Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Lính Tây Nam
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 17: Đuổi Bắt Tà Mốc
Đ
ài kỹ thuật vô tuyến điện quân đoàn dò được tin Tà Mốc, chỉ huy quân khu Tây nam đang chạy về biên giới Thái lan qua nẻo “mục tiêu A3”. Tiểu đoàn 4 đang trong thung lũng này, được lệnh lên đường giữa đêm khuya, nhằm phum Kâmnon tiến gấp. Đơn vị bỏ đường bò, cắt rừng bí mật đến mục tiêu. Cũng may là rừng quãng này thưa nên chúng tôi hành quân không đến nỗi vất vả lắm. Đi cả đêm được gần 17 km, nhưng so với leo URăng thì thấm tháp gì! Đến gần vị trí xác định, tiểu đoàn hành quân chậm lại, vừa đi vừa tìm dấu vết. Đến gần vị trí trên bản đồ chỉ nơi con suối gặp đường bò, chúng tôi thận trọng cắt ra đường. Phát hiện vết xích xe M.113 hằn trên triền rừng còn rất mới. Thằng giặc già bỏ đường bò để tránh tạo dấu vết. Cả đơn vị được lệnh cấp tốc đuổi theo. Đại đội 2 đi đầu, kế đến đại đội 1 rồi tiểu đoàn bộ…Đơn vị cứ theo dấu xích xe mà chạy tới.
Trong khi mũi mồm tranh nhau thở, đã thoảng thấy mùi dầu máy. Hết khoảng rừng, chúng tôi ùa ra một bãi trảng, dốc thoai thoải mọc đầy cây dầu non. Cách khoảng 150m, một chiếc xe M.113 đang đỗ. Quanh chiếc xe, địch đứng ngồi lố nhố. Anh Quảng tiểu đoàn trưởng định ra lệnh bí mật bao vây tiếp cận nhưng không kịp. Hai đại đội đi đầu không chờ lệnh, nổ súng xung phong ngay. Bây giờ thì đến cả trinh sát cũng biết xung phong! Tiếng súng con rồ lên. Địch có chừng một trung đội, bị bất ngờ bỏ xe rẽ rừng chạy ào ào. Vừa chạy vừa quay lại bắn léc chéc. Trong số đó nhìn thấy cả mấy bóng phụ nữ quấn sà rông. Phần lớn tiểu đoàn bộ dừng lại ở bìa trảng cùng ban chỉ huy, tựa cây ngồi thở xem chúng nó xung phong. Mắt tôi chăm chú nhìn cái xe thiết giáp, nghĩ là nó chuẩn bị ăn đạn B.41 như trong phim. Cảnh mong chờ đó không diễn ra. Thấy mấy thằng lính ta nhảy lên xe, quay nòng khẩu đại liên bắn theo hướng địch chạy. Rồi một đám lính nữa lao đến bu tròn, lom khom quanh cái xe. Cái quái gì thế kia? Trúng mánh rồi! Tiểu đoàn bộ xung phong…!
Chạy đến nơi thì hóa ra chúng nó đang nhặt vàng, nhưng lúc đó đã gần sạch sành sanh. Lúc bộ binh nhảy lên chiếm xe địch, một thằng bê thùng đại liên trong xe tính thay băng đạn đang bắn sắp hết thì nặng quá trượt tay. Thùng đạn đại liên rơi bịch xuống văng tung nắp. Cả một khoảng vàng lấp lánh xoà ra. Những thằng trong xe sau khi ních đầy túi những nhẫn những miếng thì bốc vét ném ra bên ngoài ầm ầm. Bọn bên ngoài đổ xô vào nhặt, chen nhau bu quanh cái xe M.113 vừa thu được.
Ban chỉ huy tiểu đoàn chạy đến nơi thì hầu như chẳng còn dấu vết gì. Anh Thào rút K.59 cầm tay, ra lệnh những quân nhân nào đã nhặt được lập tức nộp, thu gom ngay về cán bộ chính sách. Quân đội cách mạng hay là một lũ kẻ cướp? Một số chậm chân, bị trông thấy quả tang mang nộp lại một phần lấy lệ. Cũng chẳng sổ sách kê khai định lượng gì hết. Quá bằng mang chia lộc cho các ông chậm chân. Thì giờ đâu mà sổ với sách? Chúng nó vẫn còn găm đầy đâu đó hoặc mang gửi, chia cho những thằng đồng hương cùng đoàn.
Thằng Cầm điếc anh nuôi nhặt một bộ vest đũi trắng mắc ngay vào người. Ai cũng biết là nó chỉ nghịch thế thôi nhưng ông Thào đang cáu, bắt nó mặc nguyên bộ mồi đó, khoác AK đứng nghiêm phơi nắng cạnh cái xe hơn 1h đồng hồ. Nhìn không ai nhịn được cười. Chiến lợi phẩm thu được trên xe ngoài những thứ như tôi vừa kể trên còn một số quần áo dân sự linh tinh, vài thùng các tông niêm phong đựng rất nhiều tài liệu. Tôi đoán đó là những tài liệu hết sức quan trọng vì cán bộ quân báo quân đoàn xuống ngay lập tức hôm sau để chuyển đi.
Đơn vị có lệnh đứng chân ngay tại vị trí này. Chiều tối, tôi đang nằm võng thì tiếng AK nổ sát sạt. Dây võng đứt đôi, đầu rơi xuống đập vào chân cọc phụ đau điếng. Thằng Hiệp híp cùng trung đội, mắc võng nằm cạnh thì kêu rầm lên. Nó bị một viên xuyên qua tay, mỡ lòi ra vàng như mỡ gà. Người bắn chúng tôi là anh Bình vàng, trung đội trưởng vận tải xách súng đi ị bậy. Khi về cắt lạc hướng, thấy chúng tôi nằm hơi xa đội hình, tưởng là địch nên bắn nhầm. Anh Nhương mất người nên tức, sang vận tải chửi một trận. Lão này kỵ và hay bôi bác dân Thanh hóa, trừ mỗi anh Ky và Toàn cồ thì không dám vì hai anh này to như đô vật.
Riêng thằng Hiệp khoái trá với cái vết thương phần mềm đó. Nhà nó ở 74 đường Nam Bộ và là fan ruột của The Beatles. Trên cái áo lót trắng, nó lấy bút bi vẽ những hình lằng nhằng như những củ khoai lang nằm cạnh nhau, chấm thêm mấy cái mắt, mấy cây guitar điện… và nó giải thích đấy là chân dung ban nhạc. Hồi ở Mekong, tôi đã ném cái bát của nó xuống sông vì nó sai tôi đi rửa bát. Hai thằng suýt đập nhau trận đó nhưng anh Ky can ra. Hôm nay thì nó cứ rút ra rút vào cái nhẫn sụ không biết đứa nào cho. Nó theo xe quân báo quân đoàn về viện rồi biệt tích luôn. Sau chiến tranh tôi mới gặp lại nó. Khi gặp lại, nó kể là nó được đi học trường Sĩ quan Lục quân 1 ở Sơn Tây. Thế mới tài!
