Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Đại Tá Cathcart
ại tá Cathcart là một người đàn ông ba mươi sáu tuổi khôn lỏi, thành đạt, bệ rạc và bất hạnh, có thói đi lê chân và muốn trở thành tướng. Gã vừa sôi nổi vừa buồn chán, vừa điềm đạm vừa dễ thất vọng. Gã vừa tự mãn vừa tự ti, vừa táo bạo trong những thủ đoạn quản lý mà gã dùng để thu hút chú ý của cấp trên, vừa co vòi trong nỗi lo lắng rằng tất cả các thủ đoạn đó rất có thể sẽ gậy ông đập lưng ông. Gã đẹp trai nhưng thiếu hấp dẫn, một kẻ hung hăng, lực lưỡng, tự phụ đang phát phì và bị hành hạ kinh niên bởi những cơn sợ hãi dai dẳng. Đại tá Cathcart tự phụ bởi vì gã là một đại tá tư lệnh chiến trường mới chỉ ba mươi sáu tuổi; nhưng đại tá Cathcart thất vọng bởi vì mặc dù đã ba mươi sáu tuổi mà vẫn chỉ là một viên đại tá tư lệnh chiến trường.
Đại tá Cathcart không thể thẩm thấu được những gì tuyệt đối. Gã chỉ có thể đánh giá được sự tiến bộ của mình trong mối liên hệ với những người khác, và quan điểm của gã về sự thành công là làm được điều gì đó ít nhất ngang ngửa với tất cả những kẻ cùng tuổi, những kẻ đang làm điều đó tốt hơn gã. Việc có hàng nghìn người ở độ tuổi của gã hay già hơn thậm chí còn chưa lên được cấp thiếu tá khiến cho gã tràn ngập niềm vui hào nhoáng về năng lực phi phàm của bản thân; mặt khác, việc có những người bằng tuổi gã hoặc trẻ hơn đã lên cấp tướng đã tiêm nhiễm vào gã niềm đau khổ vật vã của thất bại và khiến gã gặm mãi ngón tay trong nỗi lo âu không sao khỏa lấp còn mãnh liệt hơn cả Hungry Joe.
Đại tá Cathcart là một gã to con, thô, vai rộng có mái tóc quăn đen cắt sát da đầu ngả bạc ở phần ngọn cùng một đót thuốc lá tinh xảo mà gã mua vào hôm trước cái ngày đến Pianosa để chỉ huy liên đoàn này. Mỗi dịp có thể gã đều trưng cái đót này ra và đã học được cách điều khiển nó một cách khéo léo. Tình cờ gã đã phát hiện ra rằng ẩn sâu bên trong con người gã là năng khiếu hút thuốc bằng đót vô cùng phong phú. Theo như gã biết thì chiếc đót thuốc của gã là duy nhất trên cả mặt trận Địa Trung Hải này, và ý nghĩ đó vừa khiến gã nở mày nở mặt vừa làm gã lo lắng băn khoăn. Gã không mảy may nghi ngờ rằng một người yêu đời và trí thức như tướng Peckem có thể sẽ chấp thuận việc gã hút thuốc bằng đót, mặc dù hai người rất ít khi gặp riêng nhau, điều này xét ở một khía cạnh nào đó lại khá là may mắn, đại tá Cathcart thở phào nhẹ nhõm, bởi vì thực ra rất có thể tướng Peckem lại không chấp thuận cho gã hút thuốc bằng đót. Khi những mối nghi ngại đó tấn công đại tá Cathcart, gã cố kìm cơn nức nở và muốn vứt thứ đồ chết tiệt đó đi, nhưng gã đã kịp kiềm chế được bởi một niềm tin vô bờ bến rằng chiếc đót thuốc đó không bao giờ thất bại trong việc tô điểm cho thể chất nam tính, đậm chất lính chiến được bao phủ trong lớp sơn bóng bẩy của chủ nghĩa anh hùng tinh vi đã khiến gã bừng sáng lên một mức ưu thế chói lóa so với toàn bộ các đại tá khác trong quân đội Mỹ mà gã đang cạnh tranh. Mặc dù, làm sao gã có thể khẳng định chắc chắn được?
