Truy Tìm Dracula epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 15
hi đọc xong lá thư cuối cùng của thầy Rossi, cha kể, chalại cảm thấy phiền muộn, tựa như thầy đã biến mất lần thứ hai vậy. Nhưng đồngthời cha cũng tin rằng việc mất tích của ông chẳng liên quan gì đến chuyến xebuýt đến Hartford ấy, hoặc chuyện người thân của ông bị bệnh ở Florida (hoặcLuân Đôn), như cảnh sát đã cố tình mặc nhận. Cha gạt bỏ những ý tưởng này rakhỏi đầu và bắt đầu xem xét những thứ giấy tờ khác của thầy. Trước tiên phảiđọc kỹ, nhận thức hết mọi chuyện đã. Sau đó sắp xếp theo thứ tự thời gian vàbắt đầu - nhưng phải từ từ - rút ra những kết luận. Cha băn khoăn tự hỏi liệuthầy Rossi đã từng có linh cảm nào rằng nhờ đào tạo cha, ông có thể đảm bảođược sự tồn tại của chính bản thân mình hay không. Như một kỳ thi tốt nghiệpđầy gian nan - mặc dù cha hết sức mong muốn nó chẳng phải là kết cuộc cho cảông ấy và cha. Cha tự nhủ mình sẽ không dự tính hành động cho đến khi đọc xongtất cả các tài liệu, nhưng cha đã mơ hồ đoán ra những gì mình có lẽ phải làm.Cha lại mở nó ra, cái gói nhỏ đã bạc màu vì năm tháng.
Ba món kế tiếp là những tấm bản đồ, như thầy Rossi đã hứa,tấm nào cũng được vẽ bằng tay, và không có tấm nào trông cũ hơn những lá thư.Đương nhiên rồi: đây là những phiên bản được ông vẽ lại theo trí nhớ từ nhữngtấm bản đồ ông đã tận mắt nhìn thấy trong trung tâm lưu trữ tư liệu thành phố Istanbul,sau những chuyến phiêu lưu đến đó. Trên tấm bản đồ đầu tiên cha cầm lên, chanhận ra một khu vực núi non rộng lớn được thể hiện bằng những dấu chữ V nhỏhình tam giác. Chúng hình thành hai đường bán nguyệt dài suốt trang giấy theohướng Đông- Tây và tụm lại dày đặc ở phía Tây. Một dòng sông lớn uốn khúc ở rìaphía Bắc tấm bản đồ. Không thấy có thành phố, dù ba hay bốn dấu chữ X ở vùngnúi phía Tây có lẽ là để đánh dấu những thị trấn. Bản đồ không ghi các địadanh, nhưng thầy Rossi - cùng một lối như trong bức thư cuối cùng - đã viếtquanh đường viền bản đồ: "Kẻ nào không có đức tin và chết khi còn vô đạo sẽ bịlời nguyền rủa của Thánh Allah, của các thiên thần và của con người giáng xuốngđầu (Kinh Khôngran)" và nhiều đoạn văn tương tự. Cha băn khoăn tự hỏi không biếtdòng sông cha nhìn thấy ở đây liệu có thể là dòng sông mà dường như ông ấy chorằng đã được biểu tượng hóa bằng hình ảnh cái đuôi rồng trong cuốn sách củaông. Nhưng không; trong trường hợp đó ông hẳn sẽ đề cập đến tấm bản đồ có tỷ lệlớn nhất, chắc chắn nó có trong số những tấm bản đồ này. Cha nguyền rủa nhữngtình huống - tất cả các tình huống - đã ngăn cản không cho cha được cầm tận taynhìn tận mắt những tấm bản đồ gốc; bởi chắc chắn vẫn có những điểm thiếu sóthoặc không nhất quán giữa bản sao và bản gốc, dù Rossi có khéo léo và trí nhớcủa ông có tuyệt vời đến đâu.