Sau này, chúng tôi mới biết trận đó đã để xổng mất Tà Mốc, Iêng Thirit (vợ Iêng Sary) cùng toàn bộ BCH quân khu tây nam của địch. Quá là tiếc! Giá như may mắn tóm sống được nó thì có lẽ đơn vị tôi không phải nằm đến gần 10 năm ròng rã bên đó. Và chắc chắn sẽ có Huân chương Quân công…
Tiểu đoàn 4 luồn trở ra đường ngoài thung lũng lớn sau một đêm mưa sầm sập. Cơn mưa đêm đầu mùa thật lớn. Một cái trảng rộng mênh mông hiện ra trước mắt. Bên kia trảng là dãy núi cao ngất màu lam thẫm, đỉnh trùm mây trắng. Trần mây thấp, trĩu nặng, cắt phẳng hình học ngang nửa trên núi, kéo suốt qua đầu chúng tôi như một biển sữa tĩnh lặng trên đầu, trông rất ấn tượng. Nước mưa rửa sạch cây lá và không khí, làm cho tầm nhìn trở nên trong suốt. Một khung cảnh địa lý hùng vĩ không dễ quên. Gần hơn là mấy cái nhà sàn vẹo vọ nằm dưới mấy cái cây dầu rái cổ thụ mọc thành chòm. Vài khẩu pháo 105mm chưa tháo càng khỏi xe kéo. Tụi trung đoàn pháo 42 với bọn hậu cần quân trung đoàn 1 đang nấu cơm sáng. Nhìn thấy lửa, ngửi thấy mùi khói mới biết mình vừa lạnh vừa đói. Cơm bọn nó vừa bắc xuống là tụi tôi nhào zô. Ê đồng hương cho bạn tém đôi chén. Nhiều thằng bẻ vội nhánh cây làm đũa tạm nhao vào. Chỉ trong vòng 5 phút, cái nồi quân dụng cơm loại to, xoong cá mắm hoai chưng sền sệt đã hết sạch. Đám quân bạn chưng hửng nhìn chúng tôi tập kích. Thằng anh nuôi lẳng lặng đi nấu nồi cơm khác. Khi nó kéo nồi xuống suối rửa vẫn có thằng lính D4 đuổi theo, lấy cạnh chén cà thành nồi kiếm chút cháy bẹn. Chắc chúng nó không hiểu tụi tôi là cái loại lính gì?
Gần hai tháng chui nhủi trong rừng, chỉ thấy cây và cây… nay được tuôn ra cái trảng cỏ rộng lớn không hạn chế tầm nhìn nên tinh thần anh em khoái lắm. Một đàn vịt trời đang lội gần bờ cái đìa lớn. Những con vịt xám, cánh nâu vàng, chỏm đầu xanh lục trông rất đẹp. Anh Sơn B trưởng trinh sát kéo bọp phát M.79 bi. Hai con giãy giãy, bềnh trên mặt nước. Một thằng em ngoan lội xuống nhặt cho đàn anh nhưng được vài bước thì bị thụt nên đứng im nghệt mặt. Nó không nhúc nhắc được chân nữa, la ồi ồi. Tụi trinh sát hè nhau túm tay lôi nó lên. Ống quần từ đùi trở xuống quện toàn bùn đen sủi, mùi thối hoắc. Không đứa nào dám lội nữa. Khi nó đang gột quần thì ruồi vàng ở đâu bay đến vu vu. Tôi bị nó chích phát vào cổ vừa đau vừa ngứa. Bọn chúng tôi vừa đập ruồi, vừa chạy chí chết cho mau qua cái đìa nguy hiểm này. Mùi bùn thối và nước động làm bọn ruồi vàng tưởng bọn tôi là loài ăn cỏ guốc chẵn, đến ngâm nước sớm ở cái đìa vĩnh cửu này. Nốt cắn con ruồi vàng còn gây ngứa rất lâu.
Chúng ta đang ở thời điểm tháng 5 năm 1979, tại các vùng phụ cận quanh thung lũng A3 tỉnh Pursat. Kể từ khi bắt đầu leo núi URăng, thời gian bị nhoè đi. Cuốn nhật ký không ghi thường xuyên được nữa, bởi những cuộc hành quân liên miên mệt mỏi, những trận mưa rừng xối xả. Nhưng những câu chuyện của đời lính không thể nào quên vẫn tươi nguyên trong ký ức, trong từng trang thiếu xé ra từ cuốn sổ “tiểu tư sản” để hút thuốc rê. Đôi khi, một mảnh cỏ khô giắt lại, một vết cháy do tàn thuốc đêm sâu nào đó hằn trong cuốn sổ gầy… cũng nhắc lại được rất nhiều điều…
Vào một ngày mưa như thế, chúng tôi được lệnh hành quân ra ga Bâmnak. Nghe đến từ Ga, từ Đường sắt đứa nào cũng thấy sướng. Nó là biểu tượng của văn minh, của phố thị mà đám lính rừng tụi tôi đang khát khao. Tiểu đoàn 4 hành quân trước. Trung đoàn bộ và tiểu đoàn 5 đi sau. Tiểu đoàn 6 chốt ở phum “Cà” (vì có một rẫy cà *** dê) sẽ rút ra sau cùng. Chúng tôi đi giữa nhiều đám dân bạn đồng hành, cũng đang lục tục trở ra đồng bằng. Rừng thưa dần. Đã thấy những khung nhà sàn không có người ở cắm chân bên những ruộng lúa nước. Gọi là ruộng lúa thôi chứ làm gì có lúa, toàn cỏ dại mọc lấn um tùm. Rừng chen ruộng. Ruộng lại chen rừng. Địa hình thoai thoải và tầm mắt mong mỏi đồng bằng được mở rộng dần dần.
Lúc đó, hướng phum “Cà” tiểu đoàn 6, tiếng hoả lực bỗng vọng lại rền rền. Chúng tôi được lệnh dừng lại, bỏ trang bị nặng chuẩn bị đánh vận động. Đơn vị ngoặt hướng chưa được nửa cây số lại có lệnh trở ra đường tiếp tục hành quân. Về sau có nghe thằng Bình “cáo” và thằng Bình “ghẻ” ở khẩu đội đại liên đại đội 12 kể lại trận này. Khi toàn tiểu đoàn 6 chuẩn bị lên đường thì địch đánh ập vào. Bọn này hẳn là thiện chiến và giàu kinh nghiệm nên chọn thời điểm tấn công hết sức nham hiểm. Khi chuẩn bị hành quân, đương nhiên các loại hoả lực sẽ phải tháo súng, bộ đội sẽ rời công sự và tâm lý thường mất cảnh giác hơn. Khẩu đại liên đại đội 12 vừa tháo xong thì chúng nó khai hoả.
Quả B.40 bay sát bờ công sự, kẹt đuôi cánh vào cái gốc cây hai chạc nhưng không nổ. Hai thằng hoảng loạn, đờ mắt nhìn cái đuôi đạn đen nhám còn bốc khói, bỏ khẩu đại liên đang tháo dở rồi chạy lui. Vừa chạy vừa quạt bậy AK vào hướng đám khói đen đầu nòng bên kia suối. Anh Thắng “chàm” tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lệnh cho các đại đội từ phương án đánh địch tại chỗ chuyển sang đánh vận động. Lính Pốt bỏ chạy sau mươi phút giao tranh.
Trận này thằng Kính C12, lính Hải Phòng hy sinh. Tôi nhớ thằng Kính hồi huấn luyện ở Phủ lý, Hà Nam Ninh, là cán bộ khung - tiểu đội trưởng. Không hiểu sao lại phải vào đơn vị chiến đấu cùng đoàn tôi. Tuổi sàn sàn, gặp nhau mới mày tao chứ thời huấn luyện thì vẫn gọi bằng anh bỏ mẹ!
Ra đến đường bò lớn thì thấy phần lớn trung đoàn bộ đã vượt lên đi trước. Đám ban hậu cần B3 đang ngồi nghỉ ngoài đường. Lúc đó quãng 2h chiều. Một thằng lính trong ban 3, không biết kiếm ở đâu được chiếc xe đạp nam còn mới, đang đạp dấn qua. Nó khoác súng chéo trên lưng. Ba lô buộc trên giá đèo hàng phía sau, gióng ngang vắt mấy cái ruột tượng gạo. Trông nó đạp xe thong dong nhàn nhã cứ như đi dã ngoại. Một hình ảnh anh bộ đội thời bình, trông ngồ ngộ. Giá mỗi thằng lính có một cái xe như thế hành quân thì rất thú. Nó lách qua đám dân đánh xe bò rồi vượt lên tiếp, để lại trên đường cát đọng vết bánh xe mờ, ngoằn ngoèo xinh xinh…
Đó là những phút cuối cùng của nó trước khi lên thiên đàng. Khi chúng tôi lên ba lô, đi tiếp khoảng 400m nữa thì đã thấy nó nằm sấp mặt trên vũng máu. Đầu nó lìa khỏi cổ vì một nhát chém bằng dao quắm cực ngọt từ phía sau. Cái xe đạp văng sang một bên. Súng đạn, mấy ruột tượng gạo, đôi dép đã biến mất, không còn gì trên người ngoài bộ quân phục đẫm máu đang mặc. Mùi máu tươi tanh nồng dưới nắng. Hết sức phẫn uất!
Lính tiểu đoàn 4 như phát cuồng cả lượt. Bọn nó hằm hè nhìn đám dân, thấy người nào có vác dao quắm là xô lại túm ngực lôi đến cái võng tử sỹ ấn dúi đầu vào đấm đá. Đoàn người sợ hãi xanh mét cả mặt. Lúc nãy còn tử tế xin thuốc xin nước nhau là thế mà bây giờ tình thế đổi khác hẳn… Cơn giận đã làm mờ mắt. Gần như chuẩn bị có một cuộc tàn sát lớn. Một anh có vẻ là cán bộ chính trị đi với đám bậu xậu B3 hò hét khản cả giọng, rút K.59 ra bắn chỉ thiên. Anh ấy xô lính ra, bảo nếu bắn dân thì bắn tôi trước đi. Những cái đầu nóng dần dần nguội lại.
May là thằng lính hy sinh đó không phải là lính D4, ăn cùng mâm ngủ cùng võng chí cốt, nên anh em cũng đỡ bị kích động. Chứ nó là lính D4 thật thì có trời xuống mà bảo. Những thằng lính cùng phiên hiệu đơn vị nhỏ nó có những mối liên hệ tình cảm riêng. Trung đoàn lệnh cho vận tải D4 khiêng tử sỹ đi gấp. Chần chừ thì bọn tiểu đoàn 6 nó vừa bị tập kích mất người, dồn đến nữa chắc không kiểm soát được tình hình. Từ đó cho đến tối, chúng tôi lầm lụi đi nhanh.
Chúng tôi ra đến ga Bâmnak vào buổi chiều hôm sau. Vừa qua khỏi kẹp núi đã thấy cánh đồng, thấy thốt nốt mọc từng cụm đứng im phắc trong bóng nắng xiên. Có một đàn bò rất đông đang ăn cỏ, khua mõ lắc chuông, rung reng lốc cốc rất vui tai. Dân về trú tạm lại ga trên những lều sàn nhỏ cất vội tạm bợ. Họ ở đây vài bữa, cho đám bò nhai cỏ hồi sức trước khi lùa ra lộ 5. Dân đói, họ mót lúa hoang giã gạo nấu cháo trong những ăng gô móp méo. Tôi thấy món cháo của họ có màu xanh xanh như bột bánh khúc. Một đám phụ nữ tắm dưới suối. Lội lên vẫn để sà rông, áo ướt nhẹp rỏ nước tong tỏng trên đường cát.
Nhà việc của ga Bâmnak ngày chúng tôi trở lại. Không khác mấy sân ga của 30 năm về trước. Khung cảnh vẫn tiêu điều như thế. Mái nhà việc bị thủng một đám ngói, chắc do bị quả M.79 câu vào không ai sửa (?)
Dân không dám trụ lại những phum bám quanh nhà ga, vì nơi đây vẫn còn hoang vu và nằm trong vùng chiến sự. Một cái nhà ga hoang đúng nghĩa. Ban đêm, lợn rừng vào ủi tận những mảnh ruộng sát mép đường sắt. Còn ban ngày, vịt trời và các loài chim nước tụ đàn trên những đầm nước ven đường. Cầu đường sắt bắc qua con suối Damrei (trung đoàn gọi là suối tiểu đoàn 4) chưa bị địch phá nhưng cầu đường bộ, vốn làm bằng những cây gỗ lớn, đã bị chúng nó đốt nham nhở. Cầu đường bộ giờ đã làm cầu beton:
Trở lại cùng với mùa mưa là các hoạt động tăng cường của địch. Những hoạt động tuy nhỏ lẻ nhưng thường xuyên gây khó khăn cho chúng tôi. Công tác hậu cần bị chậm trễ. Từ Bâmnak ra lộ 5 chỉ có hai con lộ đất. Lộ 28 chạy từ ga Kâmrenh (ga phía trên Bâmnak), qua kẹp núi Tuk S’ra, gặp lộ 5 tại Kra Ko. Lộ không tên, vốn là con đường bò lớn chạy từ ga Th’may, ga dưới ga Bâmnak ra thị trấn Ponley. Đi đường nào lộ trình cũng tương đương 30 km toàn rừng thưa và đồng hoang không một bóng người.
Đường sắt chưa khôi phục hoạt động. Tất cả trông chờ vào xe vận tải sư đoàn và trung đoàn. Mỗi lần chốt đường thông xe là mỗi lần đổ máu. Tuy ít nhưng cứ lai nhai rất khó chịu. Nước mưa xuống, rừng nhiệt đới sinh sôi phát triển mãnh liệt. Có những khoảng rừng thưa khẳng khiu khi đơn vị đi qua mới non một tháng. Khi trở lại vòm lá đã trở nên thẫm tối. Những con đường bò mùa khô đầy bụi. Bây giờ cỏ dại đan ken che lấp hai vệt bánh, phải khó khăn lắm mới nhận ra. Còn trên những bình độ dốc, nước mưa chảy ào ào trên đường bò, xói đi đất đá. Lúc đó con đường bỗng trở thành con suối một mùa.
