thể là gấu. Câu chuyện thứ tám mươi ba mà bố kể cho tớ nghe, là chuyện một con gấu chó lớn đánh nhau với hổ. Trong câu chuyện, gấu chó bao giờ cũng ngang tài với hổ, về sau gấu chó bị thua. Gấu chó bị thua không phải vì kém bản lĩnh, mà vì gấu chó thật thà quá. đánh nhau một đợt xong, bố tớ kể, hổ đi bắt gà rừng, dê núi, thỏ ăn đỡ đói, lại còn ra suối uống nước. Gấu chó thì không ăn không uống, giận dữ nhổ cây thu dọn chiến trường vì cho rằng bãi đấu quá hẹp. Hổ ăn no uống đủ, quay lại đánh nhau với gấu. Cuối cùng, gấu đuối sức, bị hổ đánh bại. Vì vậy hổ trở thành vua của loài thú. Ngoài ra, qua ánh mắt của hai người, tớ có thể nhận ra bố vợ tớ, ánh mắt bố vợ tớ có hồn, có tia lửa bắn ra. Tôn Bính giả thì mắt tối rầm, ánh mắt lấm lét như sợ người. Tớ cảm thấy Tôn Bính giả rất quen, nhớ ra rồi! Anh ta chính là Uùt Sơn, đệ tử ruột của Tám Chu hành khất. Hàng năm, cứ đến ngày mười bốn tháng Tám – ngày Tết của ăn mày – Uùt Sơn lại đeo hai quả ớt đỏ làm khuyên tai, sắm vai bà mối. Giờ thì anh ta sắm vai bố vợ tớ, thằng cha nhộn thật!
Bố tớ nhận ra trước cả tớ là có hai phạm nhân, nhưng ông là người từng trải, thêm một phạm chứ thêm mười phạm ông cũng không coi ra gì. Tớ nghe ông nói một mình:
- May mà chuẩn bị dôi một cọc!
Bố tớ quả thật nhìn xa thấy rộng, Gia Cát Lượng cũng không giỏi hơn.
Xiên ai trước? Xiên Tôn Bính thật trước hay Tôn Bính giả trước? Tớ nhìn mặt bố để tìm câu trả lời. Nhưng ánh mắt bố đã chuyển sang quan giám hình Tiền Đinh, hai người mắt đối mắt, nhưng ánh mắt mắt Tiền Đinh ủ rũ như mắt người mù, ánh mắt Tiền Đinh bảo bố tớ rằng, ông ta không nhìn thấy gì, xiên ai trước thì xiên, tùy! Bố đưa mắt nhìn sang hai người tử tù, ánh mắt Tôn Bính giả rối tinh rối mù, ánh mắt Tôn Bính thật thì sáng quắc. Ông khẽ gật đầu với bố tớ, giọng như lệnh vỡ:
- Ông sui gia, không có gì trở ngại đâu!
Bố tớ nét mặt tươi tỉnh, hai tay chắp trước ngực, vái bố vợ tớ một vái, nói:
- Ông sui gia, thế thì vui lớn rồi!
Bố vợ tớ cũng mừng ra mặt, nói:
- Cùng vui, cùng vui!
- Vậy ông trước hay anh ta trước?
- Việc gì phải hỏi? – Bố vợ tớ giọng sang sảng – Tục ngữ có câu “Thân vẫn hơn” mà!
Bố không nói gì nữa, chỉ gật đầu mỉm cười. Sau đó, nụ cười trên mặt bố bị lột đi như lột tờ giấy trắng, lộ ra bộ mặt khó đăm đăm. Ông bảo tay công sai áp giải phạm nhân:
- Mở khóa!
Tay công sai do dự nhìn quanh, hình như đợi lệnh của ai đó. Bố tớ sốt ruột giục:
- Mở khóa ra!
Tên công sai tiến lên, lẩy bẩy tháo xích sắt trên người bố vợ tớ. Bố vợ tớ duỗi tay cho đỡ mỏi, ngắm nghía các hình cụ trước mặt, rồi như đã dự liệu, ông chủ động nằm sấp xuống tấm ván bằng gỗ thông hẹp hơn kích thước người ông.
Tấm gỗ thông nhẵn bóng. Nó vốn là tấm phản đặt trên bục thịt lợn của nhà tớ, dùng đã mấy chục năm, thấm đẫm máu lợn máu chó, nặng như sắt, bố tố sai một thợ mộc giỏi nhất huyện sửa sang thật kỹ. Bốn công sai to lớn nghỉ đến mười mấy bận mới khênh được đến đây. Bố vợ nằm sấp, quay mặt lại hỏi, vẻ khiêm tốn:
- Phải vậy không, ông sui gia?
Bố tớ không trả lời, cúi xuống lấy cuộn dây da trâu đưa cho tớ.
Chờ đợi đã nẫu ruột, tớ giằng lấy cuộn dây, bắt đầu trói bố vợ theo cách thức đã tập luyện. Bố vợ không vui, hỏi:
- Rể yêu, con coi thường bố rồi!
Bố tớ đứng bên cạnh, chăm chú xem động tác của tớ, nghiêm khắc bắt sửa những nút thừng tớ thắt sai. Bố vợ cằn nhằn, rất bất mãn về chuyện trói ông. Ông làm hơi dữ, bố tớ buộc phải cảnh cáo:
- Ông sui, chỉ sợ đến lúc đó, ông không làm chủ được cơ thể ông!
Bố vợ vẫn lải nhải, tớ đã trói ông thật chặt vào tấm ván. Bố luồn ngón tay dưới dây thừng, không luồn vào được! Đúng yêu cầu. Bố gật đầu bằng lòng, khẽ bảo:
- Bắt đầu!
Tớ bước vội đến bên rổ dao, lấy lưỡi dao đã dùng để cắt tiết gà, túm đít quần bố vợ khoanh một nhát, lộ nửa mông đít ra. Bố cầm cái dùi đục bằng gỗ táo ngậm no dầu lạc, để bên cạnh tớ. Ông chọn trong hai thanh cọc đàn hương lấy chiếc bóng nhất, lấy vải dầu lau một lần nữa. Ông đứng phía bên trái bố vợ, hai tay cầm cọc, lựa mũi nhọn trơn nhẵn hình lá đề, cắm vào dưới xương cụt. Bố vợ vẫn nói cứng, đôi lúc xen vài câu Miêu Xoang, thái độ bất cần như không thèm để ý người ta hành hình mình như thế nào, nhưng qua giọng run run của ông, hai chân lẩy bẩy của ông, tớ nhận ra ông cố nén nỗi sợ. Bố tớ không nói chuyện với bố vợ nữa, hai tay giữ cọc, mặt đỏ lựng, thái độ bình tĩnh, ngẩng nhìn tớ, ánh mắt khích lệ và kỳ vọng ở tớ. Tớ thấy bố tớ quả là tốt, trên đời không có ông bố nào tốt hơn, mi-ao mi-ao, nếu mẹ tớ không ăn chay niệm Phật cả đời thì không gặp được một người tốt như bố. Bố hầt hất cằm, ra hiệu bắt đầu. Tớ nhổ hai bãi nước bọt vào lòng bàn tay, ré chân trèo, gót chân như cắm trong đất.
Tớ giơ dùi đục, dợm một nhát rất nhẹ vào đầu cọc để tìm cảm giác. Mi-ao mi-ao, tốt, thậun lắm, rồi vận sức gõ nhịp nhàng, tớ thấy chiếc cọc đàn hương đi vào cơ thể bố vợ từng tấc sau mỗi nhát gõ. Dùi đục gỗ táo gõ vào cọc phát ra tiếng rất nhẹ, cạch cạch cạch… nhẹ đến nỗi không át được tiếng thở nặng nề của bố vợ.
Cọc càng đi vào sâu bên trong, cơ thể bố vợ run lên càng dữ. Tuy đã trói chặt, nhưng từng mẩu da mẩu thịt trên người đều run lên bần bật, đến nỗi tấm ván phía dưới nặng là thế cũng rung theo. Tớ gõ đều đều, cạch cạch cạch, tớ nhớ lời bố dặn: sức có mười thì chỉ dùng năm, gõ mới chuẩn.
Tớ trông thấy đầu bố vợ ngọ ngoạy rất dữ. Cổ ông tự dài ra khá nhiều. Nếu không chính mắt trông thấy, quả thực không thể nghĩ cái cổ con người ta lại có thể đột nhiên vươn dài ra, dài mãi cho đến tận cùng sợi thừng bằng da, đầu như muốn bứt ra khỏi thân bắn đi nơi khác. Rồi, đùng một cái, cổ rụt lại, đến nỗi không nhìn thấy nữa, y như đầu gắn liền với vai.
Cạch cạch cạch…
Mi-ao mi-ao mi-ao.
Hơi nước ngùn ngụt trên người bố vợ. Mồ hôi ướt đẫm quần áo. Mỗi khi đầu ông ngỏng lên, tớ lại thấy mồ hôi chảy từng dòng, đặc quánh như cháo vừa múc ra khỏi nồi.
Cạch cạch cạch…
Mi-ao mi-ao mi-ao.
Cọc đàn hương đã vào trong cơ thể non nửa, mi-ao… mùi đàn hương thơm thơm, mi-ao mi-ao… Cho đến lúc này, bố vợ vẫn không kêu một tiếng. Qua sắc mặt bố đẻ, tớ biết ông phục bố vợ lắm. Trước khi hành hình, bố tớ đã tính đến các tình huống có thể xảy ra. Bố ngại nhất là tiếng gào thét như ma kêu quỉ khóc của ông khiến một người lần đầu tiên tham dự hành hình như tớ sợ hãi, bố thậm chí còn chuẩn bị hai hạt táo bọc bông bên ngoài để tớ đút nút lỗ tai. Nhưng bố vợ đến giờ phút này vẫn không kêu một tiếng, tuy tiếng thở của ông nặng nề hơn trâu kéo cày. Ông không kêu, càng không van xin tha mạng.
Cạch cạch cạch…
Mi-ao.
Tớ trông thấy mồ hôi cũng chảy từng dòng trên mặt bố. Xưa nay bố tớ không ra mồ hôi, tay cầm cọc của ông hơi run, trong con mắt bố tớ thoáng vẻ thảng thốt, thấy vậy tớ đâm cuống. Mi-ao, thực tình bọn tớ không mong bố vợ không kêu. Bố vợ ơi bố vợ, bố vợ cứ kêu lên đi, gào lên đui, mi-ao mi-ao, nhưng ông vẫn im bặt. Cổ tay tớ mỏi dừ, chân cũng đứng không vững, đầu phình ra, mắt nảy đom đóm, mồ hôi chảy vào mắt cay xè, mùi tiết gà khiến tớ buồn nôn, đầu bố biến thành đầu con báo đen, hai àn tay rất đẹp mọc đầy lông đen, người bố vợ cũng mọc đầy lông đen, cái đầu nhấp nhổm của ông biến thành cái đầu con gấu đen to kinh khủng, khiến những sợi dây da trâu trở nên vừa mảnh vừa ròn, đứt tung bất cứ lúc nào. Đồng thời, tay tớ không chuẩn nữa. Tớ gõ một nhát chệch phải tay bố, bố rên rỉ, buông tay ra. Tớ gõ tiếp một nhát, mạnh hơn, cái cọc trong tay bố mất thăng bằng, chuôi vểnh lên, rõ ràng là nó đi sâu vào chỗ không nên vào, làm tổn thương nội tạng của bố vợ. Tớ nghe một tiếng thét rách màng nhĩ, kinh khủng hơn tất cả những con lợn mà tớ đã giết thịt. Mắt bố tóe lửa, ông hạ giọng nói:
- Cẩn thận!
Tớ lấy tay áo lau mặt, thở mạnh một hơi. Khi Tôn Bính kêu gào ngày càng to, tớ bình tâm trở lại, tay không mỏi nữa, chân không rủn nữa, đầu không phình ra nữa, mắt không hoa nữa, mặt bố trở lại mặt của bố. Đầu bố vợ cũng không còn là đầu gấu nữa.
Cạch cạch cạch…
Mi-ao mi-ao mi-ao…
Tiếng gào của Tôn Bính át tất cả các loại tiếng động khác.
Aùi… ối…
Mi-ao mi-ao
Trong cơ thể bố vợ cũng phát ra những tiếng khiến người rối trí, hình như trong đó có cả một đàn mèo đang động đực. Tiếng gào làm tớ nẫu cả ruột, có lẽ tớ nghe nhầm, kỳ thật, trong bụng bố vợ có mèo. Tớ lại cảm thấy sắp mê mẩn thì trong giờ phút quan trọng ấy, sự bình tĩnh của bố tớ đã động viên tớ. Tôn Bính gào càng dữ, nụ cười trên khuôn mặt bố tớ càng tỏ ra dễ mến. Mắt bố tớ cũng đang cười, nheo lại như một sợi chỉ, làm như không phải đang thi hành một án phạt tàn độc nhất trong thiên hạ, mà như đang nghe hát.
Cuối cùng, cọc đàn hương thò ra ở vai, đội áo lên. Trong phương án đầu tiên, bố định cho cọc xuyên ra miệng, song, nghĩ tới Tôn Bính thích ca hát, cọc xuyên ra miệng thì không thể hát, vì vậy cho xuyên ra vai.
Mi-ao.
Dưới sự chỉ dẫn của bố, bốn tên công sai khiêng tấm ván có bố vợ bị trói trên đó, trèo lên đài Thăng Thiên cao nhất so với các nhà trong huyện. Đài Thăng Thiên kề bên lều chiếu, lên đài bằng một đường dẫn ghép bằng gỗ tròn và ván bắp, không mất nhiều sức lắm. Vậy mà bốn tên công sai mồ hôi đầm đìa, dấu chân rõ mồn một trên đường. Tôn Bính bị trói trên tấm ván vẫn tiếp tục gào thét nhưng tiếng đã khản, hơi đã yếu đi nhiều. Tớ và bố tớ theo sau bốn tên công sai, trèo lên. Đỉnh đài là một mặt bằng ghép bằng gỗ tươi rộng bản, mùi thơm phức, chính giữa dựng cây cột to bằng gỗ thông, đính ngang một tấm gỗ dài ba thước, giống như cây thập ác ở nhà thờ Bắc Quan.
Bọn công sai thận trọng đặt Tôn Bính xuống rồi đứng sang một bên chờ lệnh. Bố bảo tớ lách dao cắt đứt dây trời. Để hạn chế tiêu hao sức lực, đồng thời tránh được tổn thương nội tạng do giãy giụa chân tay, bốn tên công sai dưới sự chỉ dẫn của bố tớ, dựng Tôn Bính dậy, hai chân trói vào cột, hai tay trói vào xà ngang, chỉ đầu là không trói buộc, được tự do. Bố vợ chửi rất to:
Đ. mẹ thằng Caclôt! Đ. mẹ thằng Viên Thế Khải! Đ. mẹ thằng Tiền Đinh! Đ. mẹ thằng Triệu Giáp! Đ. mẹ tất cả chúng mày! Aùi chà!…
Tiền Đinh đứng đó, mắt vẫn nhìn phía trước, nhưng tớ biết, lão chẳng nhìn thấy gì cả. Viên quan giám hình này ra vẻ thế thôi, lão chẳng thiết gì nữa, chờ lão ra lệnh, chẳng thà bố con tớ tự liệu còn hơn. Bố con đã xử lý ngon lành Tôn Bính thật, đưa ông lên đài Thăng Thiên rồi, nhìn mặt ông, tớ biết công việc có sai sót đôi chút, nhưng cơ bản là đã thành công. Người thứ nhất đã mã đáo thành công, người thứ hai chắc thuận buồm xuôi gió. Hai tên công sai khênh tấm phản bằng gỗ thông xuống, bố tớ ung dung bảo tên công sai canh giữ Tôn Bính giả:
- Mở khóa!
Bọn nha dịch gỡ bỏ xích sắt trên người Tôn Bính giả. Tớ trông thấy sau khi những sợi xích sắt nặng nề rơi xuống, Tôn Bính giả không vươn người đứng lên như Tôn Bính thật, trái lại, nhũn ra như một cây sáp bị hơ nóng, mặt trắng nhợt, môi lập bập như giấy dán cửa sổ bị rách; mắt trợn ngược như hai con thiêu thân đang loay hoay đẻ trứng. Hai tên nha dịch lôi Tôn Bính giả đến trước tấm phản thịt, vừa buông tay, ông ta đã sóng soài trên mặt đất.
Bố tớ bảo những tên công sai khênh Tôn Bính giả đặt nằm sấp trên tấm gỗ thông. Ông ta nằm trên đó, toàn thân co giật. Bố ra hiệu, tớ trói ông ta vào tấm phản rất thành thạo, rồi không đợi bố tớ ra lệnh, tớ lấy con dao vẫn dùng để róc xương, rạch đứt chỉ, rồi khoanh một nhát cắt đứt một mảng đũng quần. Trời ạ, mùi thối khẳn xộc lên mũi: thằng cha này đã bĩnh ra quần!
Bố nhăn mặt, cắm đầu nhọn của cọc đàn hương vào chỗ dưới xương cột Tôn Bính giả. Tớ cầm dùi đục, tiến lên một bước, chưa kịp giơ dùi đục lên thì mùi thối không chịu nổi lại tạt vào mũi. Tớ quẳng dùi đục, bịt mũi bỏ chạy, chẳng khác chó thấy mùi chuột chù. Bố dằn giọng gọi giật lại:
- Giáp, quay lại ngay!
Tiếng gọi gay gắt của bố tớ nhắc nhở tớ về ý thức trách nhiệm. Tớ len lén đi vòng ra phía sau bố tớ trở lại hiện trường. Hình như Tôn Bính giả đã thối hết lục phủ ngũ tạng. Làm thế nào bây giờ?
May, ông trời có mắt, đến giây phút cuối cùng, Viên Thế Khải ngồi phía sân khấu trước sau vẫn tưởng như ngủ gật ấy, bỗng ra lệnh sửa án đàn hương thành án chém đầu đối với Tôn Bính giả. Nhận lệnh, bố tớ quẳng cọc đàn hương, nheo mắt, rút phăng thanh yêu đao của một nha dịch đứng gần đó, nhanh nhẹn đến mức không thể tin ở cái tuổi của ông, một luồng bạch quang sáng lóa hạ xuống trong nháy mắt.
Mi-ao.
Đàn Hương Hình Đàn Hương Hình - Mạc Ngôn Đàn Hương Hình