Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 17
hi Tracy gọi điện để sắp xếp một cuộc phỏng vấn, Brenda Berg giải thích rằng cô ấy sẽ không có mặt ở văn phòng, cô ấy mới sinh em bé, một bé gái, và trong một tuần sẽ làm việc ở nhà vài ngày. Thế nhưng Berg không ngần ngại chút nào khi Tracy nói rằng cô và Kins muốn nói chuyện với cô ấy về Andrea Strickland. Cô ấy nói rằng cô ấy đã theo dõi câu chuyện về sự xuất hiện trở lại ngắn ngủi và sau đó là bị sát hại của Andrea. Tracy gọi điện lại cho Berg sau khi cô và Kins rời khỏi văn phòng của Phil Montgomery. Berg chuẩn bị cho con gái lên xe nôi và đẩy ra ngoài để ru cô bé ngủ, nhưng cô ấy nói rằng nếu họ không ngại vừa đi dạo vừa nói chuyện thì Berg có thể gặp họ ở gần hai bức tượng kỉ niệm ở công viên Waterfront ngay dưới chân cầu Steel ở trung tâm Portland.
“Tôi sẽ mặc đồ thể dục và đẩy xe nôi.”
Tracy và Kins tới chỗ đài tưởng niệm trước Berg.
Dọc bờ sông Willamette tràn ngập những người chạy bộ, những người đàn ông và những người phụ nữ trong bộ đồ đi làm, và cả một vài chiếc xe nôi.
“Hi vọng cô ấy không phải là kiểu người ưa vận động, đi bộ còn nhanh hơn tôi chạy.” Kins vừa nói vừa mở cặp kính mát ra đeo lên mắt. “Hông của tôi bỏng rát sau một ngày dài ngồi trong ô tô rồi đây này.”
“Thôi nào, hôm nay là một ngày đẹp trời mà. Có thể đi bộ một chút sẽ giúp nó thư giãn.”
“Sẽ tốt hơn nếu có điều hòa.”
Tracy nhìn thấy một người phụ nữ dáng vẻ khỏe khoắn mặc áo sát nách màu trắng, quần soóc ngắn và đi giày chạy bộ đang bước về phía họ, một tay đẩy chiếc xe nôi màu xanh nước biển. Cô ta đi chậm dần khi tiến gần tới chỗ họ.
“Xin chào, chị là điều tra viên Crosswhite phải không?” Giọng nói và dáng vẻ của cô ta chẳng có chút gì là bị hụt hơi sau cuốc đi bộ cả.
Tracy giới thiệu Kins.
Berg nhìn giống hệt một vận động viên điền kinh - hai bả vai xương xẩu, những cơ bắp gân guốc nổi rõ và làn da rám nắng của dân chạy bộ. Khi Berg nói rằng mình mới sinh em bé, Tracy đã đoán cô ấy ít tuổi hơn người phụ nữ mà cô đang nhìn thấy. Những vết chân chim ở khóe mắt của Berg cho thấy cô ấy phải tầm bốn mươi tuổi, trạc tuổi Tracy.
“Xin lỗi vì đã bắt anh chị làm thế này…” Berg nói rồi cúi người xuống, nhìn vào trong xe nôi. “Nhưng giấc ngủ của con bé hơi bị rối loạn và dường như đây là cách duy nhất để ru con bé ngủ vào buổi chiều.”
“Không sao.” Tracy nói. Tracy ghé mắt nhìn xuống phía dưới cái mui che nắng cho đứa bé. Một cô bé con đang được quấn trong tấm chăn màu hồng và đội trên đầu một chiếc mũ nhỏ màu xanh nước biến nhạt. “Cô bé được mấy tháng rồi?”
“Vừa tròn năm tháng vào ngày hôm qua.” Berg đáp.
“Cô bé xinh quá!”
“Cảm ơn chị. Chúng tôi đặt tên cho con bé là Jessica. Thiên thần nhỏ của tôi đấy chị ạ.”
Tracy mỉm cười khi ngắm nhìn khuôn mặt nhỏ xinh bên dưới chiếc mũ và nó khuấy động lại kí ức của cô. Ngày xưa, cô đã luôn tưởng tượng rằng rồi cô sẽ sinh ra những đứa con. Cô đã tưởng tượng ra cô sẽ sống ngay cạnh nhà của Sarah và họ sẽ cùng nhau nuôi nấng những đứa trẻ. “Đây là con đầu lòng của chị à?” Cô hỏi.
“Vâng.” Berg nói, vẫn đang mỉm cười với cô con gái nhỏ. “Tôi đã quá tập trung xây dựng cho mình một sự nghiệp trong ngành bảo hiểm và kiếm tiền. Mấy năm trước, tôi gặp chồng của tôi bây giờ. Chúng tôi đã mất một thời gian cân nhắc mới quyết định tiến tới. Và bây giờ, tôi không biết cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có con bé. Chị có con chứ?”
“Tôi không có.” Tracy đáp.
“Ăn ngủ với công việc phải không, tôi đoán là vậy.”
“Kiểu như thế.” Tracy đáp. Cô đã ăn ngủ cùng việc tìm ra kẻ đã giết Sarah và cô đã phải trả giá để đổi lại được điều đó. Cô đã đánh mất một người chồng, đã phải từ bỏ công việc dạy học ở Cedar Grove để gia nhập vào Sở Cảnh sát Seattle, và hiếm khi có thời gian hẹn hò. Nhiều năm trời, phần lớn các buổi tối của cô được dành cho việc xem xét và kiểm tra những bản ghi chép, những mẩu chứng cứ có liên quan tới vụ mất tích của cô em gái, chỉ tới khi bước tới ngõ cụt, cô mới miễn cưỡng tạm dừng công việc đó. Lúc ấy, cô đã ngoài ba mươi tuổi và những đối tượng hẹn hò của cô dường như chỉ có thể là cảnh sát hoặc công tố viên, và cô không còn hứng thú muốn đem công việc về nhà như ngày trước nữa.
“Tôi biết cảm giác đó.” Berg nói. Như được sắp đặt trước, Jessica ọ ẹ khó chịu, thế là Berg nói tiếp. “Chúng ta nên đi thôi. Có vẻ như đó là cách duy nhất để con bé chìm vào giấc ngủ.”
Thế rồi họ bước đi trên vỉa hè, Tracy đi bên cạnh Berg, Kins đi sau chừng một bước.
“Tôi vẫn còn đang sốc.” Berg nói. “Lần đầu tiên đã kinh khủng lắm rồi; ý của tôi là khi chúng tôi nghĩ rằng cô ấy đã chết hai tháng trước. Và bây giờ, phát hiện ra rằng lúc đó cô ấy vẫn còn sống? Tôi không biết phải nghĩ thế nào nữa.” Cô ấy quay sang nhìn Tracy. “Vậy là cô ấy đã chết thật rồi sao? Cô ấy thực sự là người phụ nữ được tìm thấy trong lồng cua sao?”
“Có vẻ là như thế.” Tracy vừa nói vừa bước né sang một bên khi có hai người chạy bộ chạy sát tới gần rồi vượt qua họ.
Berg lắc đầu. “Tâm trạng của tôi rối hết cả lên mất thôi.”
“Từ phản ứng của chị, tôi có thể hiểu được là chị không hề nhận được tin tức gì của Andrea, đúng không?” Tracy hỏi.
“Không, không một lời nào cả.”
“Cô ấy làm trợ lí cho chị trong bao lâu?”
“Khoảng hai năm rưỡi. Cô ấy nghỉ làm chừng bảy tháng khi cô ấy và chồng tự ra kinh doanh. Khi việc kinh doanh thất bại, cô ấy đã xin đi làm trở lại.”
“Mối quan hệ của hai người có phải là mối quan hệ công việc thuần túy không?” Tracy hỏi.
Berg gật đầu. “Andrea trẻ hơn tôi một chút, và giữa chúng tôi có một ranh giới nhất định giữa chủ và người làm thuê, nhưng thi thoảng chúng tôi vẫn ra ngoài ăn trưa với nhau hoặc mấy việc tương tự như thế. Tôi thấy rằng cô ấy cần có ai đó. Chị biết chuyện cô ấy mất cả cha lẫn mẹ từ khi còn rất nhỏ chứ?”
“Chúng tôi có biết.” Tracy nói.
“Thật là bi kịch. Cô ấy chẳng kể gì về chuyện đó cả, nhưng thông tin đó có ghi trong hồ sơ phỏng vấn và tôi có thử tìm kiếm. Cha mẹ cô ấy qua đời trong một tai nạn xe hơi vào đêm Giáng sinh. Một gã tài xế say xỉn đã đâm phải họ. Theo như tôi hiểu thì Andrea đã bị mắc kẹt trong xe. Tôi đã cố gắng có mặt ở bên khi cô ấy cần tới tôi.”
“Cô ấy là kiểu người thế nào?” Tracy hỏi.
“Andrea khá là trầm tính, nhưng không hẳn là người bẽn lẽn. Mọi người nghĩ cô ấy là người hay xấu hổ vì cô ấy đọc sách rất nhiều. Đó cũng là ấn tượng đầu tiên của tôi về cô ấy.”
“Cô ấy đọc những gì?”
“Tiểu thuyết.” Berg nói. “Cô ấy có một chồng sách giấy xếp đầy ở trên bàn, và cả tiểu thuyết ở trong điện thoại và máy Kindle. Cô ấy đọc mọi lúc mọi nơi, nhưng khi đã thân với cô ấy, chị sẽ nhận ra cô ấy không hề bẽn lẽn. Chỉ là cô ấy không thích trở thành tâm điểm chú ý mà thôi. Cô ấy thích đứng bên ngoài mọi chuyện. Chị hiểu nổi không?”
“Chị có thể cho một ví dụ được không?” Tracy nói.
Berg suy nghĩ một lát. “Chúng tôi có một buổi tiệc ở công ty tiệc sinh nhật của ai đó. Tôi bắt gặp Andrea ngồi tựa lưng ra sau và lắng nghe tất cả mọi chuyện, chị hiểu chứ? Nếu chị không thân với cô ấy, ấn tượng của chị có thể sẽ là cô ấy chẳng hề quan tâm hay thích thú, nhưng nếu chị nhìn cô ấy kĩ hơn, chị sẽ để ý thấy cô ấy mỉm cười, hoặc nhăn nhó và thi thoảng còn thấp thoáng có vài cái đảo mắt nữa. Nó không quá rõ ràng hay có ý gì thiếu tôn trọng, chỉ vừa đủ để chị biết là cô ấy đang chú ý đến câu chuyện mà thôi.”
“Cô ấy là người thông minh chứ?” Tracy hỏi.
“Cực kỳ.” Beig gật đầu và đáp.
“Chị có vẻ chắc chắn nhỉ.”
“Với một người chưa từng đi học đại học một ngày nào, cô ấy tiếp thu mọi thứ nhanh kinh khủng. Cô ấy không phải là một trợ lí bình thường. Tôi giao cho cô ấy một vài công việc phức tạp, và cô ấy hoàn thành công việc ngay, không dây dưa thời gian tí nào. Tôi nghĩ cô ấy thuộc kiểu người bẩm sinh đã rất thông minh, rất tài năng. Có thể đó là nhờ việc đọc sách. Chị không bao giờ phải hướng dẫn cô ấy làm đến lần thứ hai. Tôi có khuyến khích cô ấy đi học đại học hoặc thi lấy chứng chỉ hành nghề bảo hiểm.”
Họ đi gần tới cây cầu nâng thứ hai. Trên mặt sông, những chiếc ca nô máy chở theo những chàng trai cô gái mặc đồ bơi đang rẽ sóng lướt qua.
“Chị biết chồng của cô ấy, Graham, chứ?” Kins hỏi.
Berg ngoái cố nhìn ra sau. “Có biết một chút. Tôi đã vô tình có một phần lỗi trong chuyện đó.”
“Tại sao lại thế?” Kins hỏi.
“Như tôi đã nói, Andrea là người hướng nội. Sau giờ làm, cô ấy chỉ thích đi về nhà và đọc sách. Giúp cô ấy có những mối quan hệ xã hội dần trở thành nhiệm vụ của tôi. Chúng tôi có một bữa tiệc ở trung tâm thành phố, và tôi gần như cưỡng ép Andrea phải tham dự. Tại đó, cô ấy đã gặp Graham. Sau cùng, việc tiếp theo mà tôi được biết là họ tiến tới hôn nhân.”
“Gặp mặt được bao lâu thì họ kết hôn?” Tracy hỏi.
Berg thở một hơi dài bằng miệng. “Rất nhanh, tôi có thể dám chắc như thế. Có lẽ chỉ khoảng một hay hai tháng. Tôi không nhớ chính xác.”
“Andrea có vẻ hạnh phúc không?”
“Khó nói lắm. Mọi chuyện cô ấy đều giữ kín như bưng, nhưng tôi nghĩ là có.”
“Chúng tôi biết là cô ấy lớn lên ở Nam California. Chị có biết liệu cô ấy còn người thân nào ở đó nữa hay không?” Kins hỏi.
“Một người dì, tôi tin là vậy, mặc dù tôi không nghĩ là họ thân thiết.”
“Sau này chị có làm quen nhiều với Graham không?” Kins hỏi.
“Không nhiều lắm.” Berg đáp. “Hầu như Andrea tách riêng công việc với cuộc sống riêng của mình.”
Từ giọng điệu của Berg, Tracy có thể rút ra kết luận rằng cô ấy cũng chẳng mấy thích thú Graham Strickland, quan hệ của họ cũng chỉ là xã giao mà thôi. “Nhưng chị cũng có gặp qua anh ta chứ?”
“Chỉ một vài lần thôi. Anh ta có tham dự một vài bữa tiệc và anh ta cũng thường xuyên tới văn phòng và đón Andrea sau giờ làm.”
“Anh ta là người thế nào?” Kins hỏi.
Berg mỉm cười nhưng nhìn có vẻ như đang nhăn nhó nhiều hơn, như thể cô ấy đang bị đau ở đâu đó. Vẻ mặt của cô ấy giống như một người biết có điều để nói nhưng lại không muốn nói ra.
“Chúng tôi hiểu là chị không biết quá rõ về anh ta.” Tracy nói. “Chúng tôi chỉ muốn biết ấn tượng chung của chị về anh ta thôi.”
“Nói thật lòng nhé! Tôi chẳng mấy quan tâm đến anh ta.” Một lần nữa, Berg tiếp tục ngập ngừng. “Anh ta chỉ là một gã luôn thể hiện quá lên mà thôi. Anh chị hiểu ý tôi chứ?”
“Thể hiện quá để được mọi người yêu quý à?” Kins nói.
Berg lại ngoái cổ ra sau, nhưng lần này cô ấy khựng lại và đứng lại hẳn. “Đúng. Nói như thế rất chính xác.”
“Anh ta đã làm gì?” Kins hỏi.
“Mọi thứ - cái cách anh ta ăn mặc, bộ tóc, chòm râu của anh ta. Tất cả đều có vẻ… giả tạo, như thể anh ta đang cố thể hiện một hình ảnh nào đó. Và cả cái xe Porsche nữa.” Cô ấy mỉm cười và lắc đầu khi nghĩ tới chiếc xe đó. “Một chiếc Carrera Porsche màu đỏ. Tất cả đều khiến người ta thấy ghét. Và tôi không nghĩ anh ta là người có đầu óc.”
“Tại sao chị lại nghĩ vậy?” Tracy hỏi.
“Chỉ qua một chút chuyện mà Andrea kể - giống như việc mở cửa hàng cần sa. Andrea cố nói với anh ta rằng cô ấy nghĩ đó không phải là ý tưởng kinh doanh tốt, nhưng Graham đã nghiên cứu hết và nói với cô ấy rằng đó sẽ là một mỏ vàng.”
Tracy lấy tay lau đi giọt mồ hôi đang lăn xuống má. Cô cảm nhận được mảng lưng giữa hai xương bả vai ướt đẫm mồ hôi vi bị ánh mặt trời nóng rực chiếu thẳng vào. “Andrea có bao giờ kể rằng cô ấy và Graham đang gặp trục trặc trong hôn nhân không?”
Berg trở nên trầm ngâm. “Andrea và tôi cùng đi ăn trưa sau ngày cô ấy quay lại làm việc cho tôi, khi việc kinh doanh của họ đổ bể. Cô ấy nói rằng Graham đang ngoại tình.”
“Cô ấy có nói là anh ta ngoại tình với ai không?” Tracy hỏi.
“Cô ấy không biết là ai, nhưng rõ ràng đó không phải là lần đầu tiên. Anh ta đã ngoại tình với một người mà anh ta từng làm việc cùng.”
“Bằng cách nào mà cô ấy phát hiện ra được? Cô ấy có kể với chị không?” Tracy hỏi.
“Khi việc kinh doanh của họ bắt đầu khó khăn, cô ấy đã kiểm tra kĩ hơn các khoản thu chi và phát hiện ra những khoản thanh toán bằng thẻ tín dụng cho phòng khách sạn và nhà hàng ở Seattle. Anh ta nói rằng các khoản đó liên quan tới công việc, nhưng cô ấy có gọi điện cho các đối tác và họ nói rằng không phải thế.”
“Vậy ra cô ấy khá tháo vát trong công việc đấy chứ.” Kins nói.
“Bất cứ khi nào cần thiết.” Berg đáp.
“Cô ấy có kể thêm gì với chị trong bữa ăn đó không?” Tracy hỏi.
Berg lắc đầu. “Nghĩ lại, tôi thấy thật hối hận, ước gì tôi đã làm thêm điều gì đó.”
“Làm thêm chuyện gì?”
“Andrea nói rằng do vấn đề hôn nhân, Graham muốn leo núi Rainier.”
“Là anh ta muốn leo sao?” Kins hỏi.
“Cô ấy nói như vậy. Cô ấy kể với tôi là Graham nói rằng nếu họ có chung một sở thích, một việc gì đó để làm cùng nhau, nó sẽ có ích cho họ. Rồi cô ấy còn kể rằng anh ta cũng nhắc tới chuyện mua bảo hiểm nhân thọ, nhưng chỉ mua cho mỗi cô ấy thôi.”
“Chỉ mua cho mình cô ấy thôi à?” Tracy hỏi, rồi liếc nhìn Kins.
“Tôi biết. Lúc nghe cô ấy nói thế, tôi cũng thấy thật kì cục, nhưng Andrea nói rằng họ không đủ khả năng chi trả nếu mua cho cả hai, và Graham lý luận là nếu có chuyện gì xảy ra với anh ta, cô ấy vẫn có thể sống tốt nhờ tài khoản tín thác. Anh chị biết chuyện cô ấy có tài khoản tín thác phải không?”
“Chúng tôi có biết.” Tracy nói.
“Lúc nghe chuyện đó, tôi cũng thấy thật kì quặc, nhưng cũng không nghĩ ngợi gì.”
“Vậy suy nghĩ đầu tiên của chị khi chị nghe tin Andrea mất tích trên núi Rainier là gì?” Kins hỏi.
Berg ngập ngừng. Cô bé con cựa quậy và cô ấy phải dành vài giây để dỗ dành con gái, nhét một cái núm vú giả vào miệng cô bé. Khi họ tiếp tục bước đi, cô ấy nói. “Tôi nghĩ là tôi thấy nghi ngờ.”
“Nghi ngờ đó không phải là tai nạn?” Kins hỏi.
Cô ấy gật đầu. “Để tôi nói thế này: tôi không ngạc nhiên khi Graham là nghi phạm, và tôi cũng không hề ngạc nhiên nếu họ kết luận chính anh ta đã giết Andrea. Tôi cũng có nói với một điều tra viên khác như vậy.”
“Điều tra viên Stan Fields à?” Tracy hỏi.
“Tôi không nhớ tên anh ta. Anh ta có mái tóc đuôi ngựa lấm tấm hoa râm. Tôi nói với anh ta rằng mọi chuyện có cảm giác suôn sẻ quá mức. Rồi Andrea còn kể cho tôi nghe về tài khoản tín thác của cha mẹ cô ấy nữa. Cô ấy nói rằng Graham muốn dùng số tiền đó để mở cửa hàng cần sa chứ không muốn đi vay tiền ngân hàng, nhưng Andrea không đồng ý cho anh ta làm thế và tài khoản đó có những điều khoản giới hạn khiến cho việc đó không thể thực hiện được.”
“Cô ấy có nói rằng chính việc đó gây nên căng thẳng trong cuộc hôn nhân không?” Tracy hỏi.
“Rõ ràng là thế rồi còn gì.”
“Cô ấy có nói với chị không?”
“Có.”
“Cô ấy kể là cô ấy không đưa tiền cho anh ta à?” Kins hỏi, nghe có vẻ đã hụt hơi.
Berg gật đầu. “Cô ấy kể là Graham buồn bực về chuyện đó và cô ấy còn kể là anh ta đã mạo danh cô ấy kí tên lên giấy bảo lãnh cá nhân. Cô ấy lo sợ anh ta là mối đe dọa cho tài khoản tín thác của cô ấy. Nhưng điều khiến tôi thực sự giật mình là những gì Andrea nói khi tôi hỏi Graham có động được tới tài khoản đó hay không.”
“Cô ấy nói gì?” Tracy hói.
“Cô ấy nói là “Không, chừng nào em còn sống”.” Berg lắc đầu khi nhớ lại chuyện đó. “Cô ấy bật cười, nhưng nghe câu nói đó thật là buồn, chị hiểu chứ? Tôi thấy buồn thay cho cô ấy, buồn khi cô ấy nói điều đó.”
Họ đi qua bên dưới một cây cầu khác nữa. “Lần cuối cùng chị gặp hay nói chuyện với Andrea là khi nào?” Tracy hỏi.
“Chính là cái tuần cô ấy đi leo núi.”
“Tâm trạng của cô ấy thế nào?”
Berg đáp. “Không dễ nói được Andrea đang nghĩ gì. Ý của tôi là lúc nào cô ấy cũng khá bình thản. Tôi nghĩ có lẽ vì cô ấy đã trải qua quá nhiều đau buồn trong đời khi còn rất nhỏ nên đã hình thành nên tính cách đó. Tôi không biết nói thế nào nữa, có thể là nó khiến cô ấy thận trọng hơn trong cuộc sống, kiểu như có lẽ cô ấy chẳng bao giờ có kì vọng gì quá lớn.”
“Trơ lì rồi.” Kins nói.
“Nói vậy cũng chính xác.” Berg quay lại nhìn anh và đáp. “Kể cả khi cô ấy kết hôn với Graham, tôi cũng không cảm nhận được sự hào hứng từ cô ấy, chuyện đó giống kiểu việc gì đến thì cứ đến nhiều hơn.”
“Andrea có cô bạn gái nào không - những người mà cô ấy chơi cùng, có thể là cùng nhau đi chơi sau giờ làm việc chẳng hạn?”
“Thực sự người duy nhất mà tôi có thể nghĩ tới là Devin Chambers. Cô ấy làm việc cho một đồng nghiệp khác của tôi ở công ty. Cô ấy và Andrea có vẻ thân thiết. Ngoài cô ấy ra, tôi không biết ai nữa.”
“Devin Chambers vẫn còn làm việc ở công ti của chị chứ?”
“Không, cô ấy nghỉ việc đúng vào khoảng thời gian mà Andrea chết cũng có thể nói là vào lúc mà tất cả chúng tôi đều nghĩ là Andrea đã chết lần đầu tiên ấy.”
“Cô ấy bỏ việc vì chuyện đó sao?”
“Tôi không biết nữa. Cô ấy không nói gì với tôi về chuyện đó cả. Cô ấy nói với đồng nghiệp của tôi là cô ấy sẽ chuyển về nơi nào đó ở phía đông. Tôi nghĩ cô ấy có người thân ở đó.”
Tracy quay đầu nhìn về phía Kins. Anh lắc đầu, ý nói không còn câu hỏi nào khác muốn hỏi thêm.
“Một lần nữa, cảm ơn chị đã dành thời gian cho chúng tôi.” Tracy nói. “Chúng tôi sẽ để chị và em bé chạy nốt quãng đường còn lại.” Nói rồi, cô đưa cho Berg một tấm danh thiếp. “Nếu chị còn nhớ ra chuyện gì nữa, hãy gọi điện ngay cho chúng tôi.”
Khi Tracy và Kins đi dọc bờ sông về hướng hai bức tượng tưởng niệm, Tracy nói. “Anh có thấy lạ không khi một người phụ nữ tin rằng chồng mình đã lừa dối mình ít nhất hai lần trong một năm lại đồng ý đi leo núi Rainier cùng anh ta?”
“Thậm chí còn kì lạ hơn khi cô ta đã định nói chuyện với một luật sư chuyên giải quyết việc ly hôn.” Kins đáp. “Tôi có cảm giác là cô ta đang có kế hoạch bỏ trốn và bắt đầu lại từ đầu.”
Tracy dừng lại. “Có lẽ giống như Berg nói, có thể còn những điều khác nữa về Andrea Strickland ẩn đằng sau những ấn tượng ban đầu.”
“Có vẻ là thế.” Kins đáp. “Mặc dù tôi cũng không dám chắc đó là cái gì.”
“Nếu như cô ta làm chuyện này không chỉ đơn giản là để biến mất và bắt đầu lại từ đầu thì sao?”
“Cô đang nghĩ đây là cách để cô ta đòi lại công bằng sao? Cô ta đã dựng lên cái bẫy để khiến tất cả trông có vẻ như gã chồng đã hạ sát cô ta?” Kins nói.
“Berg nói Andrea tin rằng anh ta đang lừa dối cô ta và đó không phải là lần đầu tiên.”
“Vậy giả thuyết mà chúng ta có là gì? Gã chồng nhận ra cô ta đã đặt bẫy hắn nên hắn đã đuổi theo tìm kiếm cô ta và giết cô ta để báo thù?”
“Không chỉ để báo thù. Còn để lấy lại những gì mà hắn muốn lúc đầu nữa.”
“Đống tiền đó sao?” Kins hỏi.
“Cô ta đã chết.” Tracy đáp. “Hắn nghĩ rằng nếu hắn tìm được cô ta, hắn sẽ tìm thấy số tiền đó. Vì cô ta đã chết, có trời mới biết chuyện gì đã xảy ra. Hắn chỉ cần tìm cách nào đó tiêu hủy cái xác và rồi cô ta sẽ biến mất mãi mãi.”
“Hiếu rồi, nhưng chúng ta chứng minh bằng cách nào đây?” Kins nói.
“Tôi nghĩ chúng ta cần tìm Devin Chambers. Nếu Andrea có ý định tâm sự bí mật với một ai đó, có vẻ như người đó sẽ là cô ta.”
“Cô nghĩ đó là lý do vì sao Chambers rời khỏi thành phố à? Có thể đó chính là người đã giúp đỡ cô ta?”
“Kiểm lâm Hicks tin rằng Andrea Strickland không xuống núi một mình.” Tracy nói.
“Vậy thì tôi cũng muốn nói chuyện với dì của cô ta nữa.” Kins nói. “Cái chết của cô ta thật là cô đơn, và có vẻ như đó là người thân duy nhất của cô ta.”
Trên đường lái xe về trụ sở cảnh sát, Tracy gọi điện cho Stan Fields để thảo luận về Devin Chambers. Cô bật loa ngoài.
“Anh có biết chuyện cô ta đi khỏi thành phố không?” Tracy hỏi.
“Không, nhưng cô ta đâu có phạm pháp khi làm chuyện đó. Sao, cô nghĩ hai đứa con gái đó đồng tính hay gì à?”
Tracy đảo mắt, còn Kins thì cố nhịn cười. “Không, nhưng cũng có thể là như thế nếu Andrea tiết lộ bí mật cho cô ta và họ vẫn còn giữ liên lạc.”
“Cô ta nói với tôi là cô ta không biết gì nhiều cả.”
“Anh đã thử tìm kiếm bất cứ bằng chứng nào về chuyện người chồng ngoại tình lần nữa chưa?”
“Sếp của cô ta có nhắc tới chuyện đó. Cô ta nói rằng người vợ tin là gã chồng đang lừa dối cô ta, nhưng cô ta không biết rõ chi tiết. Tôi có nói chuyện với cô ả nhân viên ở công ty luật mà gã đó từng quấy nhiễu, và đó không phải là cô ta. Cô ta nói rằng ngay từ đầu đó đã là một sai lầm, cô ta không biết hắn đã kết hôn, và sau đó cô ta đã lấy chồng và quên chuyện đó. Nhiều tháng rồi cô ta không gặp hay nói chuyện với hắn.”
“Được rồi, vậy là anh không điều tra thêm gì về Devin Chambers sao?”
“Tôi đã nói rồi mà, chẳng có lý do gì để tôi làm thế cả. Cô ta có những hóa đơn cho thấy cô ta không có mặt ở thành phố vào cái ngày họ đi leo núi. Cô có tìm được gì khác sao?”
“Tôi không biết.” Tracy nói.
“Tự xử đi điều tra viên. Đến mà gặp cô ta nếu cô còn thắc mắc gì.”
Tracy dập máy. “Tôi thực sự không thích gã đó.”
“Một anh chàng cao bồi.” Kins mỉm cười, nói.
“Một thằng khốn thì có.” Tracy im lặng một lúc, mặc cho xe lướt đi. Cô đang nghĩ về Brenda Berg và con gái của cô ấy. Kins có ba cậu con trai. “Anh vui vì có con chứ, Kins?”
Kins quay sang nhìn cô. “Điều đó khiến cô suy nghĩ phải không? Tôi nhận ra là có đấy.”
“Gì chứ?” Cô đáp, nghe như muốn phòng vệ.
“Berg và cô ngang tuổi nhau và hai người có rất nhiều điểm chung.”
“Chúng tôi đâu có nhiều điểm chung đến thế.”
“Không sao?”
“Thôi nào, anh vui chứ?” Cô hỏi.
Kins suy nghĩ một lát. “Chẳng vui lắm khi chúng phá hỏng cái xe ô tô, hoặc vừa mới tối hôm trước chúng nói với tôi là chúng còn nợ bài tập.” Anh mỉm cười. “Nhưng chín mươi chín phần trăm khoảng thời gian còn lại thì có. Tôi vui lắm. Dan cũng muốn có con chứ?”
“Tôi bốn mươi ba tuổi rồi.” Cô nói, trong đầu đang tự hỏi không biết mình có chờ quá lâu rồi hay không.
“Tôi biết một người sinh con đầu lòng khi bốn mươi hai tuổi. Và bây giờ cô ấy đã có đứa thứ hai.”
“Chúng khỏe mạnh chứ?”
“Theo tôi biết thì có. Cô đã nói chuyện này với Dan chưa?”
“Có, có nói một chút. Nhưng một phần trong tôi đang tự hỏi liệu có phải anh ấy muốn có chỉ bởi vì tôi đề nghị không. Cả hai chúng tôi đều không còn trẻ nữa.”
Kins cau mày. “Mọi người cứ quan trọng hóa chuyện có con khi còn trẻ. Nhưng để tôi nói cô nghe, không phải lúc nào sinh con sớm cũng là tốt. Tôi bây giờ nhẫn nại hơn nhiều so với lúc hai mươi lăm tuổi, và nhẫn nại là một phần rất quan trọng khi làm cha mẹ.”
“Tôi đã từng nghĩ là tôi sẽ sinh con khi hai mươi tuổi đấy. Giờ nhìn lại và suy nghĩ, tôi thấy mình vẫn chỉ là một đứa trẻ khi hai mươi tuổi. Chí ít là cho tới lúc em gái tôi mất. Mọi thứ đã thay đổi sau chuyện ấy. Thật không phải nếu ngay sau đó tôi lại có con. Tôi quá bận bịu tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với con bé.” Cô nhìn sang Kins, ngoài Dan ra thì đây là người bạn thân nhất của cô. “Vậy là anh không nghĩ tôi đã quá già phải không? Anh không nghĩ tôi xuất hiện ở trường cấp hai và mọi người sẽ nghĩ tôi là bà của đứa trẻ sao?”
“Họ nghĩ thế thì làm sao?”
“Tôi sẽ ngoài sáu mươi trước khi đứa bé đủ hai mươi tuổi.”
“Ồ, nhưng tôi cũng chẳng muốn đến khi tôi gần năm mươi, lũ trẻ con đã đủ lông đủ cánh bay đi hết đâu. Tôi không biết tới lúc đó, tôi và Shannah sẽ làm cái quái gì cho hết ngày nữa. Lũ nhóc là phần tuyệt vời nhất trong cuộc đời của tôi.”
“Tôi hi vọng anh không nói chuyện đó với Shannah.”
“Này, tôi già lõi đời rồi đấy. Tôi chẳng ngốc thế đâu. Được rồi, tôi nghĩ như thế này cô có thể gọi nó là “101 bí kíp của Kins”. Khi chúng ta chưa có con, chúng ta thích nghi với điều đó, đúng chưa? Khi chúng ta có con rồi, chúng ta lại thích nghi. Khi những đứa trẻ lớn lên và không còn sống chung một nhà với chúng ta nữa, chúng ta sẽ lại một lần nữa phải thích nghi. Tuổi tác chẳng ảnh hưởng gì tới mấy chuyện đó cả. Nếu cô yêu Dan, và cô muốn có con, lời khuyên của tôi là cứ mạnh dạn làm đi. Hai người sẽ là một cặp cha mẹ tốt hơn chín mươi chín phần trăm những kẻ ngu xuẩn ngoài kia.”
Tracy mỉm cười.
“Bà ngoại ạ.” Kins nói.
“Anh đúng là đồ đểu.” Tracy nói và bật cười.
Tracy nhìn theo Faz cắm chiếc nĩa vào cái bát nhựa Tupperware đặt trên bàn và tìm cách đẩy người đứng dậy khỏi cái ghế làm việc ngay khi ông nhìn thấy cô và Kins về đến trụ sở. Thông thường Faz giống như kiểu một chú cún con háu đói ngấu nghiến những đồ ăn thừa mà Vera làm cho ông. Không đời nào ông chịu bỏ rơi nó trừ khi có chuyện gì đó cực kỳ hay ho. Điều này có nghĩa là ông đã tìm được tin gì đó rất thú vị để kể cho họ nghe.
“Anh nói chuyện với ngân hàng rồi à?” Cô nói lớn, át đi tiếng ồn ào phát ra từ ba ô làm việc khác. Cô đặt ví lên ghế làm việc của mình, ngửi thấy mùi tỏi từ những món ăn của Vera và biết chắc rằng cái mùi đó còn phảng phất trong ô làm việc tới hết ngày.
“Lynn Hoff nói với giám đốc chi nhánh là cô ta làm việc cho một công ty bán quần áo thể thao ngoài trời và sẽ gửi tiền thường xuyên.” Faz nói. “Cô ta còn mở một tài khoản cá nhân và gửi vào đó hơn năm trăm nghìn đô la. Cô ta nói rằng đó là khoản tiền dàn xếp có được từ một vụ tai nạn. Trong vài tuần tiếp theo, mỗi ngày cô ta đều dùng tài khoản công ty để gửi tiền vào và rút tiền ra, khoản tiền đó tương thích với số tiền mà cô ta rút ra khỏi tài khoản cá nhân.”
Kins mỉm cười với Tracy. “Có vẻ như chúng ta đã tìm thấy tung tích của tài khoản tín thác.”
“Cô ta đang rửa số tiền đó.” Faz nói. “Có khả năng cô ta đã chuyển tiền sang một nước khác.”
“Tôi đang tự hỏi liệu gã chồng có biết chuyện về tài khoản tín thác không?” Del cất tiếng từ bàn làm việc. “Hắn sẽ có cực kỳ nhiều động cơ nếu như hắn biết chuyện.”
“Rõ ràng là thế.” Kins nói.
“Nhưng đó không phải là thông tin hay nhất.” Faz nói, giọng nói và vẻ mặt của ông như kiểu đang giữ một bí mật rất lớn. “Phần hay nhất là đã có ai đó nhanh tay rút sạch tiền trong cả hai tài khoản ngay đầu buổi sáng hôm thứ Hai, sau khi Schill kéo cái lồng cua có chứa xác của cô ta lên.”
Kins liếc nhìn Tracy trước khi quay sang nhìn Faz.
“Bằng cách nào kẻ đó có thể làm được điều ấy?”
“Anh phải tự mình hiện diện khi mở tài khoản.” Faz giải thích. “Nhưng không cần thiết có mặt để đóng nó. Bất luận kẻ nào làm chuyện này, hắn đã giải quyết nó trên mạng. Nhưng điều đó có nghĩa là kẻ đó phải biết tên ngân hàng, tên chủ tài khoản và mật khẩu.”
Tracy nhìn sang Kins. Mọi thứ đang kết nối lại với nhau, và tất cả đều hướng tới Graham Strickland. “Là người chồng sao?”
“Là Devin Chambers sao?” Kins nói.
“Devin Chambers là ai?” Faz hỏi.
“Một người bạn của Andrea Strickland.” Tracy nói. “Chúng ta cần kiểm tra cô ta.”
“Chúng ta có thể tìm được số tiền đó không, nó đã đi đâu?” Kins hỏi.
“Tôi sẽ yêu cầu Phòng Chống lừa đảo kiểm tra chuyện đó.” Faz nói. “Nhưng tôi dám cá là kẻ đó đã ngay lập tức gửi tiền ra khỏi nước Mỹ và chuyển vào một cái ngân hàng nhỏ xa lạ, những ngân hàng đó thường không yêu cầu nhiều thông tin.”
“Nếu kẻ đó biết những gì chúng đang làm.” Tracy nói. Cô đang tự hỏi bằng cách nào họ chứng minh được kẻ đó chính là Graham Strickland. Bằng lưu trữ trên máy tính? Hay bằng lưu trữ trên điện thoại?
“Dựa trên những gì tôi nhìn thấy tính cho đến lúc này, chúng biết chứ.” Faz nói. “Chí ít là khi còn sống, cô ta biết mình đang làm gì. Nếu không phải do thời gian rút tiền, tôi đã dám khẳng định chắc chắn đó là cô ta. Chính cô ta đã suy tính hết đường đi nước bước.”
“Ngoại trừ việc bị sát hại.” Del nói.
“Ờ, đúng là thế.” Faz đáp.
Johnny Nolasco bước vào ô làm việc của họ. Sự xuất hiện của ông ta chẳng khác nào sự xuất hiện của một vị phụ huynh trong một căn phòng đầy những đứa trẻ vị thành niên. Tất cả mọi người đều im bặt. Ông ta nhìn Tracy. “Tôi chưa nhận được thông cáo gửi cho sếp hay phòng Truyền thông.” Ông ta nói.
“Sáng nay chúng tôi có mấy buổi gặp gỡ để nói chuyện mãi dưới Portland.”
“Đáng lẽ ra mấy người chẳng phải mất công đi làm gì.” Nolasco nói. “Văn phòng công tố quận Pierce đang lên tiếng đòi lại thẩm quyền đối với vụ án đó.”
“Cái gì cơ?” Tracy thốt lên. Vụ án vừa mới có được vài tiến triển, vậy mà bây giờ quận Pierce lại định giành nó lại hay sao?
“Họ mới gọi điện cách đây chừng một giờ.”
“Ai đưa ra quyết định đó vậy?” Tracy hỏi.
“Một người nào đó có cấp bậc cao hơn tôi.”
“Họ dựa vào cơ sở nào mà đòi lại?” Kins hỏi.
“Họ có một cuộc điều tra mở và họ đang tiến hành điều tra sâu hơn.”
“Vụ án của họ là về một người mất tích.” Tracy nói. “Nhưng vụ án trong thẩm quyền của chúng ta là một vụ giết người.”
“Họ không nghĩ như thế. Cách họ nhìn nhận vụ án này ấy là, người chồng là kẻ tình nghi chính và vẫn tiếp tục là kẻ tình nghi chính.”
“Và họ gần như chẳng làm gì hết để chứng minh điều đó. Cái xác được tìm thấy trong thẩm quyền của chúng ta.” Tracy nói. “Chả có lý do quái gì chúng ta lại phải trả nó cho họ cả.”
“Cái xác được tìm thấy với một phát đạn ở đằng sau gáy, điều đó có nghĩa đây có thể là một vụ phi tang xác.” Nolasco nói. Ông ta đang đề cập tới trường hợp một người bị giết trong một vụ án thuộc thẩm quyền của một đơn vị, nhưng thi thể của họ lại bị phi tang và được tìm thấy tại nơi thuộc thẩm quyền của một đơn vị khác.
Tracy giận sôi máu. Cô đang ngờ rằng Sở Cảnh sát Seattle hoặc chính Nolasco đã không hề đấu tranh để giành lại thẩm quyền của chính họ. Các sở cảnh sát có thẩm quyền tại nơi xác chết bị phi tang thường sung sướng đến phát khóc khi có thể vứt nó sang cho sở khác, nhất là khi vụ án có vẻ khó giải quyết và sẽ được ghi chép vào sổ sách của sở là một vụ giết người không tìm thấy tội phạm. “Ai quan tâm chứ? Cái xác được vứt trong khu vực thuộc thẩm quyền của chúng ta. Chúng ta nhận vụ án và đang làm việc để giải quyết.”
“Chí ít thì cũng phải hợp tác điều tra chứ.” Kins nói.
“Thôi nào, Sparrow.” Nolasco nói. “Cô ta là cư dân Portland, và cô ta mất tích tại địa phận quận Pierce. Bất cứ thông tin nào liên quan đến nạn nhân dường như đều thuộc thẩm quyền của họ.”
“Toàn những lời nhảm nhí.” Tracy nói. “Cô ta không hề mất tích ở quận Pierce. Xác của cô ta được kéo lên trong một cái lồng cua tại quận King.”
“Cô muốn nói với các sếp như thế hả?”
“Tại sao ông không nói với các sếp như vậy?” Cô đáp, không còn cố nén cơn giận dữ của mình nữa. “Đó là việc của ông cơ mà.”
Hai mắt Nolasco nheo lại, hai lỗ mũi nở ra. “Tôi đề nghị cô chấm dứt việc cá nhân hóa bất cứ vụ án nào liên quan tới những người phụ nữ trẻ. Điều đó sẽ làm cho sự phán đoán của cô thiếu chính xác.”
“Phán đoán của tôi chẳng có vấn đề gì hết. Điều tôi muốn là thẩm quyền điều tra.”
“Được rồi.” Kins nói. “Tất cả tạm dừng một chút nhé! Thưa sếp, tôi nghĩ điều Tracy muốn nói là chúng tôi đang có những tiến triển tốt, và chúng tôi không muốn từ bỏ.”
“Thế thì hãy viết hết lại và gửi nó xuống cho quận Pierce đi, Sparrow. Chúng ta sẽ không còn phải đau đầu về nó nữa. Hãy tổng hợp lại tất cả những gì mấy người đang làm và gửi hết cho họ đi.” Nolasco lại nhìn quanh một vòng ô làm việc. “Đã hiểu rõ ý tôi chưa?”
“Ờ.” Kins đáp.
Nolasco nhìn sang Del và Faz, hai người miễn cưỡng gật đầu. Rồi ông ta nhìn sang Tracy. “Cô hiểu rồi chứ?”
“Không, tôi chẳng hiểu nổi, nhưng tôi đã nghe rõ những gì ông nói.”
“Vậy thì hãy kết thúc những gì các anh chị đang làm và bỏ qua vụ án này đi.”
Tracy nổi giận đùng đùng trong suốt thời gian còn lại của buổi chiều. Cô rời khỏi phòng làm việc ngay khi đồng hồ điểm giờ tan làm, cơn giận dữ của cô càng tăng thêm khi cô lái xe đi qua cầu Tây Seattle. Dan đang đứng trước cửa căn nhà của cô. Anh đang mặc quần đùi, áo phông và đi giày chạy bộ. Trong tay anh cầm hai sợi dây dắt Rex và Sherlock đang nhảy tưng tưng và chơi đùa ở bên cạnh. Tracy mừng rỡ khi nhìn thấy anh. Dan biết cách khiến cô quên đi công việc mỗi khi trở về nhà.
Tracy hạ cửa sổ xuống khi cô đánh xe vào đường đi vào ga ra. “Anh mới về hay chuẩn bị rời đi thế?”
“Em đùa à? Có bao giờ nhìn anh thơm tho sạch sẽ như thế này nếu anh mới về đâu.” Dan tiến lại gần chỗ ghế lái và hai người họ hôn nhau. “Anh không ngờ em về nhà sớm thế này đấy.”
“Phải, em cũng thấy thế.”
Anh lùi lại một bước. “Ái chà, có chuyện gì thế?”
“Cho em năm phút thay quần áo, rồi em sẽ kể cho anh nghe trong lúc chúng ta chạy. Em cần giải tỏa một vài cơn giận dữ.”
Tracy nhanh chóng đi vào trong nhà và cởi hết quần áo ném lại trên giường. Cô thay sang đồ chạy bộ, đi giày rồi lao nhanh ra khỏi cửa. Dan đã buộc hai sợi dây dắt chó lên cái hàng rào bằng sắt uốn và đang đứng làm vài động tác dãn cơ.
“Em xong rồi.” Cô nói.
“Em có muốn vài phút dãn cơ khởi động không?” Anh hỏi.
Cô cởi sợi dây buộc Sherlock và bước xuống đường.
“Anh đoán là không rồi.” Dan nói và đuổi theo sau cô.
Họ đi bộ xuống sườn đồi, đi ra đường Harbor - việc chạy xuống sườn đồi sẽ gây khó cho lũ chó và cho cả đầu gối của họ nữa. Rồi họ chạy về hướng bắc, dọc theo đường bờ biển, băng qua dãy nhà hàng và các cửa hàng cửa hiệu về hướng mũi Alki. Đó là một buổi chiều tuyệt vời, nhiệt độ đã hạ xuống chỉ còn khoảng hai mươi sáu độ, và rất nhiều người đang đổ ra đường tận hưởng thời tiết này. Bãi biển và các nhà hàng đặc kín người, ngoài vịnh Elliott trắng xóa màu của những cánh buồm.
“Em chạy nhanh quá đấy.” Dan nói, hổn hển chạy bên cạnh. “Rex và Sherlock chết toi mất thôi.”
Tracy kiểm tra đồng hồ, cô vừa mới chạy ở tốc độ sáu phút mười lăm giây cho mỗi dặm đường. Từ lúc bốn mươi tuổi, hiếm khi nào cô chạy ở tốc độ dưới bảy phút cho mỗi dặm. “Em xin lỗi.” Cô nói, và chạy chậm lại. “Anh có muốn dừng lại không?”
“Không, bây giờ thì anh ổn rồi.” Dan nói, sau khi họ chạy chậm lại. “Chúng ta sẽ nghỉ một chút lấy sức ở chỗ ngọn hải đăng nhé!”
Ngay trước khi chạy tới chỗ ngọn hải đăng mũi Alki, họ dừng lại và ngắm nhìn một cảnh tượng mà Tracy vẫn luôn luôn cảm thấy vô cùng tuyệt diệu - vịnh biển Elliott xanh ngắt màu của bầu trời, đường chân trời của thành phố Seattle lấp lánh dưới những tia nắng của mặt trời, những con phà chạy qua chạy lại trên mặt biển. Cảnh tượng đó và cả cuộc chạy bộ đã giúp cô xoa dịu rất nhiều cơn giận dữ với Nolasco. Chí ít thì cô không còn muốn cào mặt ông ta nữa.
Dan lấy áo phông lau sạch những giọt mồ hôi trên mặt và tiếp tục hít thở. “Em vẫn chưa kể vì sao hôm nay lại về nhà sớm đấy, nhưng anh đoán là em cũng chẳng vui vẻ gì về chuyện đó.”
“Bọn em bị lấy mất vụ án người phụ nữ trong lồng cua rồi.”
“Bị lấy mất à?”
“Quận Pierce lên tiếng đòi lại thẩm quyền vụ án đó, và sở của em đã trả nó lại cho họ.”
“Anh rất lấy làm tiếc.” Anh nói.
“Điều khiển em bực nhất là em dám chắc Nolasco đã không ủng hộ tụi em, lão thậm chí còn không thèm đấu tranh để giữ lại nó. “
Dan để cho cô có thời gian xả giận. Rồi anh nói. “Thôi nào, chẳng mấy khi chúng ta có thể tận hưởng một buổi tối sớm như thế này. Tại sao chúng ta không chú tâm vào buổi tối của chúng ta nhỉ?”
“Ồ, phải rồi.” Cô nói.
Dan nhìn cô. “Em vẫn chưa xuôi vụ này đâu, phải không?”
“Tạm thời thì chưa.”
“Tracy, anh biết chuyện xảy ra với Sarah khiến cho những vụ án như thế này khó…”
“Thôi nào Dan, không phải là như thế được chứ?”
“Không phải ư?”
“Không.” Cô bước đi, cảm thấy khó chịu và giận dữ. “Phải, có thể cũng có một phần là thế nhưng nạn nhân mới chỉ mười ba tuổi khi cả cha và mẹ qua đời. Rồi sau đó, cô ta kết hôn với một kẻ đối xử với cô ta chẳng khác nào một tấm giẻ chùi chân, thậm chí có thể hắn đã bắn vào đầu cô ta rồi quăng xác xuống eo biển như một miếng mồi câu cua. Cuộc điều tra của bọn em đang có tiến triển, vậy mà trong lúc đó, quận Pierce, theo những gì em có thể thấy là chẳng làm cái gì cả từ lúc bọn em nhận vụ án, tự nhiên nhảy vào và đòi lại nó và bọn em đã để họ lấy lại nó. Thật vô lí!”
“Đúng là vô lí.” Anh nói. “Nhưng đôi lúc em cần phải để quá khứ trôi đi, Tracy ạ. Bố anh đã từng nói như thế. Nếu em để những thứ thối tha này ở trong lòng, em sẽ mang theo tất cả những thứ thối tha ấy khi em chết.”
“Thật là một suy nghĩ tốt đẹp, Dan ạ. Rất thơ ca.” Nói rồi cô dừng lại và nhìn về phía những tòa nhà chọc trời ở bên kia mặt nước.
Dan mỉm cười. “Một con người bình thường, những từ ngữ đơn giản, nhưng em không thể tranh cãi gì hơn trước sự logic của nó.”
Trong đầu Tracy đã lóe lên một suy nghĩ trên đường cô lái xe về nhà, và bây giờ suy nghĩ đó quay trở lại khi cô nhìn thấy cảnh tượng kia. Nolasco đã bắt họ phải kết thúc mọi việc mà họ đang làm trước khi chuyển hồ sơ xuống dưới kia. “Sáng mai anh vẫn bay tới Los Angeles chứ?”
“Sớm tinh mơ luôn.”
“Em đang nghĩ sẽ xin nghỉ phép và đi cùng anh. Chúng ta có thể dành cuối tuần ở đó.”
“Anh rất thích.” Dan nói. “Nhưng có lẽ cả ngày mai anh sẽ bị trói chân ở tòa đấy.”
“Đừng lo cho em.” Tracy nói. “Em sẽ tìm việc để làm.”
“Thấy chưa, em đã sẵn sàng thích nghi với hoàn cảnh rồi đấy.”
“Anh nói cứ như một nhân vật trong vở nhạc kịch Annie vậy. Làm ơn đừng có bắt đầu bài ca rằng”Ngày mai trời lại sáng” đấy nhé!”
Dan bật cười và hát. “Và ngày mai mặt trời lại ló dạng…”
“Chúa cứu rỗi chúng con.” Tracy nói và chạy nhanh sang hướng đối diện.
Về đến nhà, họ đổ đầy bát nước cho Rex và Sherlock và cho chúng một ít xương cục để chúng có việc mà làm. Rồi họ đi tắm và chợp mắt một lúc.
Khi Dan tỉnh dậy, anh lăn người về phía Tracy. Cô không ngủ.
“Em muốn ra ngoài ăn tối chứ?” Anh hỏi.
Tracy vẫn tiếp tục nghĩ ngợi về cuộc trò chuyện với Brenda Berg. Berg nói rằng cô ấy đã đầu tư rất nhiều cho sự nghiệp, nhưng tới bây giờ cô ấy lại không thể hình dung cuộc sống của mình sẽ ra sao nếu không có con gái. Kins đã đúng. Câu chuyện đó đã tác động đến cô rất nhiều. Tất nhiên là phải thế rồi. Sau vụ Sarah mất tích và cuộc ly hôn của cô với Benny, Tracy đã đầu tư toàn bộ thời gian và công sức để trở thành một điều tra viên án mạng và cố gắng giải quyết vụ án chưa được làm sáng tỏ của em gái. Trước khi cô nhận ra điều đó, thời gian đã vụt trôi đi mất, và rồi cô bốn mươi ba tuổi, đã qua mất giai đoạn tốt nhất để sinh con.
Cô lăn người sang bên cạnh, lưng quay về phía Dan, mắt nhìn ra phía ngoài những cánh cửa trượt bằng kính. “Có bao giờ anh cảm thấy thất vọng khi anh không có con không?“
Dan hắng giọng. “Suy nghĩ đó từ đâu ra vậy?”
“Hôm nay, em có buổi nói chuyện với một người phụ nữ vừa mới sinh con đầu lòng ở tuổi bốn mươi. Cô ấy nói rằng cô ấy đã quá chú tâm vào sự nghiệp. Rồi cô ấy gặp được người đàn ông thích hợp, và bây giờ cô ấy nói rằng cô ấy không thể hình dung ra cuộc sống của mình khi thiếu mất con gái.”
Dan gác cằm lên một bên vai của Tracy rồi vòng tay ôm lấy cô. “Anh không biết nữa. Anh luôn nghĩ là mình sẽ có con, cho nên anh nghĩ việc không có một đứa nào không hẳn là những gì anh đã mường tượng về cuộc đời mình. Rồi sao? Em có muốn mình có con không?”
“Thi thoảng. Phải, thi thoảng em rất muốn.”
“Suy nghĩ này rồi sẽ tới đâu hả cô Crosswhite?”
Cô xoay người trở lại, ngước mắt nhìn vào anh. “Em không biết nữa. Em chỉ đang nghĩ nếu em định có con thì chắc chắn phải là ngay lúc này hoặc là không bao giờ.”
“Đồng hồ đã điểm rồi à?”
“Em nghĩ thế.”
“Còn công việc của em thì sao?” Anh nói.
“Em có thể xin phép nghỉ sinh con. Và em đã làm công việc này đủ lâu rồi, em không còn phải dành toàn bộ thời gian cho nó nữa. Có thể em sẽ làm việc theo từng ca nhỏ thôi.”
“Em sẽ vẫn được làm án giết người chứ?”
“Có lẽ là không. Nhưng em có thể xử lý những vụ án tồn. Có vẻ như em vẫn phải giải quyết các vụ án tồn, dù thế nào đi nữa.”
“Có phải em nghĩ tới chuyện này là vì những gì đã xảy ra hôm nay không, có phải là vì vụ án bị lấy đi?”
“Không. Không, em đã nghĩ đến nó trên đường lái xe từ Portland về.”
“Vì người phụ nữ mà em đã gặp sao?” Dan hỏi.
“Có một phần.”
Họ im lặng một lúc. Rồi Dan nói. “Em đã nghĩ ra em muốn ai làm cha của đứa trẻ chưa?”
Tracy ngồi dậy và đánh anh bằng gối. “Giờ thì em biết rồi.”
Dan chộp lấy cái gối. Anh cười nhe nhởn. “Anh đã phẫu thuật thắt ống dẫn tinh, em biết mà. Em còn nhớ chứ, cuộc hôn nhân đầu tiên, vợ cũ của anh không muốn có con nhưng lại không thích cảm giác khi dùng bao cao su. Có lẽ anh từng kể chuyện đó với em rồi thì phải.”
Mặc dù có chút ngập ngừng nhưng cô nói. “Em từng đọc được rằng phẫu thuật thắt ống dẫn tinh có thể nối lại được.”
“Anh từng đọc được rằng việc đó đau đớn chẳng kém lúc bị thiến. Đâu phải chỉ buộc dây cao su lại chỗ đó là xong đâu.”
“Em biết. Em xin lỗi.”
Một lúc lâu sau, không ai nói gì. Rồi Dan bảo. “Nhưng anh sẽ cân nhắc, nếu đó là điều em muốn.”
“Anh sẽ cân nhắc sao?” Cô nói.
Anh gật đầu. “Anh sẽ cân nhắc, nhưng anh nghĩ chúng ta đang bỏ qua mất một bước rồi, chẳng phải sao? Ý anh là Rex và Sherlock đã đủ bối rối lắm rồi. Không biết tên họ của chúng là O’Leary, là Crosswhite hay O’Leary-Crosswhite?”
“Là O’Leary.” Cô nói. “Em là người truyền thống mà.”
“Em đang cầu hôn anh đấy hả, Tracy Crosswhite?”
“Còn lâu. Có thể em là một cảnh sát tài ba, nhưng bên dưới vẻ bề ngoài cứng rắn này, em vẫn chỉ là một cô gái muốn được ai đó say mê và ngỏ lời cầu hôn mà thôi.”
“Thật vậy sao? Thật tốt khi biết điều đó. Anh đoán là anh không nên cảm thấy thất vọng.”
Cô rúc lại gần người anh hơn, cảm nhận được hơi nóng tỏa ra từ hai cơ thể, cảm xúc của Dan dần được khơi dậy. “Anh, quý ngài O’Leary, đã bao giờ phải hối hận đâu.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt