Chương 17
ưới ánh trăng, Pripyat trông giống hệt ngôi đền Taj Mahal. Những đại lộ mênh mông, hàng cây dẻ nghiêm trang. Một cách bố trí đầy tự tin về cây xanh, tháp văn phòng và khu dân cư. Cái cách quảng trường trung tâm ca tụng vòng hoa của chế độ Xô Viết đặt trên nóc Tòa thị chính. Chẳng bao giờ bận tâm về những hốc cửa sổ tối đen hay tiếng rít đinh tai của lũ dế ở khu đất hoang.
Arkady dựng xe ở quảng trường. Anh đi tới nhà hát nơi đã gặp Karel Katanay lúc trước, cảm nhận đường đi xuyên qua dãy phòng ngổn ngang ở sảnh, rọi đèn pin lên sân khấu, quanh chiếc piano, lướt lên dãy khán đài. Karel Katanay cùng chiếc đi văng đã biến mất, chỉ để lại vài giọt máu trên nền đất bụi bặm.
Arkady không đủ sức tìm kiếm gã khắp thành phố được xây dựng cho năm mươi ngàn người. Tuy nhiên, một người sắp chết cùng chiếc đi văng không thể đi xa được, cho dù anh em Woropay có khiêng Katanay trên một chiếc kiệu dành cho vua chúa. Mũi gã đã chảy máu thành dòng. Toàn bộ bên trong cơ thể gã đều đang chảy máu, từ phổi, ruột đến tiểu não. Gã là miếng bọt biển đẫm máu. Đối mặt với viễn cảnh đó, Ivanov đã chọn cách nhanh chóng hơn là nhảy từ tầng mười xuống.
Trở lại quảng trường, Arkady tắt tiếng của máy đo. Bản đồ thành phố hiện đã in rõ trong đầu anh: những tòa nhà nhiễm phóng xạ, các tầng chung cư nóng như bị đốt, những con hẻm có thể dùng để chạy trốn. Phần thú vị của một đêm trăng tròn là nó gần giống với việc khám phá một vùng đất có một nửa là do tưởng tượng.
Arkady gọi to, “Karel! Chúng ta cần nói chuyện. Tôi đã bắt đầu hiểu rõ rồi, nhưng chúng ta cần nói chuyện.” Trong khi còn có thể, Arkady âm thầm bổ sung thêm.
Thứ gì đó lướt qua bụi cỏ rồi mất hút giống như làn khói bốc lên trong ánh đèn pin của Arkady. Anh lia đèn khắp mặt trước của tòa văn phòng, nơi các tấm kính vẫn đứng sừng sững, phản chiếu ánh sáng. Anh lại lia đèn ngược lên, nhưng chợt nghĩ anh em Woropay sẽ không cố mang Katanay lên các tầng cao. Dù sao thì vì cớ gì Katanay lại muốn ở trong căn phòng tối tăm, rải rác những mảnh thạch cao và mùi nước tiểu của đám người cư trú trái phép khi mà không khí bên ngoài thì dịu mát và gã có thể nhìn ngắm ánh trăng chứ?
Arkady quay lại trung tâm quảng trường, đi tiếp cho đến khi anh nhìn thấy khu hội chợ. Hội chợ của ba điểm vui chơi: vòng quay Ferris, ô tô đụng và Crazy Chair. Trong khu Crazy Chair, bọn trẻ sẽ ngồi trong một bông hoa hình tròn, mỗi cánh hoa là một chiếc ghế và quay tròn cho đến khi chúng thấy chóng mặt hoặc buồn nôn. Một nửa số ô tô ở khu ô tô đụng bị lật nghiêng; số còn lại rải rác trong khu đụng. Vòng quay Ferris chứa tới bốn mươi ca bin. Mọi thứ đều được viền mép và đọ sức với sự ăn mòn, vòng quay trông như thể nó đã quay tròn, dừng lại và rỉ sét tại chỗ.
Karel Katanay nằm trên đi văng ngay trước khu Crazy Chair. Arkady tắt đèn pin; anh không cần đến nó. Karel vẫn mặc chiếc áo phông khúc côn cầu và tựa lên gối, như lúc trước. Khuôn mặt gã nhợt nhạt hơn, còn đôi mắt thì đỏ hơn, nhưng mái tóc dường như được chải gọn và đính hạt cườm mới. Trên mặt đất, trước mặt đi văng là vài bông hoa nhựa, một chai nước Evian loại một lít và một tách trà bằng sứ, không nghi ngờ là chôm chỉa từ một căn hộ nào đó. Ngoài ra còn một bình oxy, ống thở kèm một bộ dây đeo. Anh em Woropay đã tìm mọi cách giúp gã dễ chịu nhất có thể. Gã thực sự giống một vị hoàng tử của thế giới dưới lòng đất.
Tuy nhiên, Karel đã chết. Đôi mắt, đỏ như máu nhìn chằm chằm vào Arkady. Chiếc áo khúc côn cầu thùng thình, rộng gấp đôi thân hình Karel. Hai tay gã đặt ngửa trên chiếc gối satin màu trắng thêu dòng chữ Je ne regret rien. Một chân xỏ chiếc dép đi trong nhà của Trung Quốc, chân kia để trần. Chà, có những cái chết còn tồi tệ hơn chết một cách yên bình trong đêm hè ngoài trời.
Chiếc dép còn lại đâu? Arkady tìm thấy nó cách hai mét ở phía bên kia hàng rào ngăn khu vực Crazy Chair, tôn trọng nguyên tắc nghề nghiệp, anh để nó nguyên vị trí. Anh quay lại chỗ Katanay. Những vết bầm tím phù hợp với triệu chứng mô bị phân hủy và thiếu chất đông máu ở dưới da Karel. Máu tràn ra cằm, chảy xuống má gã. Gã ta chết khi nào nhỉ? Người vẫn còn ấm, nhưng anh nhớ nếu bị nhiễm trùng và lên cơn sốt thì thi thể có thể ấm trong một giờ hoặc hơn. Có lẽ gã chỉ sống nhờ nước uống đóng chai của Pháp và moóc-phin trong nhiều tuần qua. Thực tế, Arkady nghĩ vài phút trước gã vẫn sống.
Tại sao một người sắp chết một cách yên bình lại đá văng chiếc dép? Môi Karel hơi hé, lưỡi thè ra ngoài. Chiếc gối giữa hai tay gã không một chút tì vết. Arkady phá vỡ quy tắc của mình, lật mặt kia của gối lên. Vỏ gối thấm đẫm máu mới bắt đầu chuyển sang màu nâu. Dường như máu chảy ra từ hai chỗ, mũi và miệng bị chiếc gối đè ngạt, và hẳn đã có một vụ vật lộn ngắn ngủi.
Arkady chợt nhận ra Dymtrus Woropay đứng ở phía bên kia khu Crazy Chair. Woropay đang ôm một thùng carton có vẻ nặng nề với chai lọ, hoa và kim tuyến dùng để trang trí vào dịp lễ. Arkady cũng nhìn thấy cảnh mà Dymtrus thấy: Anh đang đứng ngay trước Karel Katanay với cái gối đẫm máu.
“Anh đang làm cái quái gì ở đây hả?”
“Tôi tìm thấy cậu ta như thế này.”
“Khốn kiếp, anh đã làm cái chết tiệt gì hả?”
Dymtrus thả cái hộp xuống, làm chai lọ vỡ loảng xoảng. Gã nhảy vọt qua hàng rào, chạy thẳng qua chỗ ghế ngồi của Crazy Chair và băng ngang. Arkady đặt lại chiếc gối giữa hai tay Katanay rồi chạy đi.
Dymtrus bẻ gãy cửa. Gã quỳ xuống cạnh đi văng, chạm vào khuôn mặt của người chết và nhặt gối lên.
“Không! Không!” Gã đứng bật dậy, gầm lớn. “Taras!” Giọng gã vang tới tận quảng trường. “Taras!”
Arkady cắm đầu chạy.
Anh chạy về phía chiếc xe nhưng một bóng người đã tiến lại rất nhanh từ phía bên cạnh, dùng tay vạch cỏ, lướt từ khoảnh sân này sang khoảnh sân khác, Taras Woropay trên đôi giày trượt. Arkady nhảy lên xe và khởi động. Anh tự nhủ nếu đến được đường quốc lộ, anh sẽ an toàn. Anh chạy được khoảng mười mét thì Taras bắt kịp và đá vào xe anh. Chiếc xe lao thẳng xuống một bể nước cạn của đài phun nước ở quảng trường. Arkady vẫn ngồi trên xe và phóng lên các bậc thang của đài phun. Chạy theo phía sau, Dymtrus ném thứ gì đó lấp lánh. Giỏ mua hàng. Arkady tránh được và trở lại sân quảng trường, hướng tới con phố thì bánh sau rời ra, chiếc xe mất thăng bằng, hất anh ngã trên mặt đất. Anh lăn một vòng và nhìn lại. Taras đang quỳ trên một chân với khẩu súng trong tay. Cú bắn rất chuẩn.
Arkady đứng lên. Lúc anh còn nhỏ và được bố dẫn đi săn, vị tướng thường hét lên, “Thỏ, chạy đi!” bởi vì bắn một con thỏ đang đứng thì không vui chút nào. “Xua tay,” ông bảo Arkady. “Khốn kiếp, xua tay đi.” Arkady xua tay, con thỏ chạy trốn và ông già sẽ bắn nó.
Taras đã thay giày trượt sang giày ống lúc Dymtrus đuổi theo Arkady, lúc này anh đang khập khiễng, đầu gối trầy xước. Anh cố tìm lối thoát bằng cách lẩn vào bóng tối của ngôi trường, cạnh tấm bảng đen có ghi dòng chữ, “Tạm biệt!.” Một tấm nhựa được gắn chìa ra cửa để học sinh có thể tránh mưa. Nó ngăn ánh trăng lại và trong bóng tối, Arkady vấp phải mặt nạ khí la liệt trên nền sảnh. Chúng lọt khỏi thùng gỗ như lũ cá bằng cao su. Anh di chuyển dựa theo trí nhớ càng nhiều càng tốt, hướng tới nhà bếp ở mặt sau trường. Tường bếp ốp bằng gạch men trắng. Một bát bột nhào kích thước bằng cái xe cút kít dựng đứng. Cửa lò hoặc được mở ra hoặc bị vỡ. Tuy nhiên cửa sau đã bịt kín. Cuối tuần trước. Chúng ta nên tập dượt, tính khôi hài trong anh lên tiếng. Anh nhìn thấy mấy chiếc ghế đặt trên sàn cho nhân viên ngồi hút thuốc. Anh định đập vỡ cửa sổ bằng cánh cửa rời ra của bếp lò, cho đến khi nhìn thấy Dymtrus đứng chờ sau gốc cây bạch dương. Gã nên chọn một cái cây to hơn. Arkady quay lại sảnh và nhìn ra cửa trước. Taras đang đến gần.
Arkady chạy hai bậc một lên cầu thang, bất chấp gây tiếng động, đá chai lọ sang hai bên. Taras vào trong, đến đầu cầu thang. Arkady đẩy một giá sách hỏng xuống phía gã. Các cuốn tập viết bay phấp phới. Taras không cần phải hét lên báo cho anh trai mình rằng Arkady đang ở đây. Ai cũng có thể nghe thấy tiếng đổ vỡ.
Tầng hai. Phòng âm nhạc. Chiếc piano xiêu vẹo như người say rượu với bàn phím lung lay. Tiếng ầm ầm của cái trống vô tình bị đá vào. Tất cả phím của chiếc mộc cầm cũng vang lên lúc anh vấp phải. Ban nhạc chỉ có một người. Tiếng bước chân nặng nề nện trên cầu thang. Dymtrus. Căn phòng kế bên tràn ngập sách lẫn bàn ghế trẻ em. Cánh cửa sát đầu Arkady chợt vỡ ra trước khi anh nghe thấy tiếng súng nổ. Anh lao một cái ghế ra hành lang và biết là trúng đích vì nghe thấy tiếng chửi thề. Căn phòng cuối cùng, phòng ngủ của những con búp bê đang nằm trên những chiếc giường màu trắng. Arkady quấn đệm quanh người rồi nhảy xuyên qua lớp kính cửa sổ.
Lưng anh đập vào mấy chiếc cầu bập bênh, lăn tới gốc cây và bò vào một bụi gai, cảm nhận được một hoặc hai vết gai đâm. Anh cũng biết máu đang chảy xuống sau gáy, thấm vào quân phục nhưng không có thời gian để kiểm tra. Nhờ ánh trăng, anh thấy hai anh em chúng đang xem xét hàng cây từ ô cửa sổ bị vỡ kính. Anh nghĩ mình đã có thể rời đi. Anh đoán chúng sẽ mất thời gian để đi hết hành lang, xuống cầu thang và chạy ra cửa trước trong lúc anh chạy theo hướng đối diện. Nhưng chúng là các vận động viên. Dymtrus bước lên bậc cửa và nhảy xuống. Gã chạm đất cùng chiếc đệm rồi lăn tròn. Taras nhảy theo ngay sau đó, chúng ở gần đến nỗi Arkady nghe được cả tiếng thở. Đủ gần để ngửi thấy mùi vodka hòa lẫn mùi nước hoa.
Chúng ra hiệu và chia nhau ra. Arkady không nhìn thấy chúng đi đâu, tuy nhiên anh nghi ngờ chúng chỉ giả bộ đi một đoạn ngắn rồi quay ngược lại đúng chỗ anh đang ẩn nấp. Nếu tới được cánh rừng phía xa kia, anh có thể đi theo hướng tây tới dãy núi Carpathian hoang dã hoặc phía đông Matxcova. Bầu trời là giới hạn.
Rừng cây quá ồn ào. Tiếng rít đinh tai của lũ dế và ve sầu. Những xáo động vô hình của lũ chim đang săn lùng sâu bọ, giun và cuốn chiếu. Một người có thể bị chìm trong âm thanh đó. Giống như đã chết.
Một tấm ván, một cánh cửa chớp hoặc thứ gì đó lỏng ra đập vào bức tường của ngôi trường trong lúc cuộc truy đuổi đang diễn ra, bên trong hay bên ngoài, Arkady không biết. Ngay lập tức một trong hai anh em Woropay phản ứng. Taras, tay thõng xuống, bị thương, chạy về phía trước, vòng quanh các cạnh của ngôi trường. Từng bước từng bước, Arkady chớp lấy cơ hội, bò ra và di chuyển theo hướng mà Taras đã bỏ đi. Vài cái gai móc vào anh; còn hơn cả ngụy trang.
Anh đã bị lừa. Dymtrus đang chờ anh, lần này là sau một gốc cây đủ lớn, nhưng Arkady bị vướng chân và viên đạn đáng lẽ trúng vai anh lại thành ra quá cao. Lúc Dymtrus tiến lên để xem xét thì Arkady đã đứng lên được, len lỏi giữa rừng cây và chạy xuống dốc.
Arkady không có bất kỳ kế hoạch nào. Anh không hướng tới bất kỳ con đường hay trạm kiểm soát cụ thể nào, chỉ đơn giản là cắm đầu chạy. Do Khu vực cấm, ngoài nhân viên ở Chernobyl và người già trong các ngôi làng cấm, vốn chẳng có người ở nên anh có rất nhiều chỗ để chạy. Anh nghe tiếng la hét của Taras đang đến gần. Hai anh em ở ngay phía sau anh, mỗi đứa kèm một bên. Vấn đề là ánh trăng thực sự không đủ sáng. Cành cây hiện ra, quất vào mặt anh. Rễ cây âm thầm mọc lan ra. Lá thông khô gãy vụn dưới chân.
Cả hai phía, anh đều thấy một trong hai anh em, tiến lại gần hơn mỗi lần anh dám liếc nhìn. Sao chúng có thể chạy nhanh thế nhỉ? Chúng như nhân lên thành nhiều người sau lưng anh, lại biết rõ khu rừng. Mặt đất dốc về phía trước và chúng đang lùa anh ngày càng sâu hơn vào bãi dương xỉ. Bước chân anh dần trở nên nặng nề, dính chặt bùn và anh thấy dấu vết mặt nước lấp lánh ở phía trước.
Đó là đầm lầy nhỏ bao bọc bởi các thân cây trơ trụi, mục nát. Lau sậy. Tiếng bầy ếch nhảy tõm xuống mặt nước. Ở giữa đầm nổi lên một gò đất, trên đỉnh cắm biển cảnh báo hình thoi.
Arkady di chuyển về lại phần mặt đất cứng rắn hơn. Không có hòn đá nào. Anh nhặt một cành cây lên, nó lập tức tan thành bụi trong tay anh. Không vũ khí, anh đương đầu với sự tấn công ồ ạt của Taras, quăng gã qua hông rồi quay sang đối mặt với Dymtrus. Dymtrus chiến đấu như một cầu thủ đang chơi khúc côn cầu trên băng: túm chặt bằng một tay và nện liên tục bằng tay kia. Arkady chộp lấy tay gã, vặn và khóa lại sau lưng Dymtrus, đẩy gã lao vào một thân cây. Quay sang đá vào đầu Taras, rồi lên gối vào bụng dưới Dymtrus. Nhưng Dymtrus đã ôm chặt đầu gối lúc anh hạ chân xuống và Arkady không đủ sức giằng ra sau cú đánh vào đầu Taras.
Dymtrus níu chặt Arkady rồi đứng lên. Taras dùng báng súng quật lại. Dymtrus giữ hai tay anh, nên Taras có thể nhắm vào mục tiêu dễ dàng hơn. Giây phút ý thức được tiếp theo là Arkady đã bị lật ngửa trên mặt đất. Bắn anh thật quá dễ dàng; chúng có thể bắn anh ngay lúc mới bắt kịp.
Dymtrus nói, “Tao mang theo gối.”
Gã kéo chiếc gối từ trong áo quân phục ra, ngồi lên ngực Arkady trong khi Taras quỳ xuống giữ chặt tay anh. Dymtrus thở dốc qua lớp nước bọt đọng trên miệng gã. Máu trên vỏ gối vẫn còn ướt.
Ánh mắt Arkady tìm kiếm mặt trăng, ngọn cây, bất cứ thứ gì khác.
Dymtrus nói, “Mày sẽ chết như Karel. Rồi bọn tao sẽ dìm mày xuống nước và chẳng ai tìm thấy mày trong một ngàn năm chết tiệt nữa.”
“Năm mươi ngàn.” Giọng Alex Gerasimov vang ra từ rừng cây. “Phải năm mươi ngàn năm nữa.”
Trong tay Alex là một khẩu súng. Anh ta bắn vào lưng Dymtrus và gã đàn ông cao to gục xuống, chết như con bò đực non trong lò mổ, trong lúc Taras đang quỳ gối sững sờ. Taras vén tóc khỏi mắt, định vặn hỏi Alex thì cũng bị bắn. Một điếu xì gà nóng rực xuyên thẳng qua tim. Taras cúi xuống nhìn nó rồi từ từ ngã ra cho đến khi nằm xoài trên mặt đất.
Alex nhặt cái gối lên.
“Je ne regrette rien. Chính xác,” anh ta nói và quăng cái gối xuống nước, gần trúng tấm biển cảnh báo hình thoi.
Họ mang theo hai cái xác trở về.
Alex nói đầm lầy nhiễm phóng xạ quá nặng. Bên cạnh đó, Arkady chưa từng thấy quân tự vệ Chernobyl hành động sao? Loại điều tra viên như anh mong muốn gì chứ? Thật may mắn, họ có hai nhân chứng.
“Chúng đã cố giết anh và tôi cứu sống anh. Chẳng phải là những gì đã xảy ra sao?”
Họ đưa anh em Woropay đi theo kiểu lính cứu hỏa. Alex dẫn đường cùng Dymtrus trong lúc Arkady với một bên mắt gần như không nhìn được cùng cảm giác choáng váng, lảo đảo dưới sức nặng của Taras. Đoạn đường ngược lên dốc hết sức vất vả, luôn bị trượt chân trên lớp lá thông với mỗi bước tiến lên.
Alex nói, “Anh may mắn vì tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Tôi cho đó là một tay săn trộm ẩn náu giữa thành phố. Anh biết tôi ghét bọn săn trộm thế nào đấy.”
“Tôi biết.”
“Rồi tôi nghe phát súng nữa ở sau trường kèm theo tiếng la hét. Anh em Woropay luôn ồn ào.”
“Phải.”
“Anh có bị thương không?”
“Tôi ổn.”
Alex dừng lại nhìn phía sau. “Chúng ta sẽ mang chúng tới trường và tôi sẽ mang xe tải tới.”
“Tôi không biết.”
“Chúng ta có thể làm được.”
Arkady bị vấp vào rễ cây và khuỵu một chân xuống như người phục vụ phải mang cái khay có quá nhiều đồ ăn. Anh không thể đổi vai vì chỉ có thể nhìn được bằng một mắt. Anh cố đứng dậy và hỏi, “Anh có gặp Katanay không?”
“Có. Anh có biết cái gì khiến trăng tròn trở nên bất thường không? Anh phải nhìn giống như một con vật.” Bất chấp trọng lượng của Dymtrus cùng một khẩu súng giắt phía trước và một khẩu sau thắt lưng, Alex chỉ giảm tốc độ để đi cùng Arkady. “Chúng ta không xứng đáng có vầng trăng tròn đầy. Chúng ta khiến mọi thứ trở nên nhỏ bé hơn. Cắt nhỏ những thứ to lớn. Cây nguyên sinh, những con mèo to lớn, cá trưởng thành, dòng sông hoang dã. Đó là điều thú vị về Khu vực cấm. Cho chúng tôi năm mươi ngàn năm và nơi này sẽ phát triển thành một vùng đất đáng giá.”
“Anh đã gặp Karel sao?” Arkady lặp lại. “Trông thằng bé không được khỏe lắm?”
Arkady bước lên một bước lúc Alex bắt đầu lải nhải hệt như một người lớn phải đi bộ một chuyến dài lạnh cóng cùng cậu bé luôn than vãn và chậm chạp, đòi hỏi mình những câu chuyện và những điều mà cậu ta muốn nghe.
“Tôi biết Pasha Ivanov và Lev Timofeyev. Họ là những học trò yêu thích của cha tôi, thường xuyên ra vào nhà tôi. Là những nhà nghiên cứu và giáo viên giỏi nhất của ông, lúc ông uống quá say, họ là những người bảo vệ đáng tin cậy nhất. Luôn có sự thôi thúc đằng sau một thảm họa, anh đang tìm kiếm nó hả? Tôi thề lúc bắt đầu làm việc cho NoviRus hoàn toàn là để kiếm thêm tiền. Tôi không hề có kế hoạch vĩ đại nào dành cho sự trả thù.”
Trả thù? Có phải đó là từ Alex đã dùng không nhỉ? Đầu Arkady vẫn ong ong và anh phải tập trung hết sức mới có thể đi tiếp lúc Alex kéo một cành cây ra khỏi lối đi giúp anh.
“Yegor, bạn tôi đã gọi điện từ Matxcova. Và phải, tôi làm việc bán thời gian cho bộ phận An ninh của NoviRus với vai trò phiên dịch cho mảng tai nạn, nghĩa là phải trải qua hai mươi tư giờ đọc sách báo trong một căn phòng nhỏ, không cửa sổ. Có lẽ văn phòng của đại tá Ozhogin ở trên tầng mười lăm của tòa nhà, nhưng chúng tôi lại ở trong lòng nó. Nếu anh ở dưới lòng đất thì ngày cũng như đêm. Rất hiện đại với các bức tường được thay thế bằng kính màu. Tôi bắt đầu lang thang ra sảnh và nhận ra các kỹ thuật viên giám sát màn hình an ninh còn buồn chán hơn mình. Chúng còn trẻ, chỉ có tôi là người duy nhất đã hơn ba mươi tuổi. Hãy tưởng tượng anh ngồi trong bóng tối, nhìn chằm chằm vào màn hình chờ cho đến hết ngày. Để làm gì? Tìm người sao Hỏa? Hay bọn Chechnya? Cướp ngân hàng với mặt nạ bịt kín đầu? Ở đó, chúng chơi điện tử, tán tỉnh bạn gái qua điện thoại, tới máy bán nước có ga hàng giờ vào một thời điểm nhất định. Một ngày, tôi ngồi vào cái ghế trống và trên màn hình là cổng một lâu đài đang mở ra cho hai chiếc Mercedes chạy vào. Hai chiếc xe hiện ra ở màn hình khác; đó là Pasha Ivanov, sau rất nhiều năm không gặp đã trở thành ông chủ của NoviRus, đang rời xe cùng một cô nàng xinh đẹp trong vòng tay. Đó là cung điện của ông ta. Tôi đã không gặp ông ta từ sau vụ Chernobyl. Trên một màn hình khác, tôi có thể theo dõi ông ta bước lên một bậc thềm rộng lớn và vào trong sảnh. Đây rồi, tôi tự nhủ, người đàn ông có mọi thứ.
“Tôi tự hỏi, cái gì đã biến ông ta thành người có tất cả? Chúng tôi đã cùng nghiên cứu về Xesi Clorua ở viện. Hãy nhớ xã hội Ivanov đang sống là thế nào? Vào Giáng sinh, ông ta mở một bữa tiệc với hàng ngàn người ngay trong lâu đài và thu thập quà tặng cho vài tổ chức từ thiện. Rất dân chủ; nhân viên, bạn bè, triệu phú, trẻ em, được phép vào mọi căn phòng vì Ivanov thích thể hiện, phong cách của người Nga mới. Tôi mang theo vài hạt Xesi Clorua cùng một máy đo phóng xạ bọc trong hộp chì như một món quà, găng tay lót chì cùng kẹp giắt ở thắt lưng. Tôi tìm thấy phòng tắm của ông ta, để vào đó một hạt Xesi rồi bước ra, quan sát xung quanh và đặt món quà lên nắp bồn vệ sinh kèm một tấm thiệp mời ông ta tới Chernobyl chuộc tội. Tôi đã chờ đợi hàng tháng trời và Ivanov chỉ cử Hoffman, gã người Mỹ béo ục ịch tới, ẩn mình giữa đám Do Thái. Anh có thể tin được không? Ivanov giao phó một lời cầu nguyện cho người chết, nhưng Hoffman thậm chí còn không thèm thực hiện.”
Arkady cũng không tập trung được. Sức nặng thi thể của Taras tận dụng mọi cơ hội - cành cây quất vào, bước chân loạng choạng - để trượt khỏi vai anh. Mặc dù chỉ bập bõm nghe được chuyện Alex đang nói, nhưng anh vẫn đi theo giọng nói của anh ta. Cứ vài bước Alex lại dừng để đợi Arkady.
Alex tiếp tục câu chuyện của mình. Anh ta đặt nó trước mặt Arkady như đang rắc vụn bánh mì trên con đường rừng. “Ivanov chuyển tới một biệt thự có lính canh trong thành phố. Nhưng bất kỳ gã vệ sĩ nào cũng không thể ngăn cản nếu con chó của anh trở lại sau chuyến tản bộ trong công viên với một hoặc hai hạt Xesi trên lông và nó sẽ rải chúng khắp nhà. Tôi cũng bắt đầu một chiến dịch với Timofeyev, nhưng ông ta chỉ là nhân vật phụ. Ông ta không phải Pasha Ivanov. Tất nhiên, sau cái chết của Ivanov, Timofeyev đã sẵn sàng tới đây, nhưng trước đó, cả hai đều cư xử như chẳng có gì xảy ra, chẳng có gì để báo với cảnh sát hay thậm chí là bộ phận an ninh của NoviRus, nơi tôi là anh cả của tất cả đám kỹ thuật viên đó. Tôi giúp chúng lấy bằng kinh doanh qua các khóa học từ xa để chúng có thể tự mình trở thành một người Nga mới. Tôi tìm cho nhân viên mật mã một bác sĩ kín đáo để chữa trị các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục và giữ bí mật cho cậu ta. Kế hoạch đã tự hình thành. Nhìn kìa, trường học ngay trên đỉnh đồi rồi.”
Với Arkady, chuyến trở về trường học xa vời như mây trên bầu trời. Anh cũng kinh ngạc vì mình có thể đi xa đến thế. Taras, hoặc đã chết hoặc chưa, tìm đủ mọi cách tuột khỏi tay Arkady. Alex giúp anh đi qua một đống gỗ mới đốn và Arkady tự hỏi liệu anh có thể tới đủ gần để giật lấy một trong hai khẩu súng giắt ở thắt lưng anh ta không, nhưng Alex đã quay lại với Dymtrus, pha trò, trêu chọc Arkady và giúp anh giải trí.
“Có muốn nghe về xe tải diệt côn trùng không? Rất vui đấy. Vào những sáng chủ nhật, kỹ thuật viên giám sát tòa nhà Ivanov thường rời vị trí. Tôi ngồi vào và nhìn thấy những hình ảnh giống nhau, lễ tân ở tiền sảnh của tòa nhà, lập tức một chiếc xe tải chạy vào con hẻm dành cho các bên dịch vụ, tôi gọi cho lễ tân theo số của bộ phận an ninh và bảo anh ta tìm danh sách khách đến thăm trong tháng trước rồi đọc cho tôi. Cái này không được đưa vào máy tính. Lễ tân phải rời mắt khỏi đường phố, lấy sổ đăng ký trong tủ ngăn kéo dưới chân, giải mã chữ viết tay của ai đó, và không thể quan sát màn hình. Tôi biết tất cả vì tôi đã theo dõi anh ta qua màn hình giám sát ở sảnh trong nhiều tuần. Gã diệt côn trùng đã có mật mã cửa sau, thang máy dành cho dịch vụ và căn hộ của Ivanov, và tôi đã hứa anh ta sẽ có mười hai phút không bị chú ý. Giữa lúc đó, kỹ thuật viên quay lại thế chỗ tôi. Tôi lắc đầu. Cậu ta đứng đợi trong lúc tôi nói chuyện với nhân viên lễ tân, vì tôi phải đợi gã diệt côn trùng đi ra. Tôi có thể hiểu tại sao mọi người lại phạm tội, vì hàm lượng adrenaline tăng lên đáng kinh ngạc. Tôi cho kỹ thuật viên hai viên aspirin và giống như con chó của Pasha, cậu ta liền chạy đi lấy nước.
Đúng lúc đó, gã diệt côn trùng đi ra con hẻm cùng chiếc va li, nhanh hơn nhiều vì nó không còn chứa muối nữa, lên xe và đi mất. Tôi cảm ơn lễ tân, cúp máy và quan sát. Anh ta cất sổ, nhìn lên máy quay, kiểm tra màn hình, tua lại cuốn băng theo dõi đường phố và con hẻm. Chắc hẳn anh ta phát hiện ra gì đó nên đã gọi người gác cửa hiện đang mất hút vào trong cánh cửa Chỉ dành cho nhân viên. Tôi cảm giác như mình đang đứng ở đó. Chúng tôi chờ đợi, lễ tân và tôi. Người gác cửa quay lại, lắc đầu và nhảy vào thang máy. Trên màn hình, tôi có thể thấy ông ta đi từng tầng một, gõ cửa từng căn hộ, trong lúc nhân viên lễ tân giả vờ siêu bình tĩnh, luôn liếc về máy quay cho đến khi người gác cửa quay lại. Không vấn đề gì, chẳng có gì phải lo lắng, mọi thứ đều trong tầm kiểm soát. Gần đến nơi rồi, Renko.”
Arkady cằn nhằn để tỏ ra mình vẫn đang lắng nghe. Mang theo một cái xác xuyên qua khu rừng rậm rạp cũng giống như đang lôi con khỉ đột qua răng lược. Lúc Arkady vật lộn, anh chạm vào khẩu súng của Taras.
“Karel,” Arkady nói.
“Karel đóng giả làm người diệt côn trùng và nó đã làm rất tốt. Đáng tiếc, thằng bé lại quá tham vọng. Tôi đã nói với nó về mẹo dùng lọ muối rồi nó tự ý làm, cẩu thả và chắc hẳn đã bị dính một hoặc hai hạt Xesi. Tôi đã cố gắng giải thích về phóng xạ cho Karel cùng anh em Woropay cả triệu lần, nhưng tôi nghĩ mình đã thất bại.”
“Chiếc xe tải?”
“Karel đã tự xoay xở.”
“Tại sao lại là cậu ta?”
“Tôi là bạn của thằng bé. Anh em Woropay cũng thế. Tôi lắng nghe chúng, về những tham vọng điên rồ của chúng. Chúng chỉ là những cậu bé của Khu vực cấm, sẽ không bao giờ trở thành người Nga mới được. Mỗi người chúng ta đều có cách riêng để đạt sự cân bằng.”
“Cho cái gì?”
“Mọi thứ.”
Arkady quá kiệt sức, không thể đứng thẳng được. Anh phải dựa vào một thân cây. “Không phải tất cả. Chỉ một thứ thôi.”
“Eva.”
“Chuyện gì với cô ấy?”
“Anh biết mà.” Alex vạch ngón tay ngang cổ, đúng vị trí vết sẹo của Eva.
Quá mệt mỏi để tiếp tục trò chuyện. Arkady thầm nghĩ, lần tới họ nên gặp nhau trên đất bằng và không phải vác theo hai cái xác. Đám bụi gai sau trường mọc um tùm, trở thành rào cản, cào rách da Arkady và cố kéo Taras xuống.
“Đừng kéo!” Alex nói, vạch cành cây ra để Arkady có thể đi nốt vài bước cuối tới chỗ cầu bập bênh và ghế ngồi. Nửa bên mặt Arkady tê liệt và anh quay mặt đi lúc bắt gặp hình ảnh phản chiếu đầy ma quái của mình trong ô cửa sổ trường, trước khi nó biến thành Yakov.
“Đừng thả xuống,” Alex nói.
“Sao lại không? Anh sẽ đánh xe tải lên đây.”
“Không. Chúng ta sẽ đưa bọn chúng tới chỗ Karel.”
“Chỗ Karel?” Tới đầu kia quảng trường?
“Thực ra điểm đến của chúng ta là ở đó.” Alex nói, “Hết đường dốc rồi. Từ đây sẽ dễ đi hơn.”
Ra là thế, Arkady thầm nghĩ. Lý do anh vẫn còn sống thay vì chết ở đầm lầy là vì như vậy, Alex sẽ chỉ phải vác theo một cái xác mà không phải là ba. Arkady đã làm việc với vai trò một trợ lý cần mẫn, giúp anh ta mang theo hai cái xác trở về, Taras và bản thân anh. Như thế sẽ không để lại vết bánh xe trên mặt đất hay máu trong xe tải. Một khẩu súng chợt xuất hiện trong tay Alex. Bình thường, khoảng cách từ trường đến hội chợ là vài phút đi bộ. Cho dù với tốc độ vừa đi vừa lết thì liệu anh có thể kéo dài được bao lâu?
“Anh đi trước.” Alex giục giã Arkady, buộc anh di chuyển tiếp, lần này là ở phía trước anh ta.
Trong lúc lảo đảo bước đi, Arkady chợt nhớ tới câu nói của ai đó rằng trên đường đi tới giá treo cổ là lúc ta tập trung tâm trí nhất. Điều đó không đúng. Anh nghĩ tới loại nhạc yêu thích, nụ cười của Irina, mẹ anh nằm trên giường đọc lại tiểu thuyết Anna Karenina và hàng ngàn ký ức khác theo từng bước chân. Lúc nhớ tới anh đã nhẫn tâm từ chối các cuộc gọi của Eva, anh cảm thấy như bị thiêu đốt vì xấu hổ. Tất cả điều anh cần làm chỉ là nghe máy.
Alex nói, “Thật tình chưa bao giờ tôi hy vọng thoát được khỏi chuyện này. Nhưng giờ, tôi nghĩ mình có thể. Gọn gàng, sạch sẽ.”
Arkady chợt nghĩ liệu ở mắt cá chân Taras có gài dao không. Hay chỉ lực lượng tinh nhuệ mới có? Tuy nhiên, Taras không có. Chắc chắn Arkady cũng không. Liệu mẹ anh có mối tình say đắm nào ngoài cuộc hôn nhân của bà như Anna Karenina không? Nếu có những điều anh không biết về mọi người, thì các câu hỏi đó sẽ theo anh xuống tận dưới mồ. Arkady nhớ đôi mắt sáng long lanh của Maria Panasenko ở nghĩa trang của ngôi làng và bà đã dọn dẹp mặt đất xung quanh lọ hoa bướm như thế nào.
“Một neutron sinh ra một nguyên tử uranium để phân chia, giải phóng nhiều neutron hơn sẽ gây ra phản ứng phân hạch, từ đó lại tạo ra thêm nhiều neutron nữa. Đó là phản ứng dây chuyền. Vào thời điểm Eva học nhảy múa ở Kiev, tôi đang là sinh viên ngành khoa học ở Matxcova, còn anh là thằng bé điều tra ở chỗ quái nào chỉ có Chúa mới biết, mỗi chúng ta đều là một nguyên tử riêng biệt. Rồi lò phản ứng số Bốn nổ tung, cuộc sống của tất cả cũng thay đổi.”
Trong lúc anh ta đang triết lý, Alex ấn khẩu súng vào Arkady. Arkady cảm giác họ đang đi rất nhanh, lướt qua chỗ chiếc xe đổ của anh. Chiếc đi văng của Karel hiện ra trong tầm mắt. Làm thế nào để trì hoãn?
“Bố anh có để lại thư tuyệt mệnh không?”
“Một câu hỏi thú vị. Chỉ một lá thư gửi cho tôi. Kể lại cuộc gọi từ Ủy ban Trung ương Đảng vào cái đêm thảm họa xảy ra. Họ muốn ông tới Chernobyl để đánh giá tình hình. Lúc đó, ông đã uống say, như ông vẫn thường làm sau cái chết của mẹ tôi. Tôi đang ở xa, nhưng Ivanov và Lev Timofeyev đã chuyển đến căn hộ của chúng tôi để giúp ông đối phó.” Ký ức đã làm giảm tốc độ của Alex. “Ông đã từng là viện sĩ hàn lâm Gerasimov đáng tin cậy, người có nhiều kinh nghiệm trong các thảm họa hạt nhân hơn bất cứ ai trên thế giới. Chuyên gia hàng đầu. Ủy ban Trung ương muốn biết có bao nhiêu người có thể huy động được, và trên hết là phải sơ tán mọi người đi đâu và giải thích thế nào với họ. Cha tôi cầu xin một phút để tỉnh rượu và Pasha cùng Lev, những thần đồng của ông, đã trở thành người giải cứu.”
Arkady nhìn thấy Karel nằm trên đi văng đặt ngay trước hàng ghế trong khu Crazy Chair. Oksana đang gục xuống người gã; cô ta vẫn mặc bộ đồ thể dục như lần trước và Arkady nhận ra cô ta nhờ ánh màu xanh của cái đầu trọc lốc. Cô giống như bóng ma Ireland hiện ra từ không trung. Bước ngay phía sau Arkady, Alex vẫn chưa phát hiện ra cô ta.
“Theo lá thư, Pasha đã hỏi liệu lõi lò phản ứng có bị nguy hiểm không. Bố tôi nói không, bởi vì đó là điều phòng điều khiển đã báo cáo với Matxcova. Lev hỏi liệu lò phản ứng có bị đóng cửa. Có, là thông tin từ Chernobyl. Chà, họ nói, nó có vẻ không quá nguy hiểm, chỉ là khói thôi chứ chẳng phải lửa. Đừng ra bất kỳ cảnh báo nào, chỉ cấp viên iot cho lũ trẻ, lập bản đồ hướng gió và khuyên người dân nên ở trong nhà một ngày trong lúc ngọn lửa được dập tắt và điều tra nguyên nhân. Ngoài ra bảo mọi người không nên làm gì cả. Và đó là những chuyện đã xảy ra. Lệnh di tản khỏi Pripyat bị trì hoãn một ngày và cảnh báo cho Kiev bị trì hoãn sáu ngày, vì thế hàng triệu trẻ em, bao gồm cả Eva của chúng ta đều đã diễu hành trong ngày Quốc tế Lao động đầy phóng xạ, ăn kem nhiễm phóng xạ, chơi các trò chơi nhiễm phóng xạ. Anh có thể nói bố tôi đã làm việc dựa trên những thông tin bị sai lệch. Nhưng ông là Felix Gerasimov. Ông biết rõ hơn thế. Rồi ông ký lá thư, tự mình đưa nó tới bưu điện, trở về nhà với khẩu súng lục và PẰNG!”
Đầu Oksana xoay khắp các hướng. Arkady tự hỏi anh và Alex trông như thế nào lúc họ tiến lại gần dưới ánh trăng, có lẽ là một sinh vật kỳ lạ, xấu xí với hai đầu, một thân và cái đuôi. Arkady ra hiệu cho cô ta tránh xa.
“Ngạc nhiên không?” Alex hỏi.
“Không hẳn. Giống động cơ một vụ giết người, tiền bạc là trên hết. Nỗi hổ thẹn có sức mạnh lớn hơn nhiều.”
“Đó là phần hay nhất. Pasha và Timofeyev không thể đi bất cứ đâu để yêu cầu sự bảo vệ, bởi vì họ phải tiết lộ toàn bộ câu chuyện. Họ quá xấu hổ để bảo vệ mạng sống của chính mình, anh có thể tưởng tượng được không?”
“Nó luôn xảy ra mà.”
Oksana trườn quanh chiếc đi văng và bởi vì chỉ mình anh nhìn thấy cô nên anh cũng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của cô chạy đi. Có lẽ khoảng năm mươi bước. Karel chờ đợi trên đi văng, chiếc Crazy Chair hơi nghiêng ngả phía sau. Arkady cưỡng lại cám dỗ thả Taras xuống và bỏ chạy bởi vì anh nghi ngờ trong hoàn cảnh hiện tại anh khó có thể thoát khỏi ngay cả một con côn trùng.
Alex nói, “Tôi viết thư cho họ. Tôi chỉ yêu cầu Ivanov và Timofeyev tới Khu vực cấm, tuyên bố trách nhiệm cá nhân của họ, mặt đối mặt.”
“Timofeyev đã đến. Hãy xem chuyện gì đã xảy ra với ông ta?”
“Tôi không nói sẽ không có hậu quả. Ăn miếng trả miếng.”
“Như anh vẫn thường nói với Karel.”
“Như tôi vẫn thường làm.”
Từng bước chân xiêu vẹo, họ tới khu hội chợ. Karel vẫn uể oải nằm dài từ đầu này sang đến đầu bên kia của chiếc đi văng. Hàng mi khép lại, cằm và má được lau sạch máu, mái tóc đính cườm của gã được chải gọn gàng và giờ mỗi chân đi một chiếc dép Trung Quốc. Hẳn người chị gái đã làm chuyện này. Arkady tự hỏi không biết Alex có nhận ra. Alex có vẻ cực kỳ hài lòng với chính mình. Và Arkady chợt nhận ra Alex rất tự phụ. Anh nhớ tới câu chuyện Con hải mã và bác thợ mộc, người đã đưa những con hàu mới sinh đi dạo rồi chén từng con một. Chuyến đi này cũng thế. Một ca bin kêu cọt kẹt ngay phía bên trên, ở vòng quay Ferris. Khổ nỗi là vòng quanh Ferris lại không hề chuyển động. Arkady chưa từng nhìn thấy mặt trăng to thế nào. Cái bóng của vòng quay đổ dài qua cả quảng trường.
Arkady đặt Taras xuống đất.
Alex chỉ đơn giản hất Dymtrus khỏi vai. Lúc gã dân quân tự vệ to con đập xuống đất, đầu gã kêu như một quả dừa.
Arkady hỏi, “Ai đã bắn Hulak?”
“Không biết, không quan tâm. Lão ta đã thỏa thuận với anh em Woropay rằng sẽ đi đâu và ăn trộm cái gì. Tôi đoán bọn chúng đã giết lão.” Alex lật Dymtrus, kẻ bị bắn vào lưng, nằm sấp xuống; đặt Taras, bị thương ở ngực, nằm ngửa lên; vung vẩy khẩu súng để chỉ cho Arkady chỗ phải đứng mãi đến khi tạo ra được hình dạng anh ta muốn: Một tam giác ba người chết - Karel, Dymtrus và Taras - với Arkady ở giữa. “Chà, tôi nghĩ nó sẽ là hình ảnh khá thuyết phục về sự nguy hiểm của việc say samogon, nhất là khi đang cầm súng. Đừng lo lắng; tôi sẽ cung cấp súng cùng samogon. Đây là loại điều tra mà Bộ sẽ chôn nhanh như chất thải độc hại. Còn nhanh hơn ấy chứ.”
“Vậy là anh không cứu tôi khỏi anh em Woropay.”
“Không, tôi e là không. Anh sẽ không thể tới được đây nhưng cũng đã hết sức nỗ lực, đáng khen ngợi nếu điều đó giúp anh cảm thấy dễ chịu hơn.”
“Chỉ còn thiếu chiếc gối mà anh đã đè ngạt Karel.”
“Je Ne Regrette Rien hả? Anh biết không, tôi chỉ vừa mới đặt lên mặt nó thôi. Thằng bé giãy giụa vài cái rồi chết. Tôi có thể nói, với tình trạng của Karel, việc làm của tôi lại là ân huệ đấy.”
Alex lùi lại hai bước từ chỗ Arkady, chìm vào bóng đổ dài của vòng quay và giơ súng lên. Không quá gần, cũng chẳng quá xa.
Đột nhiên, điện thoại của Arkady reo vang.
“Mặc nó kêu,” Alex nói. “Mỗi lúc chỉ làm một việc thôi.” Điện thoại cứ kêu hết lần này đến lần khác. Sau khi chuông ngừng kêu, người gọi lập tức bấm phím Gọi lại thêm lần nữa. Chỉ có thể là Zhenya. Không người bình thường nào lại có sự kiên trì điên rồ đến như thế. Chuông kêu đến tận khi Alex lôi nó ra khỏi túi Arkady và giẫm bẹp khiến nó im hẳn.
Giải quyết xong, mặt đất được dọn sạch, toàn bộ thành phố im lìm, mỗi cửa sổ lại là một con mắt mở to đầy lo lắng, Alex lùi lại, giơ súng lên. Oksana rón rén lọt vào tầm mắt Arkady ở cuối khu Crazy Chair.
Arkady lên tiếng, “Anh bước ra chỗ sáng được không?”
“Anh muốn thấy tôi lúc tôi giết anh hả?” Alex hỏi.
“Đúng.”
Alex bước tới chỗ ánh sáng màu bạc.
Arkady chờ đợi, Alex thấy không có lý do gì phải quay về chỗ tối. Khuôn mặt Alex thoáng chút bối rối, dường như anh ta đang tự hỏi tại sao Arkady lại sẵn sàng làm nạn nhân đến thế.
“Anh thực sự không sợ hãi?”
“Không.”
Rồi đột nhiên Alex giật giật. Anh ta chết đứng, ngã xuống, nằm sõng soài trên mặt đất, phát súng của Oksana không lớn hơn tiếng răng rắc của cành cây con. Lúc bước ra từ sau Crazy Chair, cô ta cởi dây đeo dùng để cố định súng trường khỏi cánh tay, tương tự súng bắn từng viên một, khẩu súng trường dùng chốt trượt mà Arkady đã thấy tại căn hộ của Katanay ở Slavutych. Được đánh bóng loáng giống như cây vĩ cầm yêu thích.
“Rất xin lỗi. Tôi để súng ở chỗ xe máy. Tôi gần như không kịp trở lại.”
“Nhưng cô đã làm được.”
“Con quái vật này đã giết em tôi.” Cô ta đá vào người Alex.
“Anh ta chết rồi.” Arkady cố đẩy cô ra xa.
“Hắn là con quỷ.” Cô ta nhổ nước bọt vào mặt Alex trước khi anh kịp xoa dịu. Không có dấu hiệu sợ hãi trên gương mặt anh ta. Đôi mắt Alex trong trẻo, cái miệng như đang mỉm cười, tròng mắt và cơ mặt mới chỉ bắt đầu chùng xuống. Arkady phải ấn tay vào tai Alex mới tìm thấy lỗ đạn và một giọt máu ứa ra.
“Họ sẽ bắt tôi à?” Oksana hỏi.
“Có ai biết cô chính là người đi săn lấy da thú cho ông cô nhồi bông không?”
“Không, ông ấy cảm thấy xấu hổ. Anh biết à?”
“Ông cô luôn có da mới và tôi đã nghĩ là nhờ Karel, cho đến khi tôi thấy tình trạng của cậu ấy. Và tôi biết đó chính là cô.”
“Họ có thể tìm ra viên đạn không?”
“Không. Lúc đạn chì chạm vào xương, nó xẹp xuống như bã cao su. Kể cho tôi về Hulak đi.” Arkady chỉ đủ sức đứng lên, nhưng anh có cảm giác Oksana là loài bướm hiếm gặp, rằng hoặc anh hỏi cô ta ngay bây giờ hoặc không bao giờ.
“Ông ta nói với ông tôi là sẽ cho anh nếm vị hồ làm mát.”
“Cô đợi trên thuyền à?”
“Thi thoảng, tôi thả câu ở đó.”
“Và bắn Hulak.”
“Ông ta mang theo một khẩu súng.”
“Cô đã bắn Hulak.”
“Ông ta lôi kéo ông tôi vào mọi chuyện.”
“Và cô đang bảo vệ gia đình mình?”
Oksana cau mày, cái đầu hói của cô ta phóng đại mọi biểu hiện. Không, cô ta không thích câu hỏi này. Cô ta xoay xở ngồi lên đi văng, đặt đầu Karel lên đùi mình.
Arkady hỏi, “Cô có biết tại sao em cô lại bị nhiễm độc không?”
“Lọ muối. Nó nói mình đã thêm Xesi vào một lọ muối và đánh rơi một hạt. Có lẽ là hai. Nó đã đi găng tay và sẽ không có việc gì xảy ra, nhưng sau đó, nó ăn một cái sandwich và…” Mặt cô ta co rúm lại. “Anh không phiền nếu tôi ở lại một lát chứ?”
“Cứ tự nhiên.”
“Karel và tôi thường xuyên ngồi thế này.” Cô ta với tay qua vai em trai để vuốt phẳng những nếp nhăn trên áo, đặt hai tay gã vào nhau, vén lại mái tóc cho gã. Oskana dần trở nên chăm chú và Arkady hiểu anh sẽ không có thêm câu trả lời nào nữa.
“Tôi phải đi rồi,” Arkady lên tiếng.
“Tôi có thể ở lại không?”
“Nơi này là thành phố của cô.”
Arkady lái xe tải của Alex theo con đường chạy xuống sông được trang trí với mỏ neo, dây xích, chạy qua bến tàu cùng các con tàu bị đánh đắm, vượt qua cầu cùng tiếng rít của đập nước. Xe máy của anh trong thùng xe phía sau. Không còn con đường nào khác để đến được đúng lúc. Đúng lúc làm gì, anh không biết. Anh chỉ cảm nhận một sự cấp bách vô cùng. Qua các dãy nhà hầu như trống rỗng, luôn luôn hầu như trống rỗng, vệt đường mòn của một chiếc xe chạy qua cánh đồng cây hương bồ và dương xỉ lắc lư trong gió, tới một gara khuất nửa trong rừng cây và một căn nhà gỗ nhỏ chìm trong bóng tối với cửa lưới và cửa sổ sơn xanh.
Anh tắt động cơ. Chiếc xe tải màu trắng lấp đầy khoảng sân, trong khi căn nhà vẫn im lìm, bao trùm nó là một bầu không khí đau buồn và tối tăm đến nỗi có thể nuốt chửng cả ánh nến. Gió nhẹ nhàng lướt qua ngọn cây, dòng sông khẽ khuấy động, nhưng ngôi nhà trống rỗng, hoàn toàn không còn dấu hiệu của sự sống cho đến khi tiếng cửa lưới bị đóng sầm lại.
Eva vẫn mặc áo choàng tắm, đôi mắt mở lớn, mờ lệ, nhưng cô vững vàng giơ khẩu súng trước mặt bằng cả hai tay. Cô loạng choạng trên mặt đất với đôi chân trần.
“Tôi đã bảo nếu anh quay lại, tôi sẽ bắn.”
“Là anh,” anh định mở cửa, ra khỏi xe.
“Đừng bước ra, Alex.” Cô tiếp tục đi thẳng về phía trước.
“Ổn rồi.” Anh bật mở cửa, bước ra để cô có thể nhìn rõ hơn. Anh đã kiệt sức. Chỗ này là nơi xa nhất anh có thể đi được.
Cô bước lại gần hơn đến lúc tầm bắn không thể trượt trước khi cô nhìn rõ người đang đứng cạnh xe tải của Alex. Anh biết mình không nhìn rõ lắm. Cô run rẩy như người bị rơi xuống hố băng cho đến khi anh mang cô vào trong nhà.
Chó Sói Cắn Chó Nhà Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith Chó Sói Cắn Chó Nhà