Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 19
racy tấp xe vào vỉa hè phía trước tòa án Metropolitan ở trung tâm Los Angeles.
“Thế nào, hôm nay em định làm gì?” Dan hỏi bằng một giọng đủ để Tracy biết rõ rằng anh đã phát hiện ra cô không hề có ý định dành cả ngày hôm nay lang thang ở một cái bảo tàng nào đó.
“Em có một buổi gặp mặt nói chuyện.” Cô nói.
“Anh có thể biết em sẽ nói chuyện với ai không?”
“Là dì của người phụ nữ trong lồng cua.” Tracy nói.
“Ý em là vụ án mà em không còn thẩm quyền điều tra nữa ấy hả?”
“Chính là nó.”
“Em định biện hộ thế nào cho việc đó?”
“Một cảnh sát tận tụy.” Tracy đáp. Dan nhìn cô bằng ánh mắt như kiểu anh chẳng tin điều đó. “Nolasco nói rằng hãy kết thúc những gì bọn em đang làm. Trước khi ông ta nói vậy, em đang tiến hành nói chuyện với người dì rồi. Em sẽ nói chuyện với bà ấy, ghi chép lại và sau đó gửi xuống Tacoma.”
“Và em nghĩ ông ta sẽ xử lý em thế nào nếu ông ta phát hiện ra?”
“Hãy hi vọng là em không cần phải tham gia cuộc tranh luận đó.” Cô đáp. “Nhưng nghiêm túc mà nói, em có thể nói rằng em đến Los Angeles để nghỉ ngơi, và em chỉ nói chuyện với Patricia Orr với tư cách cá nhân chứ không phải tư cách một sĩ quan của Sở Cảnh sát Seattle.”
“Hãy hi vọng là em cũng không cần phải tranh luận tới mức ấy.” Dan nói.
Cô mỉm cười. “Em dự định sẽ quay lại vào khoảng bốn giờ.”
Dan hôn cô. “Chúc anh may mắn đi nào.”
“Em mới là người phải lái xe trên đường phố Los Angeles cơ mà. Anh nên chúc em may mắn mới phải.”
Cô cho xe chạy lên đường cao tốc 1-10 đi về phía đông và hòa vào dòng xe cộ chạy đều đều. Nếu là mười năm trước đây, có lẽ cô đã phát cáu lên với số lượng xe cộ đông đúc như thế này, nhưng Seattle mà cô đang sống là thành phố phát triển nhanh nhất ở đất nước này, việc giao thông đông đúc như nêm cũng đã trở thành một phần cuộc sống ở thành phố phía Tây Bắc. Và cả đợt hạn hán ở dọc bờ Tây nữa, cơn hạn hán đó đã tác động mạnh tới vùng Nam California, đặc biệt là sau đợt nắng nóng gần đây. Những ngọn đồi đã chuyển sang màu nâu của đất, và bầu trời chìm trong lớp khói mù có màu hoen gỉ. Nó khiến Tracy nhớ tới những hình ảnh gồ ghề sỏi đá mà những con rô bốt thám hiểm sao Hỏa truyền về Trái Đất, và dường như chỉ một ánh chớp nhỏ nhất cũng có thể khiến cho mọi thứ bốc cháy phừng phừng.
Mất chưa tới một giờ lái xe cô đã nhập được vào làn đường cao tốc 1-215 đi về phía bắc dẫn tới San Bernardino, một trong những thành phố hỗn loạn nhất ở Nam California. Vào năm 2012, thành phố này đã dính phải tai tiếng khi trở thành thành phố lớn nhất ở Hoa Kì phải tuyên bố phá sản, và rồi thêm một lần tai tiếng nữa vào năm 2015, khi hai gã Hồi giáo bại trận quá khích giết chết mười bốn người vô tội.
Cô rời khỏi đường cao tốc và đi vào đường East Orange Show rồi rẽ phải đi vào đại lộ South Waterman. Định vị GPS dẫn cô đi vào đường Số Ba, và cô giảm dần tốc độ khi giọng nói báo cho cô biết rằng đích đến của cô, một khu nhà tập thể trát vữa màu nâu hồng đã nằm ngay phía tay phải của cô. Cô đánh xe đi vào bãi đỗ và dừng xe ở một chỗ tiếp giáp với một cái hàng rào bằng sắt uốn và ngay cạnh đó là một hồ bơi có hình con trùng amíp. Hai cây cọ lớn vươn lên che lấy hồ bơi, nhưng chúng chẳng tạo ra được mấy bóng râm.
Cô đeo cặp kính râm lên và bước ra khỏi xe. Khi cô bước lên một chiếc cầu thang ở ngoài trời dẫn lên tầng hai và đi lên phía chiếu nghỉ, cô nghe thấy tiếng nhạc Mexico truyền thống phát ra từ một cánh cửa sổ đang mở của một căn hộ. Bước tới cánh cửa thứ hai từ cuối dãy lên, cô gõ cửa. Bên trong phòng, cô nghe thấy tiếng một ai đó tắt ti vi và tiếng bước chân tiến gần tới cửa, cùng với đó là một chuỗi những âm thanh rất rõ ràng, tiếng mở khóa và sau đó là tiếng chốt cửa được kéo ra.
Là một người phụ nữ mở cửa.
“Bà có phải là bà Orr không ạ?” Tracy hỏi.
“Chắc cô là điều tra viên ở Seattle phải không? Hãy gọi tôi là Penny.” Người phụ nữ nói.
Tracy tự giới thiệu bản thân. Cô ước tính bà Orr mới ngoài năm mươi tuổi. Mặc dù người phụ nữ kia có thân hình cân đối, vóc dáng gọn gàng và hai cánh tay rắn chắc, nhưng ở bà ta có một sự nặng nề mà Tracy thường liên tưởng đến những người đã phải trải qua một cuộc đời cực khổ và cảm nhận được sự gian khó của cuộc đời. Orr có nước da ngăm ngăm của người Ireland, làn da tàn nhang, nước da nhợt nhạt và mái tóc màu đen nổi lên mấy lọn đã điểm bạc.
“Mời cô vào nhà. Cô tới khá sớm đấy nhỉ.” Patricia Orr nói. “Chắc hẳn giao thông không đến nỗi quá tệ.”
“Không tệ lắm.” Tracy đáp. Tối hôm trước, cô đã gọi điện và nói chuyện trước với Orr, cô đã nói cho bà ta biết mục đích của chuyến viếng thăm này.
Cô bước chân vào một căn hộ được trang hoàng khá khiêm tốn nhưng sạch sẽ không chê vào đâu được, những món đồ nội thất có màu kem, một vài bức tượng điêu khắc bằng đồng và những khung tranh in màu cỡ lớn. Một trong số những bức tranh là hình ảnh của ba anh chàng Elvis Presley mặc đồ cao bồi, đang nhắm sáu nòng súng hướng về phía phòng khách. Trong một bức tranh khác là những hình ảnh sặc sỡ sắc màu của Marilyn Monroe trẻ mãi không già đang nháy mắt đầy khêu gợi từ phía sau những chiếc lá của một chậu dương xỉ.
“Andy Warhol.” Tracy nói. “Bức tranh Elvis đó là một trong số những bức họa yêu thích của tôi.”
“Cô là một fan hâm mộ à?” Patricia Orr hỏi.
“Tôi là một tay thiện xạ.” Tracy nói. “Tôi và em gái đã thi đấu trong những giải bắn súng khắp vùng Tây Bắc Thái Bình Dương.”
“Cô và em gái vẫn thi đấu chứ?”
“Tôi vẫn thường xuyên tham gia.” Tracy nói. “Em gái tôi đã qua đời nhiều năm trước.”
“Tôi rất lấy làm tiếc.” Orr nói. “Mời cô ngồi.” Nói rồi, bà ta di chuyển tới chiếc ghế sofa hình chữ L đối diện thẳng với một màn hình phẳng khá lớn. Ở phía bên phải, một cánh cửa trượt bằng kính nhìn ra phía chân đồi nhấp nhô. Orr với tay lấy một bình nước đặt trên bàn cà phê. “Tôi rót cho cô một ly trà đá nhé?”
“Được ạ, cảm ơn bà.”
Họ nói chuyện xã giao vài câu rồi bắt đầu đi thẳng vào chuyện chính. “Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện của cháu gái bà.” Tracy nói.
“Tôi chẳng biết phải nói gì khi cô gọi điện.” Orr nói. “Tôi đã khóc hết nước mắt vì Andrea đã chết một lần. Thế rồi con bé lại được phát hiện ra là vẫn còn sống…” Bà ta lắc đầu, có vẻ như đang cảm thấy hết sức bối rối. “Và bây giờ con bé lại chết thêm một lần nữa. Tôi cảm thấy đau đớn khi nghĩ rằng có kẻ nào đó lại độc ác tới nhường ấy. Tôi hi vọng con bé đã không phải chịu đau đớn quá nhiều.”
“Theo những gì chúng tôi tìm được thì có vẻ là như thế.” Tracy nói. Cô không thực sự biết chính xác những gì mình nói là đúng hay sai, nhưng cô biết đó là những gì bà Orr muốn nghe. Kết quả khám nghiệm tử thi cũng không phát hiện ra dấu vết nào cho thấy cô gái đó bị hành hạ hay lạm dụng, và viên đạn bắn từ sau gáy có lẽ đã giết chết Andrea Strickland ngay tức thì.
“Cô có biết chuyện gì đã xảy ra không?” Orr hỏi.
“Chúng tôi đang trong quá trình tìm hiểu.” Tracy nói. “Có một điều rõ ràng là Andrea không chết ở trên núi. Bằng một cách nào đó, cô ấy đã xuống được núi. Những gì xảy ra sau đó đến giờ vẫn còn là bí ẩn.”
“Tại sao con bé lại làm thế?” Orr hỏi.
“Chúng tôi tìm được những bằng chứng cho thấy giữa cô ấy và chồng có những mâu thuẫn. Người chồng đã khiến cả hai người họ vướng vào những rắc rối tài chính và cũng có những dấu hiệu cho biết anh ta đã phản bội cô ấy.”
“Anh ta không hành hạ con bé chứ?”
“Chúng tôi không tìm được dấu hiệu lạm dụng thể xác nào cả.” Tracy nói, mặc dù Brenda Berg có nói tới việc Andrea Strickland đã có lần nhắc tới chuyện đó.
“Một điều tra viên khác có nói rằng người chồng là một kẻ tình nghi; hắn ta vẫn là kẻ tình nghi trong vụ án lần này chứ?”
“Điều tra viên đó nói khi nào thế ạ?” Tracy hỏi.
“Khi anh ta gọi điện… Cũng lâu lâu rồi, có lẽ là khoảng một tháng trước. Khi đó, họ vẫn nghĩ rằng Andrea đã chết trên núi Rainier.”
“Bà có trao đổi gì với vị đó từ sau lần gọi điện ấy không?”
“Không.”
Việc Fields không tiếp tục giữ liên lạc với người dì đã giúp Tracy khẳng định được rằng anh ta chẳng làm được gì trong vụ án này hết. “Chúng tôi đang điều tra một vài tình huống khác nhau.” Cô nói. “Tôi hi vọng có thể tìm hiểu thêm được một chút về gia thế của cháu gái bà. Tôi được biết cô ấy đã chuyển đến sống với bà lúc cô ấy mười ba tuổi, có đúng vậy không?”
Orr đặt ly trà đá xuống miếng lót ly. “Là ngay trước ngày con bé tròn mười bốn tuổi.”
“Chị gái và anh rể của bà thiệt mạng trong một tai nạn ôtô có phải không?”
“Đúng thế.” Orr đáp. “Vào đêm Giáng sinh. Thật là khủng khiếp.”
“Và Andrea cũng có mặt trong ô tô?”
Orr gật đầu. “Vụ tai nạn xảy ra vào đêm muộn trên một con đường khá khó đi. Andrea ngồi ở ghế sau và chỉ bị sây sát nhẹ, nhưng chị gái tôi và chồng chị ấy đã chết ngay tại chỗ. Cảnh sát tuần tra cao tốc nói rằng cảnh tượng của vụ tai nạn đó là một trong những cảnh tượng khủng khiếp nhất mà anh ta từng chứng kiến trong vòng hai mươi năm.”
“Tôi rất lấy làm tiếc.” Tracy nói. “Andrea đã bị mắc kẹt trong xe trong bao lâu?”
“Gần hai giờ đồng hồ.” Orr nhẹ nhàng đáp. “Tôi không thể hình dung ra được cảm giác đó như thế nào.”
“Tâm tính của cô ấy thế nào khi cô ấy chuyển tới sống với bà?”
Orr suy nghĩ một lát trước khi trả lời câu hỏi. “Không nói chuyện nhiều. Kín đáo. Con bé thường xuyên gặp ác mộng.”
“Và ngày đó bà đã sống ở đây, ở San Bernardino à?”
“Không phải trong căn hộ này. Đó là một căn nhà ở gần chân đồi, tôi đã ở đó cho tới khi ly hôn.” Bà ta nhấc ly trà đá lên và nhấp một ngụm, lảng tránh không nhìn vào mắt Tracy.
“Andrea có đi gặp bác sĩ tư vấn chứ?”
Orr ngả lưng ra sau, ly nước cầm chặt trong tay. Thái độ của bà ta dường như đã thay đổi, dè dặt hơn và kín đáo hơn. “Có.”
“Là một bác sĩ ở ngay tại thị trấn này chứ?”
“Chỉ cách đây vài cây số.”
“Tên của bác sĩ đó là gì?”
“Townsend. Alan Townsend.”
“Ông ấy còn hành nghề nữa hay không, bà biết chứ?”
“Tôi tin là ông ấy vẫn còn. Nhưng tôi cũng không dám chắc.”
“Việc gặp bác sĩ tư vấn có ích chứ?”
Orr hướng ánh mắt về phía sàn nhà và nhắm chặt mắt lại, một giọt nước mắt lăn chầm chậm trên gò mà bà ta. Tracy để bà ta lặng yên trong vài phút.
“Tôi rất xin lỗi nếu chuyện này khiến bà cảm thấy buồn phiền, Penny ạ.”
Orr gật đầu, nhưng những giọt nước mắt vẫn tiếp tục rơi. Thế rồi lồng ngực của bà ta run lên. “Andrea đã phải chịu đựng rất nhiều.” Bà ta nói. “Tôi đã nghĩ những cơn ác mộng đó là do vụ tai nạn. Tôi đã chẳng biết được sự thật.”
Tracy liên hệ lại tất cả với nhau - cuộc ly hôn, sự miễn cưỡng khi nói về những cuộc tư vấn của Andrea. “Là do chồng của bà sao?” Tracy hỏi. Viễn cảnh ấy, đáng buồn làm sao, luôn luôn giống nhau.
“Hắn ta đã lạm dụng Andrea.” Orr nói. “Chuyện vỡ lở ra từ những cuộc tư vấn của con bé. Hắn chối bay chối biến, hắn nói rằng là do con bé tự dựng chuyện, rằng con bé đã sống trong thế giới tưởng tượng.”
“Bác sĩ tư vấn đã nói gì?”
“Ông ấy cho rằng Andrea đã kể sự thật. Lời tố cáo của con bé khiến ông ấy phải liên lạc với Hội Bảo vệ Trẻ em. Họ đã chuyển con bé đi khỏi gia đình chúng tôi. Tôi cũng chuyển ra ngoài bởi tôi không thể chờ cho tới lúc thủ tục ly hôn được giải quyết xong, và tự tìm cho mình một chỗ ở mới, một căn nhà nhỏ ở vùng nông thôn. Andrea đã được gửi tới một gia đình khác cho tới khi con bé quay trở lại sống với tôi sau đó.”
“Sau cùng bà đã tìm ra được sự thật chứ?” Tracy hỏi.
“Andrea đã nói thật.”
“Tôi rất lấy làm tiếc. Và bà đã trở thành người giám hộ hợp pháp của cô ấy?”
“Đúng thế. Chị gái và anh rể tôi đã viết điều đó trong di chúc của họ, một tòa án chứng thực di chúc đã lắng nghe tôi trình bày, sau cùng thẩm phán đã chỉ định tôi làm người giám hộ.”
“Vậy là bà có thể cho phép tôi được tiếp cận băng ghi âm các buổi tư vấn của Andrea đúng không?”
“Tôi có thể.” Orr nói. “Nhưng tại sao cô lại cần tới chúng?”
“Chúng tôi đang tìm hiểu tất cả mọi lý do có thể khiến Andrea đi xuống núi, và cố gắng để hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Các cuộc ghi âm có lẽ sẽ giúp ích. Tâm lý của cô ấy như thế nào từ khi chuyển về sống cùng bà?”
“Tồi tệ hơn.” Orr đáp. “Con bé trở nên cực kỳ khép kín và rất hay lo lắng. Nó cào cấu da mình và có xu hướng cắn nát móng tay, đôi lúc cho tới khi chúng bật máu. Con bé cũng đọc sách liên tục, đọc bất cứ thứ gì nó có được trong tay.”
“Đọc tiểu thuyết sao?” Tracy hỏi. “Có thể loại nào đặc biệt không?”
“Không, nó đọc tất cả mọi thứ và bất cứ thứ gì có được. Tiểu thuyết về miền Tây, tiểu thuyết lãng mạn, khoa học viễn tưởng, thần thoại, thần bí, trinh thám. Tất cả mọi thứ. Hằng tháng tôi phải đưa hàng thùng sách giấy tới cửa hàng sách cũ để bán và đổi lấy sách mới cho nó.”
“Bác sĩ tư vấn của cô ấy đã nói gì về chuyện Andrea đọc sách quá nhiều như thế?”
“Ông ta nói Andrea đã thu mình khỏi thế giới thực bởi thế giới đó quá đau thương với con bé. Ông ấy nói sách có thể mang đến cho con bé sự thoải mái.”
“Cô ấy có tiến triển nhiều không?“
“Trong việc tư vấn ấy hả? Cũng có một chút, nhưng rồi con bé rời khỏi San Bemardino khi nó tròn mười tám tuổi. Một hôm, tôi trở về nhà sau giờ làm và con bé đã bỏ đi rồi. Nó để lại cho tôi một tờ giấy nhắn nói rằng nó cảm ơn tôi và nó cần phải thay đổi không khí.”
“Cô ấy không nói trước với bà về chuyện sẽ rời đi sao?”
Orr lắc đầu. “Tôi hiểu.” Bà ta nói nhỏ. “Andrea cần tạo dựng cuộc sống riêng cho nó, bất luận nó có như thế nào đi nữa. Con bé cần phải đi khỏi chỗ này, đi khỏi những kí ức đó. Tôi hiểu điều đó.”
“Cô ấy có kể với bà cô ấy sẽ đi đâu không?”
“Con bé nói rằng nó muốn sống ở Portland hoặc Seattle bởi những nơi đó trời mưa suốt và nó có thể đọc sách. Nó nói rằng nó sẽ liên lạc với tôi khi nào ổn định.”
“Bà có nói chuyện với cô ấy sau khi cô ấy rời đi không?”
“Có, con bé đã giữ lời, nó nói rằng nó sẽ định cư ở Portland, và đảm bảo với tôi rằng cuộc sống của nó rất ổn. Nó có gọi cho tôi vài lần sau đó, nhưng cũng không gọi nhiều.” Orr ngừng lại một chút. “Thực sự tôi đã cố gắng làm những gì đúng đắn cho Andrea và cho chị của tôi.”
“Tôi tin chắc là như thế.”
“Khi phát hiện ra chồng tôi đã xâm hại con bé, tôi cảm tưởng như tôi đã khiến cả hai người họ phải thất vọng. Tôi đoán Andrea đã bị tổn thương tình cảm rất nhiều khiến cho việc sống tại đây sẽ nhắc nó nhớ lại những vết sẹo ấy. Tôi cũng là một phần trong những kí ức tồi tệ đó. Tôi nghĩ rằng con bé cần bỏ đi.”
“Tôi dám chắc bà đã làm hết sức có thể.” Tracy nói.
“Tôi đã cố gắng.” Orr đáp.
“Andrea sẽ nhận được quyền kiểm soát tài khoản tín thác khi cô ấy mười tám tuổi, phải không?”
“Không. Khi hai mươi mốt tuổi con bé có quyền tự quyết định sử dụng khoản lãi như thế nào. Chị gái và anh rể của tôi vốn dĩ lập ra tài khoản này là để chi trả chi phí học đại học cho Andrea. Sau khi họ qua đời, các tài sản còn lại của họ cũng được đổ dồn vào tài khoản đó, nhưng nó có các điều khoản giới hạn. Nó chỉ được sử dụng để giúp cho Andrea có một cuộc sống đầy đủ.”
“Bà có phải là người được ủy thác trông nom tài khoản đó không?”
“Không, có một người ủy thác chuyên nghiệp quản lý tài khoản đó. Nó rất phức tạp. Khi con bé sống với tôi, tôi đã yêu cầu người ủy thác cộng gộp phần lãi vào tài khoản. Tôi chưa bao giờ động tới nó dù chỉ một đồng. Tôi muốn tài khoản đó là của mình con bé, tôi muốn nó có được thứ gì đó tốt đẹp sau tấn thảm kịch mà nó đã phải trải qua. Cô có biết chuyện gì đã xảy ra với tài khoản đó không?”
“Đó là một trong những việc mà chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu. Có vẻ như Andrea đang trong quá trình tìm cách giấu nó.”
“Giấu nó khỏi ai cơ chứ?”
“Chúng tôi nghĩ là giấu khỏi chồng cô ấy. Chúng tôi nghĩ rằng đó là một trong những nguồn cơn gây nên mâu thuẫn trong cuộc hôn nhân của họ. Rõ ràng là anh ta muốn sử dụng tài khoản tín thác đó để trả hết các khoản nợ kinh doanh và Andrea đã phản đối.”
“Các điều khoản sẽ không cho phép làm việc đó.” Orr nói.
“Tôi nghĩ đó là lý do dẫn tới căng thẳng giữa họ.”
“Vậy là các anh chị nghĩ có thể hắn đã giết con bé để giành được quyền kiểm soát số tiền đó sao?”
“Chúng tôi cũng không biết nữa.” Tracy nói. Rồi cô chuyển sang chủ đề khác. “Penny này, bà đã bao giờ nghe đến cái tên Lynn Hoff chưa?”
Gương mặt Orr nhăn lại, ngẫm nghĩ. “Có lẽ là chưa. Cô ta là ai?”
“Có vẻ như đó là cái tên giả mà Andrea đã sử dụng khi cô ấy bỏ trốn. Đôi lúc người ta sẽ sử dụng một cái tên thân thuộc với họ, có thể là một người bạn từ thuở nhỏ đã qua đời, hoặc là một người họ hàng.”
“Không phải.” Orr nói. “Cái tên đó khá lạ lẫm. Có lẽ là một nhân vật trong một cuốn sách nào đó chăng?”
“Có lẽ vậy. Andrea có bạn bè thân thiết nào khi cô ấy sống ở đây không? Bạn cấp ba chẳng hạn?”
Orr lắc đầu. “Có lẽ là không.” Bà ta nhún vai. “Chí ít đó là những gì tôi biết. Con bé không thích tới trường. Andrea không phải là một đứa bé dốt nát. Đừng hiểu sai những gì tôi nói. Con bé thừa hưởng trí thông minh của cha mình, và nó rất tò mò, thích tìm hiểu mọi thứ. Tôi nghĩ đó là lý do lúc nào nó cũng thích đọc sách. Môn học nào nó từng đọc qua nó đều nhớ không sót thứ gì. Các thầy cô giáo đều nhận xét như thế trong buổi họp phụ huynh. Andrea cực kỳ sáng dạ, đặc biệt xuất sắc ở một số môn, nhưng con bé lại chẳng mấy chuyên tâm vào việc học hành.” Orr lại nhún vai một lần nữa. “Tôi biết phải làm gì đây, phạt nó sao?” Nói rồi, bà ta lấy tay lau nước mắt và làm vẻ mặt như thể suy nghĩ đó thật nực cười “Con bé đã bị trừng phạt quá đủ rồi.”
Tracy cho Orr vài phút để lấy lại bình tĩnh, rồi cô hỏi. “Tôi có thể hiểu là cô ấy chưa từng có bạn trai?”
“Chưa từng.”
“Và cũng không có kẻ thù nào hết?”
“Con bé chưa từng nhắc tới chuyện đó. Nó gần như giữ kín mọi chuyện cho riêng mình.”
“Bà cũng không biết chuyện cô ấy đã kết hôn.”
Orr nhăn mặt. “Không.”
“Bà chưa từng gặp mặt chồng của cô ấy?”
“Chưa từng, nhưng có vẻ hắn không phải là người tốt.”
“Andrea có bao giờ nhắc tới cái tên Devin Chambers không?”
“Devin Chambers sao? Chưa bao giờ. Hắn là ai vậy?”
“Thật ra đó là một cô gái. Cô ấy có vẻ là một người bạn của Andrea ở Portland.”
Orr mỉm cười nhưng nụ cười phảng phất ánh buồn. “Tôi rất mừng vì con bé có ai đó bầu bạn. Cuộc đời con bé đã phải trải qua quá nhiều nỗi buồn, quá nhiều đau đớn.”
Tracy vẫn thường nghĩ tới Sarah, nghĩ tới việc vào những ngày cuối đời, em cô đã phải chịu sự giày vò bởi trí não cuồng điên của một kẻ tâm thần. Những suy nghĩ ấy về em gái vẫn khiến cho cô có những phản ứng đầy bản năng, và đem đến cho tâm trí cô một nỗi u ám đầy đắng cay và tức giận, nhưng cô nhận ra vẫn còn thứ gì đó khác nữa, thứ gì đó chưa từng xảy ra trước đây trong bất cứ vụ án nào khác cô từng đảm nhận. Cô bắt đầu nhận ra cô không hề liên hệ vụ án này với bản thân bởi những sự tương đồng giữa nạn nhân và Sarah. Cô cá nhân hóa nó là bởi những sự tương đồng giữa Andrea Strickland với chính cô, Tracy. Tracy cũng đã từng có một cuộc sống tuyệt vời và tất cả đã bị phá vỡ bởi bi kịch. Cô, cũng giống như cô gái ấy, từng là con của một vị bác sĩ, sống trong một căn nhà xinh đẹp với người mẹ và người em gái mà cô thương yêu. Rồi bất thình lình, em gái của cô bị bắt cóc, chẳng bao lâu sau đó, cha cô tự bắn vào đầu mình, tự sát. Chồng của cô cũng rời bỏ cô, và tất cả những gì cô từng nghĩ là cuộc sống của cô đã thay đổi mãi mãi. Nhiều năm trời ròng rã, cô đã điều trị nỗi tuyệt vọng của mình bằng những bài tập cường độ cao và những buổi tập bắn súng thường xuyên, nhưng đôi lúc cô ngồi trong căn hộ của mình, chán nản, phiền muộn, và tự hỏi tại sao cuộc đời lại đối xử với cô khốn nạn đến vậy.
“Chồng cũ của bà có biết về tài khoản tín thác của Andrea không?”
“Có.” Orr đáp. “Nhưng ông ta đã chết rồi, điều tra viên ạ. Ông ta qua đời ba năm trước vì ung thư ruột kết.”
“Thế còn người ủy thác của cô ấy thì sao? Ông ta là người như thế nào?”
“Đó là một người tuyệt vời. Nếu ông ta muốn lừa Andrea, ông ta có thể làm điều đó quá dễ dàng.”
“Bà còn nghĩ ra được ai khác cũng biết về tài khoản tín thác đó không?”
Orr Suy nghĩ một lát.
“Hết rồi, trừ phi Andrea kể cho ai khác nữa.”
Lời nhận xét đó của Orr khiến Tracy nghĩ đến Brenda Berg, Devin Chambers và bác sĩ tư vấn của Andrea.
“Tôi muốn được xem bản ghi âm các buổi tư vấn của Andrea.” Cô nói. “Tôi sẽ cần một lá thư có chữ kí để được phép lấy nó. Bà viết giúp tôi được chứ?”
“Tôi sẽ viết.” Orr đáp. “Nhưng chỉ giới hạn cho mình cô thôi nhé.”
“Chắc chắn rồi.”
“Tôi nghĩ chẳng có lý do gì để những thứ này bị đưa ra công chúng cả. Khi còn sống, Andrea đã phải chịu đựng quá đủ đau khổ. Tôi thấy chẳng có lý do gì để tiếp tục làm tổn thương con bé khi mà con bé đã chẳng còn trên đời nữa.”
Tracy đồng ý.
Orr gọi điện đến văn phòng của Alan Townsend, nhưng chỉ có thể để lại lời nhắn qua dịch vụ ghi âm tự động. Tới cuối buổi nói chuyện của Tracy với Orr, Townsend gọi lại và nói rằng ông ta có thể gặp Tracy ở văn phòng. Họ hẹn giờ và Orr kí một lá thư cho phép cung cấp bản ghi âm các buổi tư vấn của Andrea cho Tracy.
Tracy cảm ơn Orr đã dành thời gian cho cô, và đưa cho bà ta một tấm danh thiếp khi bà ta đưa cô ra ngoài cửa.
“Cô có biết tôi phải liên lạc với ai để nhận lại thi hài của con bé không?” Orr hỏi. “Tôi muốn Andrea được chôn cạnh cha mẹ con bé.”
Tracy ghi cho bà ta số điện thoại của Cơ quan Pháp y quận King vào mặt sau tấm danh thiếp. “Có lẽ lúc này họ đã có thể trả lại thi hài cho bà được rồi.” Cô nói.
Khi Tracy mở cánh cửa xe ô tô trong bãi đậu phía dưới khu căn hộ, một làn hơi nóng như lửa đốt ào ra. Cô đợi trong giây lát, rồi với người vào trong, khởi động xe, nhưng chưa ngồi vào ngay. Cô muốn chờ một lát để cho máy lạnh hoạt động trước đã. Trong lúc chờ đợi “cái lò nướng” trở lại đúng vị trí là một chiếc ô tô, cô lại nghĩ tới Andrea Strickland và nghĩ tới người chú dượng của cô gái ấy. Tại sao trên đời lại tồn tại loại người có thế đón một cô gái nhỏ mà cha mẹ vừa mới mất trong một tai nạn xe khủng khiếp về nuôi, và cho đó là cơ hội để thỏa mãn những ham muốn tình dục bệnh hoạn và điên rồ của hắn? Đó là một lời nhắc nhở nữa về việc những kẻ tâm thần trên thế giới này không phải lúc nào cũng rập khuôn theo hình mẫu những con quái vật thích hành hạ, tra tấn lũ mèo khi còn nhỏ và sống một mình trong cô độc.
Khi chiếc xe ô tô đã hạ nhiệt, Tracy trườn vào sau tay lái. Cô đưa xe rời khỏi bãi đỗ và đi vào đại lộ North Waterman, một đại lộ với bốn làn đường, thi thoảng điểm vài cây cọ, nằm ngay phía góc phố chỗ Trung tâm y tế St. Bemardine. Tracy đã phát hiện ra rằng ở hầu hết các nơi ở Nam California, các con đường là một sự pha trộn hết sức kì cục giữa những căn nhà của tư nhân, những tòa nhà căn hộ, những dãy cửa hàng một tầng và những tòa nhà cho thuê, như thể các nhà quy hoạch đô thị chẳng để tâm chút nào tới chuyện phân chia chúng thành từng vùng riêng biệt.
Cô đỗ xe trên đường và tiến gần tới một tòa nhà hai tầng trát xi măng màu xám như cát. Văn phòng tư vấn của Alan Townsend nằm trên tầng hai, được dẫn lên bởi một cái cầu thang đặt ngoài trời. Phía bên trong nhìn giống như một căn hộ hai phòng ngủ nhỏ được chuyển đổi chức năng thành văn phòng làm việc, trong đó căn phòng ở ngoài được sử dụng để làm khu vực chờ. Nội thất trang trí bên trong đã quá lỗi thời - thảm trải sàn bằng lông bờm xờm, đồ nội thất bằng vải và gỗ công nghiệp, và những bức tranh trừu tượng không rõ hình thù. Phía sau quầy lễ tân không người ngồi là hai cánh cửa đang khép với bảng tên ở trên. Bảng tên ở cánh cửa bên phải để trống. Còn bảng tên ở cánh cửa bên trái có ghi “A. Townsend”.
Tracy đập vào cái chuông trên quầy lễ tân. Nó kêu lên một tiếng chẳng êm tai chút nào. Vài giây sau, cánh cửa bên trái mở ra và một người đàn ông trung niên với mái tóc màu bạch kim bước ra. Ông ta mặc quần đùi vải thô, áo phông và đi dép xỏ ngón. Nước da của ông ta nhìn giống màu cam nhiều hơn là màu nâu đồng. Trông ông ta giống hệt nam diễn viên George Hamilton. Chào mừng đến với LA.
“Có phải bác sĩ Townsend không ạ?” Tracy nói.
Townsend chìa tay ra và mỉm cười với một nụ cười sáng chói đến nỗi Tracy suýt chút nữa phải đeo lại kính râm lên mắt. “Chắc cô là điều tra viên từ Seattle tới. Mời vào trong.” Ông ta quay lưng lại và đi vào trong phòng làm việc. “Bình thường tôi nghỉ làm vào các ngày thứ Sáu cho nên hôm nay không có lễ tân trực. Cũng xin cô thứ lỗi nếu trông tôi có chút luộm thuộm.”
“Rất xin lỗi vì đã làm phiền ông vào ngày nghỉ.”
“Không phiền gì cả.” Ông ta nói. “Tôi hiểu tình hình của cô mà. Thêm nữa, tôi đã có trọn một ngày xả hơi rồi. Tôi đi lướt ván vào các buổi sáng thứ Sáu rồi ngồi thiền một chút. Khi đứng dưới cái nóng, tôi đã nghĩ tôi sẽ làm một vài việc gì đó trong phòng điều hòa. Tôi sẽ đi chơi tennis vào buổi tối.”
“Ông đi lướt ván ở quanh đây sao?”
“Biển ở cách chỗ này khoảng một tiếng rưỡi đi xe. Đó là lý do tôi chỉ đi lướt ván một tuần một lần và tôi phải đi từ sáng sớm. Vui lắm.”
“Có vẻ như đó là một ngày rất vui vẻ.”
“Mỗi ngày chúng ta sống đều là một ngày vui.” Ông ta đáp.
Người đàn ông này khiến cho các diễn viên trong bộ Phim Sesame Street có vẻ trở nên hết sức buồn thảm. Bức tường phía sau của căn phòng là một cái cửa sổ nhìn về hướng đông, thẳng hướng đồi San Bernardino. Bức tường ở phía tay trái của Tracy là bức tường vinh danh bản thân của vị bác sĩ, với các bằng cấp, giấy khen được đóng khung, một vài cái trong số đó bị những chiếc lá từ mấy chậu dương xỉ, xương rồng, cọ và lan ý mà ông ta sưu tầm che đi mất một phần. Chiếc bàn làm việc của Townsend nằm khiêm nhường bên dưới những tấm bằng. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế tựa bằng đa, để Tracy ngồi trên chiếc ghế sofa dành cho hai người. Bức tường bên cạnh cái cửa sổ có treo một đoạn trích dẫn được đóng khung.
NGƯỜI NHÌN TỪ BÊN NGOÀI, MỘNG MƠ. NGƯỜI NHÌN TỪ BÊN TRONG, THỨC TỈNH.
CARL JUNG
Căn phòng ngập mùi hương trầm.
Tracy đưa cho Townsend tờ giấy đã được Patricia Orr kí tên đồng ý cho cô tiếp cận bản ghi âm của Andrea. Tờ giấy này hợp lệ bởi Andrea vẫn chỉ là một cô bé khi tới văn phòng này để được tư vấn.
“Tôi rất mong được lắng nghe những ấn tượng của ông về cô gái đó.”
“Trước hết, tôi có thể nói với cô rằng tôi không ngạc nhiên khi nghe tin Andrea qua đời vì một tai nạn trên núi Rainier.”
Rõ ràng là Townsend vẫn chưa biết chuyện Andrea không phải chết trên núi Rainier. Tracy quyết định tìm hiểu sâu hơn suy nghĩ của ông ta. “Ông không ngạc nhiên ư? Tại sao?”
“Bởi vì tôi cảm thấy không thuyết phục khi họ kết luận đó là tai nạn.”
“Ông nghĩ người chồng đã hạ sát cô ấy sao?”
“Không. Tôi vẫn bảo lưu quan điểm là Andrea đã tự kết liễu đời mình.”
“Tại sao ông lại có kết luận đó?”
“Thông qua ba năm điều trị. Đó sẽ là một hành động đầy phô trương mà tôi tin Andrea sẽ lựa chọn để rời khỏi thế giới này một cách để thế giới biết cô ấy từng tồn tại trên cõi đời này.”
“Phô trương sao? Tôi có thể hiểu được từ lời kể của bà Orr rằng Andrea là một người hướng nội, cô ấy muốn giấu mình khỏi thế giới.”
“Đó là cơ chế đối phó của cô ấy.” Townsend nói. “Có thể nói đó là cách Andrea lựa chọn để trốn tránh những vấn đề của cô ấy, để cất giấu chúng vào sâu trong tủ kín. Nhưng đó không phải là con người thực sự của cô ấy.”
Tracy biết rất rõ cái trò giấu giếm đó. Cô đã từng bị ám ảnh với việc phải tìm cho ra kẻ đã sát hại Sarah, ám ảnh tới nỗi cuối cùng cô đã phải bỏ đi, ném hết đống tài liệu liên quan tới Sarah vào tủ quần áo trong phòng ngủ và khóa lại, đúng theo nghĩa đen, để cô có thể tiếp tục sống bình thường. “Ông có thể miêu tả một chút về cô ấy được chứ?”
“Trước vụ tai nạn cướp đi mạng sống của cha mẹ và trước khi bị lạm dụng dưới bàn tay của người chú, cô bé đó được các giáo viên ở trường và các tư vấn viên miêu tả là một cô gái nhỏ thông minh, dễ thích nghi và khá láu cá.”
“Láu cá sao?”
“Cô ấy thích bày trò trêu chọc bạn bè cùng lớp và những bạn khác.”
“Đó là những trò đùa gì vậy?”
“Ồ, cô ấy giấu đồ ăn trưa của ai đó, cuộn ga giường của bạn trong những bữa tiệc ngủ, đục lỗ hộp sữa giấy, thế là khi bạn cùng lớp uống hộp sữa, sữa sẽ rỉ ra, tràn xuống cằm.”
Em gái của Tracy cũng từng láu cá y như thế. Sarah thích trốn đi và nhảy xổ ra hù dọa Tracy và những người bạn của cô khi họ không đề phòng. “Những trò đùa vô hại.” Cô nói.
“Hầu hết là như thế.”
“Có lúc nào đó những trò đùa này không còn vô hại nữa hay sao?”
Townsend gật đầu. “Có một số, rõ ràng là thế.”
“Ông có thể lấy ví dụ được không?”
“Cô ấy cắt bỏ van lốp xe đạp của một người bạn cùng lớp mà cô ấy tin rằng đã cư xử không tốt với một người bạn của cô ấy.”
Tracy suy ngẫm một lát. “Có lẽ nào sự ác ý trong những trò đùa của cô ấy ngày một tăng lên?”
“Có chứ.” Townsend đáp. “Tôi tin là có.”
“Ông có chẩn đoán gì về tình trạng của Andrea không?”
“Ừm, Andrea rời đi khi cô ấy mười tám tuổi, cho nên tôi cũng không thể nói chắc chắn điều gì.”
“Ông không biết sao?”
“Tôi tin là Andrea rất dễ mắc phải hội chứng rối loạn phân li gây ra bởi những tổn thương tâm lý và việc bị lạm dụng.”
“Hội chứng rối loạn phân li mà ông nói nghĩa là gì?”
“Nó có thể do rất nhiều thứ khác nhau gây nên. Trong trường hợp của Andrea, nó thể hiện rõ ràng nhất ở sự trốn tránh một cách không tự nguyện và thiếu lành mạnh của cô ấy khỏi thực tại.”
“Cô ấy đọc sách quá nhiều?”
“Chính xác là thế. Đó là một cơ chế được sử dụng để kiểm soát những kí ức đau thương. Cô ấy hoặc là sẽ đánh mất những kí ức đó không thể nào gợi nhớ được những gì cô ấy đã làm, những người đã từng xuất hiện trong cuộc đời cô ấy hoặc cô ấy có thể khoác lên mình những nhân dạng khác nhau.”
“Ý ông là nhân cách phân liệt?”
“Ở một khía cạnh nào đó. Người mắc chứng này sẽ thay đổi nhân dạng của mình sang một nhân dạng khác. Một vài người mắc chứng rối loạn đa nhân cách nói rằng họ cảm thấy có sự hiện diện của một người khác đang nói chuyện và sinh sống trong đầu họ, và họ không thể kiểm soát được những gì mà người đó nói hay làm.”
“Ông nói là cô ấy “dễ bị”. Ông không biết liệu Andrea có mắc phải hội chứng rối loạn phân li hay không, phải vậy không?”
“Tôi không dám chắc chắn. Thông thường bệnh phát triển mạnh nhất vào những năm đầu của tuổi đôi mươi. Nhưng lúc đó cô ấy đã không còn tới tư vấn nữa rồi.”
“Bệnh sẽ biểu hiện như thế nào, nếu giả sử cô ấy mắc bệnh đó thật?”
“Có vô vàn biểu hiện khác nhau. Có người sẽ có tâm trạng bất ổn và có những hành động bốc đồng.”
“Kết hôn chỉ sau vài tuần quen biết có được coi là hành động bốc đồng không?”
“Có thể.”
“Những người này có khả năng gây ra những hành động có tính nguy hiểm không?”
“Cố gắng tự tử không phải là chuyện hiếm gặp.”
“Ý tôi là những hành động gây nguy hiểm cho người khác cơ?”
“Chắc chắn rồi.”
“Điều gì có thể khiêu khích họ?”
“Một lần nữa, có rất nhiều thứ có thể. Một sự kiện khác khiến họ bị tổn thương chẳng hạn bị lạm dụng hoặc cảm giác bị bỏ rơi, bị phản bội hoặc cũng có thế chỉ là cảm giác tuyệt vọng.”
Tracy không cần Townsend giải thích nhiều hơn, bởi trong số những mục đó, Andrea Strickland đã hội tụ đủ cả bốn.
“Ông có biết chuyện Andrea có một tài khoản tín thác không hả bác sĩ?”
“Andrea có nhắc tới chuyện đó.” Ông ta trả lời rồi vẻ mặt có chút ngờ ngợ. “Hoặc cũng có thể người dì của cô ấy đã vô tình nói ra điều gì đó.” Ông ta tạm dừng. Rồi ông ta nói tiếp. “Tôi tin là người dì đã nói với tôi. Bà ấy nói bà ấy thấy biết ơn khi chí ít Andrea sẽ luôn được chăm sóc đầy đủ về mặt tài chính. Nói thật lòng, tôi cũng không dám chắc liệu đó có phải là chuyện tốt không nữa.”
“Tại sao ông lại nghĩ như vậy?”
“Giả sử tình trạng tâm thần của Andrea trong tương lai không được ổn định, tài khoản tín thác sẽ dễ khiến cho cô ấy không nghĩ tới chuyện làm việc, và có khả năng sa ngã vào một lối sống thiếu lành mạnh.”
“Nghiện ma túy chẳng hạn?” Tracy nói. Cô đang nhớ về cửa hàng cần sa, Genesis.
“Rất có khả năng.”
“Và tài khoản tín thác cũng khiến cô ấy trở nên nhạy cảm với những người có mưu đồ lợi dụng cô ấy, có thể là như thế đúng không?”
“Đúng thế.” Ông bác sĩ đáp. “Có thể là như vậy. Nếu họ biết đến sự tồn tại của nó, chắc chắn rồi.
“Chắc chắn là vậy.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt