T
iếng ca mát rượi như gió, truyền vào trong tai, khiến cho tâm thần con người đều trở nên sáng suốt minh mẫn. Hoàng Đế vốn còn đang giận đến tức thở cũng dần dần bình tĩnh lại. Triệu Hữu Trí tiến vào, thấy sắc mặt chàng đã có chút hòa hoãn, cười mím chi, đoạn thỉnh an nói: “Vạn Tuế gia, chính là mấy tú nữ vừa ứng tuyển, mới vào cung, cho nên cũng chưa hiểu phép tắc quy củ gì, lại không biết có ngự giá ở đây, cho nên mới tùy tiện ồn ào xôn xao. Nô tì đã đưa mấy cô gái ấy về đây, Hoàng Thượng có muốn xem qua một lượt không ạ?” Hoàng Đế lạnh lùng lườm lão: “Ngươi lại chuẩn bị bày cái trò gì đó?” Triệu Hữu Trí cười cười: “Nô tì không dám.” Hoàng Đế chẳng buồn lắm lời với lão, chỉ hơi ngửa mặt lên, Triệu Hữu Trí ngầm hiểu, hai tay vỗ nhẹ. Lớp lớp những tấm rèm dày được nâng lên, giống như có ngọn gió lùa qua, thoang thoảng đưa hương sen thơm ngát bay vào. Cũng không phải là trang phục bắt buộc của cung nữ, chỉ là một áo lụa trắng thuần, một áo xanh như lục bình, tóc bối hai bên, trông vô cùng thanh lịch mà khả ái, đều duyên dáng xuyên qua lớp rèm mà thướt tha đi đến, tới trước mặt Hoàng Đế thì uyển chuyển bái lạy. Vẻ mặt Hoàng Đế bỗng nhiên có chút thảng thốt: “Ngẩng đầu lên.” Đôi mắt sáng trong veo tựa hồ phản chiếu được cả bóng người, Hoàng Đế như khẽ hít một hơi, mà đôi mắt loang loáng nước kia, thì vẫn cứ bình tĩnh mà nhìn Hoàng Đế. Triệu Hữu Trí khẽ giọng nhắc: “Thấy Hoàng Đế mà sao vẫn không có chút khuôn phép nào thế?” “Trục Hà kính gặp Hoàng Thượng, chúc Hoàng Thượng vạn phúc kim an.” Hoàng Đế hỏi: “Cô gọi là Trục Hà?” “Vâng.” Hoàng Đế lại hỏi: “Cô là con gái nhà ai?” “Cha của nô tì là nội thị trong bộ Hộ, tên Ngô Tấn.” Hoàng Đế nhớ ra, thê tử của Ngô Tấn họ Mộ, chính là một chi họ xa trong Mộ thị, vốn là con cháu ngoài năm đời, cho nên thời điểm gặp nạn tru di lại được miễn. Hiển nhiên là sẽ giống đến thế, gần như giống hệt Như Sương, chỉ là dựa vào mặt mày vẫn khiến người ta biết được đôi chút. Mà người ở trước mắt, thì chẳng khác nào một cái bóng trong nước, như dải lụa lênh đênh huyền ảo, linh động khắp chốn. Hình như có một cánh tay thời gian, lại kéo chàng trở về rất lâu trước đó. Hoàng Đế sau cùng nói: “Đứng lên đi, để cho trẫm nhìn cô một cái.” Trục Hà thưa vâng, rồi đứng dậy chậm rãi đi về phía Hoàng Đế. Triệu Hữu Trí khẽ khàng lui ra ngoài, phân phó cho bọn tiểu thái giám đứng chực hầu, còn mình thì đi theo dãy hành lang râm mát, vòng thẳng qua ngọn giả sơn, đến điện Thanh Hoa vốn xưa nay là nơi ở của Hoàng quý phi. Nắng ban ngày vẫn đang đốt ác liệt, trước điện có một hàng cây hòe già, hòe xanh như mây, tán rợp một khoảng râm trên mặt đất. Thực yên ắng tĩnh mịch, ngay cả một tiếng ve kêu cũng chẳng thấy, bởi Như Sương đang trong thời kỳ dưỡng bệnh, mệnh cho kẻ hầu người hạ hằng ngày đều phải đi xem xét, thấy ve liền bắt đem đi. Thị Nhi – tâm phúc của Như Sương đang đứng dựa dưới bóng cây hòe, thấy lão, cười hì hì chào một tiếng: “Triệu công công.” Đoạn đưa lão vào trong điện. Như Sương vừa mới thay xiêm y, còn đang chải đầu, tóc mây đen nhánh chảy xuống, buông thả trên vạt váy màu khói ráng. Triệu Hữu Trí khom mình hành lễ: “Nương nương.” Bệnh vừa khỏi, người trong gương sắc mặt nhợt nhạt, tựa như một bóng người bằng bạch ngọc, Như Sương nhìn chính mình trong gương, miệng như đang lầm bầm: “Hoàng Thượng đối với Kính Thân Vương, thật ra rất tốt.” Triệu Hữu Trí cười bồi: “Vạn Tuế gia cũng chỉ có một đứa em trai cùng mẹ này, quả thực rất thương yêu Thập Nhất gia.” Mặt Như Sương không có gì thay đồi, một lúc sau mới cười: “Anh chàng này đúng là ương bướng, cũng làm người ta chịu không nổi.” Triệu Hữu Trí lại không dám tiếp lời, Như Sương hỏi: “Ý của Hoàng Thượng, là muốn giữ Thập Nhất gia ở lại?” Triệu Hữu Trí đáp: “Nô tì cũng không dám đoán bừa, có điều hình như Hoàng Thượng muốn gửi cho Thất gia dạy dỗ.” Thị Nhi thắt lại mái tóc dài cho Như Sương, vấn thành hình một đám mây, dùng trâm châu găm từng cái từng cái vào. Nàng tuy chỉ được phong làm phi tần, song sớm đã có chiếu chỉ đặc biệt, vị thế chẳng khác Hoàng quý phi, hưởng một nửa chế độ của Hoàng Hậu. Chuỗi ngọc kết bằng dải tơ kim phượng trên đầu buông trĩu xuống, khẽ rung rinh. Nàng có vẻ đã mệt mỏi: “Ngươi đi đi, nếu mấy ngày Hoàng Thượng có hỏi đến ta, cứ nói ta mệt, đang ngủ.” Triệu Hữu Trí tuân mệnh, vừa lui đến một bên cánh cửa, Như Sương bỗng cười, gọi lão lại: “Nếu mà Hoàng Thượng đã quên hỏi ta, công công hẳn cũng đừng quên đấy.” Triệu Hữu Trí cười cười: “Nương nương đã nói, nô tì tuyệt nhiên không dám trái.” Như Sương vốn được sủng ái nhất trong lục cung, kể từ ngày hôm đó trở về sau, lại chưa hề nhận được chỉ thị. Ngày hôm đó, ở Tú cung tuyển tú nữ, nàng không thể không cố xốc lại tinh thần đến chủ trì. Hoàng Đế đối với chuyện tuyển tú nữ cũng chẳng có hứng thú, cũng không khởi giá đến Tú cung tự mình chọn lựa. Tuyển tú nữ là một lễ lớn, theo lệ thì Hoàng Hậu cùng các phi tần đều phải đến chủ trì, song chiếc ghế Hoàng Hậu còn bỏ ngỏ, cho nên Thục phi Mộ thị hiện đang tạm quản hậu cung. Một đại lễ lớn như thế, ngay cả Tình phi đang mang trọng bệnh cũng phải đến dự, vì vậy mà không khí lại càng thêm phần khách sáo, hai người chung một cái chiếu mà ngồi. Bên dưới lại có một chiếu khác, chính là dành cho Chiêu Nghi họ Ngô vừa được sắc phong. Tình phi bấy lâu nay sống trong bệnh tật, nhan sắc đã sớm tàn phai, nay thấy Ngô Chiêu Nghi, chỉ cảm thấy hào quang tươi đẹp tỏa ra tứ phía, không khỏi chăm chăm nhìn rất lâu. Như Sương lại cười nói: “Tình phi tỷ tỷ cứ nhìn em gái họ Ngô như thế, lại khiến cho cô ấy chê cười hai chị em chúng mình chưa thấy qua cảnh đời.” Tình phi không khỏi thẹn thùng, nói: “Ngô Chiêu Nghi và em có dung mạo giống hệt, chẳng khác nào một cặp song sinh, cho nên ta mới nhất thời để ý đến vậy.” Quả thực là giống hệt sao? Như Sương khẽ nhếch đôi môi anh đào với vẻ hứng thú, nhìn chung dáng vẻ thì giống thật, song Ngô Chiêu Nghi giống như một viên thủy ngân, lấp la lấp lánh không ngừng, mà Như Sương, thì tựa một viên ngọc bằng băng, dù cho có ánh nước, cũng chỉ là nước băng ngưng tụ lạnh ngắt. Như Sương mỉm cười thật tươi, vì là nhân vật chủ trì đại lẽ, cho nên nàng vận một bộ xiêm y lông đuôi trĩ đỏ chót, những sợi tua bằng tơ vàng được thêu trên chiếc khăn choàng vai lộng lẫy buông rủ, hoa văn chiếc đuôi phượng kéo thật dài tới thẳng mép váy. Cổ tay áo cũng được điểm hoa văn màu vàng hết sức công phu, bên mép còn thêu một bông hoa rộng đến hai tấc, mười đầu ngón tay búp măng lồ lộ, móng tay sơn bóng màu hồng lại được màu đỏ của chiếc váy đuôi trĩ tôn lên, chẳng khác nào những viên ngọc lưu ly cực nhạt mà cực trong. Giữa đại điện hun hút đồ sộ mà yên tĩnh, chỉ nghe thấy âm thanh vạt váy lướt sàn sạt, nội quan dài giọng hô tên họ từng người, cấp bậc của cha anh, từng khuôn mặt như hoa tựa ngọc cứ lần lượt thoáng qua trước mắt, theo nghi thức, hết sức cung kính mà hành lễ. Như Sương cứ một câu lại một câu rôm rả với Tình phi, cũng chẳng buồn để tâm đến việc chọn lựa các cô gái đang lần lượt lướt qua này. Trục Hà có chút ngơ ngác nhìn người thiếu nữ yêu kiều duyên dáng ấy, ngồi ở sâu trong điện cao xa như vậy, tựa như cách mình rất xa rất xa. Vào thời điểm đứng bên cửa cung sâu hút như biển cả, Như Sương khẽ vươn cái chuôi quạt, điều chỉnh cái giá đứng của con chim anh vũ, khóe miệng vẫn ẩn ẩn một nụ cười như có như không lúc trước: “Hắn đưa cô đến đây... chính cô lại tưởng là một điều tốt?” Con chim anh vũ trong chiếc lồng vàng kêu “kéc” một tiếng, đập đập đôi cánh. Gió nhẹ se sẽ phất mái tóc mai của nàng, trong nháy mắt ấy Trục Hà nhìn cặp mày được vẽ hết sức tinh tế của nàng, cảm giác như nét núi mùa xuân nhàn nhạt chạy xa xa, hơi hơi nhướng lên. Hiện thời cô đã cao cao tại thượng, từ trên mà nhìn xuống phồn hoa đô hội chốn hồng trần, thế nhưng tất thảy đều cách xa như vậy, giống như thanh âm của chính cô, từng đã xa xôi, mơ hồ, hình như là phát ra từ trong miệng của một người khác: “Vương gia đối với họ Ngô có đại ân, Trục Hà không thể nào vọng ơn bội nghĩa.” Có lẽ phải qua một hồi lâu, mới nghe Như Sương bật cười một tiếng, giọng cười cực khẽ, chỉ như một tiếng thở dài: “Cô gái ngu ngốc...” Vành tai của cô bất chợt nóng bừng lên, giống như phát sốt. Ai cũng chưa từng biết tâm tư thực sự nơi đáy lòng cô, thế nhưng tại thời khắc này, cô thật sự cho rằng mình đã bị người ta nhìn thấu. Vị Thục phi nương nương này có một ánh mắt khiến cho kẻ khác không dám nhìn gần, nhưng ngay lúc cô ngước lên, thì đôi mắt ấy đã dịu lại, trở nên tối tăm, giống như than, một khi đã cháy hết những nhiệt huyết cùng ánh sáng, rốt cuộc chỉ còn lại mảnh tro lụi tàn. Cả giọng nói của nàng cũng không mang một chút ấm áp nào: “Vậy thì cô cứ chờ xem.” Hết thảy đều là một màn kịch đã được dàn dựng tỉ mỉ, khai thừa chuyển hợp, xướng đọc hay gõ nhịp, ngay cả một bước cũng không thể nhầm. Cô thuận lợi mà vào cung làm Chiêu Nghi Ngô thị, hết sức được ân sủng, ánh mắt Hoàng Đế nhìn cô, bao giờ cũng ấm áp dịu dàng, tựa như rất lâu rất lâu trước kia, cũng đã từng cùng cô kết thành tri kỷ. Chỉ có mình cô là biết rõ, cái bí mật được giấu thật sâu trong đáy lòng kia vẫn luôn tồn tại. Hoàng Đế ngẫu nhiên quay mặt đi, khuôn mặt trông nghiêng hơi cúi, thì cái bí mật trùng trùng kinh người kia sẽ khiến cho tim cô đập nhanh, để rồi sau đó nảy lên trong ngực một cảm giác đau đớn sâu sắc. Vào cung chỉ mới ngắn ngủi mấy ngày, đã nghe nổi lên những lời đồn đãi nho nhỏ. Cô và Thục phi có dung mạo giống nhau đến lạ, chẳng khác nào hai đóa hoa xinh đẹp, đều mang một nét rực rỡ tươi tắn của riêng mình. Nhưng cô không phải là Thục phi, bởi cô gái có địa vị tôn quý nhất hậu cung này cũng giống như một pho tượng ngọc, hoàn mỹ không chút tỳ vết, tinh khiết động lòng người, song lại không có một chút sức sống nào, ngay cả lúc cười rộ lên đáy mắt vẫn u ám đến vậy, dường như nàng chưa hề mỉm cười. ********************** Cuối cùng cũng chọn được tám cô gái, ở lại trong cung một vài năm, hoặc là được đặc chỉ sắc phong làm phi tần, hoặc là ban thưởng cho các vương công đại thần làm thê thiếp, kết cục như thế nào cũng chỉ đành xem vào con đường vẫn mệnh của các cô. Tình phi nói: “Có thêm người mới, trong cung lại thêm phần náo nhiệt.” Như Sương thì vẫn cứ một bộ dáng như cười như không: “Chị nói phải lắm.” Hoàng Đế kỳ thực cũng không ham nữ sắc, lần tuyển tú nữ này là ý tứ của quần thần. Mà tấu chương thúc giục lập Hoàng Hậu vốn cứ bay lên như tuyết, từ ngày Hoa phi đột tử, Hàm phi bệnh nặng, bỗng nhiên lại đột ngột dừng lại không một tiếng động. Nghe đâu Thái phó Trình Phổ từng đã dựng đứng cả râu tóc, phẫn nộ mà thề thốt ngay tại bản phủ: “Nếu như Hoàng Thượng cứ khăng khăng lập con yêu nghiệt kia làm Hoàng Hậu, cựu thần lập tức đập đầu mà chết ngay tại bậc thềm Thái miếu.” Kể từ đó, các đại thần lại thúc giục Hoàng Đế tuyển tú nữ, ý chừng là muốn chọn ra trong đám tiểu thư khuê các một vị Hoàng Hậu Đại Ngu trong tương lai. Hoàng Đế lại không hề có hứng thú thu nạp mỹ nhân, cuối cùng vẫn cứ để cho “yêu nghiệt” của mình ngồi ngay ngắn ở dưới ngai báu mà hưởng nhận biết bao lễ bái của chúng mỹ nhân khuê các. Tám cô cung nữ được tuyển chọn lần này, mãi cho đến tận đêm Thất tịch(mồng 7 tháng 7) tiếp nhận yến tiệc ban thưởng mới có cơ hội được chứng kiến một khuôn mặt của đấng quân vương. Đêm Thất tịch, trong cung cực kỳ tưng bừng sôi nổi, ngoài lễ “Khất xảo”(cầu Chức Nữ được khéo tay thêu thùa), theo lệ ở lầu Thanh Sướng còn mở tiệc ban thưởng cho các đấng thân vương, công chúa. Tiệc rượu trong cung, dĩ nhiên là bày đủ các loại sơn hào hải vị, ca múa tưng bừng. Ngày hôm đó Hoàng Đế dường như đặc biệt vui vẻ, còn mệnh cho Ngô Chiêu Nghi gảy đàn sắt(đàn 25 dây), xướng một khúc từ[1] mới, dành được một tràng hưởng ứng nhiệt liệt. Như Sương vốn có tính không kiên nhẫn ngồi lâu, đứng dậy đi ra ngoài. Không ngờ vừa mới bước vào phía sau hậu điện, Trình Viễn đã lặng lặng tiến lên bẩm báo: “Nương nương, cung Thừa Dục phái người đến nói rằng tình trạng của Tình phi nương nương không được tốt, không biết là nương nương có muốn qua thăm?” Tình phi xưa nay thân thể suy nhược, trong một năm thì đã khoảng nửa năm bệnh liệt giường. Giữa hậu điện cực kỳ yên tĩnh, chỉ nghe láng máng tiếng ca thổi ngoài điện trước, giống như một khúc nhạc tiên thoắt ẩn thoắt hiện phiêu diêu truyền đến. Đàn sáo xen lẫn trong tiếng nói cười, náo nhiệt phồn hoa cực điểm. Như Sương nghĩ đến Tình phi lúc này cô quạnh một mình, quả thực đáng thương, nhân tiện nói: “Ta đi thăm chị ấy một cái.” Lập tức Như Sương bước lên xe đi, nội quan cầm theo một cái đèn lồng chữ bát (八), vây quanh chiếc xe mà theo. Đông cung nơi Tình phi cư trú cũng rất xa xôi hoang vắng. Lúc này trong cung đều đang mở tiệc vui vẻ, đường đi yên ắng không một bóng người, chỉ nghe tiếng côn trùng vào thu kêu rin rít, làm cho con người cũng cảm nhận được hơi thu đang đến dần. Bên ngoài đông cung lạnh tanh mà ảm đạm, mấy cung nữ ngồi trực đang thi nhau chơi đùa, hi hi ha ha, hồn nhiên vô sự, thấy có ánh đèn tiến đến, còn tưởng là đến ban thưởng, tết nhất như vậy, theo lệ vẫn thường có tặng phẩm cho cung nữ. Đợi đến lúc nhìn rõ là Thục phi tới, không kịp chuẩn bị, cuống quít hành lễ không thôi. Như Sương giận muốn phát tác, lại sợ kinh động đến Tình phi, cũng chỉ lườm Trình Viễn một cái. Trình Viễn ngầm hiểu ý, nói: “Xin nương nương cứ yên lòng.” Như Sương biết gã sẽ xử lý chuyện này, bèn tự ý bước vào trong cửa điện, xa xa đã nghe được hương thuốc nồng đặc bay tới. Chỉ thấy lớp lớp màn che, giữa điện cũng chỉ châm hai ngọn đèn, ánh sáng ảm đạm, càng lộ ra vẻ tịch mịch. Như Sương bước đi khẽ khàng, thấy được Tình phi nằm ngủ trên giường, mờ mờ mịt mịt, hình như là đã ngủ thật rồi. Chỉ có một cung nữ già hầu hạ thuốc men ở bên giường, đang thổi bát thuốc bốc hơi ngùn ngụt mà lệ thì đã rơi nhòa. Cung nữ nọ thấy nàng, vừa mừng vừa sợ, kêu lên một tiếng: “Nương nương.” Rồi nghẹn ngào không nói nên lời. Như Sương hỏi: “Làm thế nào mà đã bệnh thành như vậy, còn không truyền ngự y?” Cung nữ gạt nước mắt, đáp: “Đã muốn truyền rồi, thế nhưng nương nương lại nói, tết nhất thế này, sợ Hoàng Thượng lại tâm tình khồn thoải mái, chỉ nói chính mình thường ngày cũng đã như thế, cứ chịu đựng mà sống qua ngày thôi, cho nên ngăn không cho ai biết.” Như Sương bèn lệnh cho nội quan: “Truyền lời của ta, đến cửa Vĩnh Tể gọi ngự y qua đây.” Lập tức có người nhận mệnh mà đi. Nhìn dưới ánh đèn, thấy đôi lông mày thanh tú của Tình phi khẽ nhíu, sắc mặt tái nhợt không một tia máu, Như Sương bước nhanh tới, sẽ sàng gọi: “Tỷ tỷ.” Tình phi rên lên một tiếng,cũng không biết là có nghe hay không. Qua một hồi lâu, rốt cuộc Tình phi cũng mở mắt, mờ mịt nhìn nàng. Như Sương lại kêu một tiếng: “Tình phi tỷ tỷ.” Tình phi như đã nghe thấy, trên mặt thoáng nở nụ cười, lại hổn hển. Mãi nửa ngày, mới như lấy lại được chút sức lực, âm thanh nhỏ đến nỗi gần như không nghe thấy gì: “Đúng... đúng là Hoàng... Hoàng quý phi...” Lòng Như Sương nao nao, chỉ cúi xuống mỉm cười, khẽ giọng nói: “Chị cũng quá là hồ đồ đi, bệnh đến mức này mà cũng không cho người ta biết.” Tình phi hơi hơi lắc đầu, đoạn nhắm mắt lại, không còn sức mà trò chuyện nữa. Như Sương vốn tưởng rằng cô ấy đã ngủ thiếp đi, không ngờ cô lại cố gắng mở mắt ra, thanh âm đứt quãng: “Chị sợ là phải đi trước rồi... Ngày ấy... ngày ấy... chị nói với em... em hãy quên đi...” Trong lòng Như Sương thấy kỳ quái, cúi thấp mình xuống mà nắm lấy tay cô: “Tình phi tỷ tỷ?” Tình phi thở dốc: “Chúng ta cũng từng là chị em một thời gian... Lâm Nguyệt... Những lời chị nói ngày ấy... Em đừng để bụng...” Như Sương không biết cô ấy có ý gì, song vẫn nhẹ giọng an ủi: “Chị yên tâm, em đều thấu hiểu cả mà.” Tình phi như thở phào nhẹ nhõm, nỉ non: “Vậy... Vậy.. Được rồi...” Từ khóe mắt đã chảy ra một dòng lệ: “Chính là... Chính chàng cũng không biết đươc, thực ra không phải là em... Nhưng chị vẫn thật hâm mộ...” Như Sương nắm lấy tay cô, mười đầu ngón tay lạnh lẽo, cũng không biết là tay cũng Tình phi lạnh, hay là tay của chính mình đang phát lạnh. Ý thức của Tình phi đã trở nên mông lung, lời nói cũng dần mơ hồ. Cuối cùng thì ngự y cũng đến, sau khi bắt mạch, Như Sương cho triệu kiến trên điện, hỏi: “Mấy ngày trước tinh thần vẫn đang khỏe khoắn, sao đột nhiên lại bệnh thành như vậy?” Ngự y đáp: “Bệnh của nương nương đã không phải mới một hai ngày, chỉ dám đại bất kính mà nói, chẳng khác nào một khúc gỗ, bên trong đã sớm mục rỗng cả, cũng may nương nương phúc phận hơn người, chậm rãi điều dưỡng, chung quy cũng có ngày vực được dậy.” Như Sương cũng hiểu rõ ý tứ của gã, việc đã đến nước này, quả thực không còn làm được gì hơn, nhìn thấy Tình phi dùng xong thuốc, nặng nề mà ngủ rồi, mới trở về. Đêm đã khuyu, lối đi trong cung cũng đã sớm đẫm hơi sương, dưới ánh trăng trông như được rải đầy nước thủy ngân. Lòng dạ Như Sương ngổn ngang trăm mối, nghe tiếng bước chân đi lại của nội quan làm kinh động bầy chim trên cành, soạt một tiếng đã bay lẩn vào trong bóng trăng sâu hút. Bất giác ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy dãy tường trong cung dày đặc, vài gốc ngô đồng cao vượt cả đầu tường, cành lá lưa thưa, phản chiếu lại mảnh trăng lưỡi liềm đêm thu. Khu vực cung điện này có quy mô cực kỳ to lớn, dưới bóng trăng chỉ thấy trùng trùng điệp điệp những xương thú mạ vàng, lạnh lùng giọi lại ánh trăng. Khắp nơi đều vắng vẻ im lìm, ngay cả ngọn đèn dầu nho nhỏ cũng không có, đặc biệt tĩnh mịch thê lương gọi cơn ớn lạnh trong người. Như Sương thấy như vậy liền hỏi: “Đây là nơi nào vậy?” Trình Viễn hộ tống bên xe cũng chỉ ậm ậm ừ ừ, Như Sương hiểu là trong cung cũng có rất nhiều bộ phận cấm kỵ, nhưng tính nàng xưa nay cứng đầu không thôi, Trình Viễn chỉ đành thưa: “Bẩm nương nương, nơi này là cung Cảnh Tú.” Cung Cảnh Tú? Trong lòng như có một cái gì đó thoáng xẹt qua, ban đầu cũng không thấy đau đớn, nhưng về sau cảm giác không thể nào hiểu nổi, thì ra nơi đây chính là cung Cảnh Tú. Tường cung điện cao cao, ngô đồng thưa thớt, trăng rọi bóng ngô đồng, không ngờ nơi đây vừa hay lại là cung Cảnh Tú. Nàng bảo người hầu: “Dừng kiệu.” Phu khuân kiệu từ từ hạ kiệu xuống, Trình Viễn bước lên đỡ lấy cánh tay nàng, mặt mày đau khổ ủ ê: “Nương nương, vẫn nên trở về thôi, nửa đêm đường xa, ngộ nhỡ bị cảm lạnh, nô tì quả thực là tội đáng muôn chết.” Như Sương lạnh lùng nói: “Ngươi mà nói thêm nửa câu, bản cung lập tức tác thành cho ngươi.” Trình Viễn sợ run, Như Sương quay người ngẩng lên nhìn, chăm chăm ngó vào bên trong cung điện sâu hút đong đầy ánh trăng. Theo lệ từ các triều đại đã qua, Hoàng quý phi đều được ở trong điện Thanh Hoa, nhưng ngày đầu Lâm Nguyệt vào cung đã ở trong cung Cảnh Tú, về sau mặc dù được sắc phong làm Hoàng quý phi nhưng vẫn không hề chuyển đi. Từ ngày Mộ thị qua đời, Cảnh Tú không còn người nào ở, Hoàng Đế hạ lệnh không cho quét dọn lau chùi gì, cung nữ lại càng không dám tự tiện lảng vảng đến gần, vì vậy nơi đây dần dần trở nên hoang vu tàn phế. Như Sương thấy chiếc khóa bằng đồng trên cửa đã đóng gỉ xanh, tiện miệng nói: “Đem chìa khóa đến đây.” Trình Viễn kinh hãi đến toát mồ hôi lạnh: “Nương nương!” Như Sương nhíu đôi mày, Trình Viễn vội vã kêu lên: “Nương nương, đêm khuyu rồi, cung này cũng bị niêm phong đã lâu, vẫn nên đợi ngày mai có người đến quét tước dọn dẹp rồi nương nương hãy quay lại thôi.” Như Sương không đáp, Trình Viễn vẫn quỳ rập ở đó, nói: “Nương nương, nếu như lúc này nương nương muốn vào, nô tì cũng không dám ngăn cản, nhưng thỉnh nương nương hãy nghĩ lại.” Mặt Như Sương không có biểu cảm gì, chỉ nhìn đăm đăm lên mảnh trăng lưỡi liềm trước hiên, vầng sáng ấy trong trẻo mà lạnh lẽo, chiếu lên một dãy viền mái hình mỏ diều hâu nằm im lìm, qua một hồi lâu, từ trong môi mới bật ra hai chữ: “Về thôi.” Trình Viễn chỉ thấy như được đại xá, vội vàng đỡ nàng bước lên kiệu. Gió đêm lành lạnh, lùa qua những tán ngô đồng nghe xào xạc, chiếc đèn lồng trong tay nội quan cũng hốt nhiên lúc sáng lúc tối, chập chờn mông lung. Ống tay áo Như Sương bị gió thốc lên, trong bóng đêm trông như con bướm cứ chờn vờn vỗ đôi cánh vĩ đại mà lộng lẫy. Nàng nhớ đến những lời nói vô nghĩa của Tình phi, thực mơ hồ, câu chữ lộn xộn như những mảnh vụn, thế nhưng lại chắp ghép thành cái bí mật ghê gớm nằm sâu trong đáy lòng nàng, chuyện kinh hãi đáng sợ ấy nàng tuyệt không thể lại nhớ đến. Kiệu đi rất nhanh, nàng ngoảnh đầu lại, cung Cảnh Tú đã dần dần chìm trong màn đêm dày đặc, ánh trăng mịt mờ, chạm móc quanh những đường viền liên miên nối tiếp của cung điện, tựa hồ như hình ảnh ngọn núi thu nhỏ, trùng trùng điệp điệp, lắc lư lay động trong tầm mắt. **************************** [1] Từ là một thể loại văn học hình thành vào đời Đường, phát triển mạnh ở đời Tống. Từ có số chữ cố định trong bài, câu dài câu ngắn, kết hợp chặt chẽ với âm nhạc.