Mùa mưa đến cũng có nghĩa mùa sốt rét bắt đầu tác quái. Đơn vị bắt đầu có những thằng sốt nằm li bì. Quân số tác chiến bắt đầu giảm đi. Riêng trung đội thông tin chưa bị dính ca nào. Y tá tiểu đoàn và các đại đội bắt đầu phát thuốc Nivaquin, bắt phải uống trước mặt vì sợ chúng nó vứt thuốc đi. Không hiểu sao hồi ấy lại có tin đồn là uống thuốc này (gọi là viên phòng 3) thì sẽ chẳng thể có con được. Buổi sáng hoặc buổi trưa những ngày nghỉ truy quét, chúng tôi thường ngủ lu bù trên võng. Giấc ngủ nặng mê mệt, có ai lay chỉ mở mắt được vài giây lại vô thức chìm đi. Anh Nhương phải đến lùa từng thằng dậy, bắt vận động đi lại cho nó tỉnh người. Ngủ nhiều rất dễ bị sốt rét.
Những toán địch nhỏ vẫn bâu bám đơn vị rất sát. Chúng nó bám theo dân và ra ngoài ga này kiếm ăn vì trong rừng có lẽ hết lương thực. Vệ binh trung đoàn và đại đội công binh đêm đêm phục quanh chỗ dân ở tạm. Không liên lạc, dọa dẫm được nên chắc các chú đói. Bởi ngay dân cũng còn đang đói.
Quanh ga là các phum cũ bỏ hoang. Ở đó các cây ăn quả đang ra trái. Bọn địch ăn tranh cả trái cây với chúng tôi. Xoài chín chúng nó ăn ngay gốc. Còn xoài xanh chúng nó đập rụng mang đi hết. Nhiều cây ổi thấy quả xanh chát sít, nham nhở vết răng lăn dưới đất. Nhựa ổi chưa kịp thâm, chứng tỏ mấy con ma đói vừa đi qua. Có những sân nhà cũ, đậu đen mọc len với cỏ dại. Cây đậu đen gì kỳ lạ, leo lên được cả hàng rào, chen nhau với các cây bụi khác như đậu đũa. Tôi với thằng Căn hay hái trái chín, gom phơi nổ hạt để nấu chè. Vài bữa trở lại “vườn” đậu thì đã thấy dấu dép vuông của mấy thằng Pốt đói đến thu hoạch trước. Nó ngắt cả ngọn đỗ non để ăn. Bọn tôi bắt chước, hái ngọn đỗ non nấu canh cũng thấy rất bùi, ngon hơn rau môn thục nhiều.
Một buổi sáng ở bình độ 100 trong kẹp núi, khi đại đội 1 rời đi lùng sục, địch mò hẳn vào chỗ đóng quân tạm lúc sáng. Có một cái chum sứt lớn, lính đại đội 1 thái măng ngâm chua với ớt rừng để ăn dần. Bọn nó vớt hết sạch măng, sau đó cũng đập tan cái chum, hệt như cách chúng tôi cư xử với những chum muối của chúng nó. Nhớ một buổi sáng mưa mù, đang đánh răng khan ở cái rãnh ven đường thì thấy hai thằng Pốt vác hai cây AR.15 lững thững đi trên đường lớn từ cửa rừng ra. Khoảng cách khoảng hơn 100m. Tôi hẩy tay ra hiệu cho thằng Trung cũng đang rửa mặt bên cạnh. Nó hấp tấp chạy sang bên kia đường, về chỗ B nó lấy súng. Hai thằng địch đói trông thấy, đứng nhìn một lát rồi lại lững thững trở lui cửa rừng. Anh Chính không cho đuổi vì sợ gài phục. Lính C1 ngắm bắn phát một. Chúng nó vẫn đi lững thững như thế. Khuất hẳn trong rừng rồi mới bắn lại 3 phát. Không biết chúng nó giỡn bọn tôi hay không có sức để chạy.
Quân số hao hụt trong chiến đấu, nay càng hao hụt thêm vì sốt rét. Đại đội 1 mà tôi đi máy lúc này chỉ còn khoảng gần 30 người, kể cả thông tin đi phối thuộc. Có những trung đội chỉ còn 6 tay súng. Đại đội lại phải san bớt người ở các trung đội khác sang. Ban đêm, mỗi B gác 2 vọng từ chập tối. Chỉ huy sở và cối 60 cũng phải gác, trừ cán bộ đại đội. Nhưng thấy anh em vất vả quá, các anh ấy cũng chia phần thức đêm với lính. Đi truy quét, chúi rừng rậm ngủ thì ù xoẹ gác thế nào cũng xong. Còn dừng chân tại các phum cũ, các giao lộ đường bò, không thằng nào dám bỏ gác. Có buổi sáng thức dậy, đang lào xào thu võng thì chúng nó bắn rát vào đơn vị.
Đại đội chia cánh vận động lên thì địch đã chạy. Tại chỗ địch bắn vào đội hình lúc nãy đếm được 12 cái cọc phụ mắc võng. Nghĩa là đêm hôm qua đã có 6 thằng địch ngủ cạnh đại đội 1, cách có 40m, cứ như một B phối thuộc vậy. Anh Chính “tréc” thè lưỡi trợn mắt, hất hàm dọa bọn tôi: “Thấy chưa?!”.
Một đêm, đúng ca gác của tôi, gần hết ca tự nhiên đau bụng quá. Tôi lần về võng, lục ba lô lấy vội mấy cái phong bì thư. Để làm gì chắc các bạn đã biết. Bên phải là B2, bên trái là B3. Lò mò sang hai hướng ấy chúng nó tưởng địch quất cho bỏ mẹ! Thế là tôi cứ thẳng hướng gác của mình tiến lên. Qua khỏi đội hình chừng 15m, nhớ lại chuyện ngủ chung với địch hôm trước. Tôi không dám mò lên nữa, ngồi luôn xuống làm công việc giải thoát đại tràng. Xong xuôi khoan khoái, rờ quanh thấy một nửa cái vỏ dừa tươi. Tôi vớ lấy, úp lên cái sản phẩm cuối cùng của bộ máy tiêu hoá. Hết ca! Về bấu thằng Căn liên lạc dậy thay rồi chui vào võng. Nằm được một lát, chưa kịp ngủ lại thấy thằng Căn mò về bấu anh Chính “tréc” đại đội trưởng: “Anh ơi! Dậy! Địch ở rất gần!”. “Sao mày biết?”. “Có mùi phân tươi, anh ạ!”.
Quả đúng là trong không khí cuối gió, mùi phân người thoang thoảng. Ông Chính dậy ngay, bảo thằng Căn luồn xuống các trung đội báo động. Tôi nằm im re, không dám nói gì! Đến sáng, đội hình thận trọng bung ra. Vẫn không thể phát hiện được cái mùi đặc biệt ấy từ đâu? Dòm ngó loanh quanh một lúc, thằng Dung cối quả quyết vung chân đá tung cái vỏ dừa. Nó vênh mặt chỉ tay, nhìn quanh, đắc ý như Colombus tìm ra châu Mỹ. Bên trong cái vỏ dừa, kèm theo những thứ không tiện nói là cả một cái phong bì. Hàng chữ nắn nót trên đó tố cáo ngay chủ nhân của nó: “To X.T – Hòm thư 4R1262 Tây ninh”. Phải giới thiệu tên mình trong cái hoàn cảnh đặc biệt như thế này quả là không tiện. Cho đến tận bây giờ gặp nhau, bọn tôi vẫn nhắc lại rồi không nhịn được cười.
Dân đã ra ngoài lộ 5 hết. Tiểu đoàn tôi vẫn ở lại cái ga Bâmnak này. Một buổi trưa, anh Tiến mới nhận tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 thay anh Quảng (bệnh – đau dạ dày cấp), cùng tổ trinh sát 27 sư đoàn trèo lên cái tháp nước trên sân ga. Cái tháp nước này cao khoảng 15m. Trong khi đang quan sát địa hình bằng ống nhòm thì bị địch bắn tỉa. Phải nói thằng địch này rất thiện xạ. Từ khoảng cách có đến vài trăm mét, viên đạn có lẽ bắn từ khẩu K.63 xuyên qua bụng (chắc chắn hồi đó địch không có súng bắn tỉa ống ngắm quang học dùng đạn K.53). Chúng tôi thấy anh ấy ôm bụng gục ngay trên tháp nước. Hai thằng trinh sát 27 vội nằm ngay xuống kêu ầm lên. Anh Thào tiểu đoàn phó cho lính vận động, chủ yếu là để đuổi địch thôi chứ biết nó bắn từ đâu trong cái ngàn xanh bao bọc sân ga này. Mọi người đưa anh Tiến xuống. Cũng may là viên đạn không phá nhiều. Khoảng 2h chiều, trực thăng UH.1 đáp xuống sân ga, đưa anh ấy cùng mấy thằng sốt rét ác tính đi viện luôn.
Ngay chiều tối hôm ấy, theo lệnh trung đoàn, anh Thào dẫn tiểu đoàn càn vào hướng địch bắn tỉa lúc trưa, tiến đến dãy núi “thằn lằn” - (dãy núi Tà Đạt). Đơn vị bỏ đường lớn, cặp theo suối rẽ rừng tiến bước. Qua phum Th’mei, trời đã nhập nhoạng tối. Phum Th’ mei là một phum lớn, còn nguyên vẹn nhưng cũng là một cái phum hoang như hầu hết các phum trong khu vực. Những ngôi nhà sàn lừng lững, mái ngói đã lên rêu phủ bóng tối xuống mảnh sân mà cỏ dại đã lấn vào. Trên sân, mấy cái cối, dùng để giã gạo hoặc cốm dẹt đã mục, nằm chỏng trơ. Xoài tượng rụng vàng gốc, bốc lên mùi men rượu chua nồng.
Khi ta bước lên thang, những bậc gỗ cũ kẽo kẹt như sẵn sàng rụng xuống. Trong những ngôi nhà rộng rãi và tăm tối đó đầy mùi ẩm mốc và tử khí. Đôi khi gặp những xác người đã phân huỷ, dưới lớp áo quần đã mủn là những bộ xương rã rời. Tóc rụng quanh sọ không tiêu huỷ được, xếp thành một lớp chằn chặn dưới sàn. Và dơi! Dơi quạ ở đây to khủng khiếp. Sải cánh mỗi con phải đến gần 1.0m. Cả đàn hàng trăm con đến ăn xoài chín, bay bốc lên quạt cánh phần phật tối cả trời.
Những con dơi xao xác bay làm lộ vị trí chuẩn bị nghỉ đêm của chúng tôi. Địch tập kích ngay. Nó có chừng một tiểu đội với khẩu đại liên Mỹ, tha đi hết góc này đến góc khác bắn vào đội hình. Đàn dơi hoảng sợ lại càng bay tợn. Nghỉ đêm tại cái phum ma này quả là ngán! Bố trí đội hình xong, mấy thằng chúng tôi lên mấy căn nhà, đạp vách gỗ xuống triển khai công sự nổi. Tôi vẫn đi với đại đội 1 như truyền thống. Thằng Căn, thằng Đồng Huế xúc đất đắp vào các tấm ván mà tôi với anh Lược chính trị viên phó xếp ốp vào các chân cột nhà sàn. Chỉ một lát, cái “chiến luỹ” đã hoàn thành. Bọn thằng Tào, thằng Lại anh nuôi cũng triển khai cơm nóng cho anh em trong cái công sự ấy. Địch bên ngoài thấy khói chỗ nào bắn bắn liên hồi vào chỗ đó.
Có những viên đạn xuyên trúng mép cột, tước gỗ xơ ra rồi văng lung tung. Bọn tôi cứ phớt lờ. Bắn chán thì thôi! Ăn cơm xong còn kịp uống ấm trà chót mà thằng Đồng ém được. Đội hình bố trí hơi gom, các trung đội nằm tại các nhà khác, cách chỉ huy sở đại đội có khoảng 20m. Chúng tôi nằm gần như lọt thỏm giữa các B nên không cần gác. Bây giờ mắc võng tụt xuống hơi thấp khỏi cái vách đắp lũy một chút là có thể ngủ ngon.
Trời tối đen như mực rồi bắt đầu đổ mưa. Phía dưới B2, thằng Tám khoẻ và Minh đen bò lên cái bụi um tùm có cây thốt nốt độc lập, trước trung đội chúng nó khoảng 30m. Rình thấy loé lửa đầu nòng khẩu đại liên của địch rồi kéo một điểm xạ dài RPD. Sau đó lại rút êm về đội hình trung đội. Đêm đã về khuya. Trời vẫn cứ mưa, mỗi lúc một sậm hạt. Tiếng súng địch vẫn cứ oăng oẳng hết hướng này đến hướng khác. Vào thì chẳng dám vào, rút thì cũng không chịu rút. Mưa rừng thế này sao không kiếm cái chỗ nào ngon mà mắc võng ngủ đi con!
Về nhà mà cày ruộng hay đánh cá. Kiếm một con vợ ngực đầy hông nở trong cái đám gái phum vẫn múa lâm-thôn dưới trăng rằm hồi trước ấy. Rồi ghen tuông đấm đá, rồi sinh con đẻ cái đi…! Theo ba cái thằng vác cuốc đập đầu ấy làm gì, để hành các bố mày phải khổ thế này! Mẹ kiếp! Mưa đầu mùa cữ này cá rô đồng đang rạch lên phải biết! Tự nhiên, tôi thấy ái ngại cho chúng nó.
Giấc ngủ đến trong tiếng súng địch và tiếng mưa rơi đều đều suốt đêm.
Sáng hôm sau trong khi chờ cơm sáng, anh Chính tréc với thằng Đồng cùng B3 lên thám sát ngoài đội hình. Vừa lò dò qua khỏi chốt trung đội 3 khoảng hai trăm mét đã đụng địch ngay. Mỗi bên nổ vài loạt AK xong đều co lại. Anh Chính bảo anh Lược tao thấy có 5 thằng. Sáng vẫn mưa. Chúng tôi nằm khoèo chờ C19 chuyển đạn và đưa tham mưu trung đoàn xuống. Lệnh tiếp tục hành quân đêm bí mật vào sâu trong dãy Tà Đạt.
Chiều tối ăn xong, lĩnh thêm vắt cơm. Khuya chúng tôi im lặng lên đường. Đi một lát, qua cái phum “Chùa đổ” (sau này là cứ của D6) thấy có một cái nhà ngói thật dài, nhưng không phải nhà sàn như thường thấy. Cái nhà này trông như cái tàu ngựa. Qua hết phum này là bắt đầu vào đến triền rừng. Độ gần 6 km nữa là đến chân dãy núi Tà Đạt. Đó là một rặng núi thấp, cao nhất cũng chỉ độ 400m. Bên kia núi là rừng thưa tiếp đến lộ 5, rồi ra đến Biển Hồ. Chúng tôi đi chậm vì trinh sát bám đường rất cẩn thận. Tự nhiên đến một đoạn dốc, thấy đội hình ùn rồi dừng hẳn lại. Anh Sơn con B trưởng cùng cả trung đội trinh sát luồn trở lại, hổn hển bảo C1 đi đầu lui lại, về gần tổ chức đội hình, chuẩn bị đánh địch. Sau đó tọt về tiểu đoàn bộ luôn. Báo cáo BCH cùng tham mưu trung đoàn đi cùng là đằng trước địch đang hành quân rất đông. Quân số ước tính tới 2 tiểu đoàn cùng vũ khí nặng.
Anh Thào chửi đ…mẹ mấy thằng trinh sát nói láo! Lấy đ…ra hai tiểu đoàn Pốt lúc này? Bám lên tiếp! Anh Sơn khùng, cãi bảo anh thử áp tai xuống đất im lặng mà nghe cho rõ. Cả chỉ huy, tham mưu lẫn bọn tôi đều làm như anh ấy bảo. Im lặng một lát. Quả nhiên có tiếng động rậm rịch trong lòng đất thật, như là có hằng trăm người đang hành quân vác nặng đang đi qua khá gần. Truyền đạt chạy xuống phía sau đôn tiếp C3 lên ngang C1 theo lệnh anh Thào. Sau đó báo tình hình địch về trung đoàn. Ban tác chiến cùng CH sở trung đoàn bảo D4 bí mật nằm im đấy, chờ tiểu đoàn 6 lên đường trong đêm đến tiếp ứng mới được phép nổ súng.
Mấy tháng đuổi đánh địch toàn ở thế hơn người, hơn hỏa lực. Nay thấy lực lượng Pốt nó gấp đôi mình trong cái rừng đêm lạ lẫm này thì tôi hoảng quá. Có tiếng sọt sẹt đào khoét công sự đằng trước phía các đại đội bộ binh. Anh Thào cáu quá, đích thân dẫn liên lạc chạy lên, rít nhỏ bảo chúng nó thôi không đào khoét nữa, lộ mẹ nó bây giờ. Cứ tựa gốc cây ụ mối đánh địch là được rồi! Tôi với anh Ky cũng kiếm được một ụ mối khá lớn. Chúng tôi trải nilon ngồi. Mối rừng sau mưa đi rào rào dưới lá mục. Mệt muốn nằm chút, nhưng mối luồn buồn buồn dưới lưng, nghe rởn hết gai ốc. Lại phải ngồi dậy nhưng cũng không dám rời ra chỗ khác.
Gần tang tảng sáng thì D6 lên đến nơi, giá cối và hỏa lực, làm thê đội bọc sườn dự bị bên phải. D4 đánh vận động thẳng làm đơn vị chủ công. Tôi, anh Ky cùng bọn truyền đạt trước hay nhoi lên ngay sau *** bộ binh, tính a la xô tranh thủ mót cái túi mìn hay cái võng chiến lợi phẩm. Nhưng trận này biết địch đông, nghe thấy ơn ớn trong người nên thôi, cứ bám lấy chỉ huy sở. Bộ binh các đại đội dần lên hết. Mãi không thấy súng nổ. Bọn tôi ngồi chán dở cơm vắt ra ăn.
Lát sau thấy tiếng Chính tréc với ông Thào la chửi um sùm phía trên. Đ…mẹ tiểu đoàn địch gì bây! “Tiểu đoàn bò” nó kêu tiểu đoàn địch. Mọi người chúi vào xem xét dấu vết. Đúng là bò thật! Đêm qua có một đàn bò lớn đi ngang trước mũi trinh sát tiểu đoàn tôi làm trinh sát tưởng địch. Vó bò dày xéo, nát cả một vệt cây bụi thấp. Nhưng bò vô chủ, tụ đàn đi đêm thì quả là chuyện lạ không biết thế nào?
Tiểu đoàn 6 chưng hửng rút về ga ngay lúc đó. Còn ban tác chiến trung đoàn gọi D4 chúng tôi là “tiểu đoàn bò”. Ngày hôm đó, D4 leo lên đỉnh núi Tà Đạt, không phát hiện được địch. Chỉ thấy mấy cây dầu lớn thân đã đục vũm và nhựa dầu đang cháy. Mấy thằng ma đói này làm chúng tôi mệt nhoài. Ngay chiều hôm đó lại có lệnh trở ra ngoài đường sắt.
Tiểu đoàn 4 ngược lên ga Kâmrenh, cái ga xép trên ga Bâmnak 8 km. Đây là cái ngã ba có con lộ đất 28 chạy từ lộ 5 vào đường sắt.
Đại đội 1 đóng trong phum nhà ngói. Vị trí cách xa tiểu đoàn nên dây thông tin phải tách đôi ra để dùng dây đơn. Cực còn lại đóng cọc âm sâu dưới đất. Chúng tôi cắm những cọc thấp trên bờ ruộng để kéo dây cho khỏi bị nước ngập, trông rất lộ. Cách đây vài tháng thì bố bảo không thằng nào dám kéo dây kiểu đó. Mưa nhiều, ruộng mới ngập nước xâm xấp, mấp mé sát chân cột nhà BCH. Không có suối nên anh nuôi đào một cái hố lớn trên mặt ruộng để lấy nước nấu ăn. Những hôm mưa buồn nằm võng ngáp dài, ngắm cái hố nước con con cũng thú vị. Trong hố, những con cá con mới nở, nòng nọc cùng bọn rận nước nhào lộn như điên. Từ cái dạo gặp cá “mã giáp” khủng ở Chi Phu đến nay mới già nửa năm nhưng tôi cảm giác như đã già đi mất nửa đời. Anh Síu thiếu úy chính trị viên mới đi học về lại C1.
Không hiểu anh này thế nào mà cứ đánh trận lớn hoặc hành quân đánh địch dài ngày gian khổ là lại được đi tập huấn. Thế mới tài! Chúng nó đồn hội Hải Hưng trên ban bệ trung đoàn mạnh lắm. Anh Síu không khoái cái đường dây thông tin lộ kia kéo thẳng, sợ đêm địch nó lần theo dây vào thịt ban chỉ huy. Chắc xa mặt trận lâu ai cũng có tâm lý ớn. Anh bắt tôi với anh Ky kéo dây vòng qua trung đội 2 rồi mới kéo về đại đội. Tôi chỉ cái sừng bò còn dư độ chục vòng, bảo lấy đâu ra dây nữa mà kéo. Anh ấy bảo chúng mày kéo dây sang B2 mà nằm, có điện thì về đây gọi tao. Anh Ky cũng ngang, bảo chúng tôi cũng *** thích ở với ông. Chính tréc C trưởng dân quân sự, không thích lèm bèm, im lặng thây kệ bọn tôi vặc nhau với cán bộ chính trị.
Chúng tôi kéo dây về B2, ở với Khương khàn rất sung sướng. Chia cơm ăn về trung đội 2 luôn. Khương khàn ưu tiên không bắt chúng tôi gác. Để tỏ lòng biết ơn, tôi thỉnh thoảng nhờ mấy thằng máy khác ở C2, C3, C4 gọi đồng hương Hà Sơn Bình cho anh Khương nói chuyện líu khíu mệt nghỉ. Anh Nhương gọi thằng Vỹ với thằng Ban trố về trung đội, học bảng mật danh mới. Mỗi lần tiểu đoàn gọi anh Síu, tôi với anh Ky bảo không có anh Síu ở đây. Còn gặp Chính tréc thì tôi về gọi. Nhiều lần như thế, phải chờ người lâu nên tiểu đoàn hỏi tại sao.
Tôi trả lời là do như thế như thế. Ông Thào nổi khùng chửi C1 cả trong giao ban tiểu đoàn. Anh Síu lại phải bảo chúng tôi kéo dây về như cũ nhưng bắt thông tin, liên lạc, y tá văn thư bậu xậu gác đêm theo hướng đường dây “nguy hiểm chết người”. Bố khỉ! Tôi với anh Ky mắc võng đấu đầu nhau cùng một cái cột. Khẩu AK dựng ngay chân cột đó. Hai anh em bao giờ cũng liền ca nhau, và thường là cứ ngủ thẳng cẳng một mạch. Những thằng gác ca sau tất nhiên im lặng sung sướng, không có ý kiến gì.
Anh Síu đi họp quân chính trên tiểu đoàn, tiện thường nhận thư luôn cho toàn đại đội. Cứ thích xem lá thư nào là bóc lá thư đó. Vợ chồng anh em người ta có chuyện gì riêng riêng buồn cười trong thư là anh ấy lôi ra bôi bác làm vui. Rất bố láo! Lần ấy, khi thấy lá thư của tôi có tên người gửi là thằng T.Anh_ thằng chuồn hồi ở chốt biên giới, vào lại đơn vị ở KP Ch’nang mà anh Síu đã đuổi đi. Anh Síu mới bóc luôn ra xem. Các chuyện linh tinh khác trong thư không nói làm gì. Riêng phần tái bút nó viết nguyên văn: “À! Cho tao gửi lời hỏi thăm xem thằng Síu chính trị viên đã chết chưa?”. Anh ấy đọc đến dòng đó tức tái mặt, nhảy dựng lên như đỉa phải vôi, làm toáng lên rồi đùng đùng chạy đi tìm tôi.
Lúc đó tôi đang cười sằng sặc cùng bọn trung đội 2. Có mấy đống rơm dưới cây xoài đang lên nấm trứng. Ăn rất ngọt! Mọi ngày vẫn ăn thì không sao. Hôm đó chúng nó hái lẫn thứ nấm nào đó mà khi ăn xong thấy nóng mặt rồi tự nhiên thấy buồn cười quá! Cả bọn nhìn nhau rồi cười rũ rượi như bị ma làm! Nhìn thấy cái khuy áo thằng kia sao có bốn lỗ? Cười! Hai con kiến sao huơ râu đụng nhau thế kia? Cười! Không nhịn được! Cười chảy nước mắt nước mũi.
Huống hồ nhìn thấy chính trị viên quần ống thấp ống cao, tay vẫy vẫy lá thư cứ như múa thì nhịn cười sao nổi? Anh ấy tưởng bọn tôi cười giễu, càng bảo càng cười, nóng mắt vớ khẩu AK roét một loạt sạt đầu cả bọn. Ha ha ha! Chết cười mất thôi! Gần thế mà còn bắn trượt. Buồn cười quá! Cười vãi cả *** ra! Quần trung đội trưởng Khương khàn đã ướt một miếng tướng. Chừng như nhận ra tình thế, anh ấy nhìn xoong nấm rồi chạy ngược về quan sát sở gọi thằng Phượng bọ y tá. Nó xuống pha cho mỗi người cốc nước đường. Cơn điên lắng dần dần. Mãi mấy ngày hôm sau, cơ hoành, cơ liên sườn tôi vẫn đau như dần vì co rút nhiều trong khi lên cơn cười.
Ra đến cái đập nước lớn cách Ponley khoảng 15 km, tiểu đoàn dừng chân nghỉ lại một ngày. Cái đập này nằm tại hợp lưu của gần chục con suối lớn trong khu vực. Trên đập, nước tràn chảy ồ ồ. Cá trắng từng đàn lách phe phé. Trên mặt hủm nước sâu xanh thẫm nơi chân đập, vài con lóc bông lớn gần chục ký thỉnh thoảng lại trồi lên ngáp bóng. Cái viền mép vàng nhạt ngoác ra, thân mình chùn chũn vằn vện, oai vệ lắc khẽ một cái rồi lại từ từ chìm xuống. Bọn lóc bông này đang no mồi. Được một trận ném lựu đạn, lặn bắt cá nấu canh chua cải thiện ngon lành.
Chiều tà, tiểu đoàn nhích đội hình lên khỏi đập nước 300m, bố trí đội hình nghỉ đêm tại phum “rừng thị”. Một cái phum có đúng 3 cái khung nhà. Cạnh phum là một rừng toàn cây thị đang mùa trái. Cây thị trong truyện cổ tích Tấm Cám của bọn trẻ con, sinh sôi thành một quần thể xanh thẫm cao vọt lên hẳn so với rừng chồi thấp phía dưới. Cây cao cây thấp chen nhau mọc. Có những cây thị cổ thụ vòng gốc một người ôm mới hết. Trên vòm lá, đủ các loại chim to chim nhỏ chòe choẹt kêu điếc hết cả tai. Kêu chưa tệ hại bằng việc chúng nó oanh tạc vào đầu chúng tôi. Đi gần như chạy qua cái rừng chết tiệt ấy tới phum nhưng thằng nào cũng bị dính vài bãi phân chim vào đầu. Còn dưới gốc, quả thị rụng nhoe nhoét. Muỗi bọ bay vần vụ.
Nhưng chuyện đó không có gì đặc biệt bằng những điều tôi thấy buổi đêm trong ca gác của mình. Đêm hôm ấy trăng mờ vì mây vẫn chưa kịp tan sau cơn mưa buổi chiều. Đang ngồi ôm súng ngáp ngắn ngáp dài vì đã gần hết ca của mình, tôi bỗng tỉnh cả ngủ khi thấy trên cây thị gần vọng gác có mấy con chim lạ. Dứt khoát không phải dơi mà là chim đến ăn trái vì tôi nhận ra cái đuôi của chúng rất dài. Sải cánh loài chim này rộng khoảng 0,4m, vẫy rất nhanh và êm ru, hầu như không phát ra tiếng vỗ gió.
Ba bốn con quạt cánh mềm mại, gần như bay đứng, lặng phắc giữa không trung. Chỉ thấy những đầu cành cây thị nơi chúng đang rỉa quả (hay hút mật quả) khẽ rung rung. Tôi có đọc trên một số tạp chí nghiên cứu tự nhiên sau này. Trong đó các nhà khoa học khẳng định trên thế giới chỉ có loài chim ruồi Nam Mỹ, với kích thước nhỏ bé mới có khả năng bay đứng và bay giật lùi. Tôi phản đối cái kết luận này vì chính tôi đã chứng kiến kiểu bay và hành tung lạ kỳ của loài chim đêm không biết tên kể trên. Sáng hôm sau kể lại câu chuyện hồi đêm. Anh Ky bảo tao trông thấy rồi, đấy là chim bắt muỗi chứ không phải chim ăn trái.
Hôm sau, chúng tôi hành quân tiếp ra thị trấn Ponley. Lại thấy đồng bằng, thấy dáng thốt nốt thân thuộc đứng trên bờ ruộng. Khỏi phải nói là đã háo hức như thế nào. Đơn vị đã cua một vòng hàng trăm km. Dời khỏi lộ 5 bắt đầu từ thị xã KP Ch’nang vòng qua KP S’Peu, đến bây giờ mới gặp lại lộ 5 tại một khúc đoạn khác. Hành trình nửa năm ác liệt này đã cướp đi nhiều thằng lính D4. Có những thằng chết không kịp biết tên. Bây giờ lại gặp mùi bò hóc, mùi phên lá thôtnôt ngâm, mùi phân bò ngai ngái. Lại tiếng lục lạc liing kiing, tiếng mõ lốc cốc, tiếng trục xe ken két… Các em gái đen bóng tóc hoe, cười toét nghe câu tán cũ mèm on xalanh boòng tê. Sung sướng lắm! Chúng tôi thèm được sống trong một xã hội loài người.
Suốt nửa năm chui lủi như loài cầm thú trong rừng núi đại ngàn, bây giờ chúng tôi lại được nghe tiếng con gái the thé. Sướng thật! Thậm chí ngửi mùi nhựa đường dưới nắng bốc lên hăng hắc cũng thấy sướng. Một chú thanh niên hát ông ổng trên vòm cao cây thốt nốt. Giọng nam trung khá trong và vang. Lá khô kêu loạt soạt, chùm ống va lốc khốc. Ê! Xuống mau! Oi khơ nhum phức tich tich. Đám lính dừng lại ngửa mặt, bu tròn lấy gốc cây. Chú chàng leo xuống. Chỉ một loáng là còn lại các ống rỗng không. Ê lần sau đừng có ngu vừa trèo cây vừa hát nghe thằng em! Mặt nóng bừng bừng. Lâu lắm mới lại được uống nước thốt nốt. Tao mà đóng quân ở đây lâu thì chắc nhà mày sạt nghiệp.
Đại đội 1 sang bên kia lộ 5, hành quân qua chùa đến đứng chân phum Khon roong, một cái phum mới lác đác có người ở. Đặc biệt là cái chùa này hầu như còn nguyên và sạch sẽ, không bị đập phá hoặc tàn tạ như các chùa khác mà chúng tôi thấy. Khu vực này khá nhiều chùa. Tiểu đoàn bộ đóng quân tại một cái nhà chờ bằng gỗ lớn, cạnh chùa “tiểu đoàn”. Trên thị trấn lại có một cái chùa lớn, sân rộng mênh mông nữa. Vùng này trước kia chắc đông dân và trù phú.
Nhưng bấy giờ dân đang đói. Lúa xanh đồng nhưng gạo thóc khan hiếm. Thị trấn có họp chợ lèo tèo, nhưng chưa phát hành tiền nên dân đổi chác cho nhau như mới thoát qua thời thị tộc. Với vài ký gạo hay một cái võng nilon người ta có thể đổi lấy một chỉ vàng. Ngoài chợ có một bà già tóc bạc, nói tiếng Việt lơ lớ hỏi tôi là còn thuốc Đa-zi-năng đổi lấy vàng không? Chắc hẳn đã có thằng y tá nào đó vác thuốc quân y ra đây kiếm lời. Đói kém thường đồng hành với bệnh tật. Vàng lúc này chẳng có ý nghĩa gì.
Chúng tôi xúc bớt tiêu chuẩn gạo đi đổi cá ăn. Một hai lon gạo bớt ra trong khẩu phần lính cũng đủ để đổi cá tươi ăn thoải mái. Cá “trắng” - sau này mới biết đó là cá cóc th’rây ch’kao - nấu xoài xanh ăn rất ngon. Mấy cái nhà nhỏ cuối chợ thị trấn là nơi trú chân của vài cô gái. Trong đó có một cô lai khá trắng trẻo, quấn cái sa rông xanh chặt căng hông. Lính đi qua thấy thường ngồi trên thang, cười he hé rung cả vú. Đàn bà bên này không mặc cooc xê tích kê nhọn như bên nhà mình mà thả rông, và ngực họ rất tròn. Chúng nó đồn mang “pi loong” (hai lon) đến, phất cái rèm thốt nốt trên cầu thang lại là có một suất đời sung sướng lên tiên. Cứ lần lượt từng chú một. Nhưng phải niệm chú cẩn thận không đi trận đen lắm!
Mấy ông có vợ có đến không thì không biết. Tôi thì vừa khoái nghe chuyện vừa sợ. Bây giờ mới thấy tiếc cái tuột tượng năm ký gạo mình đã vứt trên đỉnh núi U Răng. Thằng Phượng bọ y tá nó dọa là dây vào bị lậu thì bọn quân y sư đoàn nó chẻ tư *** ra để nạo mủ. Kinh chết khiếp nhưng vẫn thấy sướng! Đêm nằm võng, nghĩ đến cái mông cong cong trên cầu thang, cái bầu ngực rung rung ấy là có khi cả đại đội tự sướng run lên bần bật.
Một lần khi ra chợ đổi cá, chúng tôi gặp một bà già cứ xoắn lấy. Bà ấy đòi đổi vàng lấy thuốc kháng sinh péniciline tiêm. Thuốc này chống nhiễm trùng cho các vết thương, chỉ có trạm phẫu tiền phương mới có. Hỏi đổi làm gì thì trả lời ngay là con trai bà ấy sắp chết. Rồi bà ấy khóc lóc gần như ăn vạ ngoài chợ. Quân y tiểu đoàn với Chí đen mang túi thuốc đến túp lều nát sát rạch – nơi trú ngụ của hai mẹ con, đã thấy một mùi khẳn thối xộc lên. Trong lều, đứa con trai đi lính Pôn Pốt (bà ấy nói rõ ràng như thế) đang nằm thiêm thiếp. Nó bị thương vào chân. Cái đùi đang bị hoại thư sinh hơi, phồng lên như bắp chuối tỏa ra mùi xác chết. Vạch mắt ra thấy đồng tử đã giãn đờ như mắt cá, thằng quân y lắc đầu rồi tiêm cho nó một liều giảm đau chiếu lệ. Chúng tôi để lại lều hai lon gạo rồi trở về...
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Lính Tây Nam
Trung Sĩ
Lính Tây Nam - Trung Sĩ
https://isach.info/story.php?story=linh_tay_nam__trung_si