Chương 13
ôi lặng lẽ bước qua các hành lang. Tôi đứng bên ngoài phòng họp của các Chủ Vòng một lúc, lắng nghe những giọng nói rì rầm vọng ra qua cánh cửa, song tôi không bước vào. Tôi ghé đầu nhìn vào phòng điều trị và thấy bà y tá đang ngủ gật trên một chiếc ghế đẩu giữa mấy người đặc biệt chỉ còn một linh hồn. Tôi hé mở cánh cửa phòng cô Wren và thấy bà đang ngồi đu đưa ru cô Peregrine trong lòng, nhẹ nhàng đưa các ngón tay vuốt ve bộ lông con chim. Tôi không nói gì với bất cứ ai.
Lang thang qua những hành lang vắng tanh và những phòng làm việc bị phá tanh bành, tôi cố hình dung xem ở nhà sẽ thế nào, nếu tôi lựa chọn quay trở lại sau tất cả chuyện này. Tôi sẽ nói gì với bố mẹ. Nhiều khả năng là không gì hết. Dù thế nào họ cũng sẽ chẳng bao giờ tin tôi. Tôi chắc sẽ nói tôi đã hóa điên, viết cho bố một lá thư đầy ắp những chuyện điên rồ, rồi lên một chiếc thuyền vào bờ và bỏ chạy. Họ sẽ gọi đó là một phản ứng do stress. Rồi quy nó cho một chứng rối loạn tưởng tượng nào đó để rồi thay đổi tiến trình trị liệu của tôi theo đúng hướng này. Trách cứ bác sĩ Golan vì đã đề xuất cho tôi đi tới Wales. Bác sĩ Golan, kẻ họ sẽ chẳng bao giờ nghe nói tới nữa. Bố mẹ tôi chắc sẽ nói hắn đã rời thị trấn, vì hắn là một kẻ dối trá, một gã lang băm đáng lẽ chúng tôi không bao giờ nên tin tưởng. Và tôi sẽ trở lại là thằng bé Jacob tôi nghiệp bị sang chấn tâm lý, một đứa trẻ con nhà giàu tâm thần không ổn định.
Nghe có vẻ giống một án tù. Dẫu vậy, nếu lý do quan trọng nhất để tôi nán lại trong thế giới đặc biệt lại không còn muốn tôi nữa, thì tôi không thể hạ mình lẽo đẽo bám lấy cô được. Tôi có sự tự tôn của bản thân.
Tôi có thể ở lại Florida trong bao lâu, khi giờ tôi đã nếm qua mùi vị cuộc sống đặc biệt này? Tôi không còn bình thường như trước nữa – hay đúng hơn là giờ tôi đã biết tôi chưa bao giờ bình thường. Tôi đã thay đổi. Và ít nhất điều đó cũng cho tôi chút hy vọng: rằng ngay cả trong hoàn cảnh bình thường, tôi vẫn có thể tìm ra cách để sống một cuộc sống phi thường.
Phải, tốt nhất nên ra đi. Thực sự là thế. Nếu thế giới này đang chết dần và chẳng thể làm gì cho nó nữa, thế thì còn gì cho tôi ở đây nữa? Chạy và trốn cho tới khi không còn lại nơi nào an toàn để đi, không còn Vòng Thời Gian nào để duy trì tuổi trẻ nhân tạo của các bạn tôi. Chứng kiến họ chết. Đỡ lấy Emma khi cô gục xuống và vỡ nát trên tay tôi.
Điều đó sẽ giết tôi còn nhanh hơn bất cứ con hồn rỗng nào có thể.
Vậy thì được rồi, tôi sẽ đi. Cứu vãn những gì còn lại từ cuộc đời cũ của tôi. Tạm biệt, những người đặc biệt. Tạm biệt, thế giới đặc biệt.
Thế là tốt nhất.
Tôi lang thang cho đến khi tới một nơi các căn phòng chỉ đóng băng một nửa, khối băng đã dâng lên tới nửa chiều cao trần nhà như nước tràn vào một con tàu đắm rồi sau đó dừng lại, để các mặt bàn và chụp đèn nhô lên như những tay bơi đang ngập ngừng. Bên ngoài các khung cửa sổ đóng băng, mặt trời đang lặn xuống. Những cái bóng đổ dài theo các bức tường và nhân lên nhiều lần trong các giếng cầu thang, và khi ánh sáng tắt dần, chúng trở nên xanh hơn, nhuộm mọi thứ quanh tôi thành màu xanh đại dương sâu thẳm.
Tôi chợt nghĩ đây nhiều khả năng là buổi tối cuối cùng của tôi trong thế giới người đặc biệt. Buổi tối cuối cùng của tôi với những người bạn tốt nhất tôi từng có. Buổi tối cuối cùng của tôi với Emma.
Tại sao tôi lại trải qua nó một mình như thế này? Vì tôi buồn, và Emma đã làm tổn thương lòng kiêu hãnh của tôi, và tôi cần dằn dỗi.
Đủ rồi.
Đúng lúc quay người để rời khỏi phòng, tôi cảm thấy nó: cảm giác quặn thắt quen thuộc trong bụng.
Một con hồn rỗng.
Tôi dừng lại, chờ đợi thêm một cơn đau nữa. Tôi cần thêm thông tin. Cường độ của cơn đau tương ứng với độ gần của con hồn rỗng, và tần suất những cơn đau xuất hiện tỷ lệ với sức mạnh của hắn. Khi hai con hồn rỗng mạnh mẽ truy đuổi chúng tôi, Cảm Giác là một cơn đau quằn quại không gián đoạn, nhưng lúc này phải một hồi lâu trôi qua tôi mới cảm thấy một cơn đau nữa – phải gần một phút – và khi nó xuất hiện, cảm giác đau thật mơ hồ, đến mức tôi thậm chí còn không chắc mình đã cảm thấy nó.
Tôi chậm chạp bò ra khỏi phòng, đi xuống hành lang. Khi đi qua khung cửa kế tiếp, tôi cảm thấy cơn đau thứ ba: lúc này mạnh hơn một chút, nhưng vẫn chỉ như một tiếng thì thầm.
Tôi thử mở cánh cửa ra thật thận trọng và khẽ, nhưng nó bị đóng băng chặt cứng. Tôi phải giật mạnh cánh cửa, sau đó rung lắc, rồi đá vào nó, cuối cùng cánh cửa cũng mở tung ra, để lộ khung cửa và một căn phòng đóng băng tới tận ngang ngực. Tôi thận trọng tới gần khối băng và nhìn qua, và thậm chí cả trong ánh sáng yếu ớt, tôi cũng thấy ngay một con hồn rỗng. Nó đang nằm phục dưới sàn, hai con mắt đen như mực bị bọc kín trong băng. Chỉ còn nửa trên cái đầu của nó nhô lên khỏi băng; phần còn lại của con quái vật, những phần nguy hiểm, cái miệng há ngoác và tất cả răng cũng như lưỡi của nó đều bị giữ lại dưới mặt băng.
Con quái vật chỉ còn sống thoi thóp, tim nó chậm lại tới mức gần như ngừng, đập chừng một lần mỗi phút. Với mỗi nhịp đập yếu ớt tôi lại cảm thấy một cơn đau nhói.
Tôi đứng ngoài cửa phòng và nhìn nó chằm chằm, kinh ngạc và ghê tởm. Nó bất tỉnh, bất động, hoàn toàn có thể tấn công. Thật dễ dàng leo lên mặt băng và đâm mũi một trụ băng vào đầu con hồn rỗng – và nếu ai đó khác biết nó ở đây, tôi tin chắc họ sẽ làm như thế. Nhưng có điều gì đó chặn tôi lại. Sinh vật này giờ đây không còn là mối đe dọa cho bất cứ ai nữa. Tất cả các hồn rỗng tôi từng tiếp xúc đều để lại một dấu ấn trên tôi. Tôi nhìn thấy khuôn mặt thối rữa của chúng trong những giấc mơ của mình. Không mấy chốc nữa tôi sẽ về nhà, nơi tôi sẽ không còn là Jacob kẻ giết hồn rỗng nữa. Tôi không muốn mang theo cả gã này với mình. Đây không còn là chuyện của tôi nữa.
Tôi lùi ra khỏi phòng và đóng cửa lại.
***
Khi tôi quay trở lại phòng họp, trời đã gần tốt mịt bên ngoài, và căn phòng tối om. Cô Wren không cho phép thắp những ngọn đèn khí ga lên vì sợ ánh đèn bị trông thấy từ dưới đường, tất cả mọi người bèn xúm lại quanh mấy cây nến tại chiếc bàn lớn hình bầu dục, một số ngồi trên ghế, số khác ngồi gác tréo chân ngay trên bàn, rì rầm trò chuyện khe khẽ và chăm chú nhìn xuống cái gì đó.
Khi các cánh cửa nặng nề kêu lên ken két, tất cả quay sang nhìn tôi.
“Cô Wren?” Bronwyn lên tiếng đầy hy vọng, thẳng người lên trên ghế và nheo mắt.
“Chỉ là Jacob thôi,” một bóng đen khác nói.
Sau một dàn đồng ca những tiếng thở dài thất vọng, Bronwyn nói, “À, chào Jacob,” rồi chuyển sự chú ý trở lại bàn.
Trong khi bước về phía họ, tôi trao đổi ánh mắt với Emma. Theo dõi ánh mắt cô, tôi thấy điều gì đó non nớt, lộ liễu – tôi hình dung rằng đó là nỗi sợ rằng quả thực tôi đã quyết định làm điều cô thúc giục tôi làm. Sau đó, ánh mắt cô đờ dại đi, và cô lại nhìn xuống.
Tôi phần nào hy vọng Emma đã thấy thương tôi và nói trước với những người khác rằng tôi chuẩn bị rời đi rồi. Nhưng hiển nhiên là cô đã không nói – tôi vẫn chưa nói gì với cô. Dẫu vậy, dường như cô biết, chỉ từ việc quan sát khuôn mặt tôi khi tôi đi vào phòng.
Rõ ràng những người khác không biết gì. Họ đã quá quen thuộc với sự hiện diện của tôi, thậm chí họ đã quên rằng điều đó đang bị xem xét. Tôi lấy hết can đảm và yêu cầu mọi người chú ý.
“Đợi một chút,” một giọng nói có khẩu âm nặng trịch vang lên, trong ánh nến tôi nhìn thấy cô gái điều khiển trăn và con trăn của cô đang nhìn tôi. “Cậu này vừa nói rất nhiều điều vớ vẩn về nơi tôi từ đó tới.” Cô này quay sang chiếc ghế duy nhất cạnh bàn còn trống và nói, “Chúng tôi gọi nơi đó là Simhaladvipa – nhà của sư tử.”
Từ chiếc ghế trống, Millard đáp, “Tớ xin lỗi, nhưng trong đó viết rõ ràng trên giấy trắng mực đen: Vùng đất Serendip. Các chuyên gia vẽ bản đồ đặc biệt tạo ra thứ này không phải loại người đi bịa chuyện!”
Sau đó, tôi lại gần hơn thì thấy họ đang trao đổi về cái gì. Đó là một tấm Bản đồ Các Ngày, cho dù là một phiên bản lớn hơn nhiều so với tấm bản đồ chúng tôi đã mất ngoài biển. Tấm bản đồ này phủ kín cả chiều ngang mặt bàn và dày như một viên gạch để dựng đứng. “Tôi biết quê nhà của mình, và tên nơi đó là Simhaladvipa!” cô gái thôi miên trăn khăng khăng, và con trăn tháo mình ra khỏi cổ cô, lao vút đi qua bàn và đập mũi vào Bản đồ, chỉ vào một hòn đảo hình giọt nước ở ngoài khơi Ấn Độ. Tuy nhiên, trên tấm bản đồ này Ấn Độ được gọi là Malabar, và hòn đảo, mà tôi biết là Sri Lanka, được viết đè lên một dòng chữ đề Vùng Đất Serendip.
“Tranh luận chỉ vô ích,” Millard nói. “Có những nơi nhiều tên như thể lấy tên từng người dân để đặt cho nó vậy. Giờ hãy làm ơn bảo con trăn của cậu lui ra, nếu không nó sẽ làm nhàu trang giấy mất.”
Cô gái thôi miên trăn đằng hắng rồi lẩm bẩm gì đó, và con trăn thu mình về trở lại quấn quanh cổ cô. Từ đầu đến cuối, tôi không thể đừng nhìn chăm chăm vào cuốn sách. Tập sách chúng tôi để mất cũng đã rất ấn tượng, cho dù tôi mới thấy nó khi giở ra có một lần vào ban đêm, trong ánh lửa màu cam nhảy múa khi ngôi nhà dành cho những đứa trẻ đặc biệt đang bốc cháy. Tập bản đồ này có kích cỡ khác hẳn. Không chỉ lớn hơn nhiều, tập sách này còn được trang trí cầu kỳ đến mức khiến tập sách kia trông chẳng khác gì một tập giấy vệ sinh bọc bìa da. Những tấm bản đồ đầy màu sắc được vẽ trên các trang của tập sách, làm từ một thứ vật liệu nào đó bền hơn giấy, có lẽ là da dê, và rìa được thếp vàng. Những hình minh họa sinh động, các ghi chú và những cụm văn bản giải thích chen kín các rìa trang.
Millard để ý thấy tôi nhìn tập bản đồ đầy ngưỡng mộ liền nói, “Thật kinh ngạc phải không nào? Có lẽ ngoại trừ Lộ Luật Người Đặc Biệt, thì ấn bản này của Bản đồ là tập sách đẹp nhất trong cả thế giới đặc biệt. Cả một đội các chuyên gia vẽ bản đồ, họa sĩ và thợ đóng sách đã dành ra cả cuộc đời để tạo nên nó, và người ta kể đích thân Perplexus Anomalous đã vẽ một số trong các bản đồ. Tớ vẫn muốn tận mắt nhìn thấy nó từ khi còn bé tẹo. Ồ, tớ vui lắm!”
“Đây quả là một kiệt tác,” tôi nói, và đúng là vậy.
Thay vì làm hỏng niềm vui của Millard với tuyên bố buồn của mình, tôi quyết định có thể đợi thêm chút nữa. Tôi sẽ không đi đâu hết ít nhất cho tới khi trời sáng, và tôi muốn tận hưởng thêm vài phút nữa bên các bạn tôi mà không bị những điều ảm đạm hơn đè nặng. Tôi rón rén ngồi xuống cạnh Millard và đưa các ngón tay trượt dưới trang sách, có khổ lớn tới mức cần đến cả hai bàn tay tôi cũng như hai bàn tay của cậu ta để lật trang.
Chúng tôi cúi xuống Bản đồ. Tôi bị nó thu hút – nhất là những phần xa xôi và ít được biết đến. Tất nhiên, châu Âu và số lượng lớn Vòng Thời Gian ở đây được xác định chu đáo, nhưng càng cách xa, thông tin càng trở nên thưa thớt. Từng mảng lớn ở châu Phi chỉ đơn giản là trống trơn. Vùng đất chưa được biết tới. Tương tự là Siberia, cho dù bản đồ Các Ngày có tên riêng dành cho vùng Viễn Đông nước Nga: Vùng Rộng Lớn Cô Độc Xa Xăm.
“Có các Vòng Thời Gian ở những vùng này không?” Olive hỏi, chỉ tay vào một khoảng trống trải rộng trên phần lớn Trung Quốc. “Ở đó cũng có những người đặc biệt như chúng ta chứ?”
“Chắc chắn là có,” Millard nói. “Thuộc tính đặc biệt do gene quyết định chứ không phải địa lý. Nhưng chỉ có điều là phần lớn của thế giới đặc biệt còn chưa được khám phá.”
“Tại sao lại chưa?”
“Tớ đoán vì chúng ta quá bận rộn với việc sinh tồn.”
Tôi chợt nghĩ việc sống còn đã loại trừ rất nhiều thứ, trong đó khám phá và yêu không phải là ngoại lệ.
Chúng tôi lật thêm các trang, tìm kiếm những vùng trắng. Có rất nhiều, và tất cả đều có những cái tên lạ lùng. Vương Quốc Than Khóc Của Cát. Vùng Đất Được Tạo Ra Trong Cơn Giận. Một Nơi Cao Đầy Sao. Tôi đọc thầm những cái tên này, đánh giá sự hợp lý của chúng.
Tại các vùng rìa lẩn khuất những nơi đáng sợ Bản đồ gọi là các vùng Hoang Vu. Cực Bắc Scandinavia là vùng Hoang Vu Băng Giá. Trung bộ Borneo: vùng Hoang Vu Ngột Ngạt. Phần lớn bán đảo Ả Rập: vùng Hoang Vu Tàn Nhẫn. Có những nơi chẳng hề được thể hiện. New Zealand. Hawaii. Floria, chỉ đơn thuần là một cái bướu nhỏ xíu chưa nhô hẳn ra khỏi bàn chân nước Mỹ, gần như không thể nhìn thấy.
Nhìn vào Bản đồ Các Ngày, thậm chí cả những nơi nghe có vẻ cấm đặt chân đến cũng thổi bùng lên trong tôi một mong ước lạ lùng. Nó làm tôi nhớ lại những buổi chiều cách đây đã lâu trải qua bên ông nội nghiên cứu những tấm bản đồ lịch sử trên tạp chí Địa lý Quốc gia – những tấm bản đồ được vẽ từ rất lâu trước khi xuất hiện máy bay và vệ tinh nhân tạo, khi các camera phân giải cao chưa thể nhìn tới tận từng ngóc ngách của thế giới. Khi hình dạng của những đường bờ biển ngày nay thật quen thuộc vẫn chỉ là phỏng đoán. Khi độ sâu và kích thước của những vùng biển băng giá và những khu rừng rậm rạp được tập hợp lại từ những lời đồn đại, các truyền thuyết và những chuyến lang thang nhớn nhác của các đoàn thám hiểm đã mất đến nửa số thành viên trong quá trình khám phá chúng.
Trong khi Millard lang thang theo lịch sử của Bản đồ, tôi dùng ngón tay lần theo một sa mạc rộng mênh mông không đường đi ở châu Á. Nơi Tạo Vật Có Cánh Không Kết Thúc Chuyến Bay Của Nó. Tại đây còn cả một thế giới còn cần khám phá, và tôi mới chỉ bới qua loa trên bề mặt của nó. Ý nghĩ này làm tôi tràn đầy nuối tiếc – nhưng cũng có cả một cảm giác nhẹ nhõm đáng hổ thẹn. Nói cho cùng, tôi sẽ lại được thấy nhà mình, và bố mẹ mình. Và có thể sự thôi thúc khám phá chỉ vì để khám phá xưa kia đúng là thật trẻ con. Có sự lãng mạn trong cái chưa biết, nhưng một khi nơi nào đó đã được khám phá, ghi chép lại và đưa lên bản đồ, nó bị thu lại, chỉ còn là một hiện thực phủ bụi trong một cuốn sách, mất đi sự bí hiểm. Thế nên có lẽ tốt hơn nên để lại một số vùng trắng trên bản đồ. Hãy để thế giới giữ lại một phần phép mầu của mình, thay vì ép buộc nó tiết lộ ra đến bí mật cuối cùng.
Có thể thỉnh thoảng phải băn khoăn tự hỏi lại tốt hơn.
Và tôi nói với họ. Đợi thêm nữa cũng chẳng ích gì. “Tớ sắp rời khỏi đây,” tôi nói. “Khi tất cả chuyện này kết thúc, tớ sẽ quay về nhà.”
Có một khoảnh khắc im lặng vì sốc. Cuối cùng Emma cũng bắt gặp ánh mắt tôi, và tôi có thể thấy đôi mắt cô ướt nhòa.
Rồi Bronwyn đứng dậy khỏi bàn và đưa hai cánh tay ôm chầm lấy tôi. “Người anh em,” cô nói. “Chúng tớ sẽ nhớ cậu lắm.”
“Tớ cũng sẽ nhớ các cậu,” tôi nói. “Nhiều hơn những gì tớ có thể nói.”
“Nhưng tại sao?” Olive nói, lơ lửng bay lên ngang tầm mắt tôi. “Có phải tớ khó chịu quá không?”
Tôi đưa bàn tay đặt lên đầu cô bé và đẩy cô xuống sàn trở lại. “Không, không, không có gì liên quan tới cậu cả,” tôi nói. “Cậu rất tuyệt, Olive.”
Emma bước tới. “Jacob tới đây để giúp chúng ta,” cô nói. “Nhưng cậu ấy phải quay trở lại cuộc sống cũ của mình, nó vẫn luôn ở đó chờ cậu ấy.”
Những đứa trẻ có vẻ hiểu. Không có sự tức giận. Phần lớn họ dường như thực sự mừng cho tôi.
Cô Wren ló đầu vào phòng để cập nhật nhanh tình hình cho chúng tôi – mọi thứ diễn ra rất tuyệt, bà nói. Cô Peregrine đang bình phục. Đến sáng bà sẽ sẵn sàng. Rồi cô Wren lại lui ra.
“Ơn Chúa,” Horace nói.
“Cảm ơn các loài chim,” Hugh nói.
“Cảm ơn Chúa và các loài chim,” Bronwyn nói. “Tất cả những con chim trên tất cả những cái cây trong tất cả các khu rừng.”
“Cảm ơn cả Jacob nữa,” Millard nói. “Chúng ta không bao giờ có thể làm được đến chừng này nếu không có cậu ấy.”
“Thậm chí chúng ta còn chẳng thể rời nổi khỏi hòn đảo,” Bronwyn nói. “Cậu đã làm rất nhiều cho chúng tớ, Jacob.”
Tất cả họ đều tới và ôm hôn tôi, tất cả, từng người một. Rồi họ rời đi, chỉ còn lại Emma, và cô ôm hôn tôi cuối cùng – một cái ôm hôn thật dài, vừa ngọt ngào vừa cay đắng thật giống với lời tạm biệt.
“Yêu cầu cậu rời đi là điều khó khăn nhất tớ từng phải làm,” cô nói. “Tớ rất vui vì cậu đã tới. Tớ không nghĩ tớ sẽ có đủ sức mạnh để yêu cầu thêm nữa.”
“Tớ ghét chuyện này,” tôi nói. “Tớ ước gì có một thế giới mà chúng ta có thể bình yên ở bên nhau.”
“Tớ biết,” cô nói. “Tớ biết, tớ biết.”
“Tớ ước…” tôi bắt đầu nói.
“Đừng nói nữa,” cô nói.
Nhưng tôi vẫn nói. “Tớ ước gì cậu có thể về nhà cùng tớ.”
Cô nhìn đi chỗ khác. “Cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra với tớ nếu tớ làm điều đó mà.”
“Tớ biết.”
Emma không thích những cuộc chia tay kéo dài. Tôi có thể cảm thấy cô đang cố gồng mình lên, cố đè nén nỗi đau trong lòng. “Vậy nhé,” cô nói với giọng công việc. “Lên kế hoạch chút. Khi cô Peregrine trở lại hình người, cô sẽ dẫn cậu trở lại chỗ lễ hội, xuống đường hầm, và khi cậu đi qua phòng thay đồ, cậu sẽ trở lại hiện tại. Cậu nghĩ mình có thể xoay xở được từ đó chứ?”
“Tớ nghĩ là được,” tôi nói. “Tớ sẽ gọi cho bố mẹ tớ. Hoặc tới một đồn cảnh sát, hay làm gì đó. Tớ tin chắc đến giờ này hẳn đã có thông báo tìm kiếm dán ảnh của tớ tại tất cả các đồn cảnh sát Anh rồi, tớ hiểu bố tớ lắm.” Tôi cười khẽ, vì nếu không làm thế có khi tôi đã bắt đầu khóc.
“Thế thì ổn,” cô nói.
“Thế là ổn,” tôi nói.
Chúng tôi nhìn nhau, chưa hoàn toàn sẵn sàng chia tay, nhưng không biết chắc phải làm gì khác. Bản năng thôi thúc tôi hôn cô, nhưng tôi kìm mình. Chuyện này không còn được phép nữa.
“Cậu đi đi,” cô nói. “Nếu cậu không bao giờ nghe nói gì về bọn tớ nữa, thì một ngày nào đó cậu sẽ có thể kể lại câu chuyện của chúng ta. Cậu có thể kể cho các con cậu về chúng ta. Hay các cháu cậu. Và chúng tớ sẽ không hoàn toàn bị quên lãng.”
Lúc ấy tôi biết rằng, từ giờ trở đi, mỗi lời trao đổi giữa chúng tôi sẽ gây đau khổ, sẽ thấm đẫm và mang dấu ấn nỗi đau của khoảnh khắc này, và tôi cần rút lui ngay bây giờ hoặc nó sẽ không bao giờ dừng lại. Vậy là tôi buồn bã gật đầu, ôm hôn cô thêm lần nữa, rồi rút lui vào một góc để ngủ, vì tôi rất, rất mệt.
Sau một hồi, những người khác lôi đệm và chăn vào trong phòng, xếp thành một chỗ ngủ quanh tôi, và chúng tôi xúm lại sát nhau để lấy hơi ấm chống lại cái lạnh đang ngấm dần. Nhưng trong khi những người khác bắt đầu nằm xuống, tôi nhận ra mình không tài nào ngủ được, dù đã rất kiệt quệ, và tôi đứng dậy đi đi lại lại trong phòng một hồi, quan sát những đứa trẻ từ ngoài xa.
Tôi cảm thấy rất nhiều điều từ khi cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu – vui, sợ, hy vọng, kinh hoàng – nhưng cho tới nay, tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn. Bronwyn đã gọi tôi là người anh em, nhưng nghe cách gọi ấy không còn ổn nữa. Khá lắm tôi cũng chỉ là một người anh em họ đời thứ hai so với họ. Emma nói đúng: tôi không bao giờ có thể hiểu. Họ đã quá già, đã chứng kiến quá nhiều. Còn tôi tới từ một thế giới khác. Giờ đã đến lúc trở về.
***
Cuối cùng, tôi ngủ thiếp đi trong tiếng băng kêu răng rắc, nứt lách cách ở các tầng nhà bên dưới chúng tôi và tầng áp mái phía trên. Ngôi nhà sống dậy trong những tiếng động này.
Đêm hôm đó, đêm của những giấc mơ lạ lùng, gấp gáp.
Tôi lại về nhà, làm tất cả những điều tôi từng làm. Ăn ngấu nghiến một chiếc hamburger đồ ăn nhanh – to, nâu, béo ngậy. Ngồi cạnh lái xe trong chiếc Crown Vic của Ricky, chiếc radio lọc xọc mở thật to. Tại cửa hàng tạp hóa cùng bố mẹ tôi, lao xuống những dãy giá bày hàng dài chiếu sáng quá chói chang, và Emma ở đó, đang làm mát hai bàn tay trong nước đá ở quầy bán cá, nước tan ra chảy khắp nơi. Cô không nhận ra tôi.
Rồi tôi đang ở trung tâm trò chơi, nơi tôi tổ chức sinh nhật lần thứ mười hai, bắn một khẩu súng nhựa. Các thân người nổ tung, những quả bóng đựng đầy máu.
Jacob cậu ở đâu.
Rồi đến trường. Thầy giáo đang viết trên bảng, nhưng các chữ cái chẳng tạo nên ý nghĩa nào. Rồi tất cả cùng đứng bật dậy, hối hả lao ra ngoài. Có gì đó không ổn. Một tiếng động chói tai vang lên rồi lắng xuống. Tất cả mọi người đứng im, đầu ngẩng lên trời.
Không kích.
Jacob Jacob cậu ở đâu.
Một bàn tay đặt lên vai tôi. Một ông già. Một người không có mắt. Tới để lấy cắp mắt của tôi. Không phải một người – một thứ - một con quái vật.
Giờ là chạy. Đuổi theo con chó già của tôi. Nhiều năm trước nó đã vùng khỏi tôi, chạy đi khi dây dắt vẫn buộc cổ và làm sợi dây quấn quanh một cành cây trong lúc cố đuổi theo một con sóc lên cây. Và tự làm mình chết ngạt. Chúng tôi mất hai tuần lang thang khắp khu vực lân cận gọi tên nó. Và tìm thấy con chó sau ba tuần. Snuffles già khốn khổ.
Lúc này tiếng còi vang lên điếc tai. Tôi chạy và một chiếc xe lao tới bên cạnh, đón tôi lên. Bố mẹ tôi ở trong xe, mặc đồ nghiêm chỉnh. Họ không nhìn tôi. Các cửa xe khóa lại. Chúng tôi lao đi và bên ngoài nóng đến ngột thở, nhưng máy sưởi lại được bật và các cửa xe đóng kín, radio thì mở to nhưng toàn chỉnh vào đoạn nhiễu giữa các đài phát.
Mẹ, chúng ta đi đâu đây.
Bà không trả lời.
Bố, sao chúng ta lại dừng ở đây.
Rồi chúng tôi ra ngoài, đi bộ, và tôi lại thở được. Một nơi đầy màu xanh. Có mùi cỏ mới cắt. Những người mặc đồ đen tụ tập lại quanh một cái hố trên mặt đất.
Một chiếc quan tài để mở trên một cái bệ. Tôi nhìn vào trong. Nó trống rỗng, chỉ có một vết ố nhớt như dầu chầm chậm lan rộng ra dưới đáy. Làm đen kịt nền xa tanh trắng. Nhanh lên, đóng nắp lại! Hắc ín đen ngòm sủi bọt trào ra từ các đường rãnh và khe nứt rồi nhỏ giọt xuống cỏ và chìm vào trong đất.
Jacob con đâu rồi, nói gì đi chứ.
Trên bia ghi: ABRAHAM ERZA PORTMAN. Tôi vấp chân ngã nhào vào huyệt mộ mở toang của ông, bóng tối cuộn lên nuốt chửng lấy tôi, và tôi cứ rơi mãi vào một nơi không đáy, và rồi tôi ở đâu đó dưới lòng đất, một mình, đang lang thang qua hàng nghìn đường hầm kết nối đan vào nhau, và tôi cứ lang thang, xung quanh thật lạnh, lạnh đến nỗi tôi sợ da mình sẽ đông cứng và xương tôi sẽ gãy rời, khắp nơi đều có những con mắt vàng khè quan sát tôi từ trong bóng tối.
Tôi đi theo giọng nói của ông. Yakob, lại đây. Đừng sợ.
Đường hầm dốc lên trên và ở phía cuối có ánh sáng, và một người đàn ông trẻ đang đứng trước miệng đường hầm, bình thản đọc sách. Trông anh ta cũng giống tôi, hay gần như giống tôi, và có thể anh ta chính là tôi, tôi thầm nghĩ, nhưng sau đó anh ta lên tiếng, và đó là giọng của ông nội tôi. Ông có thứ này muốn chỉ cho cháu.
Trong giây lát tôi bật dậy bừng tỉnh trong bóng tối và biết mình đang mơ, nhưng tôi không biết mình đang ở đâu, chỉ là tôi không còn ở trên giường nữa, cũng không ở trong phòng họp với những người khác. Tôi đã đi tới một nơi khác, và căn phòng tôi đang ở chỉ toàn một màu đen, phía dưới tôi là băng, và bụng tôi đau thắt lại…
Jacob lại đây cháu đâu rồi.
Một giọng nói từ bên ngoài, phía cuối hành lang – giọng người thật, không phải từ một giấc mơ.
Và rồi tôi lại ở trong mơ, ngay bên ngoài những dây chắn của một võ đài quyền Anh, và trên võ đài, trong ánh sáng và khói mờ, ông nội tôi đang đối đầu với một con hồn rỗng.
Họ đi vòng quanh nhau. Ông nội tôi trẻ trung và nhanh nhẹn trên đôi chân mình, cởi trần, một bàn tay cầm dao. Con hồn rỗng còng xuống và vặn vẹo, những cái lưỡi của nó vung vẩy trong không khí, quai hàm há ra nhểu những giọt đen sì xuống đệm võ đài. Nó vung một cái lưỡi ra và ông nội tôi nhanh nhẹn tránh khỏi.
Đừng chống lại cơn đau, đó là chìa khóa, ông nội tôi nói. Nó đang nói với cháu một điều. Hãy chào đón nó, để nó nói với cháu. Cơn đau nói: Xin chào, tôi chẳng là ai khác ngoài cậu; tôi thuộc về hồn rỗng, nhưng tôi cũng là cậu.
Con hồn rỗng lại vung lưỡi quất ông. Ông nội tôi đã tính trước, chuẩn bị để đón nhận cú đòn. Sau đó, con hồn rỗng tấn công lần thứ ba, và ông nội tôi lao tới với con dao của mình, thế là đoạn đầu cái lưỡi đen sì của con hồn rỗng rơi xuống thảm võ đài, bị cắt đứt lìa và quằn quại vặn vẹo.
Chúng là những sinh vật ngu ngốc. Rất dễ khống chế. Hãy nói với chúng, Yakob. Và ông nội tôi bắt đầu nói, nhưng không phải bằng tiếng Anh, cũng không phải tiếng Ba Lan hay bất cứ ngôn ngữ nào tôi từng nghe thấy ngoài những giấc mơ của mình. Nghe như tiếng ga xì xì từ yết hầu, những âm thanh được tạo thành từ cái gì đó khác chứ không phải cổ họng hay khuôn miệng.
Và con quái vật không đi lại nữa, chỉ lắc lư ở nơi nó đứng, có vẻ như bị thôi miên. Vẫn tiếp tục nói thứ tiếng vô nghĩa kinh khủng của mình, ông nội tôi hạ dao xuống và rón rén lại gần nó. Ông tới càng gần, con quái vật càng trở nên ngoan ngoãn hơn, cuối cùng nó quỳ phục xuống thảm. Tôi tưởng nó sắp sửa nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi thì bất thình lình nó thoát khỏi phép thôi miên mà ông nội tôi đã áp lên nó, đoạn lao tới bằng tất cả những cái lưỡi của mình, đánh gục ông tôi. Thấy ông ngã xuống, tôi liền nhấc những sợi dây thừng chăng quanh võ đài lên và lao về phía ông, và con hồn rỗng tránh ra xa. Ông nội tôi đang nằm ngửa trên thảm, còn tôi quỳ gối xuống cạnh ông, bàn tay tôi đặt lên khuôn mặt ông, còn ông đang thì thầm gì đó với tôi, máu trào ra sủi bọt trên môi ông, tôi bèn cúi xuống sát hơn để nghe ông nói. Cháu hơn ông, Yakob, ông nói. Cháu còn hơn ông ngày xưa.
Tôi có thể cảm thấy tim ông đập chậm lại. Và bằng cách nào đó, lắng nghe nó cho tới khi trọn một giây trôi qua giữa các nhịp đập. Rồi mười giây. Rồi…
Jacob cậu ở đâu.
Tôi lại giật mình bừng tỉnh. Lần này có ánh sáng trong phòng. Sáng rồi, chỉ mới hừng đông. Tôi đang quỳ gối trên mặt băng của căn phòng bị băng phủ kín một nửa, và bàn tay tôi không phải đang áp lên khuôn mặt ông nội mà đặt trên đỉnh đầu con hồn rỗng bị mắc kẹt, với bộ óc bò sát chậm chạp của nó. Đôi mắt nó mở to và nhìn tôi, tôi nhìn thẳng lại vào đôi mắt này. Tao thấy mày.
“Jacob! Cậu đang làm gì thế? Tớ đã tìm cậu khắp nơi!”
Đó là Emma, cô hối hả gọi vào từ ngoài hành lang. “Cậu đang làm gì thế?” cô lại hỏi. Cô không thể thấy con hồn rỗng. Không hề biết nó ở trong này.
Tôi nhấc bàn tay lên khỏi đầu nó, trượt lùi ra xa. “Tớ không biết,” tôi nói. “Tớ nghĩ mình đang mộng du.”
“Không quan trọng,” cô nói. “Lại đây nhanh lên, cô Peregrine sắp biến hình!”
***
Chen chúc trong căn phòng nhỏ là tất cả những đứa trẻ và cả những nhân vật kinh dị trong màn trình diễn phụ, tất cả đều tái nhợt và hồi hộp, áp vào tường hay phủ phục dưới sàn nhà thành một vòng rộng bao quanh hai Chủ Vòng Thời Gian, hệt như những kẻ tham dự một trận chọi gà bất hợp pháp. Emma và tôi lách vào giữa họ và thu mình vào một góc, dán mắt vào cảnh tượng sắp diễn ra. Căn phòng là một đống lộn xộn: chiếc ghế bập bênh cô Wren đã ngồi cả đêm cùng cô Peregrine giờ bị lật nghiêng sang một bên, cái bàn bày đầy những lọ và cốc có mỏ bị đẩy vào tường không chút khách khí. Althea đứng trên mặt bàn, cầm khư khư một cái lưới được buộc vào cây sào, sẵn sàng sử dụng nó.
Giữa sàn nhà là cô Wren và cô Peregrine. Cô Wren đang quỳ gối, giữ chặt cô Peregrine xuống ván sàn, hai bàn tay bà đều đi găng dày của người dạy chim ưng, người vã mồ hôi, hát khẽ bằng Cổ Ngữ Đặc Biệt, trong khi cô Peregrine kêu quang quác và cố chồm lên. Nhưng cho dù cô Peregrine có vùng lên mạnh đến cỡ nào, cô Wren cũng không buông ra.
Đến một lúc nào đó trong đêm, thông điệp nhẹ nhàng của cô Wren đã trở nên giống như một màn vật biểu diễn giữa các loài khác nhau kết hợp với lễ trừ tà. Nửa chim của cô Peregrine đã chiếm ưu thế mạnh mẽ trong bản thể của bà tới mức nó từ chối bị đuổi đi trong hòa bình. Cả hai Chủ Vòng đều đã phải chịu những vết thương nhẹ: lông của cô Peregrine rụng khắp nơi, còn cô Wren bị một vết cào chạy dọc xuống một bên mặt. Đó là một cảnh thật đáng ngại, và nhiều đứa trẻ đã há hốc miệng vì sốc khi chứng kiến. Với đôi mắt hoang dại và hung dữ, con chim cô Wren đang ấn chặt xuống sàn là một tạo vật chúng tôi gần như không nhận ra nổi. Có vẻ thật khó tin là chuyện khôi phục lại cô Peregrine trọn vẹn như trước đây lại có thể xuất phát từ màn trình diễn bạo lực này, nhưng Althea vẫn luôn mỉm cười nhìn chúng tôi, dành cho chúng tôi những cái gật đầu động viên như thể nói: Gần được rồi, chỉ cần ghì chặt xuống sàn thêm một chút nữa thôi!
Cho dù là một bà lão gầy gò, cô Wren đã khống chế rất chắc cô Peregrine. Nhưng rồi con chim lấy mỏ mổ vào cô Wren và nắm tay cô Wren tuột ra, và bằng một cách đập cánh thật mạnh, cô Peregrine thiếu chút nữa đã thoát khỏi hai bàn tay cô Wren. Đám trẻ phản ứng bằng những tiếng la hét và tiếng kêu thảng thốt. Song cô Wren rất nhanh, bà nhổm dậy kịp thời để tóm lấy chân cô Peregrine và kéo ấn xuống ván sàn như trước, làm lũ trẻ thảng thốt kêu lên còn to hơn. Chúng tôi không quen phải thấy Chủ Vòng của mình bị đối xử kiểu này, và Bronwyn quả thực đã phải ngăn Hugh không lao vào cuộc vật lộn để bảo vệ bà.
Cả hai Chủ Vòng lúc này có vẻ đều đã kiệt sức, nhưng cô Peregrine kiệt sức hơn; tôi có thể thấy sức lực của bà giảm dần. Phần người trong bà có vẻ đang thắng thế so với phần chim.
“Cố lên, cô Wren!” Bronwyn hô to.
“Bà làm được mà, cô Wren!” Horace gọi. “Mang cô ấy trở lại với chúng cháu đi!”
“Làm ơn!” Althea nói. “Chúng tôi yêu cầu im lặng tuyệt đối.”
Sau một hồi lại, cô Peregrine không chống cự nữa mà nằm xòe cánh dưới sàn, há mỏ thở, lồng ngực phủ đầy lông vũ phập phồng. Cô Wren bỏ tay khỏi con chim và ngồi xổm xuống.
“Việc đó sắp diễn ra rồi,” bà nói, “và khi nó diễn ra, ta không muốn ai trong các cháu lao tới đây ôm lấy bà ấy. Chủ Vòng của các cháu nhiều khả năng sẽ rất bối rối, và ta muốn khuôn mặt đầu tiên bà ấy thấy, giọng nói đầu tiên bà ấy nghe là của ta. Ta cần giải thích cho bà ấy những gì đã xảy ra.”
Rồi bà đập hai bàn tay lên ngực và thì thầm, “Trở lại với chúng tôi, Alma. Hãy trở lại, người chị em. Hãy trở lại với chúng tôi.”
Althea từ trên bàn bước xuống và cầm một tấm chăn lên, giơ nó ra và giơ lên che trước cô Peregrine để chắn bà khỏi tầm mắt. Khi các Chủ Vòng từ hình dạng chim trở lại thành người, họ khỏa thân; tấm chăn là để đảm bảo không ai nhìn thấy cảnh đó.
Chúng tôi đợi trong sự căng thẳng ngạt thở, trong khi một chuỗi những âm thanh lạ lùng kế tiếp nhau vang lên từ sau tấm chăn: một tiếng không khí xì ra, một âm thanh nghe như ai đó đang vỗ tay một cái, thật mạnh, rồi cô Wren đứng bật dậy loạng choạng lùi một bước.
Trông bà có vẻ kinh hoàng – miệng há hốc, và cả Althea cũng há hốc miệng. Rồi cô Wren nói, “Không, không thể là thế này,” và Althea loạng choạng ngất xỉu, để rơi tấm chăn xuống. Và tại đó, trên sàn nhà, chúng tôi thấy một cơ thể con người, nhưng không phải của một phụ nữ.
Người đàn ông này trần truồng, cuộn tròn lại, quay lưng về phía chúng tôi. Ông ta bắt đầu cựa quậy, duỗi người ra, rồi cuối cùng đứng dậy.
“Đó là cô Peregrine sao?” Olive hỏi. “Cô ấy trở lại trông kỳ quá.”
Rõ ràng là không phải. Người đứng trước mặt chúng tôi chẳng có chút tương đồng nào với cô Peregrine. Ông ta là một người đàn ông bé nhỏ còm cõi với hai đầu gối nổi cục, đầu hói và cái mũi như một cục tẩy dùng dở, và ông ta hoàn toàn trần trụi từ đầu đến chân với một lớp gel dính, trong mờ. Trong khi cô Wren há hốc miệng nhìn người đàn ông và quờ quạng với tìm thứ gì đó để bám vào, tất cả những người khác bắt đầu la lớn trong choáng váng và phẫn nộ, “Ông là ai? Ông là ai? Ông đã làm gì cô Peregrine?”
Chậm rãi, thật chậm rãi, người đàn ông đưa hai bàn tay lên mặt và lau mắt. Sau đó, ông ta mở mắt ra lần đầu tiên.
Cả hai tròng mắt đều trắng dã, vô hồn.
Tôi nghe thấy ai đó kêu thét lên.
Rồi thật bình thản, ông ta nói, “Tên ta là Caul. Và tất cả các người giờ là tù binh của ta.”
***
“Tù binh ư!” Người Gấp nói và bật cười. “Ý hắn là sao, chúng ta là tù binh à?”
Emma hét lên với cô Wren, “Cô Peregrine đâu rồi? Người đàn ông này là ai, và bà đã làm gì với cô Peregrine?”
Cô Wren dường như đã mất đi khả năng nói.
Trong lúc sự bối rối của chúng tôi biến thành choáng váng và phẫn nộ, chúng tôi ào ào trút câu hỏi về phía người đàn ông bé quắt. Hắn chịu đựng chúng với vẻ hơi chán ngán, đứng giữa phòng, hai bàn tay dè dặt khum vào che chỗ kín.
“Nếu các người thực sự để ta nói, ta sẽ giải thích tất cả,” hắn nói.
“Cô Peregrine đâu?” Emma lại hét lên, run người vì phẫn nộ.
“Đừng lo,” Caul nói, “bà ta đang an toàn tại nơi giam giữ của chúng ta. Chúng ta đã bắt cóc bà ta nhiều ngày trước, trên hòn đảo của các người.”
“Vậy con chim chúng tôi đã cứu lên từ tàu ngầm,” tôi nói, “đó là…”
“Đó là ta,” Caul nói.
“Không thể!” cô Wren thốt lên, cuối cùng cũng nói được trở lại. “Xác sống không thể biến thành chim được!”
“Về nguyên tắc chung thì đúng là thế. Nhưng Alma là chị gái ta, các người thấy đấy, và dù không đủ may mắn để được thừa kế chút tài năng khống chế thời gian nào như bà ta, ta cũng được chia sẻ hầu hết những năng lực vô dụng của chị mình – khả năng biến thành một con chim săn mồi bé nhỏ xấu xa. Ta đã làm khá tuyệt khi vào vai bà ta, các người không nghĩ thế sao?” Và hắn hơi cúi chào. “Bây giờ, ta có thể phiền các người tìm giúp một cái quần được không? Các người bắt gặp ta trong tình thế thật bất lợi cho ta.”
Lời yêu cầu của hắn bị lờ đi. Trong khi đó, đầu tôi quay cuồng. Tôi nhớ từng có lần cô Peregrine nói bà có hai em trai – thực ra tôi đã thấy ảnh của họ, khi cả ba chị em còn đang được cô Avocet nuôi dạy. Rồi tôi nhớ lại những ngày chúng tôi đã trải qua cùng con chim chúng tôi tin là cô Peregrine; tất cả những gì chúng tôi đã trải qua, mọi thứ chúng tôi đã thấy. Cô Peregrine bị nhốt trong lồng mà Golan đã ném xuống đại dương – đó là người thật, trong khi con chim chúng tôi “cứu” lên lại là em trai bà. Giờ thì những điều tàn nhẫn cô Peregrine đã làm gần đây trở nên sáng tỏ - đó không phải là cô Peregrine – song tôi vẫn còn đến cả triệu câu hỏi.
“Suốt thời gian đó,” tôi nói. “Tại sao ông lại giữ nguyên hình chim? Chỉ để theo dõi chúng tôi sao?”
“Mặc dù quãng thời gian dài quan sát cuộc cãi vã trẻ con của chúng mày phải nói là đáng kinh ngạc một cách không thể chối cãi, ta đúng là còn hy vọng chúng mày có thể giúp ta một việc chưa hoàn tất. Khi chúng mày giết đám người của ta ở vùng nông thôn, ta rất ấn tượng. Chúng mày đã chứng tỏ bản thân khá biết xoay xở. Tất nhiên, thuộc hạ của ta đã có thể ập tới và bắt chúng mày vào bất cứ lúc nào sau đó, nhưng ta nghĩ tốt hơn hãy để chúng mày được tung tăng tự do một thời gian để xem biết đâu sự khôn ngoan của chúng mày lại dẫn bọn ta tới chỗ Chủ Vòng duy nhất liên tục thành công thoát khỏi tay bọn ta.” Nói tới đây, hắn quay sang cô Wren và cười hết cỡ. “Xin chào, Balenciaga. Thật vui lại được gặp bà.”
Cô Wren rên lên và đưa bàn tay phẩy phẩy quạt cho mình.
“Lũ ngốc, lũ đần độn, lũ ngớ ngẩn!” ông hề gắt lên. “Các cô cậu đã dẫn chúng tới thẳng chỗ chúng tôi!”
“Và như một món phụ trội thú vị,” Caul nói, “bọn ta đã ghé thăm cả trại động vật của bà nữa! Người của ta tới đó không lâu sau khi ta và lũ nhóc rời đi; những cái đầu nhồi rơm của con bán lừa cao cổ và con chó boxer đó trông sẽ thật tuyệt vời trên nóc lò sưởi của ta.”
“Đồ quái vật!” cô Wren rít lên, và bà bật lùi tựa vào bàn, đôi chân không còn đứng vững nữa.
“Ôi, con chim của tôi!” Bronwyn kêu lên, mắt mở to. “Fiona và Claire!”
“Mày sẽ sớm gặp lại chúng thôi,” Caul nói. “Ta đã giam chúng cẩn thận.”
Tất cả bắt đầu sáng tỏ một cách khủng khiếp. Caul biết rằng hắn sẽ được chào đón tới trại động vật của cô Wren khi đóng giả cô Peregrine, và khi bà Chủ Vòng không có nhà để bị bắt, hắn thúc đẩy chúng tôi lần theo bà, tới London. Theo nhiều cách, chúng tôi đã bị thao túng ngay từ đầu – từ khoảnh khắc chúng tôi lựa chọn rời hòn đảo và tôi lựa chọn đi cùng mọi người. Thậm chí cả câu chuyện hắn chọn để Bronwyn đọc trong suốt buổi tối đầu tiên trong rừng về người khổng lồ hóa đá cũng là một thủ đoạn thao túng. Hắn muốn chúng tôi tìm ra Vòng Thời Gian của cô Wren, trong khi chúng tôi cứ nghĩ chính mình đã giải mã ra bí mật về nó.
Những ai không choáng váng lùi lại vì kinh hoàng trong chúng tôi thì cũng sôi lên phẫn nộ. Một số người la lên cần giết Caul, và hối hả tìm kiếm các đồ vật sắc nhọn để làm việc này, trong khi số ít còn giữ được bình tĩnh cố gắng ngăn họ lại. Trong suốt thời gian đó, Caul đứng bình thản, đợi cho cơn kích động lắng xuống.
“Ta nói được chứ?” hắn lên tiếng. “Ta không hoan nghênh bất cứ ý tưởng nào về chuyện giết ta. Các người có thể, tất nhiên; chẳng ai ngăn được các người. Nhưng sẽ dễ dàng cho các người hơn nhiều nếu ta không bị tổn thương khi thuộc hạ của ta tới.” Hắn làm bộ xem giờ từ một cái đồng hồ đeo tay không hề tồn tại trên cổ tay mình. “À phải,” hắn nói, “giờ thì chúng phải ở đây rồi – phải rồi, khoảng lúc này – bao vây tòa nhà, kiểm soát mọi lối ra có thể, kể cả mái nhà. Và ta muốn nói thêm là chúng có năm mươi sáu người, và tất cả đều được vũ trang đến tận răng. Quá cả răng nữa. Các người đã bao giờ thấy một khẩu pháo cỡ nhỏ có thể làm gì với một thân thể trẻ con chưa?” Hắn nhìn thẳng vào Olive và nói, “Nó sẽ biến mày thành thịt băm, bé yêu.”
“Ông đang nói khoác!” Enoch nói. “Chẳng có ai ngoài kia cả!”
“Ta cam đoan với các người là có đấy. Họ đã theo dõi ta sát sao kể từ khi chúng ta rời khỏi hòn đảo bé tẹo chán ngắt của chúng mày, và ta đã ra tín hiệu cho họ ngay thời điểm Balenciage lộ diện trước chúng ta. Lúc đó là cách đây mười hai giờ - quá đủ thời gian để tập hợp một lực lượng tấn công.”
“Cho phép tôi xác nhận chuyện này,” cô Wren nói, và bà rời khỏi phòng để tới chỗ phòng họp của các Chủ Vòng, các cửa sổ ở đó bị băng bịt kín chủ yếu từ bên ngoài, và vài ô cửa có những đường hầm như ống kính viễn vọng được đục chảy qua khối băng được gắn gương cho phép chúng tôi nhìn xuống đường phố bên dưới.
Trong lúc chờ đợi bà quay lại, ông hề và cô gái thôi miên trăn tranh cãi cách tốt nhất để tra tấn Caul.
“Theo tôi chúng ta nên nhổ các móng chân hắn ra trước tiên,” ông hề nói. “Sau đó gí que cời lò nung nóng vào mắt hắn.”
“Ở nơi tôi đến,” cô gái thôi miên trăn nói, “hình phạt cho kẻ phản bội là bôi mật ong lên kín người, trói vào một cái thuyền không mui, và thả xuống một ao nước tù. Lũ ruồi sẽ ăn sống nuốt tươi kẻ đó.”
Caul đứng bẻ cổ từ bên này qua bên kia và duỗi dài hai cánh tay với vẻ buồn chán. “Xin lỗi nhé,” hắn nói. “Phải làm một con chim quá lâu thường làm cơ bắp bị gò bó.”
“Mày nghĩ bọn tao đang đùa chắc?” ông hề nói.
“Ta nghĩ các người là đồ nghiệp dư,” Caul nói. “Nếu các người tìm ra vài mầm măng, ta có thể chỉ cho các người thấy một thứ thực sự tồi tệ. Cho dù thứ băng này có vẻ thú vị, nhưng ta thực lòng đề xuất các người tránh khỏi nhiều phiền toái. Ta nói vậy là vì các người, vì chân thành quan tâm tới sự an lành của các người.”
“Phải rồi,” Emma nói. “Các ông quan tâm đến thứ gì đánh cắp linh hồn của những người đặc biệt đó?”
“À phải. Ba nhà tiên phong. Sự hy sinh của họ là cần thiết – tất cả vì sự tiến bộ, cô em thân mến ạ. Điều bọn ta đang cố gắng làm là giúp các giống loài đặc biệt tiến bộ, cô em thấy đấy.”
“Thật là trò đùa,” cô nói. “Các người chẳng là gì ngoài những kẻ thèm khát quyền lực bệnh hoạn!”
“Ta biết tất cả chúng mày đều quá được bao bọc và thiếu dạy dỗ,” Caul nói, “nhưng chẳng lẽ các Chủ Vòng của chúng mày không dạy chúng mày về lịch sử loài người sao? Những người đặc biệt chúng ta từng giống như các vị thần tung hoành trên trái đất! Những người khổng lồ - các vị vua – những người cai trị chân chính của thế giới! Nhưng theo các thế kỷ và thiên niên kỷ, chúng ta phải chịu đựng sự suy thoái khủng khiếp. Chúng ta hòa lẫn với người bình thường tới mức độ mà dòng máu thuần đặc biệt của chúng ta đã bị pha loãng đi tới độ gần như chẳng còn gì. Và giờ hãy nhìn lại chúng ta xem, chúng ta đã trở nên suy thoái đến thế nào! Chúng ta ẩn trốn trong những xó xỉnh tạm bợ như thế này, sợ hãi chính lũ người chúng ta đáng lẽ cai trị, bị chững lại ở một trạng thái trẻ con vĩnh viễn bởi hội đồng những kẻ bao biện này – những người đàn bà này! Chúng mày không thấy họ đã hạ thấp chúng ta thế nào sao? Chúng mày không thấy nhục nhã sao? Chúng mày liệu có ý thức được về quyền lực đáng lẽ phải thuộc về chúng ta không? Chẳng lẽ chúng mày không cảm thấy dòng máu của những người khổng lồ đang chảy trong huyết quản mình?” Lúc này hắn đã đánh mất vẻ dửng dưng, khuôn mặt trở nên đỏ lựng. “Bọn ta không phải đang tìm cách xóa sổ thế giới người đặc biệt – bọn ta đang tìm cách cứu nó!”
“Có đúng thế không?” ông hề nói, rồi bước tới trước Caul và nhổ thẳng vào mặt hắn. “Vậy đấy, chúng mày có một cách làm điều đó thật quái gở.”
Caul dùng mu bàn tay chùi bãi nhổ. “Ta biết nói lý với các người sẽ chỉ vô ích. Đám Chủ Vòng đã nhồi nhét những lời dối trá và tuyên truyền cho các người trong suốt cả trăm năm qua. Ta nghĩ tốt hơn nên rút lấy linh hồn của các người và bắt đầu lại từ đầu.”
Cô Wren quay trở lại. “Hắn nói thật,” bà nói. “Chắc phải có tới năm mươi tên lính ngoài kia. Tất cả đều có vũ khí.”
“Ôi, ôi, ôi,” Bronwyn rên lên, “chúng ta làm gì đây?”
“Bỏ cuộc,” Caul nói. “Lặng lẽ rồi đi.”
“Chúng có bao nhiêu gã ngoài kia cũng không quan trọng,” Althea nói. “Chúng sẽ không bao giờ vượt qua được khối băng của tôi.”
Khối băng! Tôi đã gần như quên bẵng mất. Chúng tôi đang ở trong một pháo đài băng!
“Đúng thế!” Caul hân hoan nói. “Cô bé hoàn toàn đúng, chúng không thể tiến vào. Vì thế sẽ có một cách nhanh chóng, không đau đớn để giải quyết chuyện này, đó là các người tự làm tan băng ngay bây giờ, hoặc là sẽ có một cách lâu dài, bướng bỉnh, chậm chạp, chán ngắt và buồn thảm, được gọi là một cuộc vây hãm, theo đó trong nhiều tuần, nhiều tháng, người của ta sẽ đứng canh bên ngoài trong khi chúng ta ở đây, lặng lẽ đói lả dần đến chết. Có lẽ các người sẽ bỏ cuộc khi đã đủ tuyệt vọng và đói. Hoặc có thể các người sẽ bắt đầu ăn thịt lẫn nhau. Dù thế nào đi nữa, nếu người của ta phải đợi lâu đến thế, khi xông được vào, chúng sẽ tra tấn tất cả các người đến chết cho đến kẻ cuối cùng, điều đó thì kiểu gì chúng cũng sẽ làm được. Và nếu bọn ta buộc phải thực hiện theo cách chậm chạp, chán ngắt và buồn thảm, thì hãy làm ơn, vì lũ trẻ, mang tới cho ta một cái quần.”
“Althea, tìm một cái quần chết tiệt nào đó cho hắn!” cô Wren nói. “Nhưng không được phép, trong bất cứ hoàn cảnh nào, làm chảy khối băng này!”
“Vâng, thưa cô,” Althea đáp, và cô đi ra ngoài.
“Bây giờ,” cô Wren quay sang Caul và nói. “Đây là những gì chúng ta sẽ làm. Ngươi bảo thuộc hạ của mình để chúng ta an toàn rời khỏi đây, nếu không chúng ta sẽ giết ngươi. Nếu chúng ta phải làm thế, ta cam đoan với ngươi chúng ta sẽ làm, và chúng ta sẽ ném cái xác thối tha của ngươi ra qua một cái hố đục qua băng, mỗi lần một miếng. Mặc dù ta tin chắc thuộc hạ của ngươi sẽ không thích chuyện đó cho lắm, nhưng chúng ta sẽ có rất nhiều thời gian để cân nhắc bước hành động tiếp theo của mình.”
Caul nhún vai và nói, “Ồ, được thôi.”
“Thật sao?” cô Wren hỏi.
“Ta cứ nghĩ ta có thể dọa được bà,” hắn nói, “nhưng bà nói đúng, ta thích không bị giết hơn. Vậy hãy đưa ta tới một trong những cái hố đục qua băng, và ta sẽ làm như bà đã yêu cầu, ra lệnh xuống cho người của ta.”
Althea quay lại cầm theo một cái quần và ném nó cho Caul, y liền mặc nó vào. Cô Wren chỉ định Bronwyn, ông hề và Người Gấp áp giải Caul, trang bị cho họ những trụ băng gãy làm vũ khí. Với các mũi nhọn của trụ băng chĩa vào lưng hắn, chúng tôi tiến ra ngoài hành lang. Nhưng khi chúng tôi đang chen chúc dồn cục lại để đi qua phòng làm việc tối om dẫn sang phòng họp của các Chủ Vòng thì tai họa xảy ra. Ai đó vấp chân vào một tấm thảm trải sàn và ngã sụp xuống, rồi tôi nghe thấy tiếng xô đẩy vang lên trong bóng tối. Emma thắp một ngọn lửa lên vừa đúng lúc thấy Caul túm tóc lôi Althea rời xa khỏi chúng tôi. Cô gái vùng vẫy đấm đá trong khi Caul kề một trụ băng nhọn hoắt vào cổ cô và hét lên, “Lùi lại, nếu không tao sẽ đâm cái này xuyên qua cổ con nhóc!”
Chúng tôi đi theo Caul từ một khoảng cách an toàn. Hắn lôi Althea đang không ngừng quẫy đạp vào phòng họp, rồi lôi cô lên cái bàn bầu dục, tại đó hắn ghì chặt lấy Althea, trụ băng bị kề sát sạt vào mắt cô gái và hét lên, “Đây là những yêu cầu của tao!”
Tuy nhiên, hắn chưa kịp đi xa hơn, Althea đã đánh bật trụ băng khỏi tay hắn. Trụ băng bay đi và cắm phập đầu nhọn xuống các trang của tập Bản đồ Các Ngày. Trong khi mồm hắn còn nguyên hình chữ O vì kinh ngạc, bàn tay Althea đã đập thẳng vào đằng trước quần của hắn, và chữ O há rộng ra nhăn nhó vì choáng váng.
“Xông lên!” Emma hét to, rồi cô cùng tôi và Bronwyn lao về phía họ, băng qua các cánh cửa gỗ. Nhưng khi chúng tôi chạy, khoảng cách phải băng qua trong căn phòng rộng đó dường như vươn dài ra, và chỉ trong vài giây cuộc đấu giữa Althea và Caul đã xoay sang một chiều hướng mới: Caul buông Althea ra và ngã vật xuống bàn, hai cánh tay hắn duỗi ra cố với lấy trụ băng. Althea ngã theo hắn ôm chặt lấy đùi hắn – và một lớp băng đang lan ra nhanh chóng trên nửa dưới người Caul, làm hắn tê liệt từ hông trở xuống, và làm hai bàn tay Althea đông cứng vào chân hắn. Hắn đã móc được một ngón tay quanh trụ băng, rồi cả bàn tay, và vừa rên lên vì nỗ lực và đau đớn, hắn vừa rút nó ra khỏi tập Bản đồ và xoay nửa trên người đi cho tới khi chĩa được mũi nhọn của trụ băng xuống trên lưng Althea. Hắn hét lên bảo cô bé dừng lại, buông hắn ra và làm tan băng, nếu không hắn sẽ đâm nó vào cô.
Lúc này chúng tôi chỉ còn cách họ vài mét, nhưng Bronwyn túm lấy Emma và tôi rồi giữ chúng tôi lại.
Caul gào lên, “Dừng lại! Dừng trò này lại!” trong khi khuôn mặt hắn méo mó vì đau đớn, lớp băng ào ào lan tới trên ngực hắn, trùm lên vai hắn. Chỉ trong vài giây nữa thôi, hai cánh tay và bàn tay hắn cũng sẽ bị đóng băng.
Althea đã không dừng lại.
Và rồi Caul ra tay – hắn đâm trụ băng vào lưng cô bé. Cô gái cứng người lại vì sốc, rồi thét lên. Cô Wren chạy tới chỗ họ, gọi to tên Althea trong khi lớp băng đã bao trùm phần lớn cơ thể Caul bắt đầu rút lại rất nhanh. Khi cô Wren tới chỗ họ, hắn gần như đã hoàn toàn thoát khỏi nó, Nhưng rồi băng ở khắp nơi cũng tan ra – co lại rồi biến mất cũng nhanh như tính mạng Althea – băng trên tầng áp mái tan ra chảy giọt xuống rồi trút như mưa qua trần nhà trong khi máu của chính Althea chảy xuống cơ thể cô. Lúc này cô bé đang nằm trong vòng tay cô Wren, yếu ớt, lả dần.
Bronwyn lao lên bàn, một bàn tay cô chộp lấy cổ Caul, món vũ khí của hắn bị bóp vụn thành tuyết trong bàn tay còn lại của cô. Chúng tôi có thể nghe thấy băng ở các tầng nhà bên dưới mình cũng đang chảy ra, sau đó băng biến mất khỏi các cửa sổ. Chúng tôi ùa tới nhìn ra ngoài, và có thể thấy nước ào ào tuôn từ các cửa sổ thấp hơn ra phố, ngoài đó, những tên lính mặc quân phục ngụy trang tác chiến đô thị màu xám đang bám vào các trụ đèn và trụ nước cứu hỏa để khỏi bị dòng nước lạnh buốt cuốn trôi.
Sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng ủng của chúng nện rầm rầm trên cầu thang bên dưới và lao xuống từ nóc nhà phía trên đầu, và chỉ lát sau chúng ùa vào với súng trên tay, quát tháo la hét. Một số trong đám lính mang kính nhìn đêm đeo trên đầu, và tất cả chúng đều có vũ khí đầy người – những khẩu súng máy gọn nhẹ, súng ngắn có tầm ngắm bán laser, dao găm cận chiến. Cần đến ba tên trong bọn chúng để lôi Bronwyn ra khỏi Caul, hắn khò khè phều phào qua cổ họng thiếu chút nữa bị bóp nát, “Lôi chúng đi, và không cần phải nhẹ tay!”
Cô Wren la lớn, cầu xin chúng tôi tuân lệnh – “Hãy làm như chúng nói nếu không chúng sẽ làm hại các cháu đấy!” – nhưng bà không chịu buông Althea ra, vậy là đám lính lấy bà làm gương; chúng giật Althea ra và đá cô Wren ngã lăn ra sàn, và một tên lính bắn khẩu súng ngắn liên thanh lên trần chỉ để dọa chúng tôi. Khi tôi thấy Emma sắp tạo ra một quả cầu lửa bằng hai bàn tay cô, tôi chộp lấy tay cô và khẩn khoản bảo cô không nên làm vậy – “Đừng, làm ơn đừng, chúng sẽ giết cậu mất!” – rồi một báng súng nện vào ngực tôi, làm tôi ngã vật ra sàn, há hốc miệng hổn hển. Một gã lính bẻ quặt hai bàn tay tôi ra sau lưng rồi trói lại.
Tôi nghe thấy chúng đếm, Caul đọc tên từng người trong chúng tôi, đảm bảo cả Millard cũng bị bắt – bởi vì tất nhiên vào lúc này, sau khi đã trải qua ba ngày vừa qua với chúng tôi, hắn đã biết tất cả chúng tôi, biết mọi thứ về chúng tôi.
Tôi bị lôi dậy, và tất cả chúng tôi bị đẩy qua các cánh cửa ra hành lang. Loạng choạng bước đi cạnh tôi là Emma, mái tóc dính máu, tôi bèn thì thầm, “Làm ơn hãy chỉ làm những gì chúng bảo,” và dù cô không thừa nhận, tôi biết cô nghe tôi. Vẻ mặt cô đầy ắp phẫn nộ, sợ hãi và choáng váng – và tôi nghĩ cả thương hại nữa, cho tất cả những gì tôi vừa để tuột mất khỏi tay mình.
Trong giếng cầu thang, các sàn nhà và bậc cầu thang phía dưới trở thành một dòng sông nước sủi bọt trắng, một dòng xoáy của những con sóng dồn đuổi nhau. Bên trên là lối ra duy nhất. Chúng tôi bị xô leo lên cầu thang, qua một cánh cửa và bước vào ánh sáng ban ngày chói chang, trên mái nhà. Tất cả đều ướt, lạnh cóng, bị nỗi kinh hoàng làm cho im bặt.
Tất cả trừ Emma. “Các người đang đưa chúng tôi đi đâu?” cô hỏi.
Caul tới cạnh cô, nhăn nhở cười thẳng vào mặt cô trong khi một gã lính giữ lấy hai bàn tay cô đang bị còng ra sau lưng. “Một nơi rất đặc biệt,” Caul nói, “nơi sẽ không có một giọt linh hồn đặc biệt nào của các người bị lãng phí.”
Emma nao núng, hắn liền phá lên cười rồi quay đi, vươn hai cánh tay lên quá đầu và ngáp. Từ vai hắn nhô ra hai khối mấu lồi, trông như gốc của những cái cánh bị cắt bỏ: dấu hiệu bên ngoài duy nhất cho hay kẻ xảo trá này có quan hệ với một Chủ Vòng Thời Gian.
Những tiếng hét vang lên từ một tòa nhà khác. Thêm nhiều gã lính nữa. Chúng đang bắc một cây cầu rút qua giữa các mái nhà.
“Thế còn con bé đã chết thì sao?” một gã lính hỏi.
“Thật tiếc, đúng là lãng phí,” Caul tặc lưỡi nói. “Ta những muốn ăn tối bằng linh hồn của nó. Bản thân món linh hồn đặc biệt cũng chẳng có vị gì,” hắn nói, hướng về chúng tôi. “Thành phần tự nhiên của nó quả thực hơi sền sệt và nhão nhoét, nhưng nếu đánh trộn lên với một chút xíu sốt remoulade rồi phết lên thịt trắng thì cũng khá ngon.”
Rồi hắn phá lên cười thật to một hồi lâu.
Trong lúc chúng giải chúng tôi đi, từng người một, qua cây cầu rút, tôi cảm thấy cơn quặn thắt quen thuộc trong bụng – rất nhẹ nhưng đang mạnh dần lên, còn chậm nhưng đang nhanh dần lên – con hồn rỗng – lúc này đã thoát khỏi đống băng, đang chậm rãi sống lại.
***
Mười gã lính lăm lăm súng giải chúng tôi ra khỏi Vòng Thời Gian, đi qua các căn lều lễ hội và khu trình diễn phụ cũng như những người đi dự lễ hội đang há hốc miệng ngạc nhiên, đi xuống các đường hẻm đầy những thỏ với những gian hàng và người bán hàng, những đứa trẻ đầu đường xó chợ tròn mắt nhìn theo chúng tôi, vào phòng cải trang, đi qua đống quần áo chúng tôi đã vứt bỏ lại, rồi xuống đường hầm tàu điện ngầm. Đám lính thúc chúng tôi đi, cáu gắt quát chúng tôi giữ im lặng (cho dù suốt nhiều phút chẳng ai hé lấy một lời), giữ đầu cúi xuống và đi theo hàng không thì sẽ bị nện bằng súng.
Caul không còn đi cùng chúng tôi – hắn đã ở lại sau cùng phần đông đám lính để “dọn dẹp”, theo tôi thì có nghĩa là lùng sục trong Vòng Thời Gian để tìm bắt những người đang lẩn trốn và lạc mất. Lần cuối cùng, chúng tôi thấy, hắn đang xỏ chân vào một đôi ủng kiểu dáng hiện đại và mặc trên người một chiếc áo khoác quân đội, hắn bảo đã chán ngấy khuôn mặt của chúng tôi nhưng sẽ gặp chúng tôi “ở phía bên kia”, cũng chẳng biết nghĩa là gì.
Chúng tôi đi ngang qua chỗ thời gian dịch chuyển, và lại tiến lên theo dòng thời gian – nhưng không phải tới chỗ nào đó kiểu như những đường hầm tôi đã quen. Các thanh ray và tà vẹt giờ đều bằng kim loại, và ánh sáng trong hầm cũng khác, không còn là bóng đèn sợi đốt đỏ quạch mà là những bóng đèn huỳnh quang nhấp nháy tỏa ra thứ ánh sáng xanh lục nhợt nhạt. Sau đó, chúng tôi chui ra khỏi đường hầm, tới ke ga, và tôi hiểu ra lý do: chúng tôi không còn ở thế kỷ mười chín, thậm chí không còn ở thế kỷ hai mươi. Đám đông người lánh nạn tìm nơi trú ẩn giờ đã biến mất; nhà ga gần như vắng tanh. Cầu thang xoáy trôn ốc chúng tôi từng dùng để đi xuống đã biến mất, được thay thế bằng một thang máy. Một màn hình LED có chữ điện tử chạy cuốn treo phía trên ke ga: THỜI GIAN TỚI CHUYẾN TIẾP THEO: 2 PHÚT. Trên tường là tấm áp phích giới thiệu một bộ phim tôi vừa xem mùa hè vừa rồi, ngay trước khi ông nội tôi qua đời.
Chúng tôi đã để năm 1940 ở lại sau lưng. Tôi đã trở lại hiện đại.
Vài đứa trẻ nhận ra điều này với vẻ mặt ngạc nhiên và sợ hãi, như thể sợ rằng họ sẽ già đi chỉ sau vài phút, nhưng với phần lớn trong số họ, tôi nghĩ cú sốc do bất ngờ bị bắt sẽ không giảm sút bởi một chuyến đi không trông đợi tới hiện tại; họ đang lo bị rút mất linh hồn chứ không phải sợ tóc bạc đi hay da có đốm đồi mồi.
“Đám lính dồn chúng tôi lại giữa ke ga để đợi tàu. Tiếng giày bước đi nặng nề vang lên hướng về phía chúng tôi. Tôi đánh liều ngoái lại liếc nhìn và thấy một cảnh sát đi tới. Đằng sau ông ta, vừa bước ra khỏi thang máy, còn có ba người nữa.
“Này!” Enoch la lên. “Cảnh sát, lại đây!”
Một gã lính đấm vào bụng Enoch, cậu ta gập móp người lại.
“Ở đây mọi thứ ổn chứ?” người cảnh sát ở gần nhất hỏi.
“Họ bắt chúng cháu!” Bronwyn nói. “Họ không phải là lính thật sự, họ là…”
Và rồi cô cũng bị nện vào bụng, dù cú đánh có vẻ không hề khiến cô đau. Điều khiến cô dừng lại không nói thêm nữa chính là gã cảnh sát gỡ cặp kính râm mắt to ra để lộ đôi mắt trắng dã vô hồn. Bronwyn co mình lại.
“Một chút lời khuyên đây,” gã cảnh sát nói. “Không ai tới giúp chúng mày đâu. Người của bọn ta ở khắp nơi. Chấp nhận điều đó đi, như vậy sẽ dễ dàng hơn cho tất cả mọi người.”
Những người bình thường bắt đầu vào ga đông dần. Đám lính kẹp chặt lấy chúng tôi từ mọi phía, giữ vũ khí của chúng giấu kín.
Một đoàn tàu xì xì lao vào ga, đông chật người. Những cánh cửa điện xịch mở, và một dòng hành khách úa ra. Đám lính bắt đầu đẩy chúng tôi về phía toa tàu gần nhất, mấy gã cảnh sát đi trước xua mấy người hành khách còn lại trong toa ra. “Tìm toa khác đi!” chúng gắt gỏng. “Ra ngoài!” Mấy hành khách cằn nhằn nhưng bèn làm theo. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người đằng sau chúng tôi trên ke ga đang cố gắng chui vào toa, và vài gã trong đám lính vốn quây kín quanh chúng tôi buộc phải tách ra để chặn họ lại. Và lúc đó vừa khéo có đủ sự hỗn loạn – người ta tìm cách đóng những cánh cửa lại nhưng mấy gã cảnh sát giữ chúng mở cho tới khi còi báo động bắt đầu reo; đám lính xô đẩy chúng tôi tới trước mạnh đến mức làm Enoch trượt chân, khiến những đứa trẻ khác vấp chân vào cậu ta như một phản ứng dây chuyền – thế là Người Gấp, với hai cổ tay quá gầy tới mức đã có thể tháo được còng ra, quyết định thoát khỏi nó và chạy đi.
Một phát súng vang lên, rồi phát súng thứ hai, và Người gấp loạng choạng đổ nhào xuống đất. Đám đông dạt ra trong cơn hoảng loạn, người ta la hét, giẫm đạp lên nhau để tránh khỏi đường đạn, và tình thế từ chỗ vốn chỉ lộn xộn đã trở thành một màn hỗn loạn cực độ.
Sau đó, chúng xô đẩy, đấm đá dồn chúng tôi lên tàu. Bên cạnh tôi, Emma đang chống cự, khiến gã lính đẩy cô lại gần. Thế rồi tôi thấy hai bàn tay bị còng của cô lóe sáng màu cam, và cô đưa tay ra sau chộp lấy hắn. Gã lính ngã lăn ra đất, gào thét, một cái lỗ hình bàn tay đã cháy thấu qua bộ đồ ngụy trang của gã. Sau đó, gã lính đang đẩy tôi vung báng súng của hắn lên và đang chực nện nó xuống cổ Emma thì một bản năng trỗi dậy trong tôi, tôi liền huých vai vào lưng hắn.
Hắn loạng choạng.
Emma nung chảy còng của cô, nó rơi xuống khỏi tay cô như một đống kim loại méo mó nóng đỏ. Gã lính giám sát tôi lúc này quay súng chĩa vào tôi, gầm lên tức tối, nhưng hắn chưa kịp bắn, Emma đã xông tới từ phía sau và chụp hai bàn tay vào hai bên mặt hắn, các ngón tay cô nóng tới mức chúng ngập vào hai má hắn như lướt qua bơ mềm. Gã lính buông rơi súng và đổ sập xuống, gào rú.
Tất cả chuyện này diễn ra rất nhanh, chỉ trong vòng vài giây.
Tiếp theo, thêm hai gã lính xông tới chúng tôi. Lúc này gần như tất cả những người khác đã ở trên tàu – ngoại trừ Bronwyn và hai anh em mù, vốn chưa lúc nào bị còng tay và lúc này chỉ đang đứng lồng tay vào nhau. Thấy chúng tôi sắp bị bắn chết, Bronwyn làm một điều tôi không bao giờ có thể hình dung nổi cô sẽ làm trong bất kỳ hoàn cảnh nào: cô tát mạnh vào mặt cậu anh, rồi tóm lấy cậu em và thô bạo lôi mạnh khỏi cậu anh.
Vào khoảnh khắc mối liên hệ giữa họ bị cắt đứt, hai anh em bật lên một tiếng thét dữ dội tới mức nó tạo thành một cơn cuồng phong. Cơn cuồng phong lao qua nhà ga đầy uy lực – thổi bạt Emma và tôi lại đằng sau, đánh vỡ kính của đám lính, âm thanh gần như vượt quá tần số đôi tai tôi nghe được, khiến cho tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ là một tiếng rít chói tai Eeeeeeee…
Tôi nhìn thấy tất cả các ô cửa sổ của đoàn tàu vỡ tung, và các màn hình LED tan tành thành mảnh sắc như dao, còn những bóng đèn ống bằng thủy tinh chạy dọc nóc nổ tan tành, khiến chúng tôi chìm vào màn đêm tối đen như mực trong khoảnh khắc, sau đó những ánh đỏ nhấp nháy cuồng loạn của đèn báo khẩn cấp bật sáng.
Tôi đã bị ngã ngửa ra, không khí như bị ép hết ra khỏi phổi, đôi tai tôi ong ong. Có thứ gì đó đang nắm lấy cổ áo kéo tôi lùi lại, cách xa khỏi đoàn tàu, và tôi không còn biết làm thế nào nhúc nhích tay chân mình để cưỡng lại. Dưới tiếng ong ong trong tai, tôi có thể phân biệt được những giọng nói gấp gáp đang la lên. “Đi, đi mau!”
Tôi cảm thấy thứ gì đó lành lạnh ươn ướt áp vào sau gáy mình, rồi tôi bị lôi vào trong một buồng điện thoại. Emma cũng ở đó, khoanh tròn trong góc, nửa bất tỉnh.
“Co chân lên,” tôi nghe thấy một giọng nói quen thuộc nhắc mình, và một tạo vật lông lá lùn tịt với cái mõm tẹt và quai hàm bành bạnh từ đằng sau tôi lon ton chạy tới.
Là con chó. Addison.
Tôi thu chân vào trong buồng điện thoại, tôi đã đủ tỉnh táo trở lại để cử động, nhưng chưa nói được.
Điều cuối cùng tôi thấy trong ánh đèn đỏ quạch chập chờn ma quái là cô Wren bị đẩy lên toa tàu và những cánh cửa đóng sập lại, và tất cả các bạn tôi đang ở bên trong cùng với bà, co ro trước họng súng, bị đóng khung lại bởi những ô cửa sổ tàu đã vỡ hết kính, bị những kẻ có đôi mắt trắng dã vây quanh.
Rồi đoàn tàu rầm rầm chuyển bánh lao vào bóng tối, và mất hút.
***
Tôi giật mình tỉnh dậy vì một cái lưỡi đang liếm lên mặt mình.
Con chó.
Cửa buồng điện thoại đã bị đóng lại, và ba chúng tôi đang co quắp chen chúc dưới sàn ở bên trong.
“Cậu đã bị ngất,” con chó nói.
“Chúng đi rồi,” tôi nói.
“Phải, nhưng chúng ta không thể ở lại đây. Chúng sẽ quay lại tìm cậu. Chúng ta phải đi.”
“Tôi nghĩ tôi chưa đứng dậy được đâu.”
Con chó bị một vết rách trên mũi, và mất một miếng to ở một bên tai. Cho dù đã làm những gì để tới đây, nó hẳn cũng đã phải trải qua địa ngục.
Tôi cảm thấy cái gì đó rung rung cọ cọ vào chân, nhưng quá mệt để nhìn xem đó là gì. Đầu tôi đang nặng như đá tảng.
“Đừng có ngủ lại nữa,” con chó nói, rồi nó quay sang Emma và bắt đầu liếm mặt cô.
Lại cảm giác rung rung đó. Lần này tôi nhích người với tay lần tới chỗ nó.
Đó là chiếc điện thoại di động của tôi. Điện thoại của tôi đang rung. Tôi không thể tin nổi chuyện này. Tôi moi nó ra khỏi túi quần. Pin đã gần hết, tín hiệu gần như không có. Màn hình hiện dòng chữ: BỐ (177 CUỘC GỌI NHỠ).
Nếu không phải đang choáng váng đến thế, nhiều khả năng tôi đã không trả lời. Vào bất cứ lúc nào một gã đàn ông lăm lăm súng trong tay cũng có thể tới kết liễu chúng tôi. Không phải là thời điểm hay cho một cuộc trò chuyện với bố. Nhưng lúc này tôi suy nghĩ không được tỉnh táo, và mỗi lần điện thoại đổ chuông, phản xạ không điều kiện hình thành từ lâu của tôi là nhận máy.
Tôi bấm nút TRẢ LỜI. “A lô?”
Một tiếng khóc nấc nghẹn vang lên ở đầu bên kia. Sau đó: “Jacob? Có phải con đấy không?”
“Là con đây.”
Nghe giọng tôi hẳn phải thảm hại lắm. Một tiếng khàn khàn yếu ớt.
“Ôi, Chúa ơi, ôi, Chúa ơi,” bố tôi nói. Ông đã không trông đợi tôi trả lời, có khi còn tưởng tôi chết rồi và lúc này ông chỉ gọi vì một phản ứng bản năng do đau khổ mà ông không thể từ bỏ được. “Bố không… con đã ở đâu… chuyện gì đã xảy ra… con đang ở đâu, con trai?”
“Con ổn cả,” tôi nói. “Con còn sống. Ở London.”
Tôi không biết vì sao tôi lại nói với ông câu cuối cùng. Tôi đoán vì tôi cảm thấy mình nợ ông một chút sự thật.
Thế rồi có vẻ như bố tôi quay đầu khỏi ống nghe để gọi to với ai đó: “Là Jacob! Nó ở London!” Rồi ông quay lại với tôi: “Bố mẹ còn tưởng con chết rồi.”
“Con biết. Ý con là con không thấy ngạc nhiên. Con xin lỗi vì đã bỏ đi như thế. Con hy vọng không làm bố mẹ quá sợ.”
“Con làm bố mẹ sợ muốn chết, Jacob.” Bố tôi thở hắt ra, một âm thanh kéo dài, run rẩy tổng hợp của sự nhẹ nhõm, không tin nổi và bực bội. “Bố mẹ cũng đang ở London. Sau khi cảnh sát không thể tìm thấy con trên đảo… dù sao thì cũng không quan trọng nữa, chỉ cần con nói cho bố mẹ biết con đang ở đâu, bố mẹ sẽ tới đón con!”
Emma bắt đầu cựa mình. Cô mở mắt ra và nhìn tôi, lờ đờ như thể đang mơ màng đâu đó sâu tít bên trong và dõi mắt nhìn về phía tôi qua hàng dặm não bộ và cơ thể. Addison nói, “Tốt, tốt lắm, giờ hãy ở lại cùng chúng tôi,” rồi bắt đầu quay sang liếm bàn tay cô.
Tôi nói vào điện thoại, “Bố, con không thể tới được. Con không thể kéo bố vào chuyện này.”
“Ôi Chúa ơi, bố biết mà. Con nghiện ma túy đúng không? Nghe này, cho dù con đang dính vào với ai, bố mẹ cũng có thể giúp. Chúng ta không nhất thiết phải lôi cảnh sát vào việc này. Bố mẹ chỉ muốn con trở về thôi.”
Thế rồi mọi thứ chợt tối om đi trong đầu tôi trong một giây, và khi tỉnh lại, tôi cảm thấy một cơn đau quặn thắt dữ dội trong bụng, tới mức tôi đánh rơi điện thoại xuống.
Addison ngẩng đầu lên nhìn tôi. “Có chuyện gì thế?”
Đúng lúc đó tôi thấy một cái lưỡi dài, đen ngòm áp vào bên ngoài lớp kính buồng điện thoại. Rồi cái lưỡi thứ hai, cái thứ ba nhanh chóng gia nhập cùng nó.
Con hồn rỗng. Con hồn rỗng đã thoát ra khỏi băng. Nó đã bám theo chúng tôi.
Con chó không thể nhìn thấy, song nó hiểu ngay qua vẻ mặt tôi. “Là một trong bọn chúng phải không?”
Tôi nói không thành lời, Phải. Addison liền co rúm vào một góc.
“Jacob?” giọng nói lí nhí của bố tôi vọng ra từ trong điện thoại. “Jacob, con có ở đó chứ?”
Những cái lưỡi bắt đầu quấn quanh buồng điện thoại, vây lấy chúng tôi. Tôi không biết phải làm gì, chỉ biết mình phải làm gì đó, vậy là tôi cựa quậy đôi bàn chân, chống bàn tay lên tường, và gồng mình cố đứng dậy.
Thế rồi tôi mặt đối mặt với nó. Những cái lưỡi tủa ra như nan quạt từ cái miệng há ngoác đầy răng sắc như dao của nó. Đôi mắt nó đen sì, chảy ra nước còn đen hơn, và chúng đang nhìn chằm chằm vào tôi, chỉ cách mặt kính vài phân. Con hồn rỗng bật ra một tiếng gầm gừ trầm trầm từ sâu dưới cổ họng làm tôi nhũn cả người, và phần nào trong tôi ước gì con quái vật sẽ chỉ giết tôi và làm thật nhanh việc đó để tất cả cơn đau và nỗi kinh hoàng này chấm dứt.
Con chó sủa lên lên mặt Emma. “Dậy đi! Chúng tôi cần cô, cô gái! Đốt lửa lên!”
Nhưng Emma không thể nói hay đứng dậy, và chỉ có ba chúng tôi dưới ga tàu điện ngầm này, cộng thêm hai phụ nữ mặc áo mưa đang lùi lại, bịt mũi để tránh khỏi mùi hôi tanh của hồn rỗng.
Thế rồi buồng điện thoại, toàn bộ buồng điện thoại với tất cả chúng tôi trong đó, nghiêng ngả hết bên này lại sang bên kia, và tôi nghe thấy những cái chốt gắn nó xuống sàn kêu răng rắc và bung ra. Dần dà, con hồn rỗng nhấc chúng tôi lên khỏi mặt đất – mười lăm phân, rồi ba mươi, rồi sáu mươi – để rồi lại đập mạnh chúng tôi xuống, làm các khung kính buồng điện thoại vỡ tan, khiến mảnh thủy tinh rơi rào rào như mưa lên chúng tôi.
Thế rồi chẳng còn gì ngăn cách giữa con hồn rỗng và tôi nữa. Không còn lấy một phân, một tấm kính nào. Những cái lưỡi của nó vặn vẹo chui vào trong buồng, quấn quanh cánh tay tôi, hông tôi, rồi quanh cổ tôi, siết chặt dần chặt dần cho tới khi tôi không thể thở nổi.
Đó là lúc tôi biết mình đã chết. Và vì tôi đã chết, tôi chẳng thể làm gì nữa, tôi ngừng tranh đấu. Tôi thả lỏng tất cả các cơ, nhắm mắt lại, và buông xuôi theo cơn đau đang bùng lên trong bụng mình như một màn pháo hoa.
Thế rồi một chuyện lạ lùng xảy ra: cơn đau không còn đau nữa. Cảm giác đau biến đổi, trở thành một thứ khác. Tôi đắm mình vào trong nó, và nó bao bọc lấy tôi, và dưới bề mặt đục ngầu của nó, tôi khám phá ra một thứ lặng lẽ và dịu dàng.
Một lời thì thầm.
Tôi lại mở mắt. Con hồn rỗng lúc này có vẻ như bị đông cứng, nhìn tôi trừng trừng. Tôi trừng trừng nhìn lại, không sợ hãi. Tầm nhìn của tôi lấm tấm những điểm đen vì thiếu oxy, nhưng tôi không cảm thấy đau.
Vòng quấn quanh cổ tôi của con hồn rỗng lỏng ra. Tôi hít thở lần đầu tiên sau nhiều phút, bình tĩnh và sâu. Rồi lời thì thầm tôi tìm thấy bên trong từ bụng tôi di chuyển lên, đi qua cổ tôi rồi qua đôi môi, tạo ra một âm thanh nghe không giống như một ngôn ngữ, nhưng ý nghĩa của nó thì dường như từ lúc sinh ra tôi đã hiểu.
Lùi.
Ra.
Con hồn rỗng thu những cái lưỡi lại. Rút tất cả vào trong cái miệng rộng hoác của nó và khép quai hàm lại. Rồi hơi cúi đầu xuống – một cử chỉ gần như quy phục.
Rồi nó ngồi xuống.
Emma và Addison từ dưới sàn ngước lên nhìn tôi, kinh ngạc trước sự yên ắng bất ngờ. “Chuyện gì vừa xảy ra vậy?” con chó hỏi.
“Không có gì phải sợ cả,” tôi nói.
“Nó đi rồi sao?”
“Chưa, nhưng giờ nó sẽ không làm hại chúng ta nữa.”
Con chó không hỏi làm sao tôi biết được; chỉ gật đầu, được giọng nói của tôi đảm bảo.
Tôi mở cửa buồng ra và giúp Emma đứng dậy. “Cậu đi được chứ?” tôi hỏi cô. Cô đưa một cánh tay ôm quanh hông tôi, tựa người vào tôi, và chúng tôi cùng nhau nhấc một bước. “Tớ sẽ không rời khỏi cậu,” tôi nói. “Dù cậu có thích thế hay không.”
Cô thì thầm vào tai tôi. “Tớ yêu cậu, Jacob.”
“Tớ cũng yêu cậu,” tôi thì thầm lại.
Tôi cúi xuống cầm điện thoại lên. “Bố ạ?”
“Tiếng ồn đó là gì vậy? Con đang ở cùng ai thế?”
“Con ở đây. Con ổn cả.”
“Không, con không ổn. Cứ ở yên đó.”
“Bố, con phải đi. Con xin lỗi.”
“Không. Đừng ngắt máy,” bố tôi nói. “Con đang bối rối, Jake.”
“Không. Con giống ông nội. Con sở hữu thứ ông có.”
Đầu bên kia im lặng một lát. Rồi: “Làm ơn về nhà đi con.”
Tôi hít một hơi. Có quá nhiều điều cần nói mà lại không có thời gian để nói ra. Đành phải nói thế này: “Con hy vọng một ngày nào đó con sẽ có thể về nhà. Nhưng trước mắt có những việc con cần phải làm. Con chỉ muốn bố biết con yêu bố và mẹ, và con không hề làm những việc này để bố mẹ phải buồn.”
“Bố mẹ cũng yêu con, Jake, và nếu là ma túy, hay bất cứ cái gì khác, bố mẹ cũng không quan tâm. Bố mẹ sẽ giúp con vượt qua. Như bố đã nói, con đang bối rối thôi.”
Rồi tôi ngắt máy, và nói một thứ ngôn ngữ tôi không hề từng biết là mình biết, tôi ra lệnh cho con hồn rỗng đứng dậy.
Ngoan ngoãn như một cái bóng, nó làm theo.
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng