Mười Lăm
rong chiến tranh, dù bên nào tuyên bố mình là người chiến thắng thì tất cả cũng đều chiến bại.
N. CHAMBERLAIN
Thế là hai sợi thừng của đời tôi đã bện lại với nhau ở Praha.
Praha là nơi Sarah đã ra đi, và Praha cũng là nơi người Mỹ cử tôi đến để thực hiện giai đoạn đầu của cái mà họ khăng khăng gọi là Điệp vụ Củi khô. Tôi nói thẳng với họ rằng cái tên đó thật chẳng ra gì, nhưng hoặc là có nhân vật quan trọng nào đấy đã chọn nó hoặc là họ đã ghi cả ra trên giấy tờ rồi nên họ từ chối không động gì tới nó hết. Tên của nó là Củi khô, có thế thôi, Tom.
Bản thân chiến dịch, ít nhất theo thông tin chính thức, là một kế hoạch phổ biến, thường là để thâm nhập vào trong một nhóm khủng bố, và, một khi đã vào được rồi, nó sẽ phá rối cuộc sống của bọn chúng, cuộc sống của những kẻ cung cấp, những kẻ tài trợ, những kẻ đồng cảm và yêu quý chúng, ở mức cao nhất có thể. Chẳng có gì quá đặc biệt. Các nhóm tình báo trên khắp thế giới luôn cố gắng không ngừng làm những chuyện như thế, với mức độ thất bại khác nhau.
Sợi thừng thứ hai, sợi Sarah, sợi Barnes, Murdah, Sau Đại học, tất cả là về việc bán trực thăng cho những chính phủ chuyên chế thối nát, và tôi đặt cho nó một cái tên riêng do tôi tự chọn. Tôi gọi nó là Ôi Chúa. Cả hai sợi gặp nhau ở Praha.
Theo kế hoạch, tôi bay vào đêm thứ Sáu, như vậy có nghĩalà còn sáu ngày tập huấn với tụi Mỹ và năm đêm uống trà cùng Ronnie, cầm tay Ronnie.
Anh chàng Philip đã bay tới Praha ngay hôm tôi gần như làm gãy cổ tay anh ta, để làm vài thương vụ cỡ bự với những người cách mạng nhung, và anh ta bỏ Ronnie lại mặc cho cô bối rối và khổ sở. Cuộc sống của cô không phải là một đường trượt siêu tốc đầy cảm hứng trước khi tôi xuất hiện, nhưng nó cũng không hẳn là một cái giá chứa đầy những nỗi đau, và cú nhảy đột ngột vào thế giới những vụ khủng bố và ám sát, cùng với một mối quan hệ đang tan vỡ nhanh chóng không thể nào là thứ làm cho một phụ nữ cảm thấy thoải mái cho được.
Tôi đã từng hôn cô một lần.
Quá trình tập huấn của nhóm Củi Khô được tiến hành trong một lâu đài ba mươi phòng xây gạch đỏ ngay bên ngoài Henley. Nó có khoảng hai dặm vuông sàn lát gỗ mà cứ ba tấm gỗ lát lại có một tấm cong vênh