Lính Tây Nam epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 18: Mưa
úc bấy giờ mùa mưa ác liệt. Cứ chiều mới tầm 2h đã mưa. Mà mưa ở đó sao gió mưa dữ dội. Trong rừng sâu mưa dai dẳng, mưa lê thê… Nhưng vùng cận biển Hồ mưa ác ôn mờ mịt. Ban chỉ huy C1 cách cái nhà tiểu đội cối 60 có khoảng 15m mà trong chiều mưa không nhìn thấy nhau. Gió xiên ghê lắm. Bọn tôi đan phên thốt nốt che hướng mưa hắt. Chỗ C1 đóng chốt cách biển Hồ có chừng 3km. Ruộng lúa thấp xuống dần đến rừng ngập mép nước hướng đông. Tầm mắt mênh mông không bị che khuất. Mây cứ thế vần vũ dâng lên tím sẫm ban chiều.
Có những cơn mưa trống chân toang hoác. Chen vào cái khoảng chân trống trắng mờ ấy là những ánh chớp cuối ngày, gọi theo tiếng sấm đục trầm rền rền. Nằm võng sâu trong chân cột nhà hoang, nghe từng tấm nước li ti hắt lạnh khuôn mặt, thấy buồn tê tái. Những đêm sâu gác, nghe tiếng bịch bịch, tưởng địch luồn thảy lựu đạn, kéo khóa an toàn. Đến khi nghe mùi khóm chín thoảng trong hơi mưa, biết rằng đó chỉ là tiếng trái thốt nốt rụng ban đêm...
Nhưng cũng có những chiều vui. Ấy là khi thằng Đặc không biết mót đâu ra một quả bóng đá đã bục múi da, chớm lòi vét-xi nhưng vẫn đá tốt. Cứ ngớt mưa là bọn tôi ra ruộng đá bóng ma. Lấy đâu ra đủ người mà chia đội đá gôn. Đại đội 1 lúc đó may còn độ 3 chục đứa cả cán bộ. Những thằng khỏe muốn đá bóng còn chừng gần chục. Khu ruộng sân bóng bao quanh bới các khóm tre, có các dây mướp đắng (khổ qua) trái đã chín màu cam. Đôi khi bọn tôi quần nhau đến tối mịt, sũng nước, bê bết bùn mới chịu về ăn cơm.
Bò dân đi nhiều, càn dây điện thoại đứt liên tục. Tôi với anh Ky ngày nào cũng phải vài lượt đi đi lại lại nối dây trong mưa sũng nước. Anh em trong trung đội sốt rét nhiều. Về lĩnh gạo đóng cho C phối thuộc, nhìn mặt mấy thằng truyền đạt và 2w nằm võng rên hừ hừ, teo tóp xanh lè phát kinh! Thế quái nào mà tôi lại không bị sao, trong khi lão Ky khỏe như trâu cũng sốt. Anh Nhương gọi tôi về học bổ sung mật danh vô tuyến, chuẩn bị thay thế khi tác chiến.
Bọn địch bấy giờ cũng đói, cứ đêm đêm mò vào các phum, sục vào các nhà dân kiếm ăn. Mấy đêm trước, tiếng chó sủa rộ lên trong các phum xung quanh. Dân ngay sát tiểu đoàn bộ họ báo có mấy thằng địch, trong đó có một thằng cưỡi ngựa, cứ đêm là sục vào vét thóc. Bọn nó còn ngang nhiên đốt đuốc, không coi ai ra gì. Ngay từ buổi chiều mấy hôm trước, tiểu đoàn đã triển khai mấy tổ phục kích ngoài rìa phum nhưng vẫn chưa thấy chúng nó vào.
Một hôm vừa ăn chiều xong, trời còn sáng bỗng nghe tiếng nổ cái ùng ngay rất gần. Giật mình, anh Nhương bảo có thằng nào ném cá bị nổ trên bờ toi rồi. Nhưng không phải! Lát sau nghe xôn xao bên nhà BCH, lại thấy mấy thằng liên lạc cắp đèn pin chạy theo tham mưu với ông Thào ra bờ suối nên bọn tôi chạy ra theo. Bên bờ suối bên kia là một đám xác địch không toàn thây. Lính ta lội qua thu súng nhưng hầu như cũng chẳng còn khẩu nào nguyên vẹn, bị cong queo vỡ báng gần hết. Lại còn phải lấy que gợt gợt đi những thứ dính vào rồi mang xuống suối rửa. Hôm sau, trưởng phum huy động bà con ra suối, đào một hố lớn rồi gom tất cả những gì còn lại quy tập vào một hố chôn chung.
Anh Nghĩa B phó vận tải kể rằng tổ phục vừa ra đến nơi, bố trí xong đội hình thì địch vào. Bảy tên địch nghênh ngang xếp hàng một đi trên đường. Qua suối sát phum, chúng nó dừng lại kỳ cọ chân cẳng rồi chụm lại hội ý. Gom quá! Chọn đúng thời điểm đó, anh Nghĩa siết cò khẩu
B.41. Quả đạn chạm nổ quét bờ suối thoải, hất ngược lên. Sau tiếng nổ là sự im lặng hoàn toàn. Bảy tên Pốt chết tại trận. Hôm sau nữa, còn duy nhất một thằng đi sau sống sót, mang súng ra hàng nốt.
Anh Nghĩa được đi báo cáo thành tích trên Quân đoàn rồi được thưởng phép. Mãi anh ấy chẳng vào đơn vị. Thời gian sau có một lá thư anh ấy viết vào cho chỉ huy đơn vị. Trong thư anh ấy viết đại ý rằng do hoàn cảnh gia đình em khó khăn nên em xin phép không vào nữa. Mong các anh trong BCH tiểu đoàn thông cảm. Phần em thì hiệu suất diệt địch của em lớn. Em đã diệt đủ suất địch của em rồi. Chúc các anh em trong đơn vị mạnh khỏe, chiến đấu tốt, hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Cái chuyện “diệt đủ suất địch” là do anh Thào nói vui với trung đội vận tải khi uống trà. Nhưng anh Nghĩa người dân tộc Thái vốn thật thà, tưởng thật nên viết thế.
Anh Nghĩa, Bạch Đại Nghĩa, cùng đoàn lính 77 quê miền núi Thường Xuân, Thanh Hóa như anh Ky, Toàn cồ, Trung khói… Đoàn lính Thanh Hóa năm 77 và đoàn Nghệ Tĩnh năm 78 là hai đoàn có kỷ luật và chất lượng khá nhất trong các đoàn lính bổ sung vào tiểu đoàn 4. Đầu năm vừa rồi chúng tôi có dịp đi qua Bá Thước, khá gần Thường Xuân, nhưng tiếc là không lên thăm các anh ấy được.
Sau trận phục kích kinh hồn đó, suốt một dải từ Ponley lên đến K’ra Ko, địch nín im thin thít. Dân thì nể bọn tôi một vành. Nhưng do thấy mấy thằng địch đã tiêu đó nó dám vào sát tiểu đoàn bộ quá nên anh Thào đốc gác liên tục. Ở lẫn với dân ban ngày thì khoái nhưng đêm khá căng thẳng. Thông tin, vận tải, trinh sát, thậm chí bậu xậu tham mưu tiểu đoàn đều phải gác đêm cẩn mật. Thành ra được về D bộ chẳng sung sướng gì. Ca tôi gác toàn ngồi dựa cầu thang ngáp vặt. Thấy lóe đèn pin hướng thang nhà tiểu đoàn, biết ông Thào đi kiểm tra mới lò dò mò ra hố gác.
Chính quyền phum sóc do tổ công tác dân vận ta chỉ định bắt đầu hoạt động. Ông trưởng phum hằng ngày vẫn đánh xe bò vào rừng đốn gỗ hay ra ruộng làm cỏ lúa. Thỉnh thoảng tạt qua tiểu đoàn bộ báo cáo tình hình, đem cho BCH mấy ống thốt nốt chua. Lão này cứ xách ống đi qua nhà thông tin là chúng tôi ra ăn chặn của chỉ huy sở. Nước thốt nốt chua uống lâu thành ghiền. Chiều tà, dân họ trèo cây treo ống. Sáng leo lên lấy nước thốt nốt về đổ chảo nấu đường hoặc mang ra chợ Ponley đổi những thứ khác. Chịu khó dậy sớm ra đứng chẹn đường đi chợ, xin mỗi người một vài ca lồn trâu (ca inox quân dụng) là bí tỉ ô s’vai chăn ti cả ngày.
Lính xin nhiều quá thì dân họ không đi đường lớn nữa mà gánh ống cắt ruộng ra chợ. Bọn tôi thèm nên canh lúc đêm gần sáng, áng chừng sắp đầy ống thì trèo cây uống trộm. Để chống lại sự thất thoát này, dân họ treo ống xong liền tháo luôn đoạn thang tre buộc dưới cùng đi. Sáng khi đi lấy nước, họ vác cái thang thửa đến từng cây lấy nước. Nhìn cũng thấy tức mà không làm gì được. Lịch sử tiểu đoàn 4 chống Pôn Pốt song hành với lịch sử giành nước thốt nốt với dân, ít nhất là trong giai đoạn này.
Anh Nhương đi chợ say le bè, lôi đâu về trung đội một thằng bé con 9 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Thằng này khá trắng trẻo tên gọi là Sen hay Sên gì đó. Nó ăn ngủ cùng chúng tôi luôn. Hàng ngày nó đi hái rau càng cua ở các khu đất ẩm về cho bọn tôi. Rau này ăn sống vị he he mát, chấm nước thịt hộp sốt cũng đỡ. Buổi trưa, nó ngồi nặn trứng cá cho lão Nhương đang nằm thiu thiu. Cái vỏ radio bán dẫn màu mận tím của lão Nhương trắng kịt các nhân trứng cá nó nặn ra bôi vào, trông ghê cả người. Cứ chừng 8h sáng là chúng tôi được nghe các bài hát Việt nam đương đại được giới thiệu bằng tiếng Campuchia từ cái đài này.
Mà toàn các bài hát hay: Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh; Tình ca của Đất và Nước; Người đi xây hồ Kẻ Gỗ; Những cô gái đồng bằng sông Cửu long; Vàm cỏ đông…vv…Mọi người bảo đó là đài tâm lý chiến của Pôn Pốt phát từ Thái Lan. Nhưng mặc mẹ, hay thì cứ mở chứ tiếng nó thì biết cái gì? “…Xôm oòng chơng…lục nẹ, còm san bót chằm riêng miêng chăm no chiềng thà….” gì gì đó. Chúng tôi nói nhái theo là đến buổi phát thanh: “ đang nằm chung, bắt nằm riêng… chẳng tha …” rồi, mở đài đi anh.
Buổi trưa 12h30 thì có chương trình dạy bài hát của đài PT thành phố Hồ Chí Minh. Đài này thường dạy các bài ca Liên Xô cũ từ đời tám hoánh và các “ca khúc chính trị” mới: Ánh đèn bên song, Hoàng hôn trên nông trường, Cô đi nuôi dạy trẻ, Em ở nông trường, em ra thành phố…Nhưng thú nhất là 8h sáng Chủ Nhật hàng tuần có chương trình nhạc nhẹ quốc tế. Tôi dán tai vào cái đài những sáng hôm đó, quên hết sự đời. Như là đang được trở về nhà, sống đời bình thường. Như là sáng Chủ nhật đạp xe trên phố vui. Dẫu phố vui của chúng tôi thời bao cấp lúc đó cũng đang đói. Trước khi đi bộ đội, tiêu chuẩn học sinh trung học như tôi nhà nước cấp cho 17 kg lương thực cả gạo lẫn mỳ sợi trong sổ.
Đấy là còn được ưu tiên vì đang tuổi lớn, là tương lai đất nước! Chứ còn bác sỹ giáo viên, loại “thượng tầng kiến trúc” như bố mẹ tôi mỗi tháng có 13 ký chẵn. Vào lính chiến tôi mới được ăn gạo không, còn lúc huấn luyện vẫn phải ăn kèm ngô, bo bo rát mồm. Âm nhạc và ca khúc bao giờ cũng đưa ta vào một thế giới khác, không buồn bã, lạnh lùng và lắm muỗi như cái mùa mưa chó chết này!
Buổi tối hôm chính quyền phum ra mắt, dân tổ chức múa lăm thôn. Trên khoảng đất rộng giữa phum, từ chập tối, tiếng trống đã vang lên bập bùng. Rìa sân, ba chú nhỏ xếp bằng tròn trên nền đất ngồi vỗ trống. Sau lưng bọn nó là cái giá tre móc đầy các ống thốt nốt chua. Những chiếc trống dài chừng 40 cm, tiện hơi thắt ở đoạn giữa. Một đầu bịt da trăn, một đầu hở để có thể xòe bàn tay bịt hơi vỗ, điều chỉnh sắc độ. Tiếng trống lúc đầu còn rời rạc, nhưng càng về sau càng thôi thúc. Nào! Hai bước tiến, một bước lùi lại. Thế! Đúng rồi…!
Các cháu nhỏ hồn nhiên nhất, mình trần đen sạm, xương sườn phơi ra dưới ánh lửa, nhập vòng bằng những bước linh hoạt đầy nhạc cảm. Cứ như thể chúng nó đã biết múa từ trong bụng mẹ. Ngập ngừng đôi chút, các chị, các em cũng bắt đầu bước vào. Những bước vũ thật uyển chuyển, những cử động thật nhịp nhàng. Dân bạn lành và hồn hậu trong điệu vũ đầy bản sắc. Lúa chưa chín nên nhiều nhà đói. Có khi bữa chiều phải ăn cháo rau. Có nhà nướng trái thốt nốt, nạo bột vàng ra trộn với bột gạo (gạo do ban cứu đói sư đoàn 9 cấp) làm bánh qua bữa. Tuy vậy nghe tiếng trống chạ tình tinh là ngứa ngáy ngồi nhà không yên.
Trong cái đám đang múa kia có thể có những người đã từng bắn vào tụi tôi. Nhưng bây giờ thì thôi, quên hết! Qua Monkhi monkhi lại đến Oh svai chănti, Ọp or xato, Sari kakeo, Soong êm khiêuchây, M’hong…Tụi trẻ con dạy bộ đội Việt Nam hát và vỗ trống. “Mon khi mon khi choáng vạ ly rom xen xà bai” thì chúng tôi nhái thành “Mon tia mon tia phức muôi ly ót che savưng” (Gà vịt gà vịt, uống một ly không khi nào say). Các cô gái cười ngặt nghẽo: Àh ơi…Alabo dzô…! (…Đồ phải gió này!)
Càng về khuya tiết tấu càng gấp gáp. Tiếng trống tan trong ánh lửa, trở thành một chất men thôi thúc xóa nhòa mọi khoảng cách. Ai mệt lại ra ừng ực ngụm nước thốt nốt chua cho tăng độ phê. Dù chỉ hát chay trống chay, không có đàn thuyền hay tăng âm, nhưng sóng sánh, đắm cuốn dập dờn. Lính Việt cũng đã vào vòng từ lúc nào. Ông trưởng phum ngồi vỗ trống thay cho mấy cháu, nhe răng cười trắng lóa. Nghe đồn lão này phải chăm sóc cho đàn bà toàn phum nên người cứ quắt lại, chỉ dòm thấy mỗi đôi mắt. Cả phum Chayrum phần lớn là gái góa (mêmai), gia đình đã tan nát hay thất lạc trong chiến tranh.
Nhưng trong đêm múa samakhi ấy, khổ đau đói khát dường như không tồn tại. Những gương mặt thoắt sáng thoắt tối giấu trong ánh lửa. Những cánh tay trần uốn cong, những cái lắc hông mềm mại, những đụng chạm cố tình…Khi ngẩng mặt, lúc cúi đầu nhè nhẹ, gái góa nói bằng mắt, liếc trong tiết tấu. Phút phiêu thăng ấy thì mêmai côn bây còn nguy hiểm hơn cả gái mười tám.
Mấy hôm sau, lão trưởng phum tạt vào chỗ chúng tôi cho nước thốt nốt. Hắn tinh quái, nhại tiếng Campuchia nửa mùa của anh Ky, bảo rằng sau này nhân khẩu trong phum tăng, nếu cái chia chuôn Cam pu chia tui tui nào so so thì bắt bộ đội Việt nam nuôi. Còn kh’mau kh’mau thì lão ấy nhận nuôi rồi cười hô hố. Anh Ky đẹp trai tính hiền, chỉ ngồi cười trừ. Thực tình chúng tôi quý thằng cha này, cũng như hòa đồng với dân các phum trong địa bàn. Cái tình cảm yêu mến rất tự nhiên, không cần theo những điều hướng dẫn cứng nhắc của ban Dân vận.
Mùa mưa năm 1979, đơn vị chúng tôi chủ yếu hoạt động quanh khu vực thị trấn Pon ley này. Sau một mùa khô ác liệt, hành quân dài đằng đẵng, đây là thời gian chùng lại. Địch tan rã chưa hồi phục hoạt động được. Mưa ngăn trở các hoạt động tác chiến. Thỉnh thoảng có lệnh đi truy quét nhưng nhiều cũng chỉ mang 3 ngày gạo. Và cũng chỉ tiểu đoàn thiếu đi, còn C4 hỏa lực không đi, thường ở lại thị trấn cùng sở chỉ huy nhẹ.
Những lần hành quân như thế, chúng tôi chui rúc vào rừng ven tay trái lộ 5, đoạn giữa Pon ley và thị trấn Kra ko. Rừng vùng ven biển Hồ cây dày nhưng toàn cây nhỏ. Có những nơi cây bé quá, nghỉ đêm không mắc võng được, phải trải nilon nằm đất. Cây dày nên có người rẽ đi là để lại dấu vết ngay. Khi gặp những lối đi như thế là chúng tôi nằm lại đón lõng. Đêm phục thì tỉnh gác, nhưng buổi trưa thì mắt như có bọ ngủ chui vào. Một lần phục địch, đang nằm ngủ trưa thì có hai thằng Pốt cắt ngang xộc vào giữa đội hình C1. Thằng Dụ Hải Hưng đang mơ màng chợt tỉnh ra, lăn xuống võng chụp khẩu RPD. Nhưng trước mũi khẩu trung liên là võng thằng Tám khỏe, lúc này vẫn đang khò khò nên vướng, nó không bắn được.
Hai thằng Pốt kia cũng giật mình, quay ngoắt bỏ chạy luôn, không kịp tháo súng khỏi vai. Thấy tiếng la ú ớ, chúng tôi choàng dậy. Nghe nó thuật lại thì ngẩn ra nhìn nhau. Không bên nào nổ được một phát súng. Nói thì lâu nhưng tất cả chỉ xảy ra trong chục giây. Anh Chính C trưởng cũng đang ngủ lịm, khi dậy mới nghe thủng chuyện. Chính tréc trợn mắt, bảo bọn tôi cấm báo tiểu đoàn, nếu không muốn nằm đây dầm mưa thêm ba ngày nữa. Tất nhiên là chúng tôi tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Giấc ngủ trưa mùa mưa thường nặng và rất sâu. Những đứa bị giấc ngủ trưa nhấn chìm, không cưỡng lại được, vừa thoáng thấy đang nói đã phèo nước dãi trên võng mà chưa sốt lần nào thì coi chừng, chuẩn bị sốt rét ác tính.
Điều nhớ nữa là ở khu rừng này có nhiều cây gì thấy trái lớn như lựu đạn. Trái nó bóng loáng màu vàng xanh trông hấp dẫn. Lão Ky dừng lại chọc, đưa tôi một trái, bảo mày biết quả gì không? Tôi nếm thử nhăn mặt, bảo quả măng cụt dại làm anh ấy cười ngất. Lần đầu tiên biết đến quả bứa chín chua ngọt trong cái khu rừng còi này. Ăn bứa cũng dễ gây sốt, ăn dâu da đất cũng dễ gây sốt, ăn măng cũng hại máu…Chúng tôi biết ăn gì trong cái mùa mưa sốt rét này? Ngày nào cũng mưa, triền miên xối xả. Buổi sáng trời còn loe nắng, nhưng độ hai, ba giờ chiều là mây đen kéo kín chân trời. Gió vùng trống như ngựa lồng cuốn theo những cơn mưa trắng trời trắng đất.