Bản đồ kế tiếp có vẻ tập trung nhiều hơn vào khu vực rừngnúi phía Tây đã được vẽ trên tấm bản đồ thứ nhất. Một lần nữa cha lại thấy dấuchữ X được ghi nơi này nơi kia, đánh dấu những vị trí tương đương những vị trítrên tấm bản đồ thứ nhất. Nhưng xuất hiện một dòng sông nhỏ hơn, chảy ngoằnngoèo qua vùng núi. Và lại không ghi tên địa danh nào. Thầy Rossi đã ghi chúsuốt phía trên tấm bản đồ này: "(Lặp lại câu trích Kinh Khôngran trong tấm bản đồthứ nhất)." Chậc, hồi đó ông ấy cẩn trọng đúng kiểu thầy Rossi mà cha hằng quenbiết. Nhưng dù có thế, những tấm bản đồ này vẫn quá đơn giản, một bản phác thảoquá sơ sài để có thể gợi ra bất kỳ khu vực cụ thể nào đó mà cha đã từng nhìn thấyhoặc từng nghiên cứu. Nỗi chán nản trào dâng trong cha như một cơn sốt, nhưngmột cách khó khăn, cha đã cố nén nó xuống để buộc bản thân tập trung trở lại.
Tấm bản đồ thứ ba sáng sủa hơn, dù đến lúc đó cha vẫn khôngchắc nó có thể cho biết chính xác điều gì. Đường viền tổng quát của nó quả thựclà hình bóng dữ dội mà cha đã quen thuộc trong hai cuốn sách có hình con rồngcủa cha và thầy Rossi, dù vậy cha hẳn không thể nhận ra ngay nếu không đượcthầy Rossi tiết lộ chi tiết này. Tấm bản đồ cũng cho thấy cùng một vùng núi nonvẽ bằng hình tam giác. Trong tấm này đã thể hiện chúng rất cao, tạo thành nhữngđỉnh san sát nhau theo hướng Bắc- Nam, một dòng sông uốn khúc chảy qua vùng núivà đến cuối nở rộng ra thành một cái gì đó giống như một hồ chứa. Đó có thể làhồ Snagov của Rumani như các truyền thuyết nói về nơi chôn cất Dracula đã gợiý, tại sao không? Nhưng, như thầy Rossi đã ghi chú, không có hòn đảo nào ở chỗdòng sông nở rộng, và dù sao chăng nữa nơi đó trông cũng không giống một cáihồ. Những dấu X một lần nữa lại xuất hiện, lần này được ghi chú bằng những mẫutự Cyrillic nhỏ li ti. Cha nghĩ rằng đó là các tên làng mà thầy Rossi đã đềcập.
Giữa những tên làng rải rác này cha thấy có một hình vuông,được thầy Rossi ghi chú: "(Chữ Ả- rập) Hầm Mộ Tội Lỗi của Kẻ Tiêu Diệt NgườiThổ." Phía trên hình vuông này là một con rồng nhỏ, được vẽ khá đẹp, trên đầunó là hình một lâu đài, ở phía dưới cha còn đọc được nhiều chữ Hy Lạp khác,thầy Rossi đã dịch chúng sang tiếng Anh: "Ở nơi chốn này, hắn bị giam giữ trongcái ác. Hỡi độc giả, bằng một lời, hãy đào mồ hắn lên." Những dòng chữ này cómột sức hấp dẫn lạ lùng, giống như một câu thần chú, cha đã kịp ngậm chặt môilại khi vừa định mở miệng đọc to từng từ ấy. Tuy nhiên, như những vần thơ maquái, trong một thoáng chốc, chúng nhảy múa điên cuồng trong đầu óc cha.