Đại tá Cathcart cứ thế không biết mệt mỏi, một chiến thuật gia cần cù, dữ dội, tận tụy luôn tính toán ngày đêm để phụng sự bản thân. Gã là chiếc quan tài đá của chính mình, một nhà ngoại giao táo bạo và không bao giờ sai lầm luôn nhiếc móc bản thân với vẻ ghê tởm vì tất cả những cơ hội mà gã đã bỏ lỡ và đấm đá bản thân đầy nuối tiếc vì tất cả những lỗi lầm mà gã đã mắc phải. Gã luôn căng thẳng, dễ nổi nóng, chua chát và bảnh chọe. Gã là một kẻ cơ hội anh dũng luôn vồ lấy mọi cơ hội mà trung tá Korn tìm được cho gã và run lên trong tuyệt vọng ngã lòng ngay sau đó khi nghĩ về những hậu quả mà gã có thể gặp phải. Gã tham lam thu thập những tin đồn và trân trọng những câu chuyện phiếm. Gã tin tất cả những gì nghe được đồng thời không có niềm tin vào bất cứ điều gì. Gã luôn cảnh giác nghe ngóng tất cả mọi tín hiệu, đặc biệt nhạy bén với những mối quan hệ và những tình huống không có thật. Gã là kẻ luôn biết rõ mọi vấn đề đồng thời luôn cố gắng một cách tội nghiệp để biết được những gì đang xảy ra. Gã là một tên đầu gấu hay quát tháo dọa nạt không biết sợ gì đồng thời luôn ủ ê khôn nguôi về những ấn tượng kinh khủng bất khả tẩy xóa mà gã biết mình đã gây ra trước những người quan trọng vốn gần như không biết tới sự tồn tại của gã trên đời.
Tất cả mọi người đều làm khổ gã. Đại tá Cathcart xoay xở để sống từng bữa trong một thế giới bất ổn và là cấp số cộng của những vết đen và những mốc son của gã, những chiến thắng hoành tráng tưởng tượng và những thất bại kinh hoàng tưởng tượng. Cứ mỗi giờ gã lại thay đổi trạng thái từ nỗi thống khổ tới niềm hân hoan và ngược lại, nhân lên gấp bội sự vĩ đại của những chiến thắng, và cường điệu tới tột cùng sự nghiêm trọng của thất bại. Chưa ai thấy gã chợp mắt một chút nào vào ban ngày. Nếu có tin báo rằng tướng Dreedle hay tướng Peckem đang cười, đang giận dữ, hoặc có biểu hiện gì khác thì gã sẽ không cho phép mình được nghỉ cho đến khi tìm được lời giải thích hợp lý và cứ càu nhàu cho đến khi trung tá Korn thuyết phục gã hãy thư giãn và đừng quan trọng hóa vấn đề.
Trung tá Korn là một Đồng minh trung thành không thể thiếu nhưng luôn khiến đại tá Cathcart ngứa mắt. Đại tá Cathcart mãi đội ơn trung tá Korn vì những nước cờ thiên tài mà trung tá Korn đã bày ra rồi sau đó lại điên tiết vì nhận ra rằng rất có thể chúng sẽ không thành. Đại tá Cathcart vừa mang nợ trung tá Korn rất nhiều vừa chẳng thích Korn chút nào cả. Hai người bọn họ rất thân thiết. Đại tá Cathcart ghen tị với trí thông minh của trung tá Korn và thường xuyên tự nhủ rằng Korn vẫn chỉ là trung tá, dù cho già hơn đại tá Cathcart cả chục tuổi và rằng trung tá Korn chỉ tốt nghiệp một trường đại học công. Đại tá Cathcart than khóc cho số phận hẩm hiu của mình khi có một người phụ tá quý giá mà tầm thường như trung tá Korn. Thật là mất giá khi phải phụ thuộc toàn diện đến thế vào một kẻ chỉ tốt nghiệp một trường đại học công. Nếu cứ phải có ai đó không thể thiếu được đối với gã, đại tá Cathcart than thở, thì sao lại không thể là ai đó giàu có và ăn mặc chải chuốt, ai đó dòng dõi hơn, chín chắn hơn trung tá Korn và không coi khát khao lên tướng của đại tá Cathcart là hão huyền như đại tá Cathcart thầm nghi ngờ trung tá Korn luôn thầm nghĩ thế.
Đại tá Cathcart muốn được lên tướng tới mức sẵn lòng thử bất cứ điều gì, kể cả tôn giáo, và gã đã triệu tập cha tuyên úy tới phòng vào cuối một buổi sáng trong cái tuần mà gã đã cho tăng chỉ tiêu lên sáu mươi trận, đoạn chỉ tay cái rụp xuống bàn làm việc vào tờ The Saturday Evening Post. Đại tá mặc áo sơ mi kaki cổ áo mở rộng cho thấy cả bóng của đám râu đen lởm chởm in lên làn da cổ trắng nõn, môi dưới mềm xốp trề ra. Gã là người không bao giờ bị rám nắng, gã tránh xa mặt trời hết mức có thể để tránh bị cháy da. Đại tá cao hơn cha tuyên úy một cái đầu, và to gần gấp đôi, cái vẻ chuyên quyền hống hách quá mức của gã càng khiến cho cha tuyên úy trở nên mong manh, ốm yếu.
“Cha tuyên úy nhìn qua xem,” đại tá Cathcart chỉ đạo, lắp một điếu thuốc vào đót và đường bệ ngồi xuống chiếc ghế xoay đằng sau bàn làm việc. “Rồi cho tôi biết ý kiến của anh.”
Cha tuyên úy tuân lệnh nhìn xuống tờ tạp chí đang mở ra và thấy một bài xã luận về một liên đoàn bay ném bom Mỹ đang hoạt động ở Anh luôn có tuyên úy quân đội cầu nguyện tại phòng tác chiến trước mỗi trận đánh. Cha tuyên úy gần như òa khóc vì vui sướng khi nhận thấy đại tá sẽ không la hét gì gã. Hai người bọn họ gần như đã không nói chuyện với nhau kể từ sau buổi tối lộn xộn hôm đó khi đại tá Cathcart ném gã ra khỏi câu lạc bộ sĩ quan theo lệnh của tướng Dreedle sau khi thượng sĩ White Halfoat đấm vào mũi đại tá Moodus. Ban đầu cha tuyên úy lo rằng đại tá sẽ trả đũa gã vì đã quay lại câu lạc bộ sĩ quan vào tối hôm trước mà không xin phép. Gã đã tới đó với Yossarian và Dunbar sau khi hai gã này bất ngờ đến lều của gã ở bãi đất trống trong rừng để mời gã đi cùng. Mặc dù vẫn e dè đại tá Cathcart nhưng gã thấy việc dũng cảm chống lại sự khó chịu đó còn dễ dàng hơn là từ chối lời mời ân cần của hai người bạn mới, những người mà gã đã gặp tại một trong những lần đến thăm bệnh viện chỉ vài tuần trước đây đồng thời là những kẻ đã miệt mài nỗ lực và thành công trong việc cách ly gã khỏi hằng hà sa số những thăng trầm trong giao tế mà gã gặp phải khi thực thi nhiệm vụ của mình, để gã sống được một cách thân mật nhất có thể với hơn chín trăm sĩ quan và binh sĩ lạ hoắc luôn nghĩ gã là một con vịt kỳ khôi.
Cha tuyên úy dán mắt vào các trang tạp chí. Gã xem mỗi bức ảnh hai lần và chăm chú đọc lời chú thích trong lúc sắp xếp phần trả lời cho câu hỏi của đại tá thành một câu hoàn chỉnh về ngữ pháp, gã đã chỉnh đi chỉnh lại, duyệt đi duyệt lại câu đó trong đầu rất nhiều lần mới gom đủ dũng khí để lên tiếng.
“Tôi cho rằng cầu nguyện trước mỗi trận đánh là một nghi thức rất hợp đạo lý và đáng khen, thưa sếp,” gã rụt rè mở lời, và chờ đợi.
“Ừ,” đại tá nói. “ Nhưng tôi muốn biết rằng theo anh thì có làm được điều đó ở đây không?”
“Vâng thưa sếp,” cha tuyên úy ngập ngừng một lát rồi mới trả lời. “Tôi nghĩ là có thể làm được.”
“Vậy thì chúng ta hãy thử làm xem sao.” Hai bên má bệu trắng như bột của đại tá chợt nhuốm những vệt ửng hồng háo hức. Gã đứng dậy và bắt đầu phấn khích đi đi lại lại. “Xem họ đã làm được bao nhiêu là điều tốt cho những người lính ở Anh này. Đây là ảnh một viên đại tá ở trong tờ The Saturday Evening Post, ông ấy đã cử cha tuyên úy tới cho mọi người cầu nguyện trước mỗi trận đánh. Nếu cầu nguyện tốt cho ông ấy thì cũng tốt cho ta. Rất có thể nếu chúng ta cầu nguyện thì họ sẽ cho đăng ảnh tôi lên tờ The Saturday Evening Post.”
Đại tá lại ngồi xuống và mỉm cười xa xôi giữa những suy tính bộn bề. Cha tuyên úy không biết nên nói gì tiếp. Với vẻ trầm ngâm in đậm trên khuôn mặt hình chữ nhật nhợt nhạt, gã cho phép ánh mắt mình hạ cánh nơi những giạ đựng cà chua mận đỏ ối đang đứng thành hàng tựa vào tường. Gã giả vờ như đang tập trung suy nghĩ về câu trả lời. Một lúc sau gã nhận ra rằng mình đang nhìn chằm chằm vào hàng hàng dãy dãy giạ cà chua và trở nên tò mò kinh khủng về vai trò của chúng tại phòng chỉ huy này tới mức gã hoàn toàn quên béng đi vụ cầu nguyện cho đến khi đại tá Cathcart, ân cần và lạc đề, cất tiếng hỏi:
“Cha tuyên úy có muốn mua một ít không? Chúng đã được hái từ ngay nông trại trên đồi của trung tá Korn và tôi. Tôi có thể bán cho anh một thùng với giá buôn.”
“Ồ không thưa sếp. Tôi không nghĩ vậy.”
“Thế cũng không sao cả,” đại tá lập tức trấn an gã. “Anh không phải mua đâu. Milo luôn sẵn lòng chộp lấy tất cả những gì chúng tôi sản xuất được. Số cà chua này mới hái hôm qua thôi. Xem chúng mới chín mọng mà rắn chắc làm sao, như ngực cô gái trẻ.”
Cha tuyên úy đỏ mặt, và đại tá ngay lập tức hiểu ra mình đã mắc sai lầm. Gã xấu hổ cúi đầu, gương mặt nặng nề bừng nóng. Những ngón tay trở nên thô kệch và vụng về. Đại tá ghét cay ghét đắng cha tuyên úy chỉ vì đó là cha tuyên úy, kẻ đã biến nhận xét vừa xong của gã thành một câu nói hớ thô lỗ trong khi, nếu ở bất cứ hoàn cảnh nào khác, đại tá biết, câu đó sẽ được coi là thông minh và tinh tế. Gã vật vã cố tìm xem có cách nào khác giải thoát cho cả hai khỏi tình trạng bối rối kinh khủng này. Thế rồi gã nhớ ra rằng cha tuyên úy mới chỉ là đại úy, và gã ngay lập tức ngồi thẳng dậy, thở hổn hển với vẻ như bị sốc và bị xúc phạm. Gò má gã sắt lại vì cuồng nộ trước ý nghĩ mình vừa bị lừa bẽ bàng bởi một kẻ đã gần bằng tuổi gã mà vẫn chỉ là đại úy, và gã chồm người về phía cha tuyên úy như để trả đũa với vẻ đối kháng chết chóc tới mức cha tuyên úy bắt đầu run rẩy. Đại tá trừng phạt gã một cách ác nghiệt bằng một cú lườm kéo dài, tóe lửa, đầy ác ý, căm thù và câm lặng.
“Chúng ta đang nói về chuyện khác,” cuối cùng thì gã cũng cay độc nhắc cho cha tuyên úy biết. “Không phải chúng ta đang nói về bộ ngực rắn chắc, chín mọng của những cô gái trẻ đẹp mà là về một thứ hoàn toàn khác. Chúng ta đang nói về việc thực hiện các nghi thức tôn giáo ở trong phòng tác chiến trước mỗi trận đánh. Liệu có lý do nào khiến chúng ta không thể làm được việc này không?”
“Không, thưa sếp,” cha tuyên úy lúng búng.
“Vậy thì chúng ta sẽ bắt đầu ngay từ nhiệm vụ chiều nay.” Vẻ thù địch của đại tá giảm dần khi nói đến những chi tiết. “Giờ thì tôi muốn anh suy nghĩ thật kỹ về những lời cầu nguyện mà chúng ta sẽ nói. Tôi không muốn cái gì quá nặng nề hay buồn thảm. Tôi muốn anh chọn cái gì nhẹ nhàng và sống động, những gì có thể khiến cho bọn họ ra trận với cảm giác thoải mái. Anh có hiểu ý tôi không? Tôi không muốn những thứ kiểu như Vương quốc của Chúa hay Thung lũng Tử thần. Như vậy thì quá tiêu cực. Sao anh lại làm vẻ mặt rầu rĩ đó thế?”
“Ồ xin lỗi sếp,” cha tuyên úy lắp bắp. “Tự nhiên tôi lại nghĩ về bài thánh ca thứ hai mươi ba ngay lúc sếp nói.”
“Nó như thế nào?”
“Đó chính là cái mà sếp vừa nói. ‘Chúa là người chăn chiên; con…’ ”
“Đó chính là cái mà tôi vừa nói. Bỏ qua đi. Anh còn gì khác không?”
“ ‘Hãy cứu vớt con, hỡi Chúa; bởi vì nước đang tràn về…’ ”
“Không có nước nôi gì cả,” đại tá quyết định, thô lỗ thổi cái đót sau khi gảy đầu điếu thuốc đã hết vào gạt tàn mặt lỗ làm bằng đồng thau. “Tại sao chúng ta không thử chọn cái gì giàu tính nhạc? Chẳng hạn như cái gì có đàn hạc trên những cây liễu ấy?”
“Bài đó thì lại có những dòng sông Babylon ạ, thưa sếp,” cha tuyên úy đáp. “ ‘… ta ngồi xuống đó, ồ vâng, ta khóc than, khi nhớ về Zion.’ ”
“Zion? Quên nó đi ngay và luôn. Tôi không hiểu sao cái câu như thế lại lọt vào bài đó được. Anh không còn thứ gì hài hước mà tránh xa nước, thung lũng và Chúa ư? Tôi muốn tránh xa hoàn toàn chủ đề tôn giáo nếu có thể.”
Cha tuyên úy đầy vẻ hối lỗi. “Tôi xin lỗi, thưa sếp, nhưng tất cả những lời cầu nguyện mà tôi biết đều khá ảm đạm và có ít nhất một vài ám chỉ tới Chúa.”
“Vậy thì hãy nghĩ ra những lời cầu nguyện mới đi. Bọn họ còn ta thán chưa đủ về số trận tôi bắt họ phải bay hay sao mà cần phải xát thêm muối vào vết thương bằng cách đưa ra những lời cầu khẩn về Chúa hoặc cái chết hay thiên đường. Chúng ta không thể có cách nào khác tích cực hơn được à? Tại sao tất cả chúng ta không thể cầu nguyện cho thứ gì đó tốt lành, như rải được bom sát nhau hơn chẳng hạn? Chúng ta không thể cầu nguyện sao cho có thể rải bom sát nhau hơn được sao?”
“Ồ vâng thưa sếp, tôi nghĩ là được,” cha tuyên úy ngập ngừng trả lời. “Nhưng nếu sếp chỉ muốn có vậy thì thậm chí sếp đâu có cần đến tôi. Sếp có thể tự làm được mà.”
“Tôi biết là tôi có thể,” đại tá chua chát trả lời. “Nhưng anh có biết nhiệm vụ của anh ở đây là gì không? Tôi cũng có thể tự mua đồ ăn cho mình, nhưng đó là nhiệm vụ của Milo, đó là lý do cậu ấy làm điều đó cho tất cả các liên đoàn trong vùng này. Nhiệm vụ của anh là dẫn dắt chúng ta cầu nguyện, và từ giờ trở đi anh sẽ hướng dẫn mọi người cầu sao cho ta sẽ ném bom được theo hình sát nhau hơn trước mỗi nhiệm vụ. Như vậy đã rõ chưa? Tôi nghĩ điều đó thực sự rất đáng để cầu. Đối với tướng Peckem đó sẽ là một điểm ghi được của mỗi người chúng ta. Tướng Peckem cho rằng khi bom nổ sát cạnh nhau thì ảnh chụp mặt đất từ trên không sẽ đẹp hơn.”
“Tướng Peckem ư, thưa sếp?”
“Đúng đó, cha tuyên úy,” đại tá đáp lời, cười khùng khục đầy vẻ bề trên khi thấy sự bối rối của cha tuyên úy. “Tôi không muốn tin này lan truyền đi, nhưng có vẻ như rốt cuộc tướng Dreedle cũng đã sắp phải đi và tướng Peckem sẽ được bổ nhiệm để thay thế vị trí ông ấy. Nói thật thì tôi không thấy tiếc vì những gì sắp diễn ra. Tướng Peckem là một người rất tốt, và tôi nghĩ dưới trướng ông ấy thì tất cả chúng ta đều sẽ khá hơn nhiều. Mặt khác, rất có thể chuyện đó sẽ không xảy ra và chúng ta vẫn dưới quyền tướng Dreedle. Nói thật thì tôi cũng không lấy làm tiếc nếu điều đó xảy ra bởi vì tướng Dreedle cũng là một người rất tốt, và tôi nghĩ nếu ở dưới trướng ông ấy thì tất cả chúng ta cũng sẽ khá hơn nhiều. Tôi hy vọng anh sẽ giữ kín chuyện này. Tôi không muốn bất cứ ai trong bọn họ nghĩ rằng tôi đang ủng hộ người kia.”
“Vâng thưa sếp.”
“Vậy thì tốt,” đại tá thốt lên, đoạn vui vẻ đứng dậy. “Nhưng tất cả những chuyện phiếm này sẽ không thể đưa chúng ta lên tờ The Saturday Evening Post được, phải không cha tuyên úy? Hãy nghĩ xem chúng ta có thể mở ra cách làm gì mới. À mà này, cha tuyên úy, nhớ không được nói trước một lời nào về chuyện này với trung tá Korn nhé. Hiểu không?”
“Vâng thưa sếp.”
Đại tá Cathcart bắt đầu trầm ngâm đi tới đi lui dọc theo những lối đi hẹp còn lại giữa những giạ cà chua và bộ bàn ghế ở giữa phòng. “Tôi nghĩ là anh sẽ phải ở ngoài phòng tác chiến cho đến khi lên kế hoạch xong, bởi vì đó là những tin mật. Chúng ta sẽ đưa anh vào lúc thiếu tá Danby căn giờ chuẩn cho tất cả các đồng hồ. Vụ giờ giấc chuẩn thì tôi nghĩ chẳng có gì phải bí mật. Chúng ta sẽ dành khoảng một phút rưỡi cho anh. Liệu một phút rưỡi có đủ?”
“Vâng đủ thưa sếp. Nếu không cần phải đuổi những người vô thần ra khỏi phòng và đưa cả lính trơn vào phòng.”
Đại tá Cathcart khựng lại. “Những kẻ vô thần nào cơ?” gã rống lên tự vệ, trong chớp mắt gã đột ngột chuyển thái độ thành một người đức hạnh và phản chiến. “Không có ai vô thần trong đơn vị của tôi! Vô thần là phạm pháp, phải không?”
“Không thưa sếp.”
“Không ư?” đại tá tỏ vẻ ngạc nhiên. “Như vậy thì không Mỹ một chút nào cả, phải không?”
“Tôi không chắc lắm, thưa sếp,” cha tuyên úy đáp lời.
“Ồ, nhưng tôi cho là vậy!” đại tá dõng dạc tuyên bố. “Tôi sẽ không để cho những nghi lễ tôn giáo của chúng ta bị ngắt quãng bởi một lũ vô thần tồi tệ. Bọn họ sẽ không có được bất cứ đặc ân nào từ tôi hết. Bọn họ chỉ được ở nguyên chỗ và tham gia cầu nguyện với tất cả những người còn lại. Thế còn vụ lính trơn là thế nào vậy? Thế quái nào mà chúng lại chui vào vụ này được?”
Cha tuyên úy cảm thấy mặt đỏ lên. “Tôi xin lỗi, thưa sếp. Tôi chỉ nghĩ là sếp muốn tất cả binh lính có mặt, bởi vì họ cũng sẽ cùng ra trận.”
“Ồ, tôi không muốn. Họ cũng có một Chúa và một cha tuyên úy cho riêng họ rồi, phải không?”
“Không thưa sếp.”
“Anh nói gì vậy? Ý của anh là họ cũng cầu nguyện chung một Chúa với chúng ta ư?”
“Vâng thưa sếp.”
“Và Người cũng lắng nghe.”
“Tôi nghĩ là có, thưa sếp.”
“Ồ, vậy thì quỷ tha ma bắt tôi đi,” đại tá nhận xét, đoạn tự bật cười hô hố đầy thích thú một cách khó hiểu. Tâm trạng gã đột ngột chùng xuống ngay sau đó, và gã lo lắng vò mái tóc xoăn ngắn củn, đen và đang ngả bạc. “Anh có thực sự nghĩ rằng cho lính trơn cùng tham gia buổi cầu nguyện là một ý hay không?” gã hỏi đầy vẻ quan tâm.
“Tôi chỉ nghĩ như vậy thì hợp lý thôi, thưa sếp.”
“Tôi vẫn muốn để bọn họ ở bên ngoài,” đại tá tâm tư, và bắt đầu điên cuồng vừa bẻ khớp ngón tay vừa đi tới đi lui. “Ồ, xin đừng hiểu lầm tôi, cha tuyên úy ạ. Không phải tôi coi đám lính trơn là bẩn thỉu, tầm thường hay hạ cấp gì đâu. Chỉ là vì chúng ta không có đủ chỗ. Dù cũng phải nói thẳng là tôi cũng không muốn thấy cảnh binh lính và sĩ quan chẳng mấy thân thiện với nhau trong phòng tác chiến. Họ đã phải nhìn mặt nhau quá nhiều lúc phải cùng làm nhiệm vụ rồi, tôi thấy có vẻ như là vậy. Một vài người bạn tốt nhất của tôi cũng là lính trơn, anh cũng hiểu đấy, nhưng tôi cũng chỉ cho phép họ tiếp cận mình có mức độ thôi. Nào nói thật đi, cha tuyên úy, anh đâu có muốn em gái mình cưới một thằng lính quèn, phải không?”
“Em gái tôi là lính quèn, thưa sếp,” cha tuyên úy đáp.
Đại tá lại khựng lại và liếc cha tuyên úy một cú sắc lẹm để đảm bảo không phải là gã đang bị người kia chòng ghẹo. “Anh nói vậy là ý gì, cha tuyên úy? Anh đang cố tỏ ra hài hước đấy hả?”
“Ôi không thưa sếp,” cha tuyên úy vội giải thích với vẻ khó chịu khổ sở. “Nó mới là thượng sĩ hải quân.”
Đại tá vốn đã chưa bao giờ thích cha tuyên úy và giờ thì gã còn căm ghét và ngờ vực tay này. Gã bỗng thấy một dự cảm sắc lạnh về hiểm nguy và tự hỏi liệu có phải cả cha tuyên úy này cũng đang ủ mưu chống lại gã, liệu có phải vẻ ngoài trầm lặng, mờ nhạt của gã thật ra chỉ là lớp ngụy trang nham hiểm che giấu một tham vọng bùng cháy mà sâu thẳm bên trong là sự xảo quyệt và bất lương. Có vẻ gì đó rất kỳ khôi ở cha tuyên úy và đại tá nhanh chóng nhận ra đó là gì. Cha tuyên úy vẫn đang đứng nghiêm chú ý, bởi vì đại tá đã quên cho gã được nghỉ. Cứ mặc xác gã đứng như thế, đại tá cay cú quyết định, để cho gã biết ai mới là sếp và để bảo vệ đại tá khỏi bị mất giá khi chấp nhận bỏ qua vụ cầu nguyện.
Đại tá Cathcart đi về phía cửa sổ như đang bị thôi miên với ánh nhìn tư lự đờ đẫn buồn rầu. Bọn lính trơn thì lúc nào cũng không thể tin được rồi, gã quả quyết. Gã buồn bã thê lương nhìn xuống trường bắn đĩa bay mà gã đã ra lệnh cho xây để phục vụ đám sĩ quan trong trụ sở liên đoàn, đoạn nhớ lại buổi chiều nhục nhã đó khi tướng Dreedle gay gắt quở trách gã trước mặt cả trung tá Korn lẫn thiếu tá Danby và ra lệnh cho gã phải mở cửa trường bắn cho cả binh lính lẫn sĩ quan chiến trường. Trường bắn đĩa đó quả là một vết đen đối với gã, đại tá Cathcart buộc lòng kết luận. Gã chắc mẩm rằng tướng Dreedle chẳng bao giờ quên chuyện đó, mặc dù gã cũng chắc mẩm rằng tướng Dreedle thậm chí còn chẳng nhớ nổi nó, điều này quả là bất công, đại tá Cathcart rên xiết, bởi vì chỉ riêng ý tưởng về trường bắn đĩa đáng ra phải là một mốc son của gã, mặc dù nó quả đúng là một vết đen. Đại tá Cathcart bất lực trong việc thẩm định xem chính xác thì gã đã được hay mất đi bao nhiêu điểm sau vụ trường bắn đĩa trời đánh thánh vật ấy và gã thầm ước giá như có trung tá Korn ở trong phòng ngay lúc này để giúp gã đánh giá lại toàn bộ tấn kịch này và xua bớt đi những nỗi sợ trong lòng gã.
Tất cả quả là rất đau đầu, tất cả quả là rất oải. Đại tá Cathcart bỏ đót thuốc ra khỏi miệng và dựng ngược nó lên trong túi áo, và bắt đầu buồn khổ gặm móng cả hai bàn tay. Tất cả mọi người đều chống lại gã, và gã đau đớn đến tận tâm can vì trung tá Korn đã không ở bên gã trong lúc khủng hoảng này để giúp gã quyết định xem nên làm như thế nào với vụ cầu nguyện. Gã gần như không có chút tin tưởng nào đối với cha tuyên úy, tay này mới chỉ là đại úy thôi. “Anh nghĩ,” gã hỏi, “việc không cho lính trơn tham gia có ảnh hưởng gì tới cơ hội thành công của chúng ta không?”
Cha tuyên úy ngập ngừng, lại có cảm giác chông chênh. “Vâng thưa sếp,” rốt cuộc gã cũng trả lời. “Tôi nghĩ là một việc như vậy mà có ảnh hưởng tới cơ hội được Chúa đáp lại những lời cầu nguyện ta sẽ rải được bom theo hình mẫu sát nhau hơn này thì cũng dễ hiểu thôi.”
“Tôi thậm chí còn không nghĩ tới chuyện đó!” đại tá ré lên, hai mắt hấp háy và đẫm lệ như hai vũng nước nhỏ. “Ý của anh là Chúa có thể sẽ quyết định trừng phạt tôi bằng cách khiến cho chúng ta thả bom rời rạc hết cả?”
“Vâng thưa sếp,” cha tuyên úy nói. “Thật dễ hiểu là Người có thể làm thế.”
“Vậy thì thôi dẹp đi,” đại tá quả quyết trong cơn giận dỗi mà không cần tham khảo ý ai. “Tôi sẽ không tổ chức những buổi cầu nguyện chết tiệt này chỉ để làm cho mọi việc tồi tệ hơn.” với một nụ cười khẩy đầy khinh miệt, gã ngồi xuống sau bàn làm việc, nhét thuốc vào cái đót rỗng để hút, và chìm trong im lặng thai nghén ý tưởng một lúc. “Nghĩ cho kỹ thì,” gã thú nhận, với cả cha tuyên úy và với chính bản thân, “đằng nào việc bắt mọi người cầu nguyện như thế cũng không phải là một ý hay. Các biên tập viên của tờ The Saturday Evening Post rất có thể sẽ không hợp tác.”
Đại tá từ bỏ dự án của mình trong tiếc nuối, bởi gã đã nặn ra nó một cách hoàn toàn tự thân và đã hy vọng dùng nó như một minh chứng hùng hồn để mọi người biết được rằng gã không thực sự cần tới trung tá Korn. Nhưng khi nó tiêu tùng thì gã lại vui mừng vì thoát được nó, bởi ngay từ đầu gã đã lo lắng về những hiểm nguy có thể xảy ra do lập kế hoạch mà không hỏi ý kiến trung tá Korn. Gã thở phào một hơi đầy thỏa mãn. Giờ thì gã đã đánh giá bản thân cao hơn rất nhiều vì đã bỏ qua ý tưởng của mình, vì gã đã có một quyết định sáng suốt, và quan trọng nhất là, gã đã đưa ra quyết định sáng suốt này mà không cần hỏi ý kiến trung tá Korn.
“Có việc gì nữa không, thưa sếp?” cha tuyên úy hỏi.
“Không,” đại tá Cathcart nói. “Trừ phi anh có chuyện gì cần nói.”
“Ồ không thưa sếp. Chỉ là…”
Đại tá trợn mắt lên như vừa bị sỉ nhục, chăm chú nhìn cha tuyên úy đầy vẻ nghi ngờ xa lánh. “Chỉ là sao, cha tuyên úy?”
“Thưa sếp,” cha tuyên úy nói, “một vài người rất lo lắng vì sếp đã tăng chỉ tiêu lên mức sáu mươi trận. Họ nhờ tôi nói với sếp về điều đó.”
Đại tá im lặng. Gương mặt cha tuyên úy ửng đỏ tới tận chân tóc trong lúc chờ đợi. Đại tá để cho gã lúng túng như vậy một hồi lâu, nhìn gã không rời mắt, hờ hững, vô cảm.
“Cứ bảo họ rằng đang có chiến tranh,” cuối cùng thì gã lạnh lùng chỉ thị.
“Cảm ơn sếp, tôi sẽ bảo,” cha tuyên úy trả lời với lòng biết ơn dào dạt vì cuối cùng đại tá cũng nói ra một cái gì đó. “Họ đang tự hỏi tại sao sếp lại không trưng dụng người trong đội ngũ thay thế đang đợi ở châu Phi để làm thay bọn họ và cho phép bọn họ được trở về nhà.”
“Đó là vấn đề quản lý,” đại tá nói. “Đó không phải là chuyện của bọn họ.” Gã uể oải chỉ về phía tường. “Anh cứ tự nhiên lấy một quả cà chua đi, cha tuyên úy. Cứ tự nhiên, đó là quà của tôi.”
“Xin cảm ơn sếp. Nhưng thưa sếp…”
“Không có gì đâu. Anh có thích sống ở đó trong rừng không, cha tuyên úy? Mọi thứ đều ổn cả chứ?”
“Vâng thưa sếp.”
“Vậy thì tốt. Nếu cần gì thì cứ liên hệ với chúng tôi nhé.”
“Vâng thưa sếp. Cảm ơn sếp. Nhưng thưa sếp…”
“Cảm ơn vì đã ghé qua, cha tuyên úy. Giờ tôi có chút việc phải làm. Nếu anh nghĩ ra bất cứ cái gì có thể giúp đưa tên chúng ta lên tờ The Saturday Evening Post thì nói cho tôi biết nhé.”
“Vâng thưa sếp. Tôi sẽ nói.” Đoạn cha tuyên úy, bằng một nỗ lực phi thường của ý chí, liều mình xông lên sang sảng. “Tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của một trong số các phi công cắt bom, thưa sếp. Yossarian.”
Đại tá đưa mắt liếc nhanh lên, bắt đầu lờ mờ nhận ra. “Ai cơ?” gã cảnh giác hỏi.
“Yossarian, thưa sếp.”
“Yossarian?”
“Vâng thưa sếp. Yossarian. Anh ta đang trong tình trạng tồi tệ lắm, thưa sếp. Tôi e rằng anh ta sẽ không thể chịu đựng được thêm lâu hơn nữa mà không làm một việc gì đó dại dột.”
“Thật vậy à, cha tuyên úy?”
“Vâng thưa sếp. Tôi e là vậy.”
Đại tá trầm ngâm nghĩ một lúc. “Cứ bảo anh ta là hãy tin ở Chúa,” cuối cùng gã đưa ra lời khuyên.
“Xin cảm ơn sếp,” cha tuyên úy nói. “Tôi sẽ nói.”
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22