Tấm nilon lính chỉ khoác lên mình cho chiếu lệ và ngăn gió quất thôi chứ nhằm nhò gì! Áo quần hầu như lúc nào cũng ẩm ướt, lại trộn lẫn mồ hôi, bùn đất lúc hành quân tỏa ra cái mùi chua chua thật khó chịu. Quân nhu phát những tấm tăng QK7 có tám tai, màu xanh nõn chuối và mỏng dính. Gió giật một lúc là bung tai hoặc rách hết. Chúng tôi lấy dây điện thoại hoặc dây rừng buộc túm lại những góc đứt, chằng đụp vào vấu cây. Tăng thiếu hay rách quá, có khi phải nằm chung. Tức là hai đứa mắc võng cùng một chỗ, thằng trên thằng dưới như kiểu giường tầng của sinh viên nội trú. Một tấm tăng lành che chung. Còn tấm tăng rách kia buộc che hướng gió tạt. Cứ thế mưa rừng dạt dào lóc bóc qua đêm…
Ở phum Chùa tiểu đoàn, thằng Luân liên lạc của anh Sơn "big" một chút nữa thì thành liệt sỹ vì con trâu điên. Thằng này to vật, rất khoái súng đạn, đánh đấm. Sau khi thu kho súng địch trong Ăm leng thì nó biến thành cái kho súng di động luôn. Ngoài khẩu đại liên M-30 vác vai, trong bồng nó còn ém một khẩu ru lô 6 viên ổ quay. Một lần gần trưa, nghe tiếng súng lẻ ngoài cánh đồng, chúng tôi ngoảnh cổ nhìn ra. Thằng Luân, trong tay cầm khẩu ru lô, không hiểu sao đang bị một con trâu mộng đuổi theo sát lưng. Trên thân con trâu thấy máu loang từng đám. Nó đã bị thương, đang điên lên đuổi thằng Luân sát gót. Thằng này cũng khôn, cứ cái mũi con trâu hồng hộc gí gần sát lưng là nó lại đột ngột đổi hướng. Con trâu lại lỡ đà, khoảng cách lại giãn ra được một chút. Tranh thủ mỗi lần con trâu lấy lại hướng, nó lại vung khẩu ru lô lên vảy bọp đại một cái vào con trâu. Quá bằng gãi ghẻ cho nó! Nó càng điên lên vì mùi thuốc súng! Súng đã hết đạn, thằng này quăng luôn, cố chỉnh hướng chạy về nhà sàn tiểu đoàn.
Anh em chúng tôi xách súng chạy ào ra, thót tim theo từng bước chạy đuối dần của nó trên ruộng thụt. Người với trâu cứ luẩn quẩn chữ chi. Bốn năm nòng súng rê theo nhưng chưa dám bắn, sợ thằng Luân phải đạn. Cả người và vật đã đuối sức, vật vờ loạng choạng. Cuối cùng, gần về hướng chúng tôi thì hai mục tiêu cũng đã tách ra một khoảng. Bốn năm khẩu AK cùng nổ đồng loạt. Con trâu sựng lại, từ từ lật nghiêng kềnh ra. Mũi nó sùi bọt trắng xoá, đôi mắt trợn đỏ như hai miếng tiết. Còn thằng Luân chạy leo lên được vài bậc thang nhà sàn thì gục tại chỗ, ngất xỉu, lại lăn xuống đất. Chí đen sốc nó lên sàn. Quân y lập tức tiêm trợ lực, hô hấp nhân tạo mãi mới tỉnh. Sau vụ đó, thằng này ốm luôn mấy ngày liền. Ngủ mê, mồm cứ lảm nhảm như thằng dở người…
Tất nhiên con trâu chết thịt chia tất vì tội dám húc bộ đội. Thông tin gọi xuống các đại đội mỗi C làm một miếng. Thời gian này chẳng thấy thằng địch nào. Không có tác chiến đụng độ lớn nên không có “đồ cổ”, không có trâu bò, gà qué chết. Hơn nữa, bắt đầu có chính quyền bạn nên không kiếm ăn cải thiện khơi khơi được nữa. Gạo hụt nhiều, bây giờ không phát xuống trung đội, quân nhu tiểu đoàn quản lý luôn nên không có gì đổi rau, cá. Đến bữa thì lên anh nuôi lấy cơm. Đêm có tí đường thốt nốt lên xin Chí đen ít gạo nấu chè nói rát mồm may hắn cho nửa ca. Thực phẩm chỉ trông chờ quân nhu mang từ nước nhà sang. Chủ yếu là cá mắm đựng trong các bao dứa hôi rình. Cá khô quân nhu cũng quản lý nốt. Anh nuôi nó chặt cá ra thành từng miếng nhỏ nấu với me. Thường là con mắm mục tan ra khi nấu, thành thứ nước sền sệt nửa chua nửa mặn. Nhưng dưới các đại đội chúng nó vẫn trích gạo đổi cá tươi chén đều. Đôi khi thèm quá, tôi lội bộ xuống đại đội 1 xin bữa phủ phê rồi về.
Đội công tác quân đoàn xuống tiểu đoàn 4 “ba cùng” cũng ăn uống như lính chiến. Thỉnh thoảng lại có lệnh báo động hành quân chiến đấu, song đi đến một quãng rừng nào đó là có lệnh hạ đồ, kiểm tra quân tư trang xem những ai còn vàng giấu trong trận đuổi Tà Mốc hồi tháng 3 không tự giác đem nộp. Tổ công tác còn tháo từng viên đạn trong băng của những đứa trong diện nghi vấn, tung tung trên tay xem viên nặng viên nhẹ. Cũng lòi ra được một số trường hợp nhưng quân pháp chỉ thu mà không kỷ luật gì. Một số thằng tinh quái vẫn giấu được chút vốn còm do phân tán cho đồng hương đồng khói. Kiểm tra xong lại lộn về thị trấn như đi tác chiến thật. Vì những vụ kiểm tra này mà chúng tôi được nằm ở Ponley khá lâu.
Dân ở đây bị địch lùa, chủ yếu mới ở trong núi URăng ra, bắt đầu gây dựng một cuộc sống mới nên nghèo xơ xác. Đến công cụ lao động còn thiếu, gà heo cũng còn đang xin giống gây đàn nói gì đến chó. Tiểu đoàn thì cũng ăn chờ ở tạm, chưa đến thời xây cứ lâu dài nên cũng được chăng hay chớ. Đúng là thời kỳ “quá độ”. Ở cái bờ suối 7 thằng Pốt bị diệt hôm nọ, dân họ trồng một ruộng cà *** dê trái còn non. Thèm rau nên cứ sẩm sẩm tối là tôi lại mò ra đó hái trộm vài trái, chùi sơ xịa vào vạt áo rồi nhai sống rau ráu. Bấy giờ cũng chưa có rượu, không có khái niệm “đô tức sara” dân nấu, bởi gạo ăn còn không có lấy gì ra nấu rượu.
Rượu hiếm, thảng hoặc lắm mới có chuyến xe sư đoàn xuống có một vài bi đông do các anh cán bộ gửi tận bên nước mua sang. Cái thời của mùa khô trù phú đồng bằng, của những chai Napoléon sương mù đã xa lâu lắm rồi. Lính bây giờ thủy chung như nhất với nước thốt nốt chua. Cái mùi chua thủm, tê tê khi rút đám lá bịt miệng ống vẫn thoảng qua đâu đây. Những con ong say chết bồng bềnh trong đám bọt sầu men trắng đục. Một vài con khác khệnh khạng lê cái bụng đẫm nước trên thành ống khô, rũ cánh ươm ướm một lát mới biết là cần phải bay. Nhưng bốc lên ngoằn nghoèo quãng ngắn rồi bỗng rơi cái bộp đứ đừ trên đất. Thảo nào bọn sáo chỉ thích rình cạnh ống treo, thấy ong say là đớp. Ra là cái giống côn trùng siêng năng kia cũng thích nhậu thì trách gì những thằng lính buồn.
Nhiều đứa bị thương nhẹ, đi viện từ hồi đánh nhau biên giới bây giờ mới về đơn vị. Chúng nó kể chuyện bỏ viện, đi mánh mung, mang giấy cuốn thuốc, kim may, khóa kéo về Gò Dầu, về Sài Gòn bán. Rồi chuyện ăn nhậu, cà phê, chơi gái… Mà toàn dân tỉnh lẻ lau lách được mới giỏi lạ. Tôi cũng thèm được như chúng nó, mong dính thương phần mềm, như thằng Hiệp híp chẳng hạn. Bị thương nhẹ thôi, chứ đừng bị nặng, và nhất là đừng có hy sinh! Anh Bình bọ kể chuyện hồi đánh nhau ở cầu Prasaut cứ mỗi lần nghe cối tám cối sáu nó tong đề pa là anh Quyến khợp lại giơ tay phải lên khỏi hố cá nhân như xin phát biểu ý kiến để mong trúng mánh (anh ấy thuận tay trái). Quả cối nổ xong lại hạ tay xuống. Cối nó bắn dày nên anh ấy cứ thế đều đặn giơ lên hạ xuống liên tằng như tập thể dục.
Tôi hỏi tại sao không giơ chân cho nó to, dễ trúng thì anh ấy bảo nếu què chân, vỡ trận mày có chạy được không hả thằng ngu? Bây giờ địch không còn cối mà thụt nữa. Nhưng tôi vẫn ước tôi bị thương nhẹ, được đi viện, được nghỉ mấy tháng và sẽ trốn về nhà chơi cho đỡ nhớ. Mánh mung buôn bán như bọn nó thì tôi không có thớ, như anh Nhương bảo mày có mà buôn *** bán cho chó. Tôi chỉ muốn về nhà thôi, và trên đường về thì ghé qua Sài Gòn để uống một ly cà phê muộn màng, để có cái mà kể. Vì trong một lá thư trước, tôi đã trót viết cho bạn gái rằng đã từng được đi qua thành phố Sài Gòn. Cà phê Sài Gòn nhạt hoét và dở ẹc. Nhưng uống một ly thì có thể ngồi suốt tối nhâm nhi trà đá mà không ai đuổi. Là tôi cứ nói theo các anh lính cũ kể chuyện từng trải như thế. Đã trót dối láo rồi, thì đành phải dối láo cho trót.
Cuối tháng chín năm 79, trung đoàn tôi hoạt động ở khoảng giữa Kra Ko và Ponley. Tiểu đoàn 4 truy quét địch phía tây đường 5. Có khi sục vào sát chân sườn phía đông núi Tà Đạt nằm kẹp giữa đường 5 và đường sắt. Cũng giống như ta hồi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ - Kh’mer Đỏ cũng triển khai trồng trọt nương rẫy, giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ. Đơn vị càn rừng hôm ấy phát hiện trong hốc một cây dầu lớn, lửa đốt cho dầu ra còn đang cháy. Vậy là vùng rừng này có người ở. Chúng tôi lặng lẽ bám dần lên đến một khoảnh rừng thưa.
Một nương sắn rộng hiện ra, cây mới cao gần ngang tầm ngực. Hai mũi khép vào, chuẩn bị xung phong. Trong khi C1, C2 đang vận động đuổi theo toán địch hủi, la hét rầm trời (có cả phụ nữ chạy bán sới, sa rông áo xống te tua xơ mướp), tôi và bọn tiểu đoàn bộ thấy bên tay trái có một rẫy ngô đang ra bắp non, trồng lẫn với cà cạnh cái lán nhỏ. Bọn đi sau chúng tôi rẽ ngang ngay lập tức, xô đến lán kiếm đồ. Thấy hẫng hực một cái! Ngã sấp mặt, mồm vập vào rễ cây giập cả môi, tôi vẫn kịp ôm cái gốc cây đằng trước để khỏi bị tụt xuống.
Thằng Phụng với anh Ky chạy đến lôi lên. Một mũi chông tre xuyên rìa gót, chọc thẳng vào xương mắt cá rồi gãy gập tại đó. Chúng nó rút mũi chông gãy ra, rửa qua quấn băng chặt lại, nhưng chưa đến mức phải ga rô. Lúc ấy không thấy đau lắm, tại chỗ đó chỉ thấy nó giật giật tức tức một chút. Chống gậy vẫn đi được chứ không cần cáng. Định thần lại, nhìn xuống hố bây giờ mới thấy kinh. Toàn phân người nhoe nhoét quện lấy từng mũi chông tua tủa. May mà tôi đã bước sang bên kia thành hố, bám kịp cái gốc cây, chứ còn rơi hẳn xuống, chưa nói dính bao nhiêu mũi, chỉ cần dầm mình trong cái hố phân đấy cũng đủ ốm ba tháng. Lính Pốt nó dùng vũ khí sinh học tự nghiên cứu, tự sản xuất ghê quá!
Thằng Quỳnh “xe lôi” và thằng Thống truyền đạt võng tôi về phía sau. Tôi nhăn nhó mặc dù không thấy đau lắm. Đi được một quãng ngắn, chúng nó đặt phịch võng xuống bảo thôi cố mà tự đi đi ông nội, bọn tao mệt rồi! Nhiều đứa thấy có thương binh là tự nhận nhiệm vụ tải thương về hậu cứ, mặc dù cóc phải lính vận tải. Đi một thôi đường, ra đến đường bò lớn gần lộ 5, gặp xe bò của dân lộc cộc đi rẫy về, chúng nó tống tôi lên xe rồi theo đi luôn về cứ. Đến cứ Chùa tạm thời của tiểu đoàn ở gần thị trấn Ponley, hai đứa rẽ vào rồi gửi tôi theo xe bò về trạm phẫu K.23 của trung đoàn.
Lòng mừng khấp khởi từ khi trúng mánh. Nhưng khi còn lại một mình giữa đám dân tôi mới nhận ra tình thế của mình. Cả đoàn xe chừng hơn chục chiếc vẫn lọc cọc chậm rãi lăn bánh trên đường. Các lão nông dân bạn đen trũi, kẻ ngồi trên xe im lặng rít thuốc rê, người vác dao quắm lừ lừ đi bộ. Từ cứ tiểu đoàn đến trạm phẫu khoảng 1,2 km, hai bên cũng toàn rừng thưa. Nhớ lại chuyện thằng lính B3 đi xe đạp bị chém bay đầu mấy tháng trước trên đường ra Bâmnak. Tôi không dám nằm nữa mà ngồi nhỏm dậy trên xe. Nỗi sợ làm cảm giác đau dưới chân tan biến. Dưới gót, máu lại thấm qua lớp băng chảy nhều nhệu. Tôi mặc kệ, mải nhìn quanh quất kiếm cái gì phòng thân hoặc ước lượng đường chạy khi có biến. Mà làm gì có cái gì? Chân cẳng thế này chạy đi đâu?
Thấy tôi máu chảy nhiều và không chịu nằm, mấy người đàn ông đi bộ vác dao quắm xúm lại. Thôi lần này mình tong rồi! Lúc đó tôi choáng thực sự. Hoa hết cả mắt nhưng vẫn còn kịp thấy hai người quay lại chiếc xe cuối rút một cây tầm vông rồi trở lại. Một người tháo chiếc võng nilon đen đeo ở thắt lưng (đúng loại võng địch hay dùng) buộc vào cây tầm vông làm đòn khiêng. Họ đỡ tôi sang võng rồi rẽ cáng thẳng đến trạm phẫu. Khi nhìn thấy mấy thằng lính thông tin C20 trung đoàn bộ đi nối dây trên đường, tôi mới dám thở phào! Thì ra thấy tôi ngồi dậy, mặt thì tái mét, họ tưởng xe xóc làm tôi đau nên mới chuyển phương tiện cho êm. Đến nơi, giao tôi cho quân y xong, người đàn ông còn nhe răng cười với tôi rồi đi giặt máu dính vào cái võng đen. Một cái võng nilon hồi đó đổi được một chỉ vàng.
Thời gian nằm ở K.23 là khoảng nghỉ ngơi thật dễ chịu. Ở đây toàn những thằng bị thương nhẹ, bị sốt rét chưa đến mức phải chuyển lên quân y tuyến trên. Sau khi điều trị hơn chục ngày, vết thương của tôi đã dần khép miệng và có thể đi lại như bình thường. Ở chỗ mũi tre nó chọc vào giờ xuất hiện một cái lỗ thịt. Nghe kinh nghiệm nhiều thằng chúng nó xui, là lấy ruột pin thối hoặc xà phòng nhét vào thì vết thương nó lại loét miệng, sẽ được nằm lâu hơn hay chuyển về viện hậu phương. Nghe thì thích nhưng tôi không có gan làm như thế, sợ nhỡ sâu quảng thì nó cắt chân. Cái lỗ nó đã khô miệng, không dùng băng, để thoáng cho chóng đầy thì buổi trưa ngủ tự nhiên thấy buồn buồn choi chói. Nhìn ra thì trong lỗ có hàng chục con bọ gì đó đen đen, nhỏ hơn đầu tăm nó châu vào mút thịt. Cái lỗ trở nên sạch hồng. Từ đó cứ dán miếng gạc thưa vào trước khi ngủ cho nó chắc
Anh em đại đội phẫu có một cây guitar còn khá tốt. Đúng là tuyến sau có khác! Hồi còn đi học ở nhà, giống như nhiều chàng trai Hà Nội hay Sài Gòn khác, tôi cũng khoái tập guitar. Trình độ còi nhưng cũng đủ chơi những bản nhạc thịnh hành thời ấy ở mức phổ thông. Cũng có thể so hợp âm đệm theo nhiều bài hát, thỉnh thoảng máu lên còn chêm vào một đoạn list học mót…Tự nhiên xuất hiện một “nhạc công” sạch nước cản tại đơn vị nên lính chuyên môn ở K.23 rất khoái. Cứ sau bữa cơm chiều là chúng nó xúm lại, pha một ấm trà thật se lưỡi rồi hát linh tinh.
Hết nhạc Nga ra nhạc Trịnh. Sau nhạc trẻ lại lạng quạng bẻ sang nhạc “vàng”. Những bài hát truyền thống của quân ta như “Vì nhân dân quên mình”, “Tiến bước dưới quân kỳ” …chắc chỉ được hát chính thức khi hội họp. Còn những buổi sinh hoạt “văn hoá văn nghệ” như thế này thì nhạc “vàng” chiếm đa số. Mấy cha lính cũ thời trước 75 trên trung đoàn bộ là cả một kho tàng phong phú về thể loại nhạc này. Thằng em đệm cho anh bài “Xuân này con không về”, thằng em cho anh bài “Anh nằm xuống…” … “Thành phố buồn đi mày!”
Đôi khi mấy anh trợ lý chính trị bên ban 2 cũng sang bên phẫu chơi. Ngồi uống trà nghe lính tráng hát những bài như thế cũng chẳng nói năng gì. Thây kệ, hồn ai nấy giữ! Thế thì cứ hát! Cao trào nhất phải kể đến bài “Thư của lính”. Hai cái thìa nhôm được mang ra. “Nghệ sĩ” phụ trách bộ gõ kẹp đôi thìa giữa hai ngón tay, miết xuống mặt bàn. Tiếng phách giòn tan, hoạt như những bước claket điêu luyện. Ba bốn cái miệng gào lên: “Từ khi anh thôi học, và từ khi anh khoác áo t’râyzi…Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây…Uh oa ùh oà…”.
- Dừng lại! Chúng bây hát bài gì lạ thế các em? Ai sáng tác?
- Báo cáo anh! Bài “Tình thư của lính” của nhạc sỹ Xuân Hồng ạ!
- Ừ! Ngon heng! Ta sáng tác thì được! Đừng có hát tầm bậy mấy bài lá xa cành anh xa em! Nghe hông!
Thủ trưởng chính trị vừa đi khỏi, cuộc vui lại tiếp tục. Hai con dê cùng qua một chiếc cầu hẹp. Chẳng con nào chịu nhường con nào. Chúng húc nhau, cả hai đều lăn tòm xuống…Nhưng may mà: “Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua…”. Trường Sơn sớm nắng mưa chiều, anh đi nhớ chị Vân Kiều… ấy…to.
Sau đây là bài Tiếng đàn ta lư: “Đi chiến trường, mùa khô năm 71. Vào trong Vinh, mới biết cấp trên đưa mình sang Lào. Hành quân bằng xe hơi…Hú…!”. Cứ thế! Hầu như các bài hát của các nhạc sĩ đều bị biên tập lại. Chắc để cho vừa với kích cỡ tâm hồn giản dị và tếu táo của người lính. Chiến trường ác liệt và nhọc nhằn, có vẻ các món ăn tinh thần nhẹ và vui được tiêu hoá nhanh hơn.
Sau hơn một tháng nằm viện, tôi trở về đơn vị. Đấy là đã được anh em trạm phẫu ưu tiên nghỉ ngơi thêm một tuần. Tiểu đoàn 4, trong thời gian tôi nằm viện vẫn đứng chân gần thị trấn Ponley. Tôi vừa về được một hôm là có lệnh hành quân ngay. Cứ như là đơn vị chỉ chờ mỗi tôi là lên đường. Lại vào ga Bâmnak, nhưng lần này không theo lộ 28, cũng chẳng theo lộ không tên qua phum “rừng thị”. Nhằm thẳng hướng dãy núi Tà Đạt, đơn vị cắt rừng tiến bước. Dãy núi này điểm cao nhất chỉ khoảng 400m, còn toàn bình độ 200, 300 nên vượt qua nó chẳng khó khăn gì. Địa bàn hoạt động quen thuộc đây rồi. Qua phum Chùa, phum Th’may, những cái công sự nổi của chúng tôi mấy tháng trước sệ xuống do mưa, chỉ còn những đống đất.
Ván thành, kể cả các vách gỗ trên các nhà sàn trong phum đã biến đi đâu gần hết. Có thể là dân ngoài lộ 5 đánh xe bò vào lấy, cũng có thể là địch lấy. Những lốt xe bò rất mới lăn ngang lăn dọc ven rừng. Vào đến ga Bâmnak, nhìn thấy ngay cây cầu gỗ trên con lộ song song với đường sắt dã bị địch phá hủy hoàn toàn. Chúng nó đốt quãng giữa cho cháy sập xuống. Đại đội công binh 19 phải hì hụi mấy ngày liền mới làm xong một cái cầu tạm tại vị trí cũ. Cây cầu bây giờ đã được làm lại bằng bê tông, đúng vị trí cũ.
Trong khi khắc phục nối liền giao thông, đại đội công binh này đã phát hiện và gỡ được rất nhiều mìn. Ban Tác chiến phổ biến xuống các đơn vị loại mìn kiểu mới của địch tên gọi là K.58. Mìn này có vỏ cấu tạo bằng chất dẻo để chống máy dò mìn. Hình dạng giống như một hộp nhựa vá ruột xe đạp. Chỉ cần một lực rất nhẹ tác dụng lên bề mặt là mìn phát nổ. Hơi nổ sẽ tuốt đi bàn chân vô tình dẫm phải. Nếu ga rô tốt, cấp cứu kịp thời thì cũng coi như đi đứt một giò. Ý tưởng của kẻ phát minh ra loại mìn này rất thâm độc. Nó làm cho người lính không chết, nhưng đương nhiên bị loại khỏi vòng chiến đấu. Khi trở về hậu phương có thể sẽ gây hoang mang, chán nản cho cộng đồng. Xã hội sẽ phải gánh thêm cái gánh nặng vật chất lẫn tâm lý ấy… Chúng tôi đặt tên cho loại mìn này là mìn “xin một chân!”.
Bên tiểu đoàn 5 đã có hai trường hợp dính phải loại mìn này. Đã có tư tưởng ngại đi đầu vì sợ dính mìn. Các đại đội thì không có chuyện đó, chứ dưới các trung đội bắt đầu tị nạnh nhau về việc đi đầu đi cuối. Một hai lần được chỉ định đi trước thì không sao chứ đến lần thứ ba thể nào trung đội đó cũng thắc mắc thẳng thừng rằng tại sao đại đội cứ “gí” trung đội em thế? Biết là quân lệnh như sơn, nhưng dần dần cán bộ đại đội cũng phải sử dụng chính sách xoay vòng. Còn lính ta thằng đi sau cố đặt bàn chân vào vết chân thằng đi trước. “Sao y bản chính không có đùng rầm!” là một câu nói vui phổ biến thời đó, nhưng nó cũng thể hiện tư tưởng ngại mìn địch trong bộ đội.
Để tránh mìn, đơn vị hành quân truy quét thường phải né đường bò, cắt rừng đến mục tiêu quy định. Nhiều thằng đi đầu một lúc, thấy quãng nào nghi nghi liền đứng lại tạt vào bụi mặc dù không mót ***. Thằng đi sau kế bên vượt qua một tẹo rồi cũng dừng lại làm cái công việc y hệt. Dần dần cả tiểu đội, trung đội thực hành bài “*** cuốn chiếu”. Đêm đông đại đội đốt đèn đi đâu đấy? Đi *** đây, đánh đổ đèn, đụng đồn địch, đại đội *** *** được. Câu đọc vui toàn vần Đ khá đúng trong trường hợp này. Anh Lượng già lính C3 D4 đi cùng đoàn 78, hiện làm Công ty truyền tải điện 4 Đông Anh, kể với tôi là hồi đó tao lúc nào trong túi cũng có cái gai tre.
Đi càn rừng, thấy chỗ nào nhột bụng là lẳng lặng thò tay vào túi lấy cái gai ra giắt vào giày. Sau đó giả vờ dừng lại, cúi xuống nhể, nhường cho mấy thằng em dại lên trước. Giờ gặp nhau, nhậu vào nghe lão giãi bày chuyện ngày xưa thì chúng tôi quay sang chửi thậm tệ. Anh Lượng già mếu máo, nhe hàm răng bàn cuốc khói ám, nói chúng mày thông cảm. Hồi đó tao còn một mẹ, hai con, nhà ba gian mưa gió đã mòn. Chúng mày chưa vướng bận gì, chết nó cũng nhẹ. Tao thương các con tao còn bé dại quá, nhỡ “đùng rầm”, chết cũng không nhắm mắt được.
Tốc độ hành quân chậm, nhiều lần Chính “tréc” đại đội trưởng phát khùng, cứ băng băng vượt trước đội hình đại đội 1. Mặt mũi cứ hầm hầm không thèm nói câu nào. Các trung đội và anh em thấy thế cũng ngượng nên cố gắng hơn.
Đại đội 1 đặt chỉ huy sở ở căn nhà gác ghi đường sắt đầu ga. Ban ngày bung đội hình đi sục từ sáng sớm, ban đêm lại co về. Mé trong núi, đôi lúc nghe tiếng mìn nổ vọng lại. Có thể là thú rừng vướng mìn địch cài. Tôi mới đi viện về nên anh em cũng ưu tiên cho được nghỉ ngơi. Mà truy quét ở cấp đại đội thì bọn thằng Túy, thằng Ban trố 2W nó phải đi, chứ tôi với với anh Ky chỉ có nằm ôm cái điện thoại ngủ suốt ngày cũng được. Trời đang chuyển mùa. Mưa nhỏ hơn và thường xuất hiện vào nửa đêm về sáng.
Gần sớm thức giấc, còn nửa mơ nửa tỉnh, nghe đại đội lịch kịch súng đạn trở dậy đi càn. Còn mình thì kéo cái tấm đắp trùm qua đầu, co mình trên võng. Ngoài trời đang mưa lắc rắc…Cái cảm giác được nghỉ trong khi những người khác vẫn phải làm việc thực thà mà nói cũng dễ chịu…Vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm. Chẳng còn cán bộ lẫn đám bậu xậu đại đội nên muốn làm gì thì làm…Đây là tấm hình chụp chỗ đóng quân năm xưa. Trạm bẻ ghi trở lại tìm nhưng không thấy.
Cứ còn lại mấy thằng ốm dở, thằng văn thư, hai thằng anh nuôi. Ngủ chán thì vác súng đi loanh quanh. Chúng tôi tìm được một đoạn suối rong nước, chỗ đại đội 3 lập cứ về sau này. Nước ở đây chảy chậm. Cả nhóm bắt tay ngay vào việc ruốc cá. Cái trò này là do mấy ông lính dân tộc đầu têu chứ tôi thì biết gì? Tôi thường lỉnh các công việc chung. Anh Đài chính trị viên đại đội 3 có lần cáu, chửi tôi lười hủi như chó, loại mày chỉ thích bắn AK qua cửa kính. Nhưng bắt cá là một trò rất khoái. Thôi thì cứ chúng nó sai làm gì thì làm nấy.
Cành cây và đất lấp ngay dòng chảy ở chỗ lòng suối hẹp nhất. Lúc này mé trên “đập”, nước chỉ chảy nho nhỏ do bị chặn ứ. Chúng tôi mang hàng bó cây “say” - một loại cây rừng có vỏ nhiều nhựa màu đỏ, đập vào đá cho xơ ra. Hai thằng đập, rũ trên thượng nguồn, vài đứa mang xơ vỏ và cả lá loại cây đó vò nát, khỏa đều khắp. Một lát sau, cá bị say bắt đầu ngoi lên lờ đờ ngáp. Cá ngựa là yếu nhất, gần như ngoi ngay lập tức. Giống cá này trông như con cá chép. Đuôi cũng đỏ như thế nhưng nhỏ hơn, mình thuôn và tròn hơn và không có đôi râu. Tiếp đến là loại cá giống cá mè vinh đuôi vàng, nhưng mỏng thân và nhỏ hơn. Cá chốt râu ria lờ phờ ngoe nguẩy trên mặt nước.
Những con yếu thì không nói làm gì. Chỉ việc bụm tay hất lên trên bờ. Còn những con to và còn khỏe thì chúng tôi lấy cây nhè đầu mà đập rồi vớt. Cá lăng, cá kết (giống cá thác lác), cá bò bị say luồn ra khỏi hang trú ngụ. Vây ngạnh vây lưng duỗi ra đờ đẫn. cứng đơ rất nguy hiểm. Lúc này phải thật khéo, lội suối bao giờ cũng phải đưa ngón chân xuống trước để thăm dò chỗ đặt bàn chân nếu không muốn ăn cả cái ngạnh trên kỳ lưng nó. Thủng chân vì ngạnh cá này thì sưng và phát sốt ngay. Trơn trơn, mềm mềm, dài dài đây rồi! Nào, từ từ luồn hai bàn tay xuống. Tránh cái vây ra. Và cả bộ râu đẹp của nó nữa! Thật nhẹ nhàng vừa phải tha thiết thôi, đẩy nó dần dần cặp bờ thoải. Đã thấy cái lưng cá bóng nhẫy.
A lê hấp! Hất thẳng lên bờ. Có con cá lăng dài gần nửa mét. Con này tí về phải ăn ngay, không chiều chúng nó càn về chắc chẳng được miếng nào. Cá bò ngạt nước đổi màu vàng ươm hoặc loang lổ trông như màu sơn máy bay Mỹ. Lên bờ rồi mà răng vẫn nghiến èn ẹt nghe rất vui tai. Mỗi chuyến như thế bắt được cả chục ký cá là chuyện bình thường. Trên đường khiêng về tiện tay hái nắm lá giang hay lá bứa nữa là kể như đủ vị.
Thấm thoắt bấy giờ đã là những tháng cuối năm 1979. Trong năm đó, không kể hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, chỉ tính riêng quãng đường hành quân, đơn vị chúng tôi đã vượt quãng đường hàng ngàn cây số, chủ yếu là đi bộ…Đã vượt qua nhiều đồng ruộng sông núi, những đô thị ma ám, những nẻo rừng heo hút không một dấu chân người…Một ngày đàng, một sàng khôn. Một sàng khôn nhẫn nại đời người, đầy dần lên bằng những bước chân lầm bụi, những cái cáng đẫm máu, những đôi mắt dại vô biên nhìn trời không khép... Một sàng khôn gian lao hiểm họa, dạy con người cách tồn tại, cách vượt qua, cách buộc phải chiến thắng bản thân mình.