Cha đặt cả ba tấm bản đồ qua một bên. Thật khủng khiếp khinhìn thấy chúng ở đó, chính xác như thầy Rossi đã mô tả, càng lạ lùng hơn khichúng không phải bản gốc mà chỉ là những bản sao do chính tay thầy vẽ ra. Rốtcuộc, cha phải lấy gì để chứng minh với mình rằng ông ấy đã không dựng lên mọichuyện và vẽ ra những tấm bản đồ này như một trò chơi khăm đây? Cha chẳng hề cótư liệu gốc nào về vấn đề này, ngoại trừ những lá thư của ông ấy. Cha nhịp nhịpngón tay lên mặt bàn. Đêm nay, đồng hồ trong phòng làm việc của cha hình như gõnhịp to một cách bất thường, và thứ bóng tối chập choạng của chốn thành thị cóvẻ như vẫn ở sau bức màn che cửa sổ. Từ nhiều giờ qua, cha đã không có gì bỏbụng và đôi chân bắt đầu đau nhức, nhưng bây giờ chưa phải là lúc nghỉ ngơi,cha liếc vội vào tấm bản đồ đường sá vùng Balkan, nhưng không thấy có dấu hiệubất thường nào, có vẻ như vậy - chẳng hạn như các ghi chú bằng tay. Tập quảngcáo về nước Rumani cũng không có gì đặc sắc, ngoại trừ thứ tiếng Anh kỳ cục intrên đó, chẳng hạn như "Hãy thưởng thức miền quê trù phú và kinh hoàng củachúng tôi". Những thứ duy nhất còn lại chưa được xem đến là các ghi chú viếttay của thầy Rossi và bao thư nhỏ được niêm kín mà cha đã để ý ngay khi vừa lậtqua những trang giấy đầu tiên. Vì bì thư đó được niêm lại nên cha đã định sẽxem xét nó sau cùng, nhưng cha không còn chờ đợi được nữa. Tìm con dao rọc giấygiữa đống giấy tờ trên bàn viết, cha cẩn thận mở niêm phong, rút ra một tờ giấydùng để viết thư.
Lại là tấm bản đồ thứ ba, với hình dạng con rồng, dòng sônguốn khúc, những đỉnh núi nhô cao nhọn hoắt và san sát như răng cưa. Nó cũngđược vẽ lại bằng mực đen, như bản sao của thầy Rossi, nhưng nét vẽ có phần hơikhác biệt - một bản sao chép rõ ràng nhưng khi nhìn kỹ có phần khó đọc, cổ xưa,hơi cầu kỳ. Cha đã phải chuẩn bị sẵn tinh thần sau khi đọc lá thư của thầyRossi để không bất ngờ khi nhìn thấy một bản khác với phiên bản đầu tiên củatấm bản đồ rồi mới phải, nhưng nó vẫn khiến cha choáng váng như thể vừa bịgiáng cho một đòn: phía trên ngôi mộ giống như một chiếc hộp và con rồng vệ sĩlà những con chữ viết theo hình vòng cung: BARTOLOMEO ROSSI.
Cha dẹp hết các giả định, nỗi sợ hãi, những kết luận này nọvà ép mình bỏ tờ giấy qua một bên để đọc các trang ghi chú của thầy Rossi. Haitrang đầu dường như đã được ông ghi trong trung tâm lưu trữ tư liệu tại Oxfordvà Thư viện Bảo tàng Anh quốc, và không cho cha biết thêm được gì. Có một bảntóm tắt ngắn về cuộc đời và sự nghiệp của Vlad Dracula, một danh sách một sốtài liệu văn học và lịch sử thuộc nhiều thế kỷ khác nhau trong đó có đề cập đếnDracula. Tiếp đó là một trang khác, ghi trên một tờ giấy khác, và được ghi hômsau chuyến đi của ông đến Istanbul. "Khôi phục lại theo trí nhớ," những dòngchữ tháu viết tay nhưng cẩn thận, và cha nhận ra hẳn chúng phải là các ghi chúmà ông ấy đã ghi ra giấy sau trải nghiệm trong trung tâm lưu trữ ở Istanbul,lúc ông phác thảo lại những tấm bản đồ ấy theo trí nhớ trước khi rời nơi chốnđó để đến Hy Lạp.
Các ghi chú này cũng liệt kê danh sách những tài liệu có từthời Quốc vương Mehmed II mà thư viện Istanbul đang lưu trữ - ít nhất là nhữnggì thầy Rossi cho là có liên quan với công trình nghiên cứu của ông - ba tấmbản đồ, những cuộn giấy ghi chép tiền nong từ những cuộc chiến của ngườiCarpates chống lại đế quốc Ottoman, sổ cái hàng hóa mua bán giữa những thươngnhân Ottoman ở vùng ven khu vực đó. Đối với cha, có vẻ như chẳng có tài liệunào có ý nghĩa rõ ràng; nhưng cha băn khoăn tự hỏi, chính xác vào thời điểm nàocông việc của thầy Rossi đã bị tên quan chức xấu xa làm gián đoạn. Liệu nhữngcuốn ghi chép và sổ cái giao dịch mua bán mà ông đề cập đến ở đây có thể chứađựng manh mối nào liên quan đến cái chết hoặc việc chôn cất Vlad Ţepeş không?Liệu thầy Rossi thực sự đã xem xét thấu đáo tất cả các tư liệu chưa, hay chỉ cóđủ thời gian để lập danh sách khả năng có thể xảy ra trong trung tâm lưu trữtrước khi bị làm cho quá sợ hãi mà tránh xa nơi đó?
Còn một mục cuối trong danh sách liệt kê đó, và đề mục nàyđã khiến cha ngạc nhiên, vì vậy cha nấn ná lại với nó một lúc lâu. "Thư mục,Giáo đoàn Rồng (hình thức cuộn giấy không hoàn chỉnh)." Dòng chữ ghi vội nàylàm cha vừa ngạc nhiên vừa ngần ngại vì nó quá mơ hồ. Thông thường thầy Rossighi chú rất rõ ràng và chú giải đầy đủ; chú giải, thầy thường nhấn mạnh, mới làý nghĩa của việc ghi chép. Thư mục mà ông đề cập đến một cách vội vã như vậy cóphải là danh sách mà thư viện đã lập để ghi lại tất cả tư liệu có liên quan đếnGiáo đoàn Rồng mà họ cất giữ? Nếu vậy, tại sao ông lại ghi "Hình thức cuộn giấykhông hoàn chỉnh"? Đó hẳn phải là một tài liệu cổ xưa, cha nghĩ - có thể là mộttài liệu từ thời Giáo đoàn Rồng mà thư viện hiện lưu giữ? Liệu thư mục đó, dùlà gì, có thực sự không liên quan đến công việc nghiên cứu của ông ấy?
Có vẻ như việc trầm ngâm với một tư liệu mơ hồ mà thầy Rossiđã xem xét cẩn thận cách nay quá lâu khó có thể là con đường trực tiếp dẫn đếnsự kiện ông ấy mất tích, cha chán nản buông tờ giấy xuống, đột nhiên cảm thấymệt mỏi vì tính vớ vẩn, không đâu vào đâu của việc tìm tòi này. Cha khao khátnhững câu trả lời. Ngoại trừ việc chưa nói rõ những điều ẩn chứa trong các cuộngiấy ghi chép tiền nong, trong các sổ cái, và trong cái thư mục cổ đó, còn lạithầy Rossi đã chia sẻ cặn kẽ với cha các khám phá của ông. Nhưng đó là bản tínhông ấy, ngắn gọn và súc tích; hơn nữa, ông đã rất hào phóng, nếu có thể nói nhưvậy, khi giải thích ý mình trong nhiều trang thư. Tuy vậy, cha chưa biết gìnhiều, ngoại trừ những gì phải thực hiện kế tiếp. Chiếc phong bì lúc này đãhoàn toàn trống rỗng, và sau khi đọc xong những tài liệu cuối cùng trong đó,cha vẫn chẳng biết được gì nhiều hơn những gì đã biết được từ những lá thư củaông ấy. Cha cũng nhận ra là mình phải hành động càng nhanh càng tốt. Cha đãtừng quen thức suốt đêm rồi, và trong vòng một giờ nữa, có thể cha sẽ tập hợplại những gì mà thầy Rossi đã nói về những mối đe dọa đối với mạng sống củathầy, lúc thầy nhận diện được chúng.
Cha đứng dậy, các khớp xương kêu rắc rắc, và bước vào cănbếp nhỏ ảm đạm để nấu một ít xúp. Khi lục tìm một cái nồi sạch, cha nhận thấychú mèo mình nuôi vẫn chưa vào ăn tối, cha vẫn thường ăn chung bữa với nó. Chakhông xích nó, và cha ngờ là ngoài cha ra cu cậu còn có những tình yêu khác.Nhưng thường cứ đến giờ ăn tối nó sẽ có mặt ở khung cửa sổ nhỏ trong bếp, nhôđầu vào ô cửa thoát hiểm hỏa hoạn báo cho cha biết nó đang chờ đợi suất ăn củamình, sẽ là một hộp cá ngừ hoặc một đĩa cá mòi khi nào cha nổi hứng vung tayquá trán. Cha rất thích lúc nó nhảy xuống sàn căn hộ buồn tẻ của cha, duỗi lưngvà kêu meo meo trìu mến. Nó thường nằm nghỉ một lát sau khi ăn, ngủ ở đầu ghếsofa hoặc giương mắt nhìn cha ủi đồ. Đôi lúc cha nghĩ mình thấy được trong đôimắt vàng tròn xoe của nó vẻ trìu mến dịu dàng, mặc dù đó có thể cũng là vẻthương hại cha. Nó khỏe mạnh và mập mạp, bộ lông mềm với hai màu trắng đen. Chagọi nó là Rembrandt. Nghĩ đến nó, cha nhấc tấm rèm, đẩy cánh cửa sổ lên và cấttiếng gọi, chờ nghe tiếng bước chân mèo khẽ khàng trên bậu cửa sổ. Cha chỉ nghetiếng xe cộ xa xa, vọng đến từ trung tâm thành phố. Cha cúi đầu xuống nhìn rangoài.
Hình dạng của nó chiếm hết cả khoảng trống, kỳ dị, tựa nhưnó đã lăn xuống đó khi đang đùa chơi rồi cứ thế rũ mình xuống. Nhẹ nhàng lôi nóvào phòng bếp bằng đôi bàn tay run rẩy, cha nhận ra ngay xương sống nó đã gãy,đầu oặt xuống một cách kỳ dị. Hai mắt của Rembrandt mở to hơn cả lúc còn sống,hai môi bạnh ngược ra sau như đang gầm gừ sợ hãi, móng hai chân trước xòe rộngra. Nhìn thấy cha liền biết ngay nó không thể bị ngã xuống đó, chính xác là nhưvậy, từ ngưỡng cửa sổ nhỏ hẹp kia. Phải có một bàn tay rất to, rất khỏe mới cóthể giết được một con vật như vậy - cha sờ vào bộ lông mềm nhũn của Rembrandt,cơn giận dữ dâng trào bên dưới nỗi kinh hoàng - và thủ phạm chắc hẳn đã bị càocắn dữ dội. Nhưng rõ ràng anh bạn của cha không còn nữa. Cha nhẹ nhàng đặt nóxuống sàn bếp, phổi cha ngùn ngụt hơi căm giận, trước khi nhận ra cơ thể của nóvẫn còn ấm.
Cha đi vòng khắp nhà, đóng và gài chốt các cửa sổ, rồi quaycuồng suy nghĩ tiếp theo phải làm gì. Làm sao có thể tự bảo vệ mình? Tất cả cáccửa sổ đều đã khóa, cửa ra vào đã chốt hai lần. Nhưng cha biết gì về những nỗikinh hoàng đến từ quá khứ cơ chứ? Chúng len lỏi vào phòng như sương mù, luồnphía dưới các cánh cửa? Hay phá tung cửa sổ rồi vụt hóa thành một hình hài nàođó? Cha nhìn quanh để tìm vũ khí. Cha không có súng - nhưng súng không bao giờđánh bại được Bela Lugosi, như trong các phim ma cà rồng, trừ phi người anhhùng được trang bị một viên đạn bạc đặc biệt. Thầy Rossi đã khuyên gì nhỉ? "Tôisẽ không đi quanh với mấy củ tỏi trong túi, không." Và cũng còn một điều gìkhác nữa: "Tôi chắc chắn anh sẽ mang theo lòng tốt, ý thức đạo đức, anh muốngọi nó là gì cũng được - dầu sao chăng nữa, tôi muốn nghĩ rằng hầu hết mọingười chúng ta đều có thể làm được chuyện này."
Cha đi tìm một chiếc khăn sạch trong một hộc tủ bếp, nhẹnhàng quấn quanh xác anh bạn Rembrandt rồi đặt vào phòng trước. Cha sẽ chôn nóngày mai, nếu như có ngày mai bình thường như mọi ngày. Cha sẽ đào hố chôn nó ởsân sau tòa nhà chung cư - thật sâu, để chó không bới lên được. Thật khó mànghĩ đến việc ăn uống lúc này, nhưng cha cũng làm một bát xúp và cắt một látbánh mì.
Sau đó, cha lại ngồi xuống bàn, dọn dẹp và xếp mớ giấy tờcủa thầy Rossi gọn gàng trở lại vào chiếc phong bì. Cha đặt cuốn sách có hìnhcon rồng bí ẩn chặn lên phía trên, cẩn thận không để phong bì rơi xuống đất.Trên cùng, cha còn đặt dằn lên một tác phẩm kinh điển của Hermann: cuốn GoldenAge of Amsterdam - Thời vàng son của Amsterdam, một trong những cuốn sách chavẫn ưa thích lâu nay. Cha mở các ghi chú luận án ra giữa bàn làm việc và đặtdựng đứng phía trước mặt một cuốn sách nhỏ nói về các phường hội thương nhântại Utrecht, một bản in lại cha mượn ở thư viện về nhưng vẫn chưa đọc kỹ. Chađặt đồng hồ đeo tay bên cạnh, và thoáng rùng mình với những cảm giác mê tín khithấy đồng hồ chỉ mười hai giờ kém mười lăm. Ngày mai, cha tự nhủ, mình sẽ đếnthư viện đọc ngay lập tức bất kỳ tài liệu nào có thể tìm được ở đó, và có thểgiúp trang bị cho mình trong những ngày sắp tới. Cũng chẳng thiệt hại gì khibiết nhiều hơn về những cây cọc bằng bạc, hoa tỏi và thánh giá, nếu chúng đã lànhững phương tiện được người nông dân dùng để chống lại ma cà rồng nhiều thế kỷnay. Tối thiểu, điều này cũng cho thấy có một niềm tin trong truyền thống. Đếnbây giờ, cha chỉ có lời khuyên của thầy Rossi, nhưng ông ấy chưa bao giờ làmcha thất vọng trong khả năng quyền hạn của ông. Cha nhặt cây bút lên và chúiđầu vào tập sách mỏng.
Chưa bao giờ cha thấy khó tập trung như vậy. Từng tế bàothần kinh của cha hình như đều trong tình trạng cảnh giác cao độ với một kẻđang hiện diện bên ngoài, nếu có kẻ đó, tựa như chính đầu óc chứ không phải làđôi tai cha có thể nghe được tiếng hắn đang chạm vào cửa sổ. Cha nỗ lực tậptrung tư tưởng vào Amsterdam, 1690. Cha viết được một câu, rồi một câu nữa. Bốnphút trước nửa đêm. "Tìm thêm vài giai thoại về cuộc sống của các thủy thủ HàLan," cha ghi lên giấy. Cha nghĩ đến các thương nhân, họ đã liên kết với nhauthành các phường hội từ thời xa xưa để chọn lọc ra từ cuộc sống và hàng hóa củamình những gì tốt đẹp nhất có thể, ngày này qua ngày khác hành động theo ý thứctrách nhiệm khá đơn giản của mình, sử dụng một phần tiền thặng dư để xây bệnhviện cho người nghèo. Hai phút trước lúc nửa đêm, cha ghi lại tên tác giả quyểnsách nhỏ, để sau này xem lại. "Khám phá ý nghĩa của ngành in báo thành phố đốivới giới thương nhân," cha ghi chú.
Kim chỉ phút trên đồng hồ đột ngột giật lên, cha cũng giậtmình theo. Mười hai giờ đúng. Cha nhận ra, các nhà in báo chắc hẳn vô cùng quantrọng, cha ngồi yên đó, vừa nghĩ vừa cố ép mình không nhìn ra phía sau, đặcbiệt nếu các phường hội kiểm soát được một số trong đó. Liệu có thể họ đã muaquyền kiểm soát, hoặc mua quyền sở hữu một số nhà in? Chủ các nhà in có ở trongphường hội nào không? Quan điểm tự do báo chí của giới trí thức Hà Lan trongbối cảnh đó liên quan như thế nào với quyền sở hữu báo chí? Trong một khoảnhkhắc, cha cảm thấy quan tâm hơn, mặc dù bản thân không muốn, và cố gắng nhớ lạinhững gì đã đọc về thuở sơ khai của ngành xuất bản tại Amsterdam và Utrecht.Đột nhiên cha cảm thấy không gian như lắng đọng lại thành một sự tĩnh lặngtuyệt đối, rồi căng thẳng chợt vỡ òa. Cha liếc nhìn đồng hồ. Ba phút sau nửađêm. Cha lại thở bình thường và cây bút cũng lướt nhẹ nhàng trên trang giấy.
Hóa ra cái thứ - bất kể đó là gì - đang lén lút theo đuổicha không thông minh tài giỏi như cha vốn lo sợ, cha nghĩ, thận trọng khôngngắt quãng việc đang làm. Dường như con ma cà rồng đó chỉ nhìn các biểu hiệnbên ngoài, mà cha thì có vẻ đã lưu ý đến lời cảnh cáo thông qua chú mèoRembrandt và trở lại ổn định làm công việc thường lệ của mình. Cha sẽ không thểgiấu được hành động thật sự của mình lâu dài, nhưng tối hôm nay thì bề ngoàicủa cha là phương tiện bảo vệ duy nhất mà cha có được. Cha chuyển chiếc đèn lạigần hơn và làm vẻ chú tâm hơn với chủ đề thế kỷ mười bảy thêm một giờ nữa, đểlàm đậm thêm ấn tượng của nó về một kẻ đang miệt mài với công việc. Trong lúcgiả vờ viết lách, cha lý luận với chính mình. Mối đe dọa cuối cùng đến với thầyRossi, vào năm 1931, chính là tên ông trên vị trí Hầm Mộ của Vlad Kẻ XiênNgười. Hai đêm trước đây, người ta không thấy thầy Rossi nằm chết trên bàn làmviệc, như cha vừa mới có thể bị nếu không cẩn thận. Người ta cũng không pháthiện ông ấy bị đả thương trong hành lang, như Hedges. Ông ấy đã bị bắt cóc. Lẽdĩ nhiên, ông ấy có thể đang nằm chết ở một nơi nào đó, nhưng cho đến khi chắcchắn biết được điều đó, cha phải hy vọng ông ấy vẫn còn sống. Bắt đầu từ ngàymai, cha sẽ tự mình tìm hầm mộ đó.
Ngồi trên pháo đài cổ đó của nước Pháp, cha tôi đăm đăm nhìnra biển, thay vì nhìn vào khoảng trời giữa những ngọn núi ở tu viện ThánhMatthieu và ngắm nhìn cánh chim đại bàng chao lượn. "Trở về khách sạn thôi, conạ," sau cùng cha nói. "Ngày đã trở nên ngắn hơn rồi, con có để ý không? Chakhông muốn bị bắt ở đây sau khi mặt trời lặn."
Trong cơn nôn nóng, tôi đã bạo gan nêu ra một câu hỏi thẳngthừng. "Bắt ư?"
Cha liếc nhìn tôi, vẻ nghiêm trọng, tựa như đang cân nhắcnhững rủi ro đến từ câu trả lời mình có thể đưa ra. "Đường rất dốc," cuối cùngcha nói. "Cha không muốn phải tìm đường trở về trong đêm tối giữa các lùm câykia. Con cũng vậy chứ?" Nhưng tôi thấy nếu thế thật thì cha cũng đủ gan thôi.
Tôi nhìn xuống rừng cây ô liu, lúc này đã ngả màu xám trắngthay vì màu hồng bạc. Cây nào cũng vặn vẹo, như muốn vươn lên cao, hướng lêncái pháo đài phế tích kia, dù sao chăng nữa cũng từng một thời đứng canh gáccho chúng - hoặc tổ tiên chúng - khỏi những ngọn đuốc của bọn Saracen 1."Không," tôi trả lời, "con cũng không muốn."
Chú thích
1 Saracen: dân du mục ở vùng sa mạc bán đảo Ả- rập; ở đây ámchỉ quân Ả- rập Hồi giáo thời kỳ Thập tự Chinh.
Truy Tìm Dracula Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova Truy Tìm Dracula