Chương 19
li Wilder cuối cùng cũng thôi nghĩ ngợi về cuộc ghé thăm sắp tới của Myron để gọi cho biên tập viên của mình, một người đàn ông mà nàng vẫn hào phóng coi là một Caligula (1).
“Tôi vẫn chưa thông qua đoạn này được, Ali.”
Nàng cố nén tiếng thở dài. “Đoạn đó sao thế, Craig?” Craig là cái tên mà ông biên tập của nàng vẫn dùng khi giới thiệu về mình, nhưng Ali chắc chắn tên ông ta là Caligula.
Trước vụ 11/9, Ali có một công việc cố định với một tạp chí lớn ở thành phố. Sau cái chết của Kevin, nàng không cách nào giữ được công việc đó nữa. Erin và Jack cần có nàng ở nhà. Nàng xin nghỉ phép và sau đó trở thành một phóng viên tự do, chủ yếu viết bài cho các tạp chí. Ban đầu, ai cũng đưa việc đến cho nàng. Nàng từ chối họ chỉ vì cái mà giờ nàng nhìn nhận là lòng kiêu hãnh ngu ngốc. Nàng ghét phải nhận những công việc “bố thí”. Nàng khinh bỉ trò đó. Bây giờ thì nàng lại thấy hối hận.
Caligula dặng hắng, sắp sửa trình bày một bài diễn văn, và đọc to bài viết của nàng: “Thị trấn ở gần nhất là Pahrump. Cứ hình dung ra cảnh Pahrump, hiệp vần với dump - vứt bỏ, giống như những gì còn lại trên đường sau khi một con ó chén sạch Las Vegas và khạc ra những phần tệ hại. Sự tồi tàn là một loại hình nghệ thuật. Một cái nhà thổ được trang trí cho giống nhà hàng White Castle, có vẻ là một trò chơi chữ tồi. Những biển hiệu với hình các chàng cao bồi khổng lồ đua chen cùng biển hiệu của cửa hàng bán pháo hoa, sòng bạc, bãi đỗ xe moóc, và thịt bò khô. Tất cả pho mát đều là loại American singles.”
Sau một khoảng im lặng đầy ý nghĩa, Caligula nói, “Ta bắt đầu với câu cuối cùng nhé.”
“À, ừm.”
“Cô nói là loại pho mát duy nhất của thị trấn là American singles hả?”
“Phải,” Ali nói.
“Cô có chắc không?”
“Sao cơ?”
“Ý tôi là, cô đã đến siêu thị chưa?”
“Chưa.” Ali bắt đầu cắn móng tay. “Đấy không phải là một phát biểu thực tế. Tôi đang cố gắng tạo cho ông một ấn tượng về thị trấn này.”
“Bằng cách viết ra những điều sai sự thật ấy hả?”
Ali biết là ông ta sắp nói gì. Nàng chờ đợi. Caligula không để nàng phải thất vọng.
“Làm sao mà cô biết, Ali, rằng trong cái thị trấn đó họ không có những loại pho mát khác? Cô đã kiểm tra giá hàng trong tất cả các siêu thị chưa? Và kể cả nếu cô đã làm vậy rồi, thì liệu cô có nghĩ tới chuyện ai đó có thể đi mua hàng ở các thị trấn xung quanh và đem loại pho mát khác về Pahrump hay không? Hoặc có khi họ đặt hàng qua dịch vụ chuyển phát chẳng hạn? Cô có hiểu những gì tôi đang nói không đấy?”
Ali nhắm mắt lại.
“Chúng ta đăng bài này, bảo rằng American singles là loại pho mát duy nhất có trong thị trấn, rồi đột nhiên chúng ta nhận được một cú điện thoại từ ông thị trưởng và ông ta nói, ‘Này, thế là không đúng đâu. Ở đây chúng tôi có vô số chủng loại khác nhau kia. Chúng tôi có loại Gouda và loại Thụy Sĩ, loại pho mát dày và loại Provolone...”
“Tôi hiểu rồi, Craig.”
“Và loại Roquefort và loại xanh và loại Mozzarella...”
“Craig...”
“... và khỉ thật, còn loại kem thì sao?”
“Kem á?”
“Pho mát kem ạ, còn phải nói nữa. Đấy là một loại pho mát, phải không? Pho mát kem. Đến một vùng khỉ ho cò gáy còn có pho mát kem nữa là. Cô đã hiểu chưa?”
“Đúng thế, à, ừm.” Lại cắn móng tay nữa. “Tôi hiểu rồi.”
“Vì vậy dòng này phải bỏ đi.” Nàng có thể nghe thấy tiếng bút mực của ông ta xoẹt ngang dòng đó. “Giờ chúng ta sẽ nói về dòng trước đó, cái dòng về các bãi đỗ xe moóc và thịt bò khô nhé.”
Caligula lùn tịt. Ali ghét mấy tay biên tập lùn. Nàng từng pha trò về chuyện đó với Kevin, Kevin đã luôn là độc giả số một của nàng. Việc của anh là nói với nàng rằng bất cứ thứ gì nàng viết bừa ra đều tuyệt vời cả. Ali, như đa số các cây viết khác, rất dễ dao động. Nàng cần phải nghe những lời tán tụng của anh. Bất cứ câu phê bình nào trong lúc nàng viết đều làm nàng cụt hứng. Kevin hiểu. Vì vậy anh cứ khen tràn đi. Và khi nàng tranh cãi với biên tập viên của nàng, nhất là những kẻ có tầm nhìn và vóc người đều ngắn như nhau kiểu Caligula, Kevin luôn đứng về phe nàng.
Nàng tự hỏi không biết Myron có thích các bài viết của nàng không.
Anh đã đề nghị xem vài bài nàng viết, nhưng nàng gạt đi. Người đàn ông đó từng cặp với Jessica Culver, một trong những tiểu thuyết gia hàng đầu trong cả nước. Jessica Culver đã từng được phỏng vấn trên trang nhất tờ The New York Times Book Review. Tác phẩm của cô ta đã được đưa vào danh sách đề cử của tất cả các giải thưởng văn học lớn. Và như thể thế vẫn còn chưa đủ, như thể Jessica Culver chưa ăn đứt hẳn Ali Wilder về mặt chuyên môn, cô ta còn kiều diễm một cách vô lý.
Làm sao Ali có thể so bì được cơ chứ?
Chuông cửa reo vang. Nàng nhìn đồng hồ. Quá sớm so với giờ hẹn của Myron.
“Craig, tôi gọi lại cho ông sau được không?”
Caligula thở dài. “Ừ, thế cũng được. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ chỉ chỉnh sửa đoạn này chút xíu thôi.”
Nàng nhăn mặt khi ông ta nói câu đó. Có một mẩu chuyện cười cũ về việc bị bỏ lại trên một hoang đảo với một biên tập viên. Bạn đang đói rã ruột. Tất cả những gì bạn còn là một cốc nước cam. Nhiều ngày trôi qua. Bạn đã cận kề cái chết. Bạn đang chuẩn bị uống cốc nước thì lão biên tập viên giật cái cốc khỏi tay bạn và đái vào đấy. Bạn nhìn lão, choáng váng. “Cái đó,” lão biên tập viên nói, đưa lại cho bạn cốc nước. “Nó chỉ cần được chỉnh sửa chút xíu thôi mà.”
Chuông lại reo lên. Erin chạy ào xuống cầu thang và hét to: “Con mở cho.”
Ali gác máy. Erin mở cửa. Ali thấy con bé đờ người ra. Nàng bước mau hơn.
Có hai người đàn ông đứng ở cửa. Cả hai cùng mang phù hiệu cảnh sát.
“Tôi có thể giúp gì được cho các ông?” Ali nói.
“Các cô là Ali Wilder và Erin Wilder phải không?”
Chân Ali nhũn ra. Không, đây không phải hình ảnh hồi tưởng lúc nàng biết tin của Kevin. Nhưng ở đây vẫn có chút cảm giác ngờ ngợ nào đó. Nàng quay sang con gái mình. Khuôn mặt Erin trắng bệch.
“Tôi là thanh tra cảnh sát Livingston Lance Banner. Đây là thanh tra Kasselton John Greenhall.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi muốn hỏi cả hai người vài câu, nếu có thể.”
“Về việc gì?”
“Chúng tôi vào nhà được không?”
“Trước tiên tôi muốn biết tại sao các ông lại đến đây đã.”
Banner nói. “Chúng tôi muốn hỏi vài câu về Myron Bolitar.”
Ali gật đầu, cố gắng đoán ra chuyện này. Nàng quay sang con gái. “Erin, lên gác một chút để mẹ nói chuyện với cảnh sát, nhé?”
“Thực ra thì, ờ, thưa bà?”
Là Banner nói.
“Vâng?”
“Những câu chúng tôi muốn hỏi,” ông ta nói, bước qua cửa và quay đầu về phía Erin. “là dành cho con gái bà, chứ không phải bà.”
Myron đứng trong phòng ngủ của Aimee.
Ngôi nhà của gia đình Biel cách nhà Myron một quãng đi bộ. Claire và Erik đã lái xe đi trước anh. Myron nói chuyện với Win trong vài phút, nhờ anh ta nếu có thể thì tìm giúp tất cả những gì cảnh sát đã biết được về cả Katie Rochester và Aimee. Sau đó anh cuốc bộ theo sau.
Khi Myron bước vào nhà, Erik đã đi.
“Anh ấy lái xe đi loanh quanh,” Claire nói, dẫn anh đi xuống hành lang. “Erik nghĩ rằng nếu anh ấy đến những chỗ nó hay la cà, anh ấy có thể tìm thấy nó.”
Họ dừng lại trước cửa phòng Aimee. Claire mở nó ra.
“Anh định tìm cái gì?” cô hỏi.
“Chết tiệt, giá mà anh biết,” Myron nói. “Aimee có quen một cô bé tên là Katie Rochester không?”
“Đó là cô bé khác cũng bị mất tích, phải không?”
“Phải.”
“Em không nghĩ vậy. Thực ra, em đã hỏi con bé về chuyện đó, anh biết không, lúc con bé kia xuất hiện trên bản tin ấy?”
“Đúng rồi.”
“Aimee nói rằng con bé vẫn hay trông thấy cô ta nhưng nó không biết. Katie học cấp hai ở Mount Pleasant. Aimee học ở Heritage. Anh còn nhớ mà.”
Anh nhớ. Đến khi cả hai cô bé vào trung học thì những nhóm bạn của chúng đã cố kết rồi.
“Anh có muốn em gọi điện cho các nơi và hỏi bạn nó không?”
“Như vậy có lẽ sẽ có ích đấy.”
Trong giây lát cả hai đều không nhúc nhích.
Claire hỏi, “Em có nên để anh lại một mình trong này không?”
“Lúc này thì nên.”
Cô làm theo. Cô đóng cánh cửa lại sau lưng mình. Myron nhìn quanh. Anh đã nói sự thật - anh không có đầu mối để xác định phải tìm gì ở đây - nhưng anh đoán rằng đó sẽ là bước khởi đầu tốt. Đây là một cô gái mới lớn. Chắc hẳn cô phải cất giữ những bí mật trong phòng mình, đúng không?
Việc có mặt ở đây cũng có vẻ đúng đắn. Ngay từ giờ phút anh hứa với Claire, toàn bộ quan điểm của anh bắt đầu thay đổi. Các giác quan của anh cảm thấy hòa hợp một cách kỳ lạ. Đã lâu rồi anh chưa làm việc này - điều tra - nhưng sức mạnh của ký ức đã vào cuộc và phát huy tác dụng. Việc đứng trong căn phòng của cô bé đã giúp anh lấy lại được phong độ. Trong môn bóng rổ, bạn cần phải vào sân để có thể phát huy được hết khả năng của mình. Làm những việc như thế này cũng gây ra cảm giác tương tự. Đứng đây, trong căn phòng của nạn nhân, như thế. Đặt anh vào sân chơi.
Có hai cây đàn guitar trong phòng. Myron không biết gì về các nhạc cụ, nhưng một cái rõ ràng là guitar điện, cái còn lại là guitar thường. Có một tấm poster của Jimi Hendrix treo trên tường. Các móng gẩy dành cho guitar được cất cẩn thận trong hộp mica. Myron đọc qua. Đó đều là những chiếc móng gẩy tuyển chọn của một người sưu tầm. Một là của Keith Richards - những cái còn lại của Nils Lofgren, Eric Clapton, Buck Dharma.
Myron gần như mỉm cười. Cô bé rất có gu.
Chiếc máy vi tính đã bật sẵn, hình một bể cá bảo vệ màn hình trôi ngang qua. Myron không phải một chuyên gia máy vi tính, nhưng anh biết đủ nhiều để có thể bắt đầu. Claire đã cho anh biết mật khẩu của Aimee và kể cho anh chuyện Erik đã xem hết e-mail. Dù sao anh cũng cứ kiểm tra. Anh mở AOL ra và đăng nhập.
Ồ, tất cả các e-mail đã bị xóa hết.
Anh mở Windows Explorer và sắp xếp các file của cô theo thứ tự thời gian, để xem gần đây nhất cô đã làm việc với file nào. Aimee đã viết nhiều bài hát. Anh nghĩ về điều đó, về cô gái trẻ đầy sáng tạo này, về việc hiện giờ cô đang ở đâu. Anh lướt qua những tài liệu đánh máy gần đây nhất. Không có gì đặc biệt. Anh thử kiểm tra các dữ liệu cô tải xuống. Có mấy tấm ảnh mới chụp. Anh mở ra. Aimee và một lũ bạn ở trường, anh đoán vậy. Hiển nhiên chúng cũng không có gì đặc biệt nhưng có lẽ anh sẽ cho Claire xem.
Những cô cậu mới lớn, anh biết, dùng tin nhắn nhanh qua mạng cực nhiều. Từ chiếc máy tính tương đối cố định của mình, chúng nói chuyện với cả tá người nhiều khi là cùng một lúc. Myron biết rất nhiều bậc cha mẹ vẫn than vãn về chuyện này, nhưng vào thời của anh, họ có thể đã dán tai vào điện thoại để tán dóc với nhau hàng giờ liền. Chát chít thì có gì là tệ hại hơn chuyện đó đâu?
Anh mở list bạn bè của cô ra. Có ít nhất là 50 cái tên hiển thị kiểu như SpazaManiacJackII, MSGWatkins, và YoungThangBlaine742. Myron in hết ra. Anh sẽ để Claire và Erik xem xét thật kỹ cùng với các bạn của Aimee, để xem có cái tên nào không phải của đám bạn, có cái tên nào không ai biết không. Đó là một phần việc tốn nhiều thời gian, nó sẽ khiến bọn họ bận rộn.
Anh buông con chuột máy vi tính ra và bắt đầu tìm kiếm theo kiểu cũ. Đầu tiên là cái bàn học. Anh lục lọi các ngăn kéo của cô bé. Bút, giấy, những mảnh giấy nhớ, những cục pin còn thừa, một vài chiếc đĩa CD phần mềm máy tính. Không có gì riêng tư cả. Có vài tờ hóa đơn của một nơi gọi là Planet Music. Anh kiểm tra mấy cây guitar. Có đề can của Planet Music dán ở phía sau.
Phát hiện lớn đây.
Anh chuyển sang ngăn kéo tiếp theo. Cũng không có gì.
Ở chiếc ngăn kéo thứ ba, Myron nhìn thấy một thứ khiến anh dừng lại. Anh thò tay xuống và nhẹ nhàng nâng nó lên xem. Anh mỉm cười. Được bảo vệ trong một tấm nhựa... đó là tấm bưu ảnh hình anh chàng lính mới tò toe của làng bóng rổ Myron. Anh chăm chú nhìn chính mình thời trẻ. Anh vẫn còn nhớ lần chụp ảnh ấy. Anh đã thực hiện vài tư thế ngớ ngẩn - nhảy cao đập bóng vào rổ, giả vờ chuyền bóng, tư thế tấn công theo ba hướng kiểu đã lỗi thời - nhưng họ đã quyết định chọn một trong những pha anh khom người và rê bóng. Phông nền là sàn đấu vắng tanh. Trong tấm hình anh mặc chiếc áo jecxi màu xanh của đội Boston Celtics - một trong những thứ đồ anh đã mặc có lẽ là năm lần trong cả cuộc đời mình. Công ty in thiệp đã in ra chừng vài ngàn tấm trước khi anh bị chấn thương. Giờ đây chúng đã thành đồ người ta sưu tầm.
Thật vui khi biết Aimee cũng có một tấm, mặc dù anh tự hỏi không biết cảnh sát sẽ suy diễn thế nào về nó.
Anh đặt tấm hình trở lại ngăn kéo. Vân tay của anh giờ đã in trên đó, nhưng rồi chúng cũng sẽ có ở khắp cả căn phòng nữa. Không quan trọng. Anh vội vã tiếp tục. Anh muốn tìm một quyển nhật ký. Đó là thứ bạn luôn thấy trong các bộ phim. Cô gái viết một quyển nhật ký, và nó nói về cậu bạn trai bí mật của cô và cuộc đời hai mặt và tất cả những thứ đại loại như thế. Chuyện đó chỉ có trong tiểu thuyết. Nó đã không xảy ra với anh trong đời thực.
Anh chạm phải một cái ngăn kéo đựng đồ lót. Dù thấy ghê ghê nhưng anh vẫn kiên nhẫn. Nếu cô bé định giấu bất cứ thứ gì, đây có lẽ chính là chỗ cần tìm. Nhưng không có gì cả. Sở thích của cô có lẽ khá lành mạnh đối với một cô gái mới lớn. Áo may ô nữ thật tệ hết mức. Tuy vậy, ở gần đáy ngăn, anh tìm thấy một món đặc biệt khác lạ. Anh kéo nó ra xem. Có một cái mác ở trên đó của một cửa hàng bán đồ lót gọi là Bedroom Rendezvous. Nó màu trắng, mỏng tang, và trông như một món đồ từ một y tá ảo. Anh cau mày và phân vân không biết vật này có nghĩa là thế nào.
Có cả vài con búp bê đầu quả len. Một chiếc Ipod với cặp tai nghe màu trắng bị vứt chỏng chơ trên giường. Anh thử kiểm tra các bài hát trong đó. Cô có lưu cả Aimee Mann trong đó. Anh coi đó là một thắng lợi nho nhỏ. Vài năm về trước anh đã tặng cho cô bé đĩa Lost in Space của Aimee Mann, nghĩ rằng cái tên có thể khơi gợi sự quan tâm của cô. Giờ đây anh có thể thấy cô có tới năm CD của Aimee Mann. Anh thích thế.
Có những tấm ảnh được đính lên chiếc gương. Tất cả đều là hình chụp cả nhóm - Aimee với một tốp bạn gái. Có hai tấm hình đội bóng chuyền, một tấm chụp cả đội theo kiểu cổ điển, một tấm chụp buổi liên hoan sau khi họ vô địch giải toàn hạt. Có vài tấm hình ban nhạc rock ở trường trung học của cô bé, Aimee chơi guitar chính. Anh nhìn vào khuôn mặt cô lúc đang chơi. Nụ cười của cô bé thật làm tan nát trái tim người ta, nhưng có cô gái nào trong tuổi ấy mà lại không có nụ cười làm tan nát trái tim người ta cơ chứ?
Anh tìm thấy quyển kỷ yếu của cô. Anh xem qua từng trang. Các quyển kỷ yếu đã có nhiều thay đổi kể từ hồi anh tốt nghiệp. Một trong số đó là chúng có đi kèm một đĩa DVD. Myron sẽ xem cái đĩa này, anh nghĩ thế, nếu có thời gian. Anh tra phần viết về Katie Rochester. Anh đã xem tấm ảnh đó trước đây, trên bản tin. Anh đọc thông tin về cô ta. Cô sẽ nhớ những lúc đi chơi cùng Betsy và Craig và những buổi tối thứ bảy ở Ritz Diner. Không có gì đáng kể. Anh chuyển sang trang của Aimee Biel. Aimee nhắc tới cả đống bạn của cô; những thầy cô giáo cô yêu thích, cô Korty và thầy D; huấn luyện viên bóng chuyền của cô, thầy Grady; và tất cả các bạn nữ cùng đội tuyển. Cô kết thúc bằng câu, “Randy, anh đã làm cho hai năm nay trở nên thật đặc biệt. Em biết là chúng ta sẽ luôn ở bên nhau.”
Randy yêu quý.
Anh kiểm tra phần về Randy. Đó là một cậu chàng đẹp trai với những lọn tóc xoăn bù xù, trông gần giống một tín đồ đạo Rastafar. Cậu có một đốm râu cằm và nụ cười trắng lóa rạng rỡ. Cậu ta chủ yếu nói về thể thao trong phần tự bạch của mình. Cậu ta cũng nhắc đến Aimee, đến việc cô đã “làm phong phú thêm” nhưng năm tháng ở trường trung học của cậu nhiều đến chừng nào.
Hừm... ừm.
Myron ngẫm nghĩ về điều đó, nhìn lại tấm gương và lần đầu tiên anh tự hỏi liệu có phải anh đã tình cờ tìm thấy một manh mối hay không.
Claire mở cánh cửa ra. “Có gì không?”
Myron chỉ vào tấm gương. “Đây.”
“Cái đó thì sao?”
“Em có hay vào phòng này không?”
Cô nhíu mày. “Một đứa trẻ mới lớn sống ở đây mà.”
“Thế có nghĩa là hiếm khi à?”
“Hầu như không bao giờ.”
“Con bé có tự giặt đồ không?”
“Con bé là một đứa trẻ mới lớn mà, Myron. Nó chẳng làm gì cả.”
“Vậy thì ai làm việc đó?”
“Bọn em có một chị giúp việc. Tên chị ta là Rosa. Tại sao vậy?”
“Những tấm ảnh,” anh nói.
“Những tấm ảnh thì sao?”
“Con bé có một cậu bạn trai tên là Randy, phải không?”
“Randy Wolf. Cậu ta là một đứa trẻ dễ thương.”
“Và hai đứa đã cặp với nhau được một thời gian?”
“Từ năm thứ hai. Sao?”
Một lần nữa anh ra dấu về phía tấm gương. “Không có tấm hình nào của cậu ta. Anh đã tìm khắp phòng rồi. Không có tấm ảnh nào có cậu ta cả. Đó là lý do tại sao anh hỏi em về chuyện em vào căn phòng này lần cuối là khi nào.” Anh quay lại nhìn cô. “Có phải ở đây đã từng có không?”
“Phải.”
Anh chỉ vào vài điểm trống ở phần dưới của tấm gương. “Tất cả những thứ này trông đều chẳng có trật tự gì hết, nhưng anh cá là con bé đã gỡ các tấm hình ra khỏi đây.”
“Nhưng chúng vừa cùng nhau tới dự buổi dạ hội, gì nhỉ, ba đêm trước.”
Myron nhún vai. “Có lẽ chúng đã cãi nhau to ở đó.”
“Anh nói Aimee trông rất xúc động lúc anh đón nó, phải không?”
“Phải.”
“Có lẽ chúng vừa chia tay,” Claire nói.
“Có thể,” Myron nói. “Ngoại trừ việc con bé đã không ở nhà từ hôm đó, và các tấm ảnh trên gương đã biến mất. Điều đó cho thấy chúng đã chia tay ít nhất là một hay hai ngày trước khi anh đón con bé. Còn một thứ nữa.”
Claire chờ đợi. Myron cho cô xem cái quần lót mua ở Bedroom Rendezvous. “Em đã từng nhìn thấy cái này chưa?”
“Chưa. Anh tìm thấy trong đây à?”
Myron gật đầu. “Dưới đáy ngăn kéo. Trông nó có vẻ chưa được mặc bao giờ. Cái mác vẫn còn dán trên đó.”
Claire trở nên im lặng.
“Sao vậy?”
“Erik có nói với cảnh sát về việc gần đây con bé đã cư xử không bình thường. Em đã cãi nhau với anh ấy về chuyện đó, nhưng sự thực là, con bé có như vậy. Nó trở nên rất giữ kẽ.”
“Em có biết điều gì gây ấn tượng mạnh cho anh về căn phòng này không?”
“Điều gì?”
“Quên cái quần lót này đi - nó có thể có liên quan và cũng có thể chẳng là gì cả - trái ngược với những gì em vừa nói: Gần như không có gì bí mật ở trong này cả. Ý anh là, con bé là một học sinh năm cuối trung học. Lẽ ra phải có cái gì đó chứ, phải không?”
Claire ngẫm nghĩ về điều đó. “Sao anh lại nghĩ là có?”
“Giống như con bé đang rất cố gắng để giấu thứ gì đó. Chúng ta cần phải kiểm tra những nơi khác mà con bé có thể giấu những thứ đồ riêng tư, một nơi nào đó mà em và Erik sẽ không nghĩ tới chuyện rình mò. Như tủ đồ của nó ở trường chẳng hạn.”
“Chúng ta có nên làm bây giờ không?”
“Anh nghĩ là tốt hơn hết là nói chuyện với Randy trước đã.”
Cô cau mày. “Bố cậu ta.”
“Ông ta thì sao?”
“Tên lão ta là Jake. Jake Lớn, mọi người đều gọi lão thế. Lão ta to cao hơn anh. Và bà vợ thì là một ả lẳng lơ. Jake Lớn đã dính vào một vụ đánh lộn tại một trong những trận bóng đá của Randy. Đánh anh chàng tội nghiệp đó không thương xót ngay trước mặt con mình. Lão ta đúng là một thằng ngu toàn phần.”
“Toàn phần?”
“Toàn phần.”
“Phù.” Myron làm bộ gạt mồ hôi trên lông mày. “Một thằng ngu cục bộ, anh còn ngại. Một thằng ngu toàn phần thì - để anh xử lý.”
Chú thích
1. Biệt hiệu của Julius Caesar, có nghĩa là “đôi ủng nhỏ của người lính”.
Người Hùng Trở Lại Người Hùng Trở Lại - Harlan Coben Người Hùng Trở Lại