Và cần nhất là phải biết vì nhau mà sống. Bởi cái thằng đào hố nằm bên cạnh mình nó có sống thì mình mới có thể sống được và ngược lại. Tôi không có ý coi nhẹ các mối quan hệ đẹp như tình bạn thời học trò, thời sinh viên, tình đồng nghiệp công sở, tình láng giềng phố thị…Nhưng thực sự chỉ có tình lính chiến là trải qua những biên độ ác liệt nhất nên nó thường bền chặt. Nó gắn với những thời gian khó nhất nên làm người ta nhớ lâu. Trong cuộc đời bạn đồng đội mình, thấy có đời mình trong đó. Vậy trách chi gì những thằng còn sống trở về, ngồi với nhau dăm ly rượu là chỉ rặt phun ra chuyện đơn vị, chuyện súng ống, chuyện gái gú mêmai…
Không quân trinh sát báo phát hiện căn cứ địch tại vùng núi phía đông bắc ga Th’Mei. Ga này nằm dưới ga Bâmnak 12 km về hướng Ph’nom Penh, nơi con lộ không tên cắt từ đường sắt ra thị trấn Ponley. Vùng núi này cũng thuộc hệ thống Urăng nhưng có độ cao thấp hơn.
Trên các đỉnh tròn, tương đối bằng phẳng như một cao nguyên nhỏ, địch phá rừng làm rẫy, xây dựng lán trại. Tham mưu trung đoàn gọi tên khu vực đó là cao điểm 701.
Lại lên đường! Tiểu đoàn vào phum Bal Tà hiên theo trục đường lớn từ mờ sớm, rồi tạt trái cắt rừng về hướng mục tiêu. Đi một thôi gần đến trưa thì đụng một đám sáu bảy thằng địch đói. Gọi là nửa địch nửa dân thì mới đúng vì tụi nó chỉ có 2 khẩu carbine và 2 phụ nữ. Nghe bộ binh nổ vài loạt tiểu liên roạt roạt đằng trước, lên đến nơi đã thấy chết ráo rồi.
Đơn vị hành quân tiếp thì thấy một thằng bé chừng 8 tuổi xanh rớt, đeo cái túi mìn từ đâu chui ra. Nó bỏ đám xác kia, đi theo bọn tôi. Thằng cu chắc đi cùng đám địch vừa bị ta diệt. Trong đó có khi có cả người thân của nó. Đi tác chiến, có về cứ đâu mà kèm nó được? Tình huống khó xử vì chẳng thằng nào dám xử. Anh Thào D phó máu lạnh thế mà cũng chỉ dám thúc bọn lính C1 mau giải quyết. Thấy nó yếu lắm nên ai cũng nghĩ nó sắp ngoẻo. Chẳng ai dám xuống tay. Chúng tôi bỏ nó đấy, đơn vị càng lúc càng đi như chạy...để trốn một đứa trẻ con. Tưởng đã thoát được, nào ngờ đến đầu chiều vừa ngồi nghỉ đã thấy nó lệnh khệnh mò đến đằng sau...Tất cả không ai nói gì. Lại tiếp tục hành quân...
Càng vào đến chân cụm cao điểm 701, rừng càng rậm rạp và ẩm ướt. Đây chắc là dạng rừng mưa nhiệt đới, không phải rừng khộp. Trong những quãng rừng le, vắt nâu, vắt xanh quăng mình theo bước chúng tôi rào rào. Đi một lúc, thấy trầy trượt dưới chân. Cúi xuống nhìn thấy dép mình đã nhoe nhoét máu. Vén ống quần lên, ba bốn con vắt to kềnh no máu rời ra. Trong các loại hút máu người thì tôi kinh con này nhất. Cũng như mìn của địch vậy! Cái gì ta không biết, không phát hiện được thì lại càng đáng sợ. Sợ hơn cả đỉa trâu, đỉa hẹ đồng trũng ở Hà Nam thời huấn luyện. Đặt một cành le khô cho con vắt bám vào rồi quan sát. Nó lập tức biến thành một màu vàng cùng với cành khô đang cầm. Giác chân quặp chắc vào cái que. Còn cái đầu huơ đi huơ lại cuống quít đánh hơi người trông rất hung hãn. Tăm tối và háu ăn một cách kỳ dị, bị một nhát kéo cắt đôi người mà phần đầu vẫn bám chặt lấy cẳng chân thằng Thư quân y.
Qua được quãng rừng vắt ấy, tiểu đoàn dừng chân tại khoảng rừng thưa hơn, nơi có một vệt đường mòn cắt qua để chờ tiểu đoàn 5 lên kịp mũi hiệp đồng. Ngày hôm đó sẽ là một ngày bình thường nếu như không xảy ra chuyện có 5 tên địch nữ đi xồng xộc thẳng vào đội hình của đại đội 2. Lính ta phát hiện thì nó đã vào rất gần. Thậm chí vừa đi vừa nói chuyện rất to. Cho dù là địch đi chăng nữa thì phụ nữ vẫn có nhu cầu buôn chuyện. Đến khi cả năm đứa nhìn thấy mấy cái võng không của lính mình chăng tạm trong lúc nghỉ, đờ người ra định quay đầu chạy thì đã nghe tiếng hô bắt sống và những nòng súng chĩa xung quanh Đồ đạc phụ tùng trên người rơi lịch bịch xuống khi tay đưa lên
trời. Kiểm tra quân tư trang thì thấy không có gì đặc biệt. Vài củ mì, vài quả bí non, võng, với mấy thứ đồ lặt vặt khác…hoàn toàn không có vũ khí.
Lớc đay lơn! Xem có giấu gì trong cạp sà rông, trong áo không nào? Mấy thằng ba trợn càng khám kỹ thì các khuôn mặt tù binh càng giãn ra. Có tiếng nhí nhóe khi hiểu rằng cơ hội sống sót của bọn họ là khá lớn khi bị "khám" kỹ như thế này. Bọn tù binh hiểu đã gặp những con người bình thường, với các hành động bình thường chứ không phải gặp quân ác thú. Tù binh lập tức được đưa ngay về tiểu đoàn bộ. Cái vốn tiếng K bập bẹ của Bình “cháo” chỉ để hiểu được rằng các “chị ấy” thuộc một tổ tăng gia của địch. Đêm ấy, tiểu đoàn giao họ cho trung đội vận tải canh gác. Họ cũng căng võng ngủ như lính ta và hoàn toàn không bị trói.
Sớm hôm sau, tiếp tục hành quân, mang theo cả tù binh. Rừng thì chỗ nào chả giống chỗ nào? Nhưng khi đi được khoảng gần 4 tiếng đồng hồ vã mồ hôi hột, tôi thấy khu rừng này là lạ. Nó là lạ ở chỗ trông nó…quen quen (!). Hình như tiểu đoàn đã trở về đúng vị trí dừng chân đêm qua. Tôi đưa cái nhận xét này ra và anh Ky cũng đồng tình ngay lập tức. Anh Thào tiểu đoàn trưởng mắng át đi: “Mẹ chúng mày! Lệnh đi thì cứ biết đi! Kêu ca gì?”. Đang nghỉ giải lao, tôi quyết tìm ra chứng cứ chứng minh cho nhận xét của mình. Tất nhiên không phải chống lại anh Thào nhưng cái ý muốn biết mình đang ở đâu thôi thúc tôi lò dò tìm quanh. Đây rồi! Cái bếp anh nuôi đại đội 1 nấu cơm ban sáng lù lù cạnh cái gốc cây mục rành rành.
Tôi kêu toáng lên và chúng nó đổ xô lại. Có đứa còn nhận ra mình vừa dẫm phải cái “hố mèo” của chính mình ban sáng. Không cái dại nào giống cái dại nào! Lập tức tôi ăn hai cái đá *** của ông Thào vì cái phát hiện vừa rồi. Bọn tù binh dường như cũng nhận ra tình thế. Chúng nó là ma xó vùng rừng này nên lạ gì! Đã thế lại còn bụm miệng cười khúc khích khiến ông Thào càng cáu tợn. Tiểu đoàn phó của tôi đánh nhau thì không thể chê được nhưng khoản tham mưu bản đồ có vấn đề. Sau hai chưởng mà anh ấy giành cho tôi, không thằng nào dám ý kiến gì nữa. Đúng là dắt dây theo giặc cái thì đen thế đấy!
Mà đúng là đen thật! Chiều tối, tiểu đoàn 5 đã đến điểm hẹn trên núi mà chúng tôi vẫn loanh quanh dưới chân. Cả một rừng dây mây giăng thành chắn mất lối lên. Còn con đường bò lớn vẽ trong bản đồ lúc nãy vẫn thấp thoáng bên cạnh (chúng tôi không dám đi trên đường) bây giờ tự nhiên mất tích. Lên sóng 2W nghe tiếng tiểu đoàn bạn rất rõ, chứng tỏ cự ly thật gần mà mãi vẫn chưa đến được vị trí hiệp đồng. Ông Phấn tham mưu trung đoàn khỏi dùng bảng mật danh, cứ cầm trực tiếp tổ hợp nói chuyện thẳng với anh Thào, hỏi rằng có thấy cái đỉnh núi nhọn độc lập nào bên tay trái không? Cho trinh sát cắt hướng 45 xem có gặp cái đìa nước nào không??? Có đến một tá câu hỏi, gấp hai lần như thế để hướng dẫn nhưng mò vẫn hoàn mò. Sọt sẹt một lúc thì gần hết pin, phải lắp lố pin dự trữ. Tối mù thế này thì trông thấy cái gì?
Lại nói chuyện ban sáng. Anh Sơn trung đội trưởng trinh sát (không phải anh Sơn “big”. D trưởng đang đi viện) cũng là một tay kỳ cựu đi đầu đội hình. Địa bàn cầm tay, hướng cắt đúng, các vật chuẩn địa hình lần lượt xuất hiện như dự tính. Ấy thế mà đi cả buổi lại lộn về vị trí cũ. Điều này không giải thích được! Cứ như bị ma làm. Một con cú lớn đến giờ kiếm ăn, lừ lừ liệng qua đầu chúng tôi lặng phắc, không một tiếng động. Tướng với quân lúng túng như gà mắc tóc, lao xao hết cả lên. Trung đoàn sốt ruột không chờ nữa, lệnh tiểu đoàn nào đụng địch trước thì đánh ngay.
Tất cả bỗng giật mình vì tiếng súng 12,8 nổ. Đạn vạch đường, chớp B.40 nổ nhoang nhoáng. Khi thấy ánh đạn liền liền tiếng nổ là đã rất gần nhau. Tiểu đoàn 5 đã nổ súng. Chúng nó ở ngay trên núi, đỉnh đầu chúng tôi, hai đơn vị chỉ cách nhau chưa đầy một km. Một thằng ngu nào đó không chờ lệnh thống nhất qua thông tin, bắn ba phát đạn vạch đường lên núi bắt liên lạc. Do quá gần nhau nên bọn tiểu đoàn 5 tưởng chúng tôi là địch đánh từ dưới lên. Lập tức, hai khẩu 12,8 quay nòng bắn thốc xuống chân núi. Đạn chớp giần giật.
Có những viên xuyên qua cây văng lung tung hình chữ chi, phụt lửa lằng ngoằng. Cũng may là sườn dốc, cha con chúi cả vào sát chân nên không sao. Tụi tôi hét lên như di nhưng mấy thằng điếc ấy đâu có nghe tiếng. Khẩu DK đại đội 4 đòi giá súng bắn “bắt liên lạc” lại đôi trái chắc chắn bọn trên núi nhận ra ngay. Được trung đoàn thông báo, bọn tiểu đoàn 5 thôi bắn xuống. Nhưng tiếng súng trên đỉnh núi vẫn loác đoác đến tối mịt.
Mọi vật trở nên rõ ràng sáng sủa trong ánh ban mai. Khi được mở đáp án thì bài tập nào cũng dễ. Nấu cơm sáng ăn xong, quay trở lại hướng đi hôm qua chừng nửa cây số, chúng tôi thoát qua được cánh rừng mây và bắt đầu leo lên. Một lối đi với nhiều tấm đá phiến vừa chân bước, như đường lên chùa. Mấy cô tù binh (bây giờ chẳng biết gọi họ thế nào) vác đạn và đội cối cho bọn vận tải khoác súng đi không. Họ không biết gánh nên tháo kẹp đòn cối ra, bó lại 4 trái, cuốn cái khăn kà ma rất khéo, đội ổ đạn trên đầu. Những đoạn dốc, thấy bị nó chổng mông vào mặt là bọn lính đi sau thò tay cấu. Vừa đi vừa chí chóe cứ như dân công hỏa tuyến thời kháng chiến.
Anh Thành chính trị viên tiểu đoàn (thay anh Thưởng) trông thấy chướng mắt quá, gọi lính lại mắng nên chúng nó mới thôi làm trò. Đang leo thì mấy chị ấy dừng lại, bỏ “gánh” cối tạt vào bụi. Mấy đứa được giao nhiệm vụ trông coi tù binh không biết làm thế nào cũng đành phải rúc theo, sợ chúng nó chuồn mất. Khi tụi trông tù quay lại đội hình thì bị mấy cha lính cũ đã có vợ bắt miêu tả lại từng chi tiết, là trông “nó” như thế nào, kích cỡ ra sao, nằm ngang hay nằm dọc? Chuyện tầm bậy tầm bạ làm quên đi cái mệt…
Đến trưa, lên đến mỏm 2. Một vùng quang đãng với bình độ thoải nằm gọn trong tầm mắt. Lính Pôn Pốt chặt cây phát rừng làm rẫy. Cây đổ ngổn ngang, lá cành khô xác nhưng địch không đốt chắc do sợ lộ. Cũng chưa thấy chúng nó trồng trọt cái gì. Mỏm 2 và mỏm 1 nơi tiểu đoàn 5 đánh vào đêm qua chỉ cách nhau 1,5 km, với đường tụ thủy là một khe suối hẹp. Hơn chục xác địch nằm rải rác trong các lán lá, làm bằng các thân cây nhỏ cạnh nguồn nước. Trong một cái lán, tôi thấy có một cặp ngà voi lớn đã cưa ra từng khúc. Ngà voi chỉ đặc đoạn đầu mũi nhọn, còn đoạn gốc cũng rỗng và mỏng như sừng trâu.
Chúng tôi dừng chân tại đây để mở rộng truy quét sang các mỏm lân cận cùng tiểu đoàn 5. Đại đội 1 đóng quân ở mấy cái lán cạnh khe nhỏ phía trên nguồn. Trời khô ráo, nhưng nước nguồn từ đâu đó trong ruột núi vẫn róc rách tuôn ra mát lạnh. Lính ta phải khiêng mấy cái xác địch dọn ra chỗ khác dưới nguồn chôn, vì sợ ô nhiễm nguồn nước ăn duy nhất. Trên đường từ đại đội một về tiểu đoàn bộ cũng có hai cái xác địch nằm chình ình nằm gần trung đội 2. Bọn này lười không chịu lấp. Mấy ngày hôm sau nó sình trương lên, nồng nặc không chịu được, đành mang xẻng ra vừa bịt mũi vừa lấp đất.
Nếu ở nhà thì đang là đầu mùa đông. Mùa đông năm 1980, tròn một năm lính chiến. Năm ngoái cữ này, chúng tôi còn đang nằm chốt bờ đê biên giới Long An. Còn bây giờ ở trên cao, cái vùng núi này cũng đang là mùa đông thực sự. Ban ngày nắng trắng đất rẫy, song cuối chiều chưa tắt nắng đã thấy lạnh sởn da gà. Các tổ cảnh giới ban ngày trên các con đường mòn nhỏ, lá khô rụng đầy, phải tinh mắt mới nhìn thấy. Chiều tối, khi gài lại lựu đạn, rút về thì sương núi đã giăng buốt. Tiểu đoàn lệnh cấm đốt lửa nhưng chỉ chịu được một đêm. Đến đêm hôm sau thì lính cứ đốt. Chính tiểu đoàn bộ cũng đốt vì không chịu được rét.
Chúng tôi kéo cành, đốt những gộc cây to ngoài biên xa đội hình trước, sau đó mới đốt các đống sưởi gần lán. Trung đội 2 nằm cách đại đội có 20m nên cứ tối là tôi mò xuống đó, tẩm quất đổi công với thằng Tám khỏe. Đống lửa nhập nhoạng ở gần mả hai thằng Pốt làm Chính tréc sợ ma, đi hội ý tiểu đoàn về muộn bao giờ cũng phải gọi thêm thằng Đồng xuống đón, mặc dù tiểu đoàn nằm cách đại đội 1 chưa đến 200 mét, và ở giữa còn có trung đội vận tải chẹn ngang đường.
Tôi với thằng Căn nằm úp thìa trên sạp trong lán địch, đắp chung cả hai tấm đắp, cuộn cả võng nhưng cũng chỉ ngủ được chập chờn. Hơi lạnh luồn qua những khe hở dưới sạp cù vào sườn buốt giá dù đã trải 2 lượt nilon. Trở mình một cái là chút hơi ấm mong manh tan biến. Trong đêm có khi còn nghe rõ tiếng bọn tù binh chí chóe với bọn vận tải trông tù. Mặt mũi cùng các chỉ số hình thể đám nữ Pốt này cũng không đến nỗi nào, nếu như không muốn nói là trông được. Thế mới bỏ mẹ! Không biết chúng nó có làm gì nhau không, nhưng nghe thấy thế thì khó chịu quá, bố ai ngủ được?
Ở cao điểm 701, chúng tôi được cấp phát một loại gạo hạt tròn, mẩy như hạt gạo nếp nhưng trong chứ không đục. Nấu cơm ăn nếu không khéo hay bị nát, và vị cơm rất nhạt. Chúng tôi gọi đó là gạo dính hoặc gạo ni lông. Không biết gạo này có xuất xứ từ đâu nhưng ăn gạo cũ còn dễ nuốt hơn. Một buổi chiều gần tối, đang lùa bát cơm nấu bằng cái loại gạo đó vào miệng với nước canh bứa thì khẩu cối tép bắn thử đạn cối theo lệnh đại đội. Hướng bắn gióng vào con đường mòn triền núi phía sau. Thằng Dung cầm quả đạn thả vào nòng. Tiếng đề pa nghe “phọp” chứ không "toong" như bình thường. Quả đạn cối 60 vọt ra khỏi nòng, bay cao chầm chậm khoảng 20m, lúc lắc cái đuôi rồi cắm xuống đúng vị trí trung đội 3. Bọn này vừa ăn cơm vừa nhìn xem bắn thử thấy đạn rơi vào mâm liền quăng bát chạy tóe ra.
Tôi đứng khá xa, nhưng theo phản xạ cũng bưng cái bát, né vội vào một gốc cây. Quả đạn nổ cái “rầm!". Thằng Thành bị một miểng vừa trúng mông, mừng hơn cưới vợ. Mọi người xúm lại khẩu cối xem xét. Đứa thì đổ cho đạn, đứa đổ cho liều…Anh Lược lẳng lặng đến xách khẩu cối dốc ngược xuống. Nước trong nòng đổ ra òng ọc, đen sì vì bị nhuộm khói thuốc phóng. Đêm qua mưa nhưng chúng nó không bịt miệng nòng. Tiểu đoàn điện hỏi có chuyện gì thì anh Chính báo C1 bị dính lựu đạn gài, bị thương một.
Một đêm, đang ngủ say trong sạp thì phía dưới trung đội 2, tiếng thằng Minh đen kêu toáng lên: “Địch vào! Nó bắn tỉa!”. Trung đội 2 nổ súng, rồi cả đại đội nổ súng ầm ầm. Tôi nửa mơ nửa thức, ôm máy cắp súng vọt như biến ra khỏi lán đang đốt lửa vì sợ nó thổi B.40. Ngồi thụp xuống cái hốc tối, xa cái lán đang lồ lộ trong ánh lửa một khoảng an toàn, tôi cũng hạ khẩu AK bắn đại ra bìa rừng tối đen đằng trước. Ít khi được xả súng, mà cũng không có thấy địch nó hô "trô trô" hoặc bắn vào nên tôi xiết cò hăng hái lắm!
Thấy quái lạ cứ mỗi lần xiết cò, sao có cái gì đó đó tạt lại dăm dăm cực mạnh, rát hết cả mặt mũi. Càng bắn liên thanh càng đau rát nên đành thôi, không dám bắn nữa. Sáng hôm sau kiểm tra thì ở chỗ đó có một hòn đá mồ côi to tướng dựng lù lù. Thân đá bị đạn nhọn chém từng mảng trắng mốc. Đêm hôm đó, tôi đã bắn trực diện vào một hòn đá cách đầu nòng có 2m. May mà đạn nó văng đi đâu đó, chứ không bật ngược trở lại thì mình ngỏm củ tỏi. Chuyện này về sau bị bọn đại đội 1 bôi bác mãi rất khó chịu.
Còn thằng Phượng bọ y tá thấy yên tiếng súng, chạy xuống B2. Minh đen ôm ngực quằn quại đau đớn lắm. Nó hỏi bị thương chỗ nào thì thằng này thều thào chỉ ngay vào ngực. Đêm tối, chưa kịp khơi lại củi, không rõ vết thương ra sao. Phượng bọ cuốn băng thật chặt vào ngực nó rồi hô anh em cáng xuống quân y tiểu đoàn bộ. Đến nơi, quân y tiểu đoàn lấy kéo cắt băng, bấm đèn pin soi kiểm tra mãi không thấy vết thương đâu. Chỉ có một chỗ tấy và hơi rớm máu. Thì ra chúng nó bẻ đạn nhóm lửa sưởi,vất cả cát tut vào trong đống than. Chắc cái hạt nẻ nó nổ văng vào ngực. Anh Thành pha cho nó cốc sữa nóng động viên. Sau đó cả bọn lại lục tục kéo về đại đội. Trên đường về, nó bị mấy thằng phải khiêng đi chửi quá trời, nín im thin thít. Gặp nhau bây giờ chúng tôi nhắc lại vẫn còn quê độ.
Nằm tại núi 701 gần một tuần, sau khi tổ chức lùng sục thêm không có kết quả, tiểu đoàn 4 rút quân sau khi đốt sạch những thứ gì đốt được của địch trên đỉnh núi. Chúng tôi thu dây về tiểu đoàn bộ, đổi chỗ cho thằng Túy. Sớm tinh mơ ngày lên đường, trong khi tiểu đoàn cùng các đại đội chuẩn bị hành quân thì một tiếng nổ thật căng xé tan sự tĩnh lặng của rừng núi. Sương đêm đọng trên lá rơi lào rào sau chấn động. Anh Thào lập tức kêu 2w gọi ngay xuống các đại đội. Tất cả đều nghe tốt. Chỉ có đại đội 1 là không trả lời. Một linh cảm xấu làm tim tôi chợt nhói. Hay thằng Túy mình bị rồi anh Ky ơi! Mày có làm sao không thế Tuý? Chiều hôm qua, lúc thu dây về tiểu đoàn bộ, tôi và anh Ky còn gặp nó ở mả hai thằng địch chết đầu B2. Nó đi lĩnh pin xuống đại đội, gặp chúng tôi còn nhe răng cười…Anh Nhương giằng lấy tổ hợp máy tiểu đoàn của thằng Mạnh. Hết gọi “Bến Cầu - Bến Cát 01!” lại gào lên trực tiếp: “Tuý đâu? Tuý đâu? Tuý ơi…!”.
Truyền đạt vừa kịp chạy vài bước xuống C1 đã thấy lính đại đội 1 huỳnh huỵch võng hai võng đẫm máu về tiểu đoàn. Thằng Tuý 2W và anh Quang râu chính trị viên đã hy sinh. Hai anh em đi tè chuẩn bị lên đường thì thằng Tuý đá mìn. Quả mìn KP.2 địch gài từ trước, sau khung nhà cháy, cạnh hòn đá lớn bìa rừng cách chỉ huy sở đại đội 1 chỉ khoảng gần 10m. Cái hòn đá mà đêm hôm nào tôi đã mắt nhắm mắt mở bắn vào. Chỗ đó như cái nhà vệ sinh công cộng của BCH đại đội. Tôi và anh Ky cũng thường xuyên ra đấy tè bậy gần đó, nhưng chẳng hiểu sao lại không vướng.
Anh Quang bị thương hôm đại 1 mất chốt hồi tháng tư, đi viện rồi được giải quyết về phép, mới cưới vợ xong. Còn thằng Tuý người huyện Ý Yên, Hà Nam Ninh, học sinh chuyên văn hẳn hoi. Nó có thể đọc thuộc lòng từng trích đoạn “Đi săn” trong “Chiến tranh và Hoà bình” không hề vấp váp. Bảng mật danh mới trong khi chúng nó ôm đầu vã mồ hôi hột cố mà thuộc thì nó chỉ vài hôm là làu làu. Một điều đặc biệt là nó không bao giờ xưng mày gọi tao với ai cả. Các anh đi trước thì không nói làm gì, nhưng với những thằng cùng đoàn năm 78 thì bao giờ cũng xưng cậu cậu tớ tớ như vẫn còn thời học sinh trung học. Bây giờ thì bầu trời cao điểm 701 có xanh như bầu trời Austerlítz của mày không, Tuý ơi!
Thằng Đồng Huế liên lạc khóc ồ ồ như cha chết, ôm khư khư cái túi mìn đựng đồ của anh Quang chạy quanh cái võng. Khuôn mặt anh ấy lấm tấm máu. Cái nốt ruồi lớn khóe cằm, có những sợi râu dài đen nhánh tuôn ra từ đấy, vẫn bình thản phất phơ theo nhịp võng. Anh ấy đến chết vẫn có gương mặt rất tươi. Tự nhiên nhớ nụ cười nửa mơ hồ nửa độ lượng chiều hôm nào, khi anh ấy kéo tôi xuống hầm ở U Đông.
Chỉ còn anh Thành chính trị viên tiểu đoàn là còn bình tĩnh, từ tốn bảo anh em lau mặt rồi quấn băng lại cho liệt sĩ thật cẩn thận, đừng để máu chảy ra nữa...
Trở về ga Bamnak, tôi lên cơn sốt. Chỉ thấy lúc nóng điên người, lúc thì lại gai gai lạnh nhưng không thấy cầm cập rung cả võng như chúng nó. Hai hôm đầu được nghỉ truy quét, tôi còn cố gắng gượng dậy lần ra con đập nhỏ ngay cạnh chỗ dừng chân tạm của tiểu đoàn bộ xem thằng Hải cụt câu chạch. Đến hôm thứ ba thì quỵ hẳn. Nằm li bì trên võng từ sáng đến đêm, người nóng hầm hập. Khi lấy cơm về trung đội, anh Nhương hết dỗ lại chửi giục tôi xuống ăn. Lão ấy sốt ruột nhưng bất lực nên chửi rất độc, dọa không ăn thì chết mẹ mày. Nhưng ngồi dậy lúc đó cũng còn khó, nói gì đến ăn uống. Thằng Tuý chết, tôi lăn đùng ra ốm, trung đội thông tin thiếu người nghiêm trọng. Bấy giờ anh ấy lùa thằng Mạnh tiểu đội trưởng 2W xuống đi với đại đội 1. Còn chính anh ấy phải khoác máy đi theo chỉ huy tiểu đoàn. Lâu không làm máy, mật danh thì không thuộc, tậm tà tậm tịt nên nghe ông Thào chửi rát. Anh ấy sinh ra bẳn gắt như mắm tôm.
Cứ chiều tối, sau khi đi càn về là anh ấy lại ngồi ngay đầu võng tôi càu nhàu. Mà tôi có nghe thấy anh ấy nói cái gì đâu! Cái võng tôi mắc hơi chùng cạnh bờ suối, nằm rất khó chịu nhưng chẳng còn hơi đâu mà mắc lại. Tôi ị đùn vô thức ra cả cõng cũng chỉ đủ sức gắng nhỏm dậy, tụt cái quần đùi bẩn lau qua rồi thả nó trôi luôn theo suối. Chúng nó đi tác chiến hết, chẳng nhờ ai được. Mà cũng chẳng dám nhờ đứa nào đi giặt quần dính phân lỏng.Vẫn còn chút sỹ của một thằng trai thành thị. Tôi chọn cái áo cũ đã mùn sởn lau võng, lau phân xong vo viên cuộn dưới gốc cây chân võng để dùng dần.
Con suối những lúc khỏe thì bọn tôi chiều đến là quẫy đùa tắm giặt ùm ùm, nhưng giờ nhìn dòng nước cuốn thấy ớn đến tận xương, cảm giác rất sợ nước. Mọi giác quan, mọi xúc cảm gần như tê liệt. Cứ nằm thiêm thiếp, mắt thì he hé lúc nhắm lúc mở nhìn vào một điểm vô định. Có hai quả ổi ương ương hanh vàng lấp ló bên kia bờ suối là chỗ hút một điểm nhìn gần như cả ngày. Giá mình còn sức thì mình sẽ lội sang hái ngay. Chẳng thấy thương cha, không thấy nhớ mẹ, không buồn không vui gì hết nữa! Địch giá có đánh vào tận nơi có khi tôi cũng mặc mẹ…Thành thử anh Nhương có lầu bầu cáu kỉnh thì cũng chỉ vô nghĩa, coi như con nhện con ruồi cáu mà thôi!
Bây giờ anh Nhương kể lại là tao nhìn mặt mày lúc đó trông kinh lắm, khó tả lắm. Nhưng không thấy rét rung như chúng nó nên tưởng là sốt thường thôi, chứ không tao đã đề nghị cho mày đi viện ngay lập tức rồi. Khổ thân anh Nhương, mấy năm trước có thằng con trai lớn đang yêu, đèo bạn gái đi chợ quên mũ bảo hiểm, bị công an giao thông Bắc Giang nó lôi về đồn đập chết. Cái vụ này ầm ĩ nổi tiếng ra cả quốc tế. Cả họ cả làng Hồng Thái, Việt Yên nhà anh ấy chở quan tài thằng cháu, kéo nhau ra xô đổ rào, cổng của UBND tỉnh. Cảnh sát chống bạo động phải làm việc, động viên rất vất vả. Cuối cùng kẻ thủ ác đã phải đi tù, nhưng anh Nhương vĩnh viễn mất đứa con trai. Bây giờ ngồi nhậu với nhau, quá chén lên là chửi thề, là mếu...Bố mày đi đánh Pốt chưa được có vinh dự là Liệt sỹ, mà sao con ra nông nỗi thế này con ơi! Mấy thằng cựu với nhau, im lặng ngoảnh mặt đi, nâng chén rượu lảng qua chuyện khác hoặc kiếm cớ đi ***.
Sau ba ngày sốt, hoàn toàn không ăn được gì, chỉ uống nước cháo cầm hơi. Sáng ngày thứ tư, thằng quân y tiểu đoàn xuống kiểm tra giật mình thấy tay tôi thõng ra khỏi võng. Trên mặt đất là những viên thuốc nó phát cho tôi chiều hôm trước chưa kịp uống rơi tung toé. Bấu vào người gần như không có phản ứng. Hoảng hồn! Nó chạy sang vận tải xin cáng tôi lên bệnh xá trung đoàn.
Đêm hôm ấy ở K.23, tôi lơ mơ cảm thấy có người đo huyết áp cho mình. Một lát sau lại có thêm người đến nữa. Huyết áp tụt không đo được. Các anh ấy lấy ven truyền nước. Huyết thanh làm tôi cũng tỉnh táo dễ chịu hơn. Có tiểng hỏi lơ mơ âm âm đâu đó rằng mày có nhận ra tao không? Tính đây, Tính phố Lý Văn Phúc đây!
Sáng hôm sau, tôi được đưa lên xe tải, cùng với mấy thương bệnh binh nữa về viện 97 của sư đoàn. Một trung đội công binh của đại đội 19 tháp tùng xe ra đến phum “rừng thị” rồi lại đi bộ trở về.
Lính Tây Nam Lính Tây Nam - Trung Sĩ Lính Tây Nam