Chương 12
a là Balenciaga Wren.
Nghe thấy những lời này cũng giống như mở nút một cái chai khí nén. Ban đầu là cảm giác nhẹ nhõm – những tiếng kêu thảng thốt, tiếng cười rúc rích – và sau đó là niềm vui tuôn trào: Emma và tôi nhảy lên ôm chầm lấy nhau; Horace quỳ gối xuống và giơ cao hai cánh tay như muốn thốt lên Ơn Chúa! không thành tiếng. Olive phấn khích tới mức bay vút lên không dù vẫn đi đôi giày trọng lực, lắp bắp, “Chúng… chúng… chúng cháu cứ tưởng sẽ không… không bao giờ được thấy một Chủ Vòng nữa… nữa!”
Cuối cùng thì cô Wren đây rồi. Mấy ngày trước, với chúng tôi bà chỉ là một Chủ Vòng không mấy tiếng tăm của một Vòng Thời Gian ít được biết đến, nhưng sau đó bà đã dần trở thành một huyền thoại: theo những gì chúng tôi biết, bà là Chủ Vòng cuối cùng còn sống và tự do, một biểu tượng sống của hy vọng, thứ tất cả chúng tôi đang khao khát. Và bà đây, ngay trước mặt chúng tôi, bằng xương bằng thịt và yếu ớt. Tôi nhận ra bà từ bức ảnh của Addison, chỉ có điều giờ đây không còn chút màu đen nào lưu lại trên mái tóc bạc trắng của bà, ôm lấy hai khóe miệng bà như những dấu ngoặc đơn, còn đôi vai bà còng xuống như thể bà không chỉ già, mà còn bị đè nén dưới một gánh nặng ghê gớm; sức nặng của tất cả niềm hy vọng khổ sở từ chúng tôi dồn hết lên bà.
Bà Chủ Vòng kéo mũ trùm áo khoác của mình lên trở lại và nói, “Ta cũng rất mừng khi được gặp các cháu, các cháu thân mến, nhưng các cháu cần vào trong ngay lập tức; ở ngoài này không an toàn.”
Bà quay người tập tễnh bước vào trong hành lang. Chúng tôi xếp thành hàng, lạch bạch bước đi sau lưng bà qua đường hầm xuyên trong băng như một bầy vịt con đi theo mẹ, chân trơn trượt, hai cánh tay dang ra vụng về giữ thăng bằng để tránh trượt ngã. Đó chính là ảnh hưởng của một Chủ Vòng lên những đứa trẻ đặc biệt: chỉ nguyên sự hiện diện của một người – thậm chí là một người chúng tôi mới vừa gặp – cũng lập tức làm chúng tôi thấy an tâm.
Nền dưới chân dốc dần lên, dẫn chúng tôi đi qua những chiếc lò im ắng bám đầy sương giá, vào một căn phòng rộng, cả căn phòng, từ sàn tới trần, từ tường bên này qua tường bên kia, đều đóng băng cứng, ngoại trừ đường hầm chúng tôi đang đi, được trổ qua chính giữa khối băng. Lớp băng dày nhưng trong suốt, và đôi chỗ tôi có thể nhìn sâu đến sáu hay chín mét vào trong lớp băng mà hình ảnh chỉ hơi bị méo đi một chút. Căn phòng có vẻ là một nơi tiếp đón, từng hàng ghế lưng thẳng kê đối diện với một cái bàn làm việc đồ sộ và vài chiếc tủ đựng hồ sơ, tất cả đều chìm trong hàng tấn băng. Ánh sáng ban ngày màu xanh được lọc qua băng chiếu vào qua một dãy ô cửa sổ không thể với tới, bên kia chúng là đường phố, một đám xám mờ nhòa nhòa.
Một trăm con hồn rỗng có thể bỏ ra cả tuần công phá lớp băng đó mà vẫn chưa thể với tới chúng tôi. Nếu không tính tới lối vào qua đường hầm, nơi này có thể coi là một pháo đài hoàn hảo. Hoặc vậy, hoặc một nhà tù hoàn hảo.
Trên các bức tường treo hàng chục chiếc đồng hồ, những chiếc kim bất động của chúng chỉ đủ loại thời điểm khác nhau. (Có lẽ để theo dõi thời gian tại các Vòng khác nhau chăng?) Phía trên chúng, các biển chỉ đường hướng dẫn tới một số phòng làm việc:
PHÓ THƯ KÝ SỰ VỤ TẠM THỜI
PHÒNG LƯU TRỮ CÁC HỒ SƠ ĐỒ HỌA
CÁC VẤN ĐỀ KHẨN CẤP CHUNG
BAN LÀM HOANG MANG VÀ TRÌ HOÃN
Qua cánh cửa dẫn vào văn phòng Sự vụ Tạm thời, tôi thấy một người đàn ông bị kẹt trong băng. Ông ta bị đông cứng trong tư thế cúi rạp xuống, như thể đang cố gỡ chân ra khi băng bao trùm lên phần còn lại của người mình. Người đàn ông đã ở đó một thời gian dài. Tôi rung mình và nhìn đi chổ khác.
Đường hầm kết thúc tại một cầu thang lạ lùng có lan can, không hề bị đóng băng nhưng phủ đầy những tờ giấy rời. Một cô gái đứng trên một trong các bậc thấp nhất, quan sát chúng tôi dò dẫm trơn trợt lại gần không chút hào hứng. Cô gái có mái tóc dài được rẽ ngôi giữa một cách nghiêm chỉnh và dài xuống tận hông, liên tục điều chỉnh đôi kính mắt tròn nhỏ, và đôi môi mỏng dính có vẻ như chưa bao giờ uốn cong lên thành nụ cười lấy một lần.
“Althea!” cô Wren nghiêm khắc nói. “Em không được phép lang thang ra ngoài thế này trong khi lối vào đang mở - bất cứ ai cũng có thể lọt vào tận đây!”
“Vâng, thưa cô phụ trách,” cô gái nói, sau đó hơi gật đầu.
“Họ là ai vậy, thưa cô?”
“Đây là những người do cô Peregrine quản lý. Ta đã kể với em về họ rồi đấy.”
“Họ có mang theo một chút thức ăn nào không ạ?” Hay là thuốc? Hay bất cứ thứ gì hữu dụng?” Cô gái nói thật chậm chạp như chì chiết, giọng nói của cô cũng nặng nề hệt như vẻ mặt.
“Không thêm câu hỏi nào nữa cho tới khi em đã đóng lối vào lại,” cô Wren nói. “Giờ thì khẩn trương lên!”
“Vâng, thưa cô,” cô gái nói, và không có vẻ gì là khẩn trương, cô ta kiêu kỳ bước đi theo đường hầm, vừa đi vừa đưa hai bàn tay cà lên các vách tường băng.
“Rất xin lỗi về chuyện đó,” cô Wren nói. “Althea không cố ý tỏ ra cứng đầu; chỉ đơn giản là nó sinh ra đã bướng bỉnh. Song cô bé khiến lũ sói phải dè chừng, và chúng ta rất cần cô bé. Chúng ta sẽ chờ ở đây cho tới khi cô bé quay lại.”
Cô Wren đứng ở bậc thang dưới cùng, và trong khi bà cúi người xuống, tôi gần như có thể nghe thấy những chiếc xương già nua của bà kêu răng rắc. Tôi không biết bà nói khiến lũ sói phải dè chừng là có ý gì, nhưng có quá nhiều câu cần hỏi, vì thế câu đó sẽ phải đợi.
“Cô Wren, làm thế nào bà biết được chúng cháu là ai?” Emma hỏi. “Chúng cháu chưa bao giờ nói ra mà.”
“Đó là việc một Chủ Vòng cần phải biết,” bà đáp. “Ta có những quan sát viên trên cây từ đây tới tận biển Ireland. Và bên cạnh đó, các cháu rất nổi tiếng! Chỉ có một vị Chủ Vòng duy nhất có các học viên an toàn lành lặn thoát được khỏi cuộc tập kích của những kẻ biến chất, đó là cô Peregrine. Nhưng ta không biết bằng cách nào các cháu đi xa được tới tận đây mà chưa bị bắt – và bằng cách nào các cháu tìm được ta trong lãnh địa đặc biệt này!”
“Có một cậu bé ở chỗ lễ hội chỉ đường cho bọn cháu tới đây,” Enoch nói. Cậu ta giơ một bàn tay lên ngang cằm mình. “Cao khoảng từng này thì phải? Và đội một cái mũ ngớ ngẩn ấy ạ?”
“Một trong những người cảnh giới của chúng ta,” cô Wren gật đầu nói. “Nhưng làm thế nào các cháu tìm được cậu ấy?”
“Chúng cháu bắt được một trong những con bồ câu do thám của bà,” Emma nói đầy tự hào,” và nó đã dẫn chúng cháu tới Vòng Thời Gian này.” (Cô lờ đi chuyện cô Peregrine đã giết nó.)
“Những con bồ câu của ta!” Cô Wren thốt lên. “Nhưng làm thế nào các cháu biết được về chúng? Lại còn bắt được một con nữa?”
Thế rồi Millard bước lên trước. Cậu ta đã mượn chiếc áo khoác ngoài Horace lấy từ phòng cải trang để khỏi bị lạnh cóng, và cho dù cô Wren không có vẻ gì ngạc nhiên khi thấy một cái áo khoác lơ lửng trong không khí, bà đã rất kinh ngạc khi cậu nhóc vô hình mặc nó nói, “Cháu suy đoán ra vị trí bầy chim từ Những truyện kể về người đặc biệt, nhưng lần đầu tiên chúng cháu nghe nói đến chúng là ở một trại động vật trên đỉnh núi của bà, từ một con chó rất tự phụ.”
“Nhưng đâu có ai biết vị trí trại động vật của ta!”
Lúc này cô Wren gần như đã quá kinh ngạc để có thể nói nên lời, và vì mỗi câu trả lời chúng tôi cung cấp cho bà chỉ làm nảy ra thêm nhiều câu hỏi, chúng tôi liền kể lại toàn bộ câu chuyện cho bà nghe nhanh hết mức có thể, từ lúc chúng tôi thoát khỏi hòn đảo trên những con thuyền không mui bé tẹo.
“Chúng cháu đã suýt chết đuối,” Olive nói.
“Và bị bắn, bị ném bom, bị hồn rỗng ăn thịt,” Bronwyn nói.
“Và bị một đoàn tàu chạy trong đường hầm cán qua,” Enoch nói.
“Và bị một cái tủ đè bẹp,” Horace nói, cau có nhìn cô gái có năng lực điều khiển từ xa.
“Chúng cháu đã phải đi một chuyến dài qua vùng đất nguy hiểm,” Emma nói, “tất cả để tìm người có thể giúp cô Peregrine. Chúng cháu rất hy vọng người đó có thể là bà, cô Wren.”
“Chúng cháu thực sự trông đợi điều đó,” Millard nói.
Cô Wren phải mất một lúc mới lấy lại được giọng nói, và ngay cả lúc đó, giọng bà vẫn lạc đi vì xúc động. “Các cháu thật can đảm, tuyệt vời. Các cháu chính là phép mầu, mỗi người trong các cháu, và bất cứ Chủ Vòng nào cũng thật may mắn được gọi các cháu là học trò của mình.” Bà dủng tay áo khoác lau nước mắt. “Ta rất buồn khi phải nghe những gì đã xảy ra với cô Peregrine của các cháu. Ta không biết bà ấy rõ lắm, vì ta có thể coi như một người đã nghỉ hưu, song ta hứa với các cháu điều này: chúng ta sẽ cứu bà ấy trở lại. Bà ấy và tất cả các chị em của chúng ta!”
Cứu bà ấy trở lại ư?
Đến lúc đó tôi mới nhớ cô Peregrine vẫn bị nhốt trong cái túi Horace đang cầm. Cô Wren vẫn chưa nhìn thấy bà!
Horace nói, “Sao chứ, bà ấy ở ngay đây mà!” và cậu ta để cái túi xuống, tháo dây buộc.
Một khoảnh khắc sau, cô Peregrine tập tễnh chui ra, choáng váng sau khi trải qua từng ấy thời gian trong bóng tối.
“Có tổ tiên chứng giám!” cô Wren thốt lên. “Nhưng… ta nghe nói bà ấy đã bị đám xác sống bắt đi rồi!”
“Cô ấy đã bị bắt,” Emma nói, “rồi sau đó chúng cháu đã giành lại được cô ấy.”
Cô Wren kích động tới mức bà bước tới mà không dùng gậy chống, và tôi đã phải đỡ lấy khuỷu tay bà để giữ bà khỏi bổ nhào. “Alma, có phải thực là cô đấy không?” Cô Wren nói không kịp thở, và khi thăng bằng trở lại, bà hối hả bước tới nâng cô Peregrine lên. “Này, Alma? Có phải cô trong đó không?”
“Chính là cô ấy!” Emma nói. “Đó chính là cô Peregrine!”
Cô Wren giơ con chim ra xa một tầm cánh tay, xoay nó sang bên này rồi bên kia trong khi cô Peregrine kêu ré lên. “Hừm, hừm, hừm,” cô Wren vừa thở vừa nói, đôi mắt bà nheo lại, môi mím chặt căng thẳng. “Có gì đó không ổn với cô phụ trách của các cháu.”
“Cô ấy bị thương,” Olive nói. “Bị thương ở bên trong.”
“Cô ấy không thể trở lại hình người nữa,” Emma nói.
Cô Wren nghiêm nghị gật đầu, như thể bà đã hình dung ra việc này.
“Đã bao lâu rồi?”
“Ba ngày,” Emma nói. “Kể từ khi chúng cháu cứu cô ấy về từ tay đám xác sống.”
Tôi nói, “Con chó của bà nói với chúng cháu là nếu cô Peregrine không sớm trở lại là người, bà ấy sẽ không bao giờ còn có thể trở lại nữa.”
“Phải,” cô Wren nói. “Addison đã rất đúng về chuyện đó.”
“Con chó cũng nói chỉ một Chủ Vòng khác mới có thể giúp cô ấy,” Emma nói.
“Cái đó cũng đúng.”
“Cô ấy đã thay đổi,” Bronwyn nói. “Cô ấy không còn là chính mình nữa. Chúng cháu cần cô P trước đây trở lại!”
“Chúng ta không thể để chuyện này xảy ra với cô ấy!” Horace nói.
“Vậy thì sao?” Olive nói. “Bây giờ bà có thể làm ơn biến cô ấy thành người được không ạ?”
Chúng tôi đã vây quanh cô Wren và đang gây sức ép với bà, nỗi tuyệt vọng của chúng tôi hiện rõ.
Cô Wren giơ hai bàn tay lên ra hiệu im lặng. “Ta ước gì việc đó đơn giản đến vậy,” bà nói, “hay nhanh chóng đến vậy. Khi một Chủ Vòng ở trong lốt chim quá lâu, bà ấy sẽ trở nên cứng lại, như một bó cơ nguội lạnh. Nếu chúng ta tìm cách cố uốn nắn bà ấy trở lại nguyên hình quá gấp gáp, bà ấy sẽ gãy. Bà ấy cần được nhẹ nhàng chỉnh lại về hình dạng thực của mình; từng chút một như nặn chỉnh đất sét vậy. Nếu ta điều trị cho bà ấy suốt đêm, có thể ta sẽ hoàn tất công việc vào sáng mai.”
“Nếu cô ấy còn nhiều thời gian đến thế,” Emma nói.
“Hãy cầu mong là vậy,” cô Wren nói.
Cô gái tóc dài quay trở lại, chậm rãi bước về phía chúng tôi, đưa hai bàn tay cọ dọc theo vách tường hầm băng. Bất cứ nơi nào hai bàn tay chạm vào, từng lớp băng mới chồng lên nhau lại hình thành. Đường hầm sau lưng cô gái đã hẹp dần lại chỉ còn rộng vài chục phân; chẳng mấy chốc nữa nó sẽ bị bịt lại hoàn toàn, và chúng tôi sẽ bị bưng kín bên trong.
Cô Wren vẫy cô gái tới. “Althea! Chạy lên lầu trước chúng ta và báo y tá chuẩn bị một phòng khám. Ta sẽ cần tới tất cả các phương thuốc ta có!”
“Khi nói tới phương thuốc, ý cô là các dung dịch, nước sắc hay các hỗn dịch của cô ạ?”
“Tất cả!” cô Wren to tiếng. “Và nhanh lên, đây là trường hợp khẩn cấp!”
Thế rồi tôi thấy cô gái để ý tới cô Peregrine, và đôi mắt cô mở to ra một chút – phản ứng rõ rệt nhất tôi từng thấy từ cô gái này trước bất cứ cái gì – rồi cô bắt đầu bước lên cầu thang.
Lần này, cô gái chạy.
***
Tôi cầm lấy tay cô Wren, đỡ bà trong khi chúng tôi leo lên cầu thang. Tòa nhà có bốn tầng, và chúng tôi đang hướng lên tầng cao nhất. Ngoài giếng cầu thang, đây là phần duy nhất của tòa nhà còn có thể tiếp cận được; các tầng khác đều đã bị băng đóng kín, những bức tường băng bịt chặt những căn phòng và hành lang tại đó. Trên thực tế, chúng tôi đang leo lên trong phần lõi rỗng của một tầng băng khổng lồ.
Tôi liếc nhìn vào một vài căn phòng đóng băng trong khi chúng tôi hối hả đi ngang qua chúng. Những trụ băng lớn đã làm các cánh cửa bật tung khỏi bản lề, và giữa những mảnh vỡ của chúng, tôi có thể thấy bằng chứng của một cuộc tấn công: đồ đạc bị hất đổ, ngăn kéo bị giật mở tung, từng đống giấy trắng xóa như tuyết trên sàn. Một khẩu sung máy dựng vào một cái bàn làm việc, chủ nhân của nó bị đông cứng lại trong khi bay trên không. Một người đặc biệt ngồi sụp xuống trong góc, người lỗ chỗ lỗ đạn. Như những nạn nhân của Pompeii, bị cố định lại trong băng thay vì tro.
Thật khó tin nổi một cô gái lại là người gây ra tất cả việc này. Ngoại trừ các Chủ Vòng, Althea hẳn là một trong những người đặc biệt mạnh nhất tôi từng gặp qua. Tôi nhìn lên vừa đúng lúc thấy cô gái biến mất sau chiếu nghỉ phía trên chúng tôi, mái tóc dài lòa xòa sau lưng cô như một dư ảnh mơ hồ.
Tôi bẻ một trụ băng nhỏ khỏi tường. “Cô ấy thực sự đã làm tất cả chuyện này sao?” tôi vừa hỏi vừa xoay xoay nó trong bàn tay mình.
“Đúng thế đấy,” cô Wren vừa nói vừa thở hổn hển bên cạnh tôi. “Cô bé là – đúng hơn, từng là – thực tập sinh của Trưởng Ban Gây Hoang mang Và Trì hoãn, khi bọn biến chất tấn công tòa nhà, cô bé đang ở đây thực hiện nhiệm vụ. Vào lúc ấy, cô bé chưa biết nhiều về năng lực của mình ngoài việc hai bàn tay nó tỏa ra hơi lạnh khác thường. Cứ theo lời Althea kể, năng lực của cô bé là thứ trở nên hữu dụng vào những ngày mùa hè nóng bức, nhưng cô bé chưa bao giờ nghĩ về nó như một vũ khí phòng thủ cho tới khi hai con hồn rỗng bắt đầu ăn thịt người trưởng ban ngay trước mắt nó. Trong cơn hoảng sợ tột độ, cô bé đã vận ra một nguồn sức mạnh trước đó nó không hề biết, làm đông cứng căn phòng – và cả lũ hồn rỗng – rồi sau đó là cả tòa nhà, tất cả chỉ trong có vài phút.”
“Vài phút!” Emma nói. “Cháu không tin.”
“Ta ước gì lúc đó ta có mặt ở đây để chứng kiến việc đó,” cô Wren nói, “dù nếu có mặt, chắc ta cũng đã bị bắt cóc cùng các Chủ Vòng khác có mặt tại đây lúc đó – cô Nightjar, cô Finch và cô Crow.”
“Băng của cô ấy không ngăn được bọn xác sống sao?” tôi hỏi.
“Nó đã chặn được rất nhiều gã trong bọn chúng,” cô Wren nói. “Ta đoán là vài gã vẫn còn ở lại với chúng ta, bị đóng băng trong tòa nhà. Song bất chấp tổn thất, đám xác sống cuối cùng cũng đạt được điều chúng tới tìm kiếm. Trước khi toàn bộ tòa nhà đóng băng, chúng ta đưa được các Chủ Vòng ra ngoài theo mái nhà.” Cô Wren cay đắng lắc đầu. “Ta xin lấy tính mạng thề rằng sẽ có một ngày ta đích thân tống tiễn những kẻ đã làm thương tổn các chị em của ta xuống địa ngục.”
“Vậy là toàn bộ năng lực của cô ấy cũng chẳng ích gì,” Enoch nói.
“Althea đã không thể cứu được các Chủ Vòng,” cô Wren nói, “nhưng cô bé đã tạo ra nơi này, và thế là đáng cảm ơn lắm rồi. Không có nơi này, chúng ta đã chẳng còn chỗ nào trú ẩn nữa. Ta đã dùng tòa nhà làm căn cứ hoạt động của chúng ta trong mấy ngày vừa qua, mang về đây những người còn sống sót từ các Vòng bị tấn công mà ta tìm được. Đây là pháo đài của chúng ta, là nơi duy nhất an toàn cho những người đặc biệt trên toàn London.”
“Thế còn nỗ lực của bà thì thế nào ạ?” Millard hỏi. “Con chó nói bà tới đây để giúp các chị em của mình. Bà có gặp may không?”
“Không,” bà khẽ nói. “Những nỗ lực của ta đã không thành công.”
“Có lẽ Jacob có thể giúp được bà đấy, cô Wren,” Olive nói. “Cậu ấy rất đặc biệt.”
Cô Wren nhìn sang tôi. “Vậy ư? Và năng lực của cậu là gì nào, chàng trai?”
“Cháu có thể thấy lũ hồn rỗng,” tôi nói, hơi bối rối. “Và cảm nhận được chúng.”
“Và đôi khi giết chúng nữa,” Bronwyn nói thêm. “Nếu chúng cháu không tìm thấy bà, cô Wren, Jacob sẽ giúp chúng cháu vượt qua đám hồn rỗng canh giữ các Vòng Trừng Phạt để chúng cháu có thể giải cứu các Chủ Vòng bị giam tại đó. Thực ra, có khi cậu ấy có thể giúp bà…”
“Các cháu thật tốt quá,” cô Wren nói, “nhưng các chị em của ta không phải đang bị giam trong các Vòng Trừng Phạt, hay bất cứ nơi nào gần London, ta biết chắc vậy.”
“Không ư?” tôi hỏi.
“Không, và chưa bao giờ. Câu chuyện về các Vòng Trừng Phạt là một mánh khóe được tung ta để giăng bẫy các Chủ Vòng mà lũ biến chất chưa bắt được trong cuộc tấn công của chúng. Như ta chẳng hạn. Và thiếu chút nữa nó đã thành công. Như một kẻ ngốc, ta lao thẳng vào bẫy của chúng – nói gì thì nói, các Vòng Trừng Phạt là các nhà tù! Thật may là ta đã thoát được, chỉ phải lĩnh vài vết sẹo.”
“Vậy các Chủ Vòng bị bắt đã bị đưa đi đâu ạ?” Emma hỏi.
“Cho dù biết ta cũng sẽ không nói cho các cháu, vì đó không phải là vấn đề của các cháu,” cô Wren nói. “Bổn phận của những đứa trẻ đặc biệt không phải là lo cho an nguy của các Chủ Vòng – chính chúng ta mới phải lo cho an nguy của các cháu.”
“Nhưng thưa cô Wren, như thế thật không công bằng,” Millard bắt đầu, nhưng bà đã cắt ngang cậu ta bằng một câu cụt lủn, “Ta không nghe cự nự gì về chuyện đó!” và tất cả kết thúc tại đây.
Tôi bị sốc trước lời từ chối đột ngột này, đặc biệt khi xem xét đến việc nếu lúc trước chúng tôi không lo lắng cho an nguy của cô Peregrine – và mạo hiểm tính mạng của chúng tôi để đưa bà tới đây! – hẳn bà đã bị kết án phải chịu giam hãm dưới hình hài một con chim suốt phần đời còn lại. Vì thế có vẻ như bổn phận của chúng tôi là phải lo lắng, vì các Chủ Vòng rõ ràng đã không làm đủ tốt việc đảm bảo cho các Vòng Thời Gian của họ khỏi bị tấn công. Tôi không thích bị gạt sang bên như thế, và nếu đánh giá qua đôi lông mày đang nhíu lại của Emma, thì cả cô cũng không – nhưng nói ra thành lời như thế thì quả là thô lỗ đến mức không thể nghĩ tới, vì vậy leo cầu thang xong, chúng tôi rơi vào sự im lặng đầy lúng túng.
Chúng tôi lên tới cầu thang. Chỉ có vài cánh cửa trên tầng này bị đóng băng. Cô Wren đón cô Peregrine từ Horace và nói, “Lại đây nào, Alma, xem xem chúng ta có thể làm gì cho cô nào.”
Althea xuất hiện từ một khung cửa mở, khuôn mặt đỏ ửng, ngực phập phồng. “Phòng của cô đã sẵn sàng, thưa cô phụ trách. Đã có mọi thứ cô yêu cầu.”
“Tốt, tốt,” cô Wren nói.
“Nếu chúng cháu có thể làm bất cứ điều gì để giúp bà,” Bronwyn nói, “bất cứ điều gì…”
“Tất cả những gì ta cần là thời gian và tĩnh lặng,” cô Wren đáp. “Ta sẽ cứu cô phụ trách của các cháu, các cô cậu trẻ tuổi. Lấy tính mạng của ta đảm bảo, ta sẽ làm.” Rồi bà quay đi, mang theo cô Peregrine đi vào phòng với Althea.
Không biết phải làm gì khác, chúng tôi đi theo bà và xúm lại quanh cánh cửa vẫn hơi hé mở. Chúng tôi thay nhau ngó vào trong. Trong một căn phòng ấm cúng được thắp sáng lờ mờ bằng đèn dầu, cô Wren ngồi trong một chiếc ghế bập bênh, ôm cô Peregrine trong lòng. Althea đứng trộn các lọ đựng chất lỏng tại một bàn thí nghiệm. Cứ chốc chốc cô gái lại nhấc một lọ lên và lắc, rồi đi tới chỗ cô Peregrine và đưa cái lọ vào dưới mỏ bà – gần giống như đưa qua đưa lại lọ thuốc muối amoni dưới mũi một người ngất xỉu. Trong suốt thời gian đó, cô Wren đung đưa ghế bập bênh và vuốt ve bộ lông cô Peregrine, hát cho bà một bài hát ru nhẹ nhàng, du dương:
“Eft kaa vangan soorken, eft ka vangan soorken, malaaya…”
“Đó là ngôn ngữ của người đặc biệt cổ xưa,” Millard thì thầm. “Về nhà, về nhà đi… hãy nhớ lấy bản ngã của mình… đại loại như vậy.”
Cô Wren nghe thấy tiếng cậu ta bèn nhìn lên, rồi phẩy tay xua chúng tôi đi. Althea đi tới đóng cửa lại.
“À, thế đấy,” Enoch nói. “Tớ có thể thấy chúng mình không được hoan nghênh tại đây.”
Sau ba ngày cô phụ trách phụ thuộc vào chúng tôi trong mọi việc, đột nhiên chúng tôi lại trở thành người thừa. Cho dù rất biết ơn cô Wren, bà vẫn làm chúng tôi ít nhiều cảm thấy như chúng tôi là những đứa bé con vừa bị bắt phải lên giường đi ngủ.
“Cô Wren biết phải làm gì,” một giọng nói đặc khẩu âm Nga vang lên sau lưng chúng tôi. “Tốt hơn hãy để yên cho cô làm.”
Chúng tôi quay lại thì thấy Người Gấp như que củi ở chỗ lễ hội đang đứng đó, hai cánh tay xương xẩu khoanh lại.
“Là ông!” Emma nói.
“Chúng ta lại gặp nhau,” Người Gấp nói, giọng ông ta trầm trầm như vọng từ lòng đại dương. “Tên tôi là Sergei Andropov, và tôi là chỉ huy đội quân kháng chiến đặc biệt. Lại đây, tôi sẽ dẫn các cô cậu đi xem nơi này.”
***
“Tôi biết ngay ông ấy là người đặc biệt mà!” Olive nói.
“Không, cậu biết cái gì,” Enoch nói. “Cậu chỉ nghĩ ông ta đặc biệt thôi.”
“Tôi biết các cô cậu là những người đặc biệt ngay khi nhìn thấy các cô cậu,” Người Gấp nói. “Đáng lẽ các cô cậu phải bị bắt từ lâu rồi mới đúng, làm thế nào thoát được vậy?”
“Vì chúng cháu khôn,” Hugh nói.
“Ý cậu ấy là may mắn,” tôi nói.
“Nhưng chủ yếu là đói,” Enoch nói. “Ở đây có đồ ăn không ạ? Cháu có thể chén hết tất cả một con bán lừa cao cổ.”
Nghe nói tới thức ăn, dạ dày tôi sôi lên như một con thú hoang. Chưa ai trong chúng tôi được ăn gì từ sau chuyến tàu tới London, thời điểm đó có vẻ như hàng thiên niên kỷ trước rồi.
“Tất nhiên,” Người Gấp nói. “Lối này.”
Chúng tôi bước sau ông ta đi theo hành lang.
“Vậy hãy cho cháu biết về đội quân đặc biệt này của ông nào,” Emma nói.
“Chúng ta sẽ nghiền nát đám xác sống và giành lại những gì thuộc về chúng ta. Trừng phạt chúng vì đã bắt cóc các Chủ Vòng của chúng ta.” Người đàn ông mở một cánh cửa ra ngoài hành lang, dẫn chúng tôi qua một phòng làm việc đổ nát, trong đó nhiều người nằm ngủ dưới sàn nhà và dưới gầm các bàn làm việc. Khi chúng tôi bước đi vòng quanh họ, tôi nhận ra vài khuôn mặt tại lễ hội: cậu bé có khuôn mặt bình thường, cô gái thôi miên trăn có mái tóc uốn quăn.
“Họ đều là những người đặc biệt sao?” tôi hỏi.
Người Gấp gật đầu. “Được cứu về từ các Vòng khác,” ông ta nói, giữ một cánh cửa mở ra để chúng tôi vào.
“Thế còn ông?” Millard hỏi. “Ông từ đâu tới?”
Người Gấp dẫn chúng tôi vào một phòng chờ, để chúng tôi có thể trò chuyện mà không quấy rầy những người đang ngủ, một căn phòng trong đó nổi bật hai cánh cửa gỗ đồ sộ khảm biểu tượng của hàng chục loài chim. “Ta đến từ vùng đất hoang đầy tuyết lạnh lẽo, còn xa hơn vùng Hoang Vu Băng Giá,” ông kể. “Mấy trăm năm trước, khi đám hồn rỗng đầu tiên ra đời, chúng tấn công nhà của ta trước nhất. Mọi thứ bị phá hủy. Tất cả mọi người trong làng bị giết. Bà già. Trẻ nhỏ. Tất cả.” Ông vung bàn tay chém không khí. “Ta trốn trong thùng đánh kem để làm bơ, thở qua một cọng rơm, trong khi em trai ta bị giết ngay trong nhà ta. Sau đó, ta tới London để trốn khỏi bọn hồn rỗng. Nhưng chúng lại tới.”
“Thật kinh khủng,” Bronwyn nói. “Cháu xin chia buồn với ông.”
“Rồi một ngày chúng ta sẽ báo thù,” người đàn ông nói, mặt tối sầm.
“Ông đã nói thế rồi,” Enoch lên tiếng. “Vậy đội quân của ông có bao nhiêu người?”
“Ngay lúc này là sáu,” người đàn ông nói, chỉ tay về phía căn phòng chúng tôi vừa rời khỏi.
“Sáu người ư?!” Emma nói. “Ý ông là… họ?”
Tôi không biết nên cười hay nên khóc nữa.
“Thêm các cháu nữa sẽ là mười bảy. Chúng ta lớn mạnh rất nhanh.”
“Ái chà, ái chà, ái chà,” tôi thốt lên. “Chúng cháu không tới đây để gia nhập bất cứ đội quân nào hết.”
Người Gấp dành cho tôi một cái nhìn có thể khiến địa ngục cũng phải đông cứng, rồi quay đi và mở hai cánh cửa ra.
Chúng tôi theo ông ta vào một căn phòng, trong đó chiếm vị trí nổi bật là một chiếc bàn đồ sộ hình bầu dục, mặt bàn bằng gỗ được đánh bóng như gương. “Đây là nơi họp Hội đồng Chủ Vòng Thời Gian,” Người Gấp nói.
Khắp quanh chúng tôi là chân dung những người đặc biệt nổi tiếng thời xưa, không phải là những bức tranh lồng khung mà được vẽ trực tiếp lên các bức tường bằng sơn dầu, than chì và chì sáp. Bức chân dung gần chỗ tôi đứng nhất là một khuôn mặt với đôi mắt mở to nhìn chăm chăm và cái miệng há to, bên trong là một vòi phun nước thực sự có thể hoạt động được. Quanh cái miệng là một câu đề từ viết bằng tiếng Hà Lan, Millard đang đứng cạnh tôi bèn dịch ra: “Từ miệng các tiền bối của chúng ta tuôn ra một nguồn trí tuệ.”
Gần đó là một câu đề từ khác, lần này bằng tiếng La Tinh. “Ardet nec consomitur,” Melina đọc. “Bị thiêu đốt nhưng không bị phá hủy.”
“Thật hợp làm sao,” Enoch nói.
“Tớ không thể tin nổi mình đang thực sự ở đây,” Melina nói. “Tớ đã nghiêng cứu và mơ về nơi này suốt bao nhiêu năm.”
“Nó chỉ là một căn phòng,” Enoch nói.
“Với cậu thì có thể. Với tôi, nó là trái tim của cả thế giới người đặc biệt.”
“Một trái tim đã bị móc ra ngoài,” ai đó mới xuất hiện lên tiếng, tôi bèn đưa mắt nhìn quanh thì thấy một anh hề đang sải bước về phía chúng tôi – cũng chính là người đã lén bám theo chúng tôi ở lễ hội. “Cô Jackdaw(*) đã đứng ở ngay chỗ của cậu khi bà bị bắt. Chúng tôi tìm thấy cả một nắm lông của bà trên sàn.” Ông ta có khẩu âm Mỹ. Ông ta dừng lại cách chúng tôi vài bước chân và đứng đó, miệng nhai không ngừng, một bàn tay chống hông. “Là họ phải không?” anh hề hỏi Người Gấp, đồng thời giơ một cái chân gà tây chỉ về phía chúng tôi. “Chúng ta cần các chiến binh, không phải những đứa trẻ.”
(*) Quạ gáy xám.
“Tôi một trăm mười hai tuổi rồi,” Melina nói.
“Phải, phải, tôi đã nghe tất cả những lời này trước đây rồi,” người mặc đồ hề nói. “Mà nhân đây, tôi có thể nhận ra ngay các cô cậu là người đặc biệt ở chỗ lễ hội. Các cô cậu đúng là nhóm người đặc biệt nhất tôi từng trông thấy.”
“Tôi cũng đã nói điều tương tự với họ,” Người Gấp nói.
“Thật không hiểu nổi làm thế nào đám trẻ này đi được cả quãng đường từ xứ Wales tới đây mà không bị bắt,” người mặc đồ hề nói. “Thực ra, chuyện này thật đáng ngờ. Có chắc không ai trong số các cô cậu là xác sống không đấy?”
“Sao ông dám nói thế!” Emma nói.
“Chúng cháu đã bị bắt,” Hugh nói đầy tự hào, “nhưng mấy gã xác sống bắt chúng cháu không còn sống để kể về chuyện đó nữa đâu.”
“À phải, còn tôi là vua Bolivia đây,” người mặc đồ hề nói.
“Đó là sự thật!” Hugh gắt lên, mặt đỏ phừng phừng.
Người mặc đồ hề giơ hai bàn tay lên. “Được rồi, được rồi, bình tĩnh lại, cậu bé! Tôi tin chắc Wren sẽ không để các cô cậu vào nếu các cô cậu không được phép. Thôi nào, chúng ta hãy làm bạn, nếm thử một cái chân gà tây nào.”
Ông ta không phải mời hai lần. Chúng tôi đều đã quá đói để tự ái lâu.
Người mặc đồ hề dẫn chúng tôi tới một cái bàn bày đầy thức ăn – vẫn là những món hạt luộc và thịt nướng đã cám dỗ chúng tôi ở chỗ lễ hội. Chúng tôi xúm lại quanh bàn và ăn ngấu nghiến không chút ngượng ngập. Người Gấp ăn năm quả anh đào và một mẩu bánh mì nhỏ, rồi tuyên bố chưa bao giờ no đến thế trong suốt cuộc đời mình. Bronwyn đi đi lại lại dọc theo bức tường, cắn cắn các ngón tay, quá lo lắng để có thể ăn được.
Khi chúng tôi ăn xong, cái bàn là một bãi bừa bộn đầy xương bị gặm trơ trụi và các vết mỡ, người mặc đồ hề ngả lưng ra ghế và nói, “Rồi, hỡi các bạn trẻ đặc biệt, câu chuyện của các cô câu là sao nào? Tại sao các cô cậu lại đi cả chặng đường từ xứ Wales tới đây?”
Emma lau miệng và nói, “Để giúp Chủ Vòng của chúng cháu.”
“Và khi bà ấy được giúp rồi thì sao?” người mặc đồ hề hỏi. “Đến lúc ấy thì sao?”
Tôi nãy giờ vẫn bận rộn quệt nốt nước xốt gà tây bằng mẩu bánh mì cuối cùng, nhưng lúc này tôi ngước nhìn lên. Câu hỏi thật thẳng thắn, đưa ra thật đơn giản – thật hiển nhiên – đến mức tôi không thể tin nổi chưa ai trong chúng tôi đặt ra trước đây.
“Đừng nói thế,” Horace nói. “Ông sẽ làm chúng cháu gặp đen đủi đấy.”
“Wren là một người tạo ra phép mầu,” người mặc đồ hề nói. “Không có gì phải lo lắng cả.”
“Cháu hy vọng ông nói đúng,” Emma nói.
“Tất nhiên là thế rồi. Vậy kế hoạch của các cô cậu là gì? Các cô cậu sẽ ở lại giúp chúng tôi chiến đấu, hiển nhiên rồi, nhưng các cô cậu sẽ ngủ ở đâu? Không phải với tôi, phòng tôi là phòng đơn. Hiếm khi có ngoại lệ lắm.” Ông nhìn Emma và nhướng một bên mày lên. “Hãy nhớ tôi nói là hiếm khi nhé.”
Đột nhiên, tất cả mọi người đều nhìn về phía các bức vẽ trên tường hay chỉnh lại cổ áo – ngoại trừ Emma, mặt cô chuyển sang xanh như tàu lá. Có thể chúng tôi vốn bẩm sinh bi quan, và cơ hội thành công của chúng tôi có vẻ quá nhỏ nhoi tới mức chúng tôi chẳng bao giờ bận tậm tự hỏi sẽ làm gì nếu thực sự chữa lành được cho cô Peregrine – hay có lẽ những biến cố căng thẳng trong mấy ngày vừa qua đã quá liên tục và dồn dập tới mức chúng tôi chưa bao giờ có cơ hội để ngẫm nghĩ. Dù là thế nào đi nữa, câu hỏi của người mặc đồ hề đã làm chúng tôi ngỡ ngàng.
Sẽ thế nào nếu chúng tôi thực sự vượt qua được thử thách này? Chúng tôi sẽ làm gì nếu cô Peregrine bước vào phòng, ngay tức thì, trở lại là con người cũ?
Cuối cùng, Millard đưa ra một câu trả lời. “Cháu đoán là chúng cháu sẽ lại quay về phía Tây, trở lại nơi xuất phát. Cô Peregrine sẽ tạo ra một Vòng Thời Gian khác cho chúng cháu. Một nơi chúng cháu sẽ không bao giờ bị tìm ra.”
“Thế ư?” người mặc đồ hề nói. “Các cô cậu định trốn? Thế còn tất cả các Chủ Vòng khác thì sao – những người không được may mắn đến thế? Còn Chủ Vòng của tôi thì sao?”
“Cứu cả thế giới không phải là việc của chúng cháu,” Horace nói.
“Không phải chúng ta đang tìm cách cứu cả thế giới. Chỉ tất cả cộng đồng người đặc biệt thôi.”
“À, đó cũng không phải việc của chúng cháu.” Horace có vẻ yếu ớt và thủ thế, ngượng ngập vì bị dồn vào thế phải nói như vậy.
Người mặc đồ hề cúi ra trước trên ghế và nhìn chăm chăm vào chúng tôi. “Vậy đó là việc của ai đây?
“Chắc chắn phải có ai khác,” Enoch nói. “Những người được trang bị tốt hơn, được rèn luyện cho những việc kiểu này…”
“Điều đầu tiên những kẻ biến chất thực hiện ba tuần trước là tấn công Nhà Bảo vệ Người Đặc biệt. Trong chưa tới một ngày, họ đã bị nện tan tành. Vì họ đã biến mất, và giờ đây cả các Chủ Vòng của chúng ta cũng thế, việc bảo vệ cộng đồng người đặc biệt sẽ được giao vào tay ai đây nhỉ? Những người như cậu và tôi, thế đấy.” Người mặc đồ hề ném cái chân gà tây của mình xuống. “Đám hèn nhát các người làm tôi phát tởm. Ăn mất cả ngon.”
“Họ đang mệt mỏi sau chuyến đi dài,” Người Gấp nói. “Để họ nghỉ ngơi đã.”
Người mặc đồ hề phẩy tay trong không khí như một thầy giáo. “À ờ. Không ai chứa chấp miễn phí cả. Tôi không quan tâm các cô cậu ở đây một giờ hay một tháng, chừng nào các cô cậu ở đây, các cô cậu sẽ phải sẵn sàng chiến đấu. Các cô cậu là một đám khẳng khiu thảm hại, nhưng các cô cậu đều là người đặc biệt, vì thế tôi biết tất cả các cô cậu đều có tài năng ẩn giấu. Hãy cho tôi thấy các cô cậu có thể làm gì nào!”
Ông ta đứng dậy đi về phía Enoch, một cánh tay vươn ra như thể sắp lục soát các túi áo của Enoch để tìm năng lực đặc biệt của cậu ta. “Cậu kia,” ông ta nói. “Thể hiện năng lực của cậu đi!”
“Cháu sẽ cần một người chết để thể hiện,” Enoch nói.
“Kẻ đó có thể là cậu, nếu cậu dám chạm một ngón tay lên tôi.”
Người mặc đồ hề quay sang phía Emma. “Vậy còn cô thì thế nào, cô bé thân mến,” ông ta nói, vậy là Emma giơ một ngón tay lên và làm một ngọn lửa nhảy múa trên đầu ngón tay như một ngọn nến sinh nhật. Người mặc đồ hề bật cười và nói, “Khiếu hài hước! Tôi thích đấy,” và bước tới chỗ hai anh em mù.
“Họ có thần giao cách cảm,” Melina nói, đứng chắn giữa người mặc đồ hề và hai anh em kia. “Họ có thể nhìn được bằng đôi tai của mình, và luôn biết người kia nghĩ gì.”
Người mặc đồ hề vỗ tay. “Cuối cùng thì cũng có thứ gì đó hữu ích! Họ sẽ là người cảnh giới cho chúng ta – để một người ngoài lễ hội, giữ người còn lại ở đây. Nếu ngoài đó có gì không ổn, chúng ta sẽ biết ngay!”
Ông ta bước qua Melina. Hai anh em thu mình lại tránh xa ông ta.
“Ông không thể chia tách họ!” Melina nói. “Joel-và-Peter không thích bị tách rời.”
“Còn tôi không thích bị những con quái vật vô hình săn lùng,” người mặc đồ hề nói, và ông ta bắt đầu lôi cậu anh khỏi cậu em. Hai cậu bé lồng tay vào nhau và rên rỉ lớn tiếng, lưỡi khua lạch cạch, mắt đảo lia lịa cuống cuồng. Tôi sắp sửa can thiệp thì hai anh em họ tách rời nhau và bật ra hai tiếng hét đồng thời to và chói tai tới mức tôi sợ đầu mình sẽ vỡ tung ra. Đĩa trên bàn vỡ tan tành, tất cả mọi người phủ phục xuống, đưa hai tay lên bịt tai, và tôi nghĩ tôi có thể nghe thấy tiếng nứt vỡ răng rắc lan đi trong khối băng ở các tầng nhà bị đóng băng bên dưới.
Khi các tiếng vọng lặng xuống, Joel-và-Peter bám chặt lấy nhau trên sàn nhà, run bần bật.
“Thử nhìn xem ông đã làm gì!” Melina gắt lên với ông hề.
“Chúa lòng lành, thật ấn tượng!” ông hề nói.
Bằng một bàn tay, Bronwyn chộp cổ ông ta nhấc bổng lên.
“Nếu ông tiếp tục quấy rầy chúng tôi,” cô bình thản nói, “tôi sẽ ấn đầu ông xuyên qua tường.”
“Xin… lỗi… về… chuyện… đó,” ông hề thều thào qua khí quản bị bóp nghẹt.
“Thả… tôi… xuống… được… chứ?”
“Thôi nào, Wyn,” Olive nói. “Ông ấy nói xin lỗi rồi.”
Bronwyn miễn cưỡng buông ông ta xuống. Người đàn ông mặc đồ hề ho sặc và vuốt phẳng lại bộ đồ đang mặc. “Có vẻ tôi đã đánh giá nhầm về các cô cậu,” ông ta nói. “Các cô cậu sẽ là những thành viên bổ sung tuyệt vời cho đội quân của chúng tôi.”
“Tôi nói với ông rồi, chúng tôi không gia nhập đội quân ngớ ngẩn của các ông,” tôi nói.
“Mà dù sao đi nữa, mục đích chiến đấu là gì nào?” Emma nói. “Các ông thậm chí còn chẳng biết các Chủ Vòng đang ở đâu.”
Người Gấp đứng dậy khỏi ghế để vươn lên cao sừng sững phía trên chúng tôi.
“Mục đích là,” ông nói, “nếu những kẻ biến chất bắt được hết những Chủ Vòng còn lại, sẽ không thể chặn nổi chúng nữa.”
“Có vẻ như vốn đã không thể ngăn nổi chúng rồi,” tôi nói.
“Nếu cậu nghĩ như thế đã là không thể ngăn nổi, thì cậu vẫn chưa thấy gì đâu,” ông hề nói. “Và nếu cậu nghĩ chừng nào Chủ Vòng của các cô cậu còn tự do mà chúng lại thôi săn lùng các cô cậu, thì cậu còn ngu hơn vẻ ngoài đấy.”
Horace đứng dậy hắng giọng. “Ông vừa mới đưa ra kịch bản tồi tệ nhất,” cậu ta nói. “Gần đây, tôi đã nghe rất nhiều kịch bản về tình huống xấu nhất được đưa ra. Nhưng tôi chưa được nghe lấy một lập luận nào về kịch bản của tình huống khả quan nhất.”
“À, cái này hẳn là hay đây,” ông hề nói. “Tiếp tục đi, cậu nhóc mơ mộng, hãy để chúng ta cùng nghe nào.”
Horace hít một hơi thật sâu để lấy thêm can đảm. “Bọn xác sống muốn các Chủ Vòng, và giờ chúng đã có họ - hay ít nhất cũng là phần lớn họ. Giả sử như đó là tất cả những gì lũ xác sống cần, và bây giờ chúng có thể tiến hành tiếp các kế hoạch ma quỷ của chúng. Và chúng làm được: chúng trở thành các siêu xác sống, hay bán thần, hay bất cứ cái gì chúng đang vươn tới. Và sau đó chúng sẽ không còn cần đến các Chủ Vòng Thời Gian, đến những đứa trẻ đặc biệt, và không cần đến các Vòng Thời Gian nữa, thế nên chúng sẽ đi chỗ khác để trở thành các bán thần và để chúng ta yên. Và sau đó mọi chuyện không chỉ trở lại bình thường, mà còn tốt hơn trước đây, vì không còn ai tìm cách ăn thịt chúng ta hay bắt cóc các Chủ Vòng của chúng ta nữa. Và khi đó, rất có thể, thỉnh thoảng cứ lâu lâu chúng ta lại được phép đi du lịch nước ngoài như chúng ta từng làm, và ngắm nhìn thế giới một chút, rồi đặt chân lên mặt cát ở đâu đó không lạnh lẽo và có bầu trời xám xịt suốt ba trăm ngày mỗi năm. Trong trường hợp đó, ở đây và chiến đấu để làm gì? Chúng ta sẽ tự lao mình vào lưỡi kiếm của chúng trong khi mọi thứ rất có thể rồi sẽ ổn thỏa cả mà không cần đến sự can thiệp của chúng ta.”
Trong giây lát, không ai nói gì. Sau đó người đản ông mặc đồ hề bắt đầu phá lên cười. Ông ta cười, cười mãi, những tiếng cười ngặt nghẽo của ông ta vang vọng theo các bức tường, cho tới khi cuối cùng ông ta ngã lăn khỏi ghế.
Sau đó Enoch nói, “Tớ đơn giản là chẳng có lời nào để nói cả. Đợi đã… không… có đấy! Horace, đó là ý nghĩ mơ tưởng ngây ngô và hèn nhát khó tin nhất tớ từng nghe thấy.”
“Nhưng điều đó là có thể,” Horace khăng khăng.
“Phải. Và cũng có thể Mặt Trăng được làm bằng pho mát. Chỉ đơn giản là không thể thế được.”
“Tôi có thể chấm dứt tranh cãi ngay bây giờ,” Người Gấp nói. “Các cô cậu muốn biết lũ xác sống sẽ làm gì chúng ta khi chúng được tự đo làm bất cứ điều gì phải không? Lại đây, tôi sẽ chỉ cho các cô cậu.”
“Chỉ dành cho những cái dạ dày mạnh mẽ thôi,” ông hề nói, liếc mắt nhìn Olive.
“Nếu họ có thể chịu đựng được, thì cháu cũng có thể,” cô nói.
“Cảnh báo rồi nhé,” ông hề nhún vai. “Đi theo chúng tôi.”
“Tôi sẽ không đi theo các ông, dù là rời một con tàu đắm,” Melina nói, cô vừa giúp hai anh em mù run lẩy bẩy đứng dậy.
“Vậy thì ở lại,” ông hề nói. “Những ai không muốn chìm theo con tàu, mời đi theo chúng tôi.”
***
Người bị thương nằm trên những chiếc giường không đồng bộ trong một căn phòng bệnh tạm bợ, do một y tá với một con mắt bằng thủy tinh phồng lồi ra trông coi. Có ba bệnh nhân, nếu bạn có thể gọi họ như vậy – một người đàn ông và hai phụ nữ. Người đàn ông nằm nghiêng, bị căng trương lực cơ bán phần, thì thào và chảy nước dãi. Một trong hai phụ nữ nhìn chằm chằm vô thức lên trần, trong khi người còn lại quằn quại dưới tấm chăn, rên khe khẽ, bị giày vò trong một cơn ác mộng nào đó. Một số trong đám trẻ đứng ngoài cửa nhìn vào, giữ khoảng cách phòng trường hợp thứ những người này mắc phải có thể lây lan.
“Hôm nay họ thế nào?” Người Gấp hỏi y tá.
“Xấu đi,” người y tá nói, hối hả đi từ giường này qua giường khác. “Bây giờ tôi giữ cho họ ngủ liên tục bằng thuốc an thần. Nếu không họ chỉ la lối ầm lên thôi.”
Họ không bị vết thương nào trông thấy được. Không có băng gạc thấm máu, chân tay không bị bó bột, không có những cái chậu đầy ắp thứ chất lỏng đỏ ngầu. Căn phòng trông giống như một cơ sở phụ của một trại tâm thần hơn là của một bệnh viện.
“Họ bị sao vậy?” tôi hỏi. “Họ bị thương trong cuộc tấn công à?”
“Không, được cô Wren mang về đây,” người y tá trả lời. “Bà tìm thấy họ bị bỏ rơi trong bệnh viện, nơi đám xác sống đã biến thành một thứ phòng thí nghiệm y học. Những tạo vật đáng thương bị dùng làm vật thí nghiệm trong những thử nghiệm không thể mô tả bằng lời của chúng. Những gì các cô cậu thấy là kết quả.”
“Chúng tôi tìm thấy hồ sơ của họ,” ông hề nói. “Họ bị đám xác sống bắt cóc từ nhiều năm trước. Từ lâu bị coi là đã chết.”
Người y tá lấy một tấm bảng kẹp từ trên tường cạnh giường người đàn ông thì thào. “Người này, Benteret, được cho là thông thạo một trăm ngôn ngữ, nhưng bây giờ ông ấy chỉ nói mỗi một từ - nhắc đi nhắc lại mãi.”
Tôi rón rén lại gần hơn, quan sát môi ông ta. Gọi, gọi. gọi, ông ta đang mấp máy. Gọi, gọi, gọi.
Thật vô nghĩa. Ông ta đã mất trí.
“Người nằm kia,” người y tá vừa nói vừa chỉ tấm bảng kẹp về phía người phụ nữ đang rên rỉ. “Hồ sơ của cô ấy nói cô ấy có thể bay, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cô ấy nhúc nhích dù chỉ một phân khỏi cái giường đó. Còn về cô gái còn lại, đáng lẽ cô ấy phải vô hình. Nhưng giờ thì hiện rõ mồn một như ban ngày.”
“Họ có bị tra tấn không?” Emma hỏi.
“Hiển nhiên rồi – họ bị tra tấn tới mất trí!” ông hề nói. “Bị tra tấn cho tới khi họ quên mất cách để trở thành người đặc biệt!”
“Ông có thể tra tấn tôi cả ngày,” Millard nói. “Tôi sẽ chẳng bao giờ quên cách trở thành vô hình cả.”
“Cho họ thấy các vết sẹo đi,” ông hề nói với bà y tá.
Bà y tá đi tới chỗ bệnh nhân nữ nằm bất động và kéo chăn xuống. Có những vết sẹo mảnh màu đỏ chạy dọc trên bụng cô gái, dọc theo bên cổ, dưới cằm cô, mỗi vết sẹo dài bằng khoảng một điếu thuốc lá.
“Khó mà gọi đây là bằng chứng của tra tấn được,” Millard nói.
“Vậy thì cậu gọi nó là gì?” bà y tá phẫn nộ hỏi.
Tảng lờ câu hỏi của bà, Millard nói, “Còn có nhiều sẹo nữa không, hay đây là tất cả những gì cô ấy có?’
“Còn xa mới là vậy,” bà y tá nói, rồi vén tấm chăn lên để lộ đôi chân cô gái, chỉ ra những vết sẹo đằng sau đầu gối cô, ở mé trong đùi, và dưới gan bàn chân cô.
Millard cúi xem xét bàn chân. “Một vị trí thật lạ lùng, bà không thấy thế sao?”
“Cậu đang làm gì thế, Mill?” Emma hỏi.
“Hừm,” Enoch nói. “Để cậu ta đóng vai Sherlock nếu cậu ta muốn. Tớ lại thấy khoái trò này.”
“Tại sao chúng ta không cắt mười chỗ khác nhau trên người cậu ta nhỉ?” ông hề nói. “Sau đó chúng ta sẽ xem cậu ta có nghĩ đó là tra tấn hay không!”
Millard đi ngang qua phòng tới giường người đàn ông thì thào. “Tôi có thể xem xét ông ấy chứ?”
“Tôi chắc là ông ấy không phản đối đâu?” bà y tá nói.
Millard nhấc chăn của người đàn ông để lộ đôi chân ra. Dưới gan một bàn chân trần, người đàn ông này cũng bị một vết sẹo giống hệt cô gái bất động.
Bà y tá ra dấu về phía người phụ nữ đang quằn quại. “Cô ấy cũng có một vết sẹo như thế, nếu đó là thứ cậu tìm kiếm.”
“Đủ rồi đấy,” Người Gấp nói. “Nếu đó không phải là tra tấn thì là cái gì hả?”
“Khám phá,” Millard nói. “Những vết cắt này rất chính xác và mang tính phẫu thuật. Không phải để gây đau đớn – thậm chí có thể còn được thực hiện trong điều kiện gây mê nữa. Lũ xác sống đang tìm kiếm thứ gì đó.”
“Và đó là cái gì?” Emma hỏi, cho dù có vẻ cô sợ cậu trả lời.
“Có một câu nói từ xa xưa về bàn chân một người đặc biệt,” Millard nói. “Có ai trong các cậu còn nhớ không?”
Horace dẫn ra. “Bàn chân một người đặc biệt là cánh cửa dẫn vào linh hồn người đó,” cậu ta nói. “Chỉ là một câu người ta nói với trẻ con để chúng đi giày khi ra ngoài chơi thôi.”
“Có thể là thế, mà cũng có thể là không,” Millard nói.
“Đừng có lố bịch thế! Cậu nghĩ chúng đang tìm kiếm…”
“Linh hồn họ. Và chúng đã tìm được.”
Ông hề phá lên cười to. “Thật là một chuyện vô lý. Chỉ vì họ mất đi năng lực mà cậu nghĩ linh hồn thứ hai của họ đã bị lấy đi sao?”
“Phần nào. Chúng ta biết lũ xác sống đã quan tâm tới linh hồn thứ hai từ nhiều năm nay rồi.”
Thế rồi tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa Millard và tôi trên tàu hỏa, và tôi nói, “Nhưng chính cậu đã bảo tớ rằng linh hồn đặc biệt là thứ cho phép chúng ta đi vào các Vòng Thời Gian. Vậy nếu những người này không còn linh hồn của họ, làm cách nào họ ở đây được?”
“À, họ không thực sự ở đây, phải không nào?” Millard nói. “Ý tớ là tâm trí họ chắc chắn đang ở nơi khác.”
“Giờ thì cậu đang níu lấy một cọng rơm rồi,” Emma nói. “Tớ nghĩ cậu đã đi đủ xa rồi đấy, Millard.”
“Chịu đựng tớ chỉ thêm một lát nữa thôi,” Millard nói. Lúc này cậu ta đang đi đi lại lại, trở nên phấn khích. “Tớ không cho rằng các cậu đã nghe qua về thời một người bình thường đi hẳn vào trong một Vòng Thời Gian, đúng không nào?”
“Không, vì ai cũng biết điều đó là không thể,” Enoch nói.
“Gần như không thể,” Millard nói. “Việc này không dễ dàng và chẳng đẹp đẽ gì, nhưng nó đã được thực hiện – một lần. Một thí nghiệm trái phép do chính em trai cô Peregrine thực hiện, tớ tin là vậy, vào những năm trước khi ông ta hóa điên và thành lập ra nhóm ly khai mà sau này sẽ trở thành đám xác sống.”
“Vậy tại sao tớ chưa bao giờ nghe nói về chuyện này nhỉ?” Enoch hỏi.
“Vì nó rất gây tranh cãi và các kết quả ngay lập tức bị che giấu, để không ai có thể tìm cách lặp lại chúng. Dù sao đi nữa, hóa ra người ta có thể đưa một người bình thường vào trong Vòng Thời Gian, nhưng người đó cần phải được đẩy vào, và chỉ một người có sức mạnh của Chủ Vòng Thời Gian mới làm nổi chuyện đó. Nhưng vì những người bình thường không có linh hồn thứ hai, họ không thể thích nghi được với những nghịch lý nội tại của một Vòng Thời Gian, và bộ óc họ trở nên bị rối loạn. Họ trở thành những sinh thể sống thực vật chảy nước dãi ròng ròng, căng trương lực cơ ngay từ khoảnh khắc bước vào. Không khác mấy những con người khốn khổ trước mắt chúng ta.”
Một khoảnh khắc trôi qua trong im lặng trong khi những lời Millard nói được ghi nhận. Thế rồi Emma đưa hai bàn tay che lấy miệng, và khẽ nói, “Ôi, khỉ thật. Cậu ấy có lý.”
“À, thế đấy,” ông hề nói. “Trong trường hợp đó, tình hình còn xấu hơn chúng ta từng nghĩ.”
Tôi cảm thấy không khí đang biến hết ra khỏi căn phòng.
“Tớ không dám chắc mình theo kịp,” Horace nói.
“Cậu ấy nói lũ quái vật đã đánh cắp linh hồn của họ!” Olive hét lên, rồi cô bé khóc nức nở chạy lại chỗ Bronwyn, gục mặt vào áo khoác cô.
“Những người đặc biệt này không bị mất đi năng lực của họ,” Millard nói. “Năng lực của họ bị cướp đi – bị rút ra cùng với linh hồn của họ, rồi sau đó được truyền cho đám hồn rỗng. Điều này cho phép đám hồn rỗng đủ tiến hóa để xâm nhập vào các Vòng Thời Gian, một bước phát triển cho phép thực hiện những cuộc tấn công gần đây của chúng vào thế giới người đặc biệt – và thúc đẩy đám xác sống bắt cóc thêm nhiều người đặc biệt hơn nữa để rút linh hồn của họ ra, để rồi chúng sẽ cải tạo thêm nhiều hồn rỗng nữa, và cứ thế tiếp tục, thành một vòng quay tàn ác.”
“Thế thì chúng không chỉ muốn các Chủ Vòng,” Emma nói. “Mà cả chúng ta nữa – và linh hồn của chúng ta.”
Hugh đứng ở chân giường của người đàn ông luôn thì thào, con ong cuối cùng của cậu giận dữ bay vù vù quanh cậu. “Tất cả những đứa trẻ đặc biệt chúng đã bắt cóc trong những năm qua… chẳng lẽ đây là điều chúng đã làm với họ? Tớ cứ nghĩ họ chỉ đơn giản là trở thành thức ăn cho hồn rỗng. Nhưng chuyện này… chuyện này còn ghê tởm hơn nghìn lần.”
“Ai dám nói là chúng không định rút cả linh hồn của các Chủ Vòng nữa?” Enoch nói.
Những lời này làm chúng tôi lạnh gáy. Ông hề quay sang Horace và nói, “Giờ thì kịch bản trong trường hợp khả quan nhất của cậu là như thế nào rồi, chàng trai?”
“Đừng có giễu tôi,” Horace đáp. “Tôi cắn đấy.”
“Tất cả ra ngoài!” bà y tá ra lệnh. “Có linh hồn hay không, những người này cũng đang bệnh. Đây không phải chỗ để cãi nhau.”
Chúng tôi cau có bước theo hàng ra ngoài hành lang.
“Được rồi, ông đã cho chúng tôi thấy màn trình diễn rùng rợn,” Emma nói với ông hề và Người Gấp, “và chúng tôi cũng kinh hoàng như mong muốn rồi. Giờ hãy nói cho chúng tôi biết các ông muốn gì?”
“Đơn giản thôi,” Người Gấp nói. “Chúng tôi muốn các cô cậu ở lại và chiến đấu cùng chúng tôi.”
“Chúng tôi chỉ định cho các cô cậu thấy làm điều đó cũng phù hợp với lợi ích của các cô cậu đến mức nào,” ông hề nói. Ông ta vỗ lên lưng Millard. “Song người bạn của các cô cậu đây đã làm một việc còn tốt hơn những gì chúng tôi có thể.”
“Ở lại đây và chiến đấu vì cái gì?” Enoch nói. “Các Chủ Vòng thậm chí còn chẳng ở London – ít nhất cô Wren đã nói vậy.”
“Quên London đi! London đi tong rồi!” ông hề nói. “Trận chiến ở đây đã kết thúc. Chúng ta thua. Ngay khi cô Wren cứu được tất cả những người đặc biệt còn lại từ các Vòng Thời Gian bị hủy hoại này, chúng ta sẽ thu xếp hành lý và lên đường – tới những vùng đất khác, những Vòng Thời Gian khác. Chắc chắn ngoài kia vẫn còn nhiều người sống sót, những người đặc biệt giống như chúng ta, với tinh thần chiến đấu vẫn còn cháy rực bên trong.”
“Chúng ta sẽ xây dựng một đội quân,” Người Gấp nói. “Một đội quân thật sự.”
“Về việc tìm xem các Chủ Vòng ở đâu,” ông hề nói, “không có gì khó cả. Chúng ta sẽ bắt một gã xác sống và tra tấn buộc hắn khai ra. Bắt hắn chỉ cho chúng ta trên Bản đồ Các Ngày.”
“Ông có một Bản đồ Các Ngày sao?” Millard hỏi.
“Chúng tôi có hai bản. Cậu biết đấy, tàng thư đặc biệt nằm ở dưới nhà.”
“Quả là tin tốt đấy,” Millard nói, giọng đầy phấn khởi.
“Bắt một gã xác sống là chuyện nói dễ hơn làm,” Emma nói. “Và chúng nói dối, tất nhiên rồi. Dối trá là điều chúng giỏi nhất.”
“Vậy chúng ta sẽ phải bắt hai gã và so sánh những lời dối trá của chúng,” ông hề nói. “Chúng rất hay lảng vảng quanh đây, vì vậy lần tiếp theo chúng ta thấy một gã – a lê hấp! Chúng ta sẽ tóm hắn.”
“Không cần thiết phải đợi,” Enoch nói. “Chẳng phải cô Wren nói có những gã xác sống ngay trong tòa nhà này sao?”
“Hẳn rồi,” ông hề nói, “nhưng chúng bị đóng băng rồi. Chết cứng như đinh đóng cửa vậy.”
“Như thế không có nghĩa là không thể thẩm vấn chúng,” Enoch nói, một nụ cười hết cỡ nở rộng trên khuôn mặt cậu ta.
Ông hề quay sang Người Gấp. “Tôi thực sự bắt đầu thích các cô cậu kỳ lạ này rồi đấy.”
“Vậy các cô cậu ủng hộ chúng tôi chứ?” Người Gấp hỏi. “Các cô cậu ở lại và chiến đấu chứ?”
“Tôi đâu nói thế,” Emma nói. “Hãy cho chúng tôi một phút để bàn bạc.”
“Còn bàn bạc gì nữa?” ông hề nói.
“Tất nhiên rồi, cứ việc bàn bạc bao lâu cũng được,” Người Gấp nói, đoạn kéo ông hề đi theo xuống hành lang. “Lại đây nào, tôi sẽ pha cà phê.”
“Được thôi,” ông hề miễn cưỡng nói.
Chúng tôi xúm lại hội ý, chúng tôi đã làm thế quá nhiều lần kể từ khi những rắc rối của chúng tôi bắt đầu, chỉ có điều lần này thay vì to tiếng la lối với nhau, tuần tự từng người lên tiếng. Tính chất nghiêm trọng của chuyện này đã làm tất cả chúng tôi trở nên nghiêm túc.
“Tớ nghĩ chúng ta cần chiến đấu,” Hugh nói. “Bây giờ, khi đã biết đám xác sống đang làm gì với chúng ta, tớ sẽ không thể sống yên được nếu chúng ta cứ quay về nhà như trước đây, và cố giả bộ như tất cả những chuyện này không hề xảy ra. Chiến đấu là cách danh dự duy nhất.”
“Trong sống sót cũng có danh dự,” Millard nói. “Người đặc biệt chúng ta đã sống sót qua thế kỷ hai mươi nhờ lẩn trốn chứ không phải chiến đấu – vì thế có lẽ tất cả những gì chúng ta cần là một cách ẩn mình tốt hơn.”
Sau đó, Bronwyn quay sang Emma và nói, “Tớ muốn biết cậu nghĩ thế nào?”
“Phải, tớ muốn biết những gì Emma nghĩ,” Olive nói.
“Tớ cũng vậy,” Enoch nói, khiến tôi ngạc nhiên.
Emma hít một hơi dài, rồi nói. Những gì xảy ta thật khủng khiếp cho các Chủ Vòng khác. Những gì xảy ra với họ là một tội ác, và tương lại của người đặc biệt chúng ta có thể phụ thuộc vào việc giải cứu họ. Nhưng khi đã cân nhắc tất cả, tớ không có ràng buộc về lòng trung thành với các Chủ Vòng khác, cũng như những đứa trẻ đặc biệt khác. Lòng trung thành đó chỉ thuộc về người phụ nữ tớ đã nợ mạng sống – cô Peregrine, và chỉ mình cô Peregrine thôi.” Cô ngừng lời và gật đầu – như thể kiểm tra và xác nhận lại sự đúng đắn của chính những lời mình nói – rồi tiếp tục, “Và, có các loài chim làm chứng, khi cô trở lại là mình như cũ, tớ sẽ làm bất cứ điều gì cô cần tớ làm. Nếu cô bảo chiến đấu, tớ sẽ chiến đấu. Nếu cô muốn giấu chúng ta tới một Vòng Thời Gian ở đâu đó, tớ cũng sẽ chấp nhận. Dù thế nào đi nữa, quan điểm của tớ không bao giờ thay đổi: cô Peregrine biết rõ nhất.”
Những người khác cùng ngẫm nghĩ những lời này. Cuối cùng Millard nói, “Nói rất sáng suốt, tiểu thư Bloom.”
“Cô Peregrine biết rõ nhất!” Olive reo lên.
“Cô Peregrine biết rõ nhất!” Hugh hùa theo.
“Tớ không quan tâm cô Peregrine nói gì,” Horace nói. “Tớ sẽ chiến đấu.”
Enoch cố nín cười. “Cậu ấy à?”
“Ai cũng nghĩ tớ là kẻ nhất gan. Đây là cơ hội để tớ chứng minh là họ nhầm.”
“Đừng có vứt tính mạng cậu đi vì vài trò đùa nhắm vào cậu,” Hugh nói. “Ai thèm băn khoăn chuyện người khác nghĩ sao chứ?”
“Không chỉ có vậy,” Horace nói. “Còn nhớ hình ảnh tớ mơ thấy hồi còn ở Cairnhoim chứ? Tớ đã thoáng thấy nơi các Chủ Vòng bị giam giữ. Tớ không thể chỉ cho các cậu thấy trên một tấm bản đồ, nhưng tớ tin chắc điều này – tớ sẽ biết ngay khi tớ trông thấy nơi ấy.” Cậu ta lấy ngón trỏ gõ lên trán.
“Những gì tớ có ở đây có thể sẽ giúp những người đó tránh khỏi nhiều rắc rối. Và cứu cả các Chủ Vòng khác nữa.”
“Nếu một vài người chiến đấu và một số ở lại đằng sau,” Bronwyn nói, “tớ sẽ bảo vệ những ai ở lại. Bảo vệ luôn là bổn phận của tớ.”
Rồi sau đó Hugh quay sang tôi và nói, “Thế còn cậu thì sao, Jacob?” và lập tức tôi cảm thấy miệng khô rang.
“À,” tôi nói, “tớ…”
“Chúng ta hãy đi dạo một chút,” Emma nói, luồn tay vòng lấy tay tôi. “Cậu và tớ cần nói chuyện.”
***
Chúng tôi chậm rãi bước xuống cầu thang, không nói gì với nhau cho tới khi xuống tới chân cầu thang và bức tường băng uốn cong, tại đó Althea đã cho đông cứng lối ra khỏi đường hầm. Chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau và nhìn vào khối băng hồi lâu, vào những hình dáng bị giam trong đó, mờ ảo, méo mó trong ánh sáng đang tối dần, bị treo lơ lửng như những quả trứng cổ đại trong khối hổ phách xanh lơ. Chúng tôi ngồi, và tôi có thể đoán từ sự im lặng tích tụ giữa hai chúng tôi rằng đây sẽ lả một cuộc trò chuyện nặng nề - một cuộc trò chuyện không ai trong chúng tôi muốn mở lời trước.
Cuối cùng, Emma lên tiếng, “Thế nào?”
Tôi nói, “Tớ giống những người khác – tớ muốn biết cậu nghĩ gì.”
Cô bật cười, như người ta vẫn cười khi có chuyện gì đó không những không hài hước mà còn khó cư xử, rồi nói, “Tớ không hoàn toàn chắc vậy.”
Cô nói đúng, nhưng tôi vẫn thúc giục cô nói ra. “Thôi nào.”
Emma đặt một bàn tay lên đầu gối tôi, rồi lại thu về. Cô bồn chồn. Ngực tôi thắt lại.
“Tớ nghĩ đã đến lúc cậu về nhà,” cuối cùng cô lên tiếng.
Tôi chớp mắt. Phải mất một khoảnh khắc để tôi thuyết phục bản thân là cô đã thực sự nói thế. “Tớ không hiểu,” tôi lúng túng.
“Chính cậu đã nói cậu được đưa tới đây vì lý do nào đó,” cô hối hả nói, mắt nhìn chằm chằm xuống lòng mình, “và đó là để giúp cô Peregrine. Bây giờ có vẻ cô sẽ được cứu. Nếu cậu có nợ cô ấy gì đó, thì món nợ đã được trả. Cậu đã giúp chúng tớ nhiều hơn những gì cậu có thể tưởng tượng. Và bây giờ là lúc để cậu trở về nhà.” Những lời cô nói bất chợt ào tới, như thể đó là một niềm đau cô đã mang trong mình từ lâu, và cuối cùng thật nhẹ nhõm khi có thể rũ bỏ được chúng.
“Đây là nhà tớ,” tôi nói.
“Không, không phải,” cô khăng khăng, lúc này quay sang nhìn tôi. “Thế giới người đặc biệt đang chết dần, Jacob. Đó là một giấc mơ đã lụi tàn. Và cho dù bằng cách nào đó, nhờ một phép mầu nào đó, chúng ta có thể cầm vũ khí chống lại những kẻ biến chất kia và chiến thắng, chúng ta cũng sẽ chỉ còn là cái bóng của chính mình trước đây; một đống hỗn độn tan nát. Cậu có một ngôi nhà – một ngôi nhà không bị hủy hại – bố mẹ cậu còn sống, và ít hay nhiều, họ cũng yêu cậu.”
“Tớ đã nói với cậu rồi. Tớ không muốn những thứ đó. Tớ chọn hiện tại này.”
“Cậu đã hứa, và đã giữ lời. Và giờ chuyện đó đã kết thúc, và đã tới lúc cậu trở về nhà.”
“Đừng có nói vậy nữa!” tôi gắt lên. “Tại sao cậu cứ xua đuổi tớ thế?”
“Vì cậu có một ngôi nhà thực sự, một gia đình thực sự, và nếu cậu nghĩ có bất cứ ai trong bọn tớ lại đi chọn thế giới này thay vì những điều đó – bất cứ ai lại không từ bỏ các Vòng Thời Gian, sự trường thọ và năng lực đặc biệt của bọn tớ từ lâu cho dù chỉ để nếm trải qua những gì cậu có – thì cậu quả thực là sống trong mộng rồi. Tớ thấy thực sự phát ốm lên khi nghĩ cậu có thể vứt bỏ tất cả những thứ đó đi – mà vì cái gì kia chứ?”
“Vì cậu, đồ ngốc! Tớ yêu cậu!”
Tôi không tin nổi mình đã nói thế. Cả Emma cũng không – miệng cô há ra. “Không,” cô nói, lắc đầu như thể muốn xóa đi những lời tôi nói. “Không, như thế sẽ chẳng giúp gì cả.”
“Nhưng đúng thế!” tôi nói. “Cậu nghĩ tại sao tớ ở lại thay vì về nhà? Không phải vì ông nội tớ hay vì một cảm nhận ngu ngốc nào đó về trách nhiệm – không hẳn vậy – hay vì tớ ghét bố mẹ hay không thích ngôi nhà của tớ và tất cả những thứ tiện nghi gia đình tớ có. Tớ ở lại vì cậu.”
Cô không nói gì trong giây lát, chỉ gật đầu rồi nhìn đi chỗ khác, đưa hai bàn tay lùa lên mái tóc, để lộ một vệt bột bê tông trắng xóa lúc trước tôi đã không để ý thấy, làm cô đột nhiên có vẻ già đi. “Đó là lỗi của tôi,” cuối cùng cô lên tiếng. “Đáng lẽ tôi không nên hôn cậu. Có lẽ tôi đã làm cậu tin vào một điều không phải thật.”
Những lời nói này làm tôi đau nhói, và tôi vô thức lùi lại, như thể để tự vệ. “Đừng nói thế với tớ nếu cậu không có ý như vậy,” tôi nói. “Có thể tớ không có nhiều kinh nghiệm hẹn hò, nhưng đừng đối xử với tớ như một kẻ thua cuộc ngớ ngẩn hoàn toàn vô dụng trước mặt một cô gái đẹp. Không phải cậu khiến tớ ở lại. Tớ ở lại vì tớ muốn thế - và vì cảm xúc tớ có với cậu cũng thực như bất cứ điều gì khác tớ từng cảm thấy.” Tôi để những lời này lơ lửng giữa hai chúng tôi trong giây lát, cảm thấy sự thật trong đó. “Cậu cũng cảm thấy như vậy,” tôi nói. “Tớ biết thế.”
“Tớ xin lỗi,” cô nói. “Tớ xin lỗi, như thế thật tàn nhẫn, và đáng lẽ tớ không nên nói thế.” Đôi mắt cô ươn ướt, và cô đưa bàn tay lên gạt nước mắt. Emma đã cố thể hiện mình thật cứng rắn, nhưng giờ tấm bình phong bên ngoài đang rơi xuống. “Cậu nói đúng,” cô nói. “Tớ quan tâm đến cậu rất nhiều. Đó là lý do vì sao tớ không thể nhìn cậu vứt bỏ tính mạng đi một cách vô ích.”
“Không đâu!”
“Chết tiệt, Jacob, có đấy!” cô nóng nảy tới mức vô thức làm bùng lên một ngọn lửa trên tay mình – và thật may là bàn tay đó đã rời khỏi đầu gối tôi. Cô vỗ hai bàn tay vào nhau, dập tắt ngọn lửa, rồi đứng dậy. Chỉ tay vào khối băng, Emma nói, “Cậu nhìn thấy chậu cây trên bàn làm việc đằng kia không?”
Tôi có thấy. Và gật đầu.
“Lúc này nó xanh tươi, nhờ được băng bảo quản. Nhưng bên trong nó đã chết. Và ngay khi băng tan, nó sẽ úa nâu rồi mủn nát.” Cô nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tớ cũng giống cái cây đó.”
“Không hề,” tôi nói. “Cậu… hoàn hảo.”
Khuôn mặt cô căng ra thành một vẻ kiên nhẫn gắng gượng, như thể đang giải thích điều gì đó với một đứa trẻ đầu đất. Cô lại ngồi xuống, cầm lấy bàn tay tôi, đưa nó lên áp vào gò má mịn màng của mình. “Cái này ư?” cô nói. “Đó là một sự dối trá. Đây không thực là tớ. Nếu cậu có thể nhìn thấy tớ đúng như con người thực của tớ, cậu sẽ không còn yêu tớ nữa.”
“Tớ không quan tâm tới chuyện đó…”
“Tớ là một bà già!” cô nói. “Cậu nghĩ chúng ta giống nhau, nhưng không phải. Con người mà cậu nói cậu yêu này ư? Cô ta thực sự là một mụ phù thủy, một bà lão ẩn nấp trong thân hình một cô gái. Cậu là một thiếu niên – một cậu bé – một chú nhóc nếu so sánh với tớ. Cậu không bao giờ hiểu nổi thế là thế nào đâu, luôn kề cận cái chết vào mọi lúc. Và không nên hiểu. Tớ chưa bao giờ muốn cậu hiểu. Cậu vẫn còn cả cuộc đời để nhìn về phía trước, Jacob. Tớ đã sống hết cuộc đời của mình rồi. Và một ngày kia – có lẽ sẽ sớm thôi – tớ sẽ chết và trở về với cát bụi.”
Cô nói ra tất cả với sự quả quyết lạnh lùng tới mức tôi biết cô tin vào điều đó. Cô đau khổ khi phải nói ra những lời này, tôi đau khổ khi phải nghe chúng, nhưng tôi hiểu vì sao cô lại làm thế. Theo cách của mình, cô đang cố cứu tôi.
Dù sao cũng thật đau đớn – một phần vì tôi biết cô nói đúng. Nếu cô Peregrine bình phục, như vậy tôi coi như đã làm điều tôi định làm: tìm hiểu bí mật của ông nội tôi, trả món nợ của gia đình tôi với cô Peregrine; sống cuộc sống phi thường tôi vẫn hằng mơ – hay ít nhất là một phần của cuộc sống đó. Và vào thời điểm như vậy, ràng buộc duy nhất còn lại của tôi là với bố mẹ tôi. Còn về Emma, tôi chẳng hề bận tậm về chuyện cô lớn hơn tôi, hay khác tôi, nhưng cô đã quyết định là tôi nên bận tâm về điều đó, và có vẻ chẳng thể nào thuyết phục cô khác đi được.
“Có lẽ khi tất cả chuyện này kết thúc,” cô nói, “tớ sẽ gửi thư cho cậu, rồi cậu hồi âm. Và có lẽ một ngày nào đó cậu lại có thể tới gặp tớ.”
Một lá thư. Tôi nghĩ tới cái hộp bụi bặm tôi đã tìm thấy trong phòng cô, những lá thư ông nội viết. Vậy với cô tôi chỉ là vậy thôi sao? Một ông già bên kia đại dương? Một ký ức? Và tôi nhận ra tôi sắp sửa theo chân ông nội mình theo cách tôi chưa bao giờ nghĩ là có thể. Về nhiều khía cạnh, tôi đang sống cuộc sống của nội. Và rất có thể một ngày kia sự cảnh giới hồn rỗng của tôi sẽ trở nên quá chểnh mảng, tôi sẽ già đi, đãng trí, và sẽ chết như ông nội. Và Emma sẽ tiếp tục sống mà không có tôi, không có ai trong hai ông cháu tôi, và đến một ngày có thể ai đó sẽ tìm thấy những lá thư của tôi trong ngăn tủ tường của cô, trong một chiếc hộp bên cạnh những lá thư của ông nội tôi, và băn khoăn tự hỏi chúng tôi là thế nào với cô.
“Thế nếu cậu cần tớ thì sao?” tôi nói. “Nếu lũ hồn rỗng quay lại thì sao?”
Nước mắt đầm đìa trên má cô. “Chúng tớ sẽ xoay xở được bằng cách nào đó,” cô nói. “Xem nào, tớ không thể nói thêm gì về chuyện này nữa. Thành thật mà nói, tớ không nghĩ trái tim tớ có thể chịu đựng nổi. Chúng mình có thể lên gác và nói với những người khác về quyết định của cậu không?”
Tôi nghiến chặt quai hàm, đột nhiên bực bội về việc cô thúc ép tôi quá đáng. “Tớ chưa quyết định gì hết,” tôi nói. “Mà là cậu.”
“Jacob, tớ vừa nói với cậu…”
“Phải, cậu nói với tớ. Nhưng tớ chưa quyết định.”
Cô khoanh tay lại. “Thế thì tớ có thể đợi.”
“Không,” tôi nói và đứng dậy. “Tớ cần ở một mình một lát.”
Rồi tôi lên cầu thang mà không có cô đi cùng.
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng