Chương 19
ậy là,” bà May nói và đặt kim đan xuống, “xong.”
Kate nhìn bà chằm chằm. “Ôi, không thể thế được,” cô bé thốt lên, “ôi, không... không.”
“Hình vuông cuối cùng,” bà May vừa nói vừa vuốt phẳng nó ra trên đùi mình, “hình vuông thứ một trăm năm mươi. Bây giờ ta có thể khâu chúng lại với nhau rồi...”
“Ôi,” Kate nói rồi lại thở, “cái chăn! Cháu tưởng bà nói về câu chuyện.”
“Đó cũng là kết thúc của câu chuyện,” bà May lơ đãng nói, “hoặc là khởi đầu. Em trai bà không bao giờ nhìn thấy họ nữa,” và bà bắt đầu lọc các tấm vải vuông.
“Nhưng,” Kate ấp úng nói, “bà không thể - ý cháu là - thật không công bằng,” cô bé kêu lên, “như thế là gian lận. Thế là...” Những giọt nước ứa lên trong mắt cô bé; cô bé ném miếng đan của mình xuống bàn và sau đó là kim đan, và cô bé đá cái túi đựng len đặt bên cạnh cô trên tấm thảm.
“Sao thế, Kate, sao vậy?” bà May trông thật sự ngạc nhiên.
“Phải có chuyện gì xảy ra nữa chứ,” Kate kêu lên tức giận. “Thế còn người bắt chuột? Và cảnh sát? Và...”
“Nhưng một số chuyện nữa thực sự đã xảy ra,” bà May nói, “rất nhiều chuyện nữa đã xảy ra. Bà sẽ kể cho cháu nghe.”
“Thế sao bà lại nói đó là kết thúc?”
“Vì,” bà May nói (trông bà vẫn có vẻ ngạc nhiên), “em trai bà không bao giờ nhìn thấy họ nữa.”
“Thế sao lại có thêm chuyện?”
“Vì,” bà May nói, “có thêm chuyện. Rất nhiều chuyện.”
Kate nhìn bà giận dữ, “Được rồi,” cô bé nói, “bà kể tiếp đi.”
Bà May nhìn lại Kate. “Kate,” bà nói sau giây lát, “chuyện không bao giờ thật sự chấm dứt. Nó có thể tiếp tục và tiếp tục mãi. Chỉ là đôi khi, vào một lúc nào đó, ta ngừng kể chuyện.”
“Nhưng đây không phải là lúc đó,” Kate nói.
“Ừm, xâu chỉ đi,” bà May nói, “lần này thì với len màu ghi. Và ta sẽ khâu các mảnh vuông này với nhau. Bà sẽ bắt đầu ở phía trên và cháu có thể bắt đầu ở phía dưới. Bắt đầu với mảnh vuông màu ghi, sau đó với màu ngọc lục bảo, sau đó với màu hồng, và tiếp tục như thế...”
“Thế nghĩa là bà không thực sự có ý đó,” Kate nói với giọng cáu kỉnh, cố xuyên sợi len gập đôi qua cái lỗ kim hẹp, “khi bà nói ông ấy không bao giờ nhìn thấy họ nữa?”
“Nhưng đó đúng là ý của bà mà,” bà May nói. “Bà đang kể cho cháu nghe đúng chuyện đã xảy ra. Ông ấy phải ra đi đột ngột - vào cuối tuần - vì có chuyến thuyền đi Ấn Độ và một gia đình có thể dẫn ông ấy theo cùng. Và trong ba ngày trước khi ông ấy đi, họ nhốt ông ấy ở trong hai căn phòng đó.”
“Trong ba ngày!” Kate thốt lên.
“Phải. Có vẻ như bà Driver đã nói với bà dì Sophy là ông ấy bị cảm. Bà ta đã kiên quyết, cháu biết không, giữ ông ấy tránh xa cho đến khi bà ta tống khứ được những Người Vay Mượn.”
“Và bà ta đã làm thế ạ?” Kate hỏi. “Ý cháu là - tất cả họ có đến không? Cảnh sát? Người bắt chuột? Và người...”
“Thanh tra vệ sinh đã không đến. Ít ra là không đến trong lúc em trai bà còn ở đó. Và họ đã không có người bắt chuột từ tòa thị chính, nhưng họ có một người ở địa phương. Viên cảnh sát đã đến...” Bà May cười. “Trong ba ngày đó bà Driver thường kể cho em trai bà biết sự việc đang xảy ra ở dưới nhà. Bà ta rất thích càu nhàu, và em trai bà, vì đã bị biến thành vô hại và bị nhốt ở tầng trên, đã trở nên bất cần. Bà ta thường đem các bữa ăn lên cho em trai bà, và, cái buổi sáng đầu tiên đó, bà ta đem tất cả đồ đạc nội thất của búp bê trên một cái khay đựng đồ ăn sáng và bắt em trai bà trèo lên các giá tường và đặt lại vào nhà búp bê. Đó là lúc bà ta kể cho em bà về viên cảnh sát. Em trai bà kể rằng bà ta rất tức giận.”
“Tại sao?” Kate hỏi.
“Vì hóa ra viên cảnh sát là Ernie, con trai của Nellie Runacre, và vốn là đứa mà hồi trước nhiều lần bà Driver đã đuổi bắt vì ăn trộm táo nâu đỏ từ cái cây ở cạnh cổng ra vào - ‘Một kẻ ghê tởm, trộm cắp, vô tích sự,’ bà ta kể với em trai bà. ‘Bây giờ nó đang ngồi ở dưới kia, trong bếp, chình ình ra đấy với cuốn sổ ghi nhớ, cười tít mắt tít mũi... hai mươi mốt tuổi, nó nói giờ nó đã trưởng thành, và hỗn láo như xưa...”
“Và ông ấy là như thế ư,” Kate hỏi, mắt tròn xoe, “một kẻ vô tích sự?”
“Tất nhiên là không. Cũng như em trai bà thôi. Ernie Runacre là một thanh niên tốt, thẳng thắn và mang lại danh dự cho cơ quan cảnh sát. Và thật ra ông ấy đã không cười nhạo bà Driver khi bà kể cho ông ấy nghe câu chuyện của mình, nhưng ông ấy đã cho bà ta một thứ mà Crampfurl sau này gọi là ‘một cái nhìn nghiêm trọng’ khi bà ta tả về bà Homily trên giường - ‘Pha thêm nước với thứ đó rồi,’ cái nhìn ấy có vẻ như nói thế.”
“Thêm nước với thứ gì cơ?” Kate hỏi.
“Với rượu Fine Old Pale Madeira, bà đoán vậy,” bà May nói. “Và bà dì Sophy cũng cùng mối ngờ vực như thế: bà đã rất tức giận khi nghe nói bà Driver nhìn thấy nhiều người tí hon trong khi chính bà sau một bình rượu đầy chỉ nhìn thấy một hoặc quá lắm là hai người tí hon. Crampfurl đã phải đem tất cả rượu Madeira lên từ tầng hầm và chồng các két rượu áp vào tường trong một góc phòng ngủ của bà dì Sophy, nơi, như bà đã nói, bà có thể để mắt tới nó.”
“Thế họ có mang con mèo đến không?” Kate hỏi.
“Có, họ có mang. Nhưng việc đó cũng không thành công lắm. Đó là con mèo của Crampfurl, một con mèo đực to màu vàng có những vệt trắng. Theo như bà Driver kể, nó chỉ có hai ý nghĩ trong đầu - trốn ra ngoài nhà hoặc vào tủ đựng thức ăn. ‘Nói về những Người Vay Mượn,’ bà Driver nói trong khi bà ta vứt cái bánh cá xuống cho em ta ăn trưa, ‘cái con mèo đó là một đứa vay mượn, nếu đã từng có ai như vậy; nó đã mượn con cá, cái con mèo đó, và hơn một nửa bát nước xốt trứng!’ Nhưng con mèo đã không ở đó lâu. Việc đầu tiên những con chó sục của người bắt chuột làm là đuổi con mèo ra khỏi nhà. Lúc đó đã có một cuộc ẩu đả đáng sợ, em trai ta kể. Bọn chó đuổi con mèo khắp nơi - tầng trên rồi tầng dưới, ra vào tất cả các phòng, sủa nhặng xị. Em trai ta thoáng nhìn thấy con mèo lần cuối cùng khi nó chạy xuyên qua lùm cây và những cánh đồng, theo sau là lũ chó sục.”
“Chúng có bắt được nó không?”
“Không,” bà May cười. “Nó vẫn ở đó khi ta đến một năm sau đó. Hơi rầu rĩ nhưng khỏe như vâm.”
“Bà kể về lúc bà đến thăm đi!”
“Ôi, ta không ở đó lâu,” bà May nói hơi nhanh, “và sau đó ngôi nhà đã bị bán. Em trai ta không bao giờ quay lại đó cả.”
Kate nhìn bà chằm chằm với vẻ nghi hoặc, ấn cái kim vào giữa môi dưới của mình. “Thế là họ đã không bắt được những người tí hon ư?” cuối cùng cô bé nói.
Mắt bà May liếc sang chỗ khác. “Không, họ đã không bao giờ thực sự bắt được những người đó, nhưng” - bà ngập ngừng - “đối với cậu em trai đáng thương của ta, điều mà họ đã làm còn có vẻ tồi tệ hơn.”
“Họ đã làm gì?”
Bà May đặt miếng đan của mình xuống và trầm ngâm nhìn chằm chằm một lát vào đôi bàn tay rảnh của mình. “Ta căm thù người bắt chuột đó,” bà đột nhiên nói.
“Tại sao, bà có biết người đó không?”
“Ai cũng biết ông ta. Ông ta một mắt bị lác và tên là Rich William. Ông ta cũng là tên đồ tể, và, hừm - ông ta cũng làm những việc khác - ông ta có súng, rìu, xẻng, cuốc chim, và một cái máy kỳ cục với những cái ống phun khói để đuổi mọi thứ ra. Ta không biết cụ thể là loại khói gì - loại khói độc gì đó mà ông ta đã tự phát chế từ các loại cỏ và chất hóa học. Ta chỉ nhớ cái mùi của nó; cái mùi đó bám lại trong kho thóc hay bất cứ chỗ nào ông ta từng đến. Cháu có thể tưởng tượng em trai ta cảm thấy như thế nào trong cái ngày thứ ba đó, ngày mà ông đi, khi đột nhiên ông ngửi thấy cái mùi đó...
“Ông đã mặc xong quần áo và sẵn sàng đi khỏi. Những chiếc túi đã gói ghém và đang để dưới hành lang. Bà Driver đến, mở khóa cửa và dẫn ông ấy tới phòng bà dì Sophy cuối hành lang. Ông đứng đó, cứng nhắc và xanh xao, đeo găng tay và mặc áo măng tô bên cạnh cái giường phủ màn. ‘Cháu đã bị say sóng rồi ư?’ bà dì Sophy vừa trêu ông vừa chăm chăm nhìn ông qua gờ tấm đệm to đùng.
“ ‘Không,’ ông nói, ‘đó là vì cái mùi.’
“Bà Sophy ngước mũi lên. Bà hít ngửi. ‘Mùi gì đó Driver?’
“ ‘Đó là người bắt chuột, thưa quý bà,’ bà Driver giải thích, mặt đỏ lên, ‘ở dưới bếp.’
“ ‘Cái gì!’ bà dì Sophy thốt lên, ‘các người đang phun khói để đuổi chuột đi à?’ và bà bắt đầu cười. ‘Trời ơi... trời ơi!’ bà nói hổn hển, ‘nhưng nếu bà không thích chúng, Driver, thì có biện pháp giải quyết dễ dàng mà.’
“ ‘Như thế nào, thưa quý bà?’ bà Driver hỏi lạnh lùng, nhưng ngay cả đôi má bà ta cũng đang đỏ lên.
“Cười sằng sặc, bà dì Sophy vẫy bàn tay đeo nhẫn về phía bà Driver, mắt bà trợn lên và hai bả vai bà rung rung, ‘Đừng mở nút chai rượu nữa,’ cuối cùng bà cũng cố gắng nói được rồi vẫy họ đi ra. Khi đi xuống cầu thang họ vẫn nghe thấy bà cười.
“ ‘Bà ta không tin bọn chúng có thật,’ bà Driver lẩm bẩm, và bà nắm tay em trai ta chặt hơn. ‘Rồi xem ai ngốc hơn! Bà ta sẽ đổi giọng điệu của mình, chắc chắn thế, khi sau này ta đem chúng lên, đặt chúng nằm lên một tờ báo sạch theo thứ tự kích cỡ...’ rồi bà ta lôi ông đi dọc hành lang.
“Cái đồng hồ đã bị dịch chuyển, làm lộ ván ốp chân tường, và, như em trai ta nhận thấy ngay lập tức, cái lỗ đã bị chặn và bịt kín. Cửa chính đang được mở như mọi khi và ánh mặt trời chiếu vào. Những chiếc túi ở bên cạnh cái thảm, hơi bị nướng lên trong khí ấm ruộm vàng. Những cây ăn quả ở sau bờ cỏ đã rụng hoa và dưới ánh mặt trời sáng lên màu xanh trong suốt dịu dàng. ‘Còn rất nhiều thời gian,’ bà Driver vừa nói vừa liếc về phía đồng hồ, ‘mãi ba giờ rưỡi taxi mới đến...’
“ ‘Cái đồng hồ đã chết,’ em trai ta nói.
“Bà Driver quay người lại. Bà ta đội mũ và mặc cái áo măng tô màu đen đẹp nhất, sẵn sàng đưa ông ấy đến nhà ga. Bà ta trông khác lạ và nghiêm trọng như đang đi lễ nhà thờ - không hề giống với ‘Driver’. ‘Ừ nó đã chết,’ bà ta nói; quai hàm thõng xuống và má của bà trở nên nặng nề và trĩu xuống. ‘Tại di chuyển nó đấy,’ bà ta rút ra kết luận sau một lát. ‘Nó sẽ ổn thôi,’ bà ta nói tiếp, ‘một khi ta đặt nó lại. Ông Frith đến vào thứ Hai,’ và bà lại kéo bắp tay em trai ta.
“ ‘Chúng ta đang đi đâu?’ ông ấy vừa hỏi vừa cưỡng lại.
“ ‘Vào bếp. Chúng ta vẫn còn hơn mười phút. Cháu không muốn xem chúng nó bị bắt à?’
“ ‘Không,’ ông nói, ‘không!’ và giằng ra khỏi bà ta...
“Bà Driver nhìn ông chằm chằm, khẽ mỉm cười. ‘Ta muốn,’ bà ta nói, ‘Ta muốn xem chúng thật gần. Ông ta sẽ thổi khói vào và chúng sẽ chạy ra. Ít nhất, đó là cách làm với chuột. Nhưng đầu tiên, ông ta nói, ta phải bịt hết các đường ra...’ và mắt bà ta hướng theo mắt của em trai ta đến cái lỗ dưới tấm ván ốp tường.
“ ‘Họ đã tìm được cái lỗ bằng cách nào?’ em trai ta hỏi (cái lỗ trông có vẻ bị bít lại với một tấm giấy dán màu nâu hình vuông cong queo bên trên).
“ ‘Rick William đã tìm thấy đấy. Đó là việc của ông ta.’
“ ‘Họ có thể tháo nó ra,’ em trai ta nói sau giây lát.
“Bà Driver cười. ‘Ồ, không được đâu! Xi măng đấy! Một cục xi măng lớn, ở ngay bên trong, với một tấm lưới sắt chắn ngang lấy từ mặt trước cái lò sưởi cũ trong phòng vệ sinh ngoài nhà. Ông ta và Crampfurl đã phải bẩy cái sàn nhà ở phòng ăn sáng để tới được đó. Họ đã làm việc cả ngày thứ Ba, đến tận bữa trà chiều. Chúng ta sẽ không để có thêm những trò như thế này nữa. Không thể như thế dưới cái đồng hồ này. Một khi đã đặt lại cái đồng hồ, ta sẽ không di chuyển nữa. Sẽ không làm vậy nếu ta muốn nó chạy đúng giờ. Hãy nhìn chỗ nó đứng - chỗ sàn nhà trông như đã bị cọ đến mòn đi.’ Đó là lúc em trai bà nhìn thấy, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, cái bệ đá nhô cao chưa bị kỳ cọ. ‘Giờ đi thôi,’ bà Driver nói và kéo tay ông. ‘Chúng ta có thể nghe thấy tiếng taxi ở trong bếp.’
“Nhưng cái bếp, khi bà kéo em trai ta qua cánh cửa bọc vải len, có vẻ như một mớ âm thanh hỗn độn. Từ đây chẳng thể nghe được tiếng của bất kỳ taxi nào đang đến vì những tiếng kêu, tiếng sủa, tiếng bước đi và tiếng nói rộn rã. ‘Từ từ, từ từ, từ từ, từ từ, từ từ...’ Crampfurl nói to, trong khi cố giữ bọn chó sục đang rít lên và thở phì phò của người bắt chuột. Viên cảnh sát cũng có mặt ở đó, Ernie, con trai của Nellie Runacre. Ông ấy đến vì tò mò và đứng cách xa mọi người một chút, đúng nguyên tắc nghề nghiệp, với một tách trà trên tay và cái mũ bị kéo ra sau hở trán. Nhưng khuôn mặt ông ấy sáng lên niềm thích thú như trẻ nhỏ và ông ấy khuấy thìa vòng quanh vòng quanh. ‘Có nhìn thấy mới tin được!’ ông ấy nói vẻ phấn khởi với bà Driver khi nhìn thấy bà ta bước vào qua cửa. Một cậu bé trong làng đang ở đó với một con chồn sương. Nó cứ trèo ra khỏi túi áo của cậu bé, em trai ta kể thế, và cậu bé ấy phải luôn tay đẩy nó vào lại. Còn Rick William thì đang quỳ xuống trên sàn nhà cạnh cái lỗ. Ông ta đã đốt cái gì đó dưới một miếng bì xắc rắn và mùi cháy khét xoáy cuộn khắp phòng. Ông ta đang sắp xếp mấy cái ống, với sự chăm chút cực kỳ tỉ mỉ, cúi người về phía chúng - mê mải và hồi hộp.
“Em trai ta đứng đó như đang trong một giấc mơ (‘Có thể đó thực sự là một giấc mơ,’ ông ấy kể với bà sau này - rất lâu sau, sau khi chúng ta đã thành người lớn). Ông nhìn quanh phòng bếp. Ông nhìn thấy qua cửa sổ những cây ăn quả ngập ánh mặt trời và một cành cây anh đào ở trên bờ cỏ; ông ấy nhìn thấy những tách trà rỗng ở trên bàn, với những chiếc thìa bên trong và một tách không đĩa; ông ấy nhìn thấy dựa vào bức tường ở gần cánh cửa bọc vải len là đồ nghề của người bắt chuột - một cái áo măng tô sờn rách vá víu bằng da; một đống bẫy bắt thỏ; hai cái túi, một chiếc xẻng, một khẩu súng và một cái cuốc chim...
“ ‘Chuẩn bị nhé,’ Rich William nói; giọng dâng lên niềm phấn khích, nhưng ông ta không quay đầu lại. ‘Chuẩn bị nhé. Bây giờ chuẩn bị thả chó.’
“Bà Driver bỏ tay em trai ta ra và đi về phía cái lỗ. ‘Tránh ra,’ người bắt chuột nói, vẫn không quay đầu lại. ‘Để chúng tôi có chỗ...’ và bà Driver lo lắng lùi lại về phía cái bàn. Bà ta đặt một cái ghế ở bên cạnh bàn và hơi nhấc một đầu gối lên, nhưng lại đặt xuống khi bà nhìn thấy ánh mắt coi thường của Ernie Runacre. ‘Được thôi, thưa bà,’ ông ấy nói, nhướn một bên lông mày, ‘khi nào đến lúc thì chúng tôi sẽ báo cho bà để nhấc chân lên,’ và bà Driver ném cho ông ấy một ánh nhìn tức giận; bà ta cầm ba tách trà trên bàn và đi lộp cộp, tức tối, vào phòng rửa bát. ‘Đồ bẩn thỉu...’ Em trai ta nghe thấy bà ta lẩm bẩm khi bà ta lướt qua ông. Và khi nghe thấy những lời nói đó, đột nhiên, em trai ta tỉnh ra...
“Ông liếc nhanh quanh phòng bếp: những người đàn ông đang chăm chú; mọi con mắt đều đang dõi theo người bắt chuột - trừ đôi mắt của cậu bé trong làng đang moi con chồn sương ra. Một cách rón rén em trai ta cởi găng tay và bắt đầu lùi lại... từ từ... từ từ... về phía cánh cửa bọc len màu lục; trong khi di chuyển ông nhẹ nhàng nhét đôi găng tay vào túi áo, ông vẫn dõi theo đám người đang ở cạnh cái lỗ. Ông dừng lại một lát bên cạnh đồ nghề của người bắt chuột và thận trọng đưa một bàn tay ra mò mẫm; những ngón tay của ông cuối cùng đã đặt trên một cái cán gỗ - nó trơn nhẵn và mòn đi do dùng nhiều; ông nhìn nhanh xuống để chắc chắn - phải, như ông đã hy vọng, đó là cái cuốc chim. Ông ngửa người lại một chút và dùng bả vai đẩy - nhẹ đến gần như không thể bị phát hiện - vào cánh cửa; cửa mở rất nhẹ nhàng, khẽ khàng. Không một người đàn ông nào nhìn lên. ‘Từ từ,’ người bắt chuột vừa nói vừa cúi xuống sát những cái ống phun khói, ‘phải mất một lúc để tỏa khắp... không có lỗ thoát khí, ở dưới sàn nhà thì không có đâu...’
“Em trai ta lẻn qua cánh cửa mở hé và nó khép lại phía sau ông ấy, khép lại tiếng ồn. Ông ấy nhón chân đi vài bước xuôi hành lang tối của phòng bếp và rồi chạy.
“Lại hành lang, ngập nắng, với những chiếc túi của ông ở cạnh cửa ra vào. Ông va vào cái đồng hồ và nó đánh một tiếng, một tiếng vang - giục giã và trầm đục. Ông nâng cái cuốc chim lên ngang vai mình và nhắm một cú đập ngang vào cái lỗ ở dưới tấm gỗ ốp tường. Tấm giấy bị rách, vài miếng vụn thạch cao rơi ra, và cái cuốc chim bật mạnh lại, làm tê tay ông. Đúng là có sắt ở sau xi măng - một cái gì đó không lay chuyển được. Ông giáng một cú đập nữa. Lần nữa rồi lần nữa. Tấm gỗ ốp tường phía trên cái lỗ bị nứt và xước ra, và tờ giấy rủ xuống thành từng miếng dài, nhưng cái cuốc chim vẫn bị nảy ra. Không có kết quả; tay ông, ướt mồ hôi, bị trượt trên cán gỗ. Ông dừng lại thở và, khi nhìn ra ngoài, ông thấy taxi đã đến. Ông nhìn thấy nó trên đường, phía sau bờ rào ở đằng xa bên vườn cây ăn quả; xe sắp tới cây táo bên cạnh cổng; chẳng mấy chốc nó sẽ rẽ vào lối đi. Ông nhìn lên đồng hồ. Nó đang tích tắc đều đặn - có thể là kết quả sau cú va của ông. Âm thanh ấy an ủi ông và khiến trái tim đang đập loạn trở nên bình tĩnh; thời gian, đó là cái ông cần, thêm một chút thời gian. ‘Phải mất một lúc,’ người bắt chuột đã nói, ‘để tỏa khắp... không có lỗ thoát khí, ở dưới sàn nhà thì không có đâu...’
“ ‘Lỗ thông hơi’ - chính là cái từ ấy, cái từ cứu nguy. Tay cầm cuốc chim, em trai ta đã chạy ra khỏi cửa. Ông ấy bị vấp một lần trên lối đi rải sỏi và suýt ngã; cái cán cuốc vung lên và đập mạnh vào thái dương ông. Khi vừa đến, ông đã thấy một sợi khói mỏng cuộn ra ngoài cái lưới sắt và ông nghĩ, trong lúc ông đang chạy đến, rằng có gì đó chuyển động trong bóng tối giữa các thanh sắt. Đó hẳn là nơi họ sẽ đứng, tất nhiên, để có không khí. Nhưng ông không dừng lại để xem chắc chắn. Bấy giờ ông đã nghe thấy đằng sau mình lạo xạo bánh xe trên sỏi và tiếng móng ngựa. Như bà đã kể với cháu, ông không phải là một cậu bé thật khỏe, và ông chỉ mới chín tuổi (không phải mười, như ông đã khoe với Arrietty) nhưng, với hai cú đập mạnh vào gạch tường ông đã đánh bật ra một cạnh của cái lưới sắt. Nó rơi xuống một bên, treo hơi nghiêng, có vẻ như thế, trên một cái đinh. Rồi ông trèo lên bờ cỏ và vận hết sức ném cái cuốc chim vào đám cỏ dài phía sau cây anh đào. Trong khi loạng choạng quay lại, mồ hôi đầm đìa và thở hổn hển, về phía taxi, ông thầm nghĩ là việc đó - cái cuốc bị mất - sau này cũng gây ra vấn đề của riêng nó.”
Những Người Vay Mượn Tí Hon Những Người Vay Mượn Tí Hon - Mary Norton Những Người Vay Mượn Tí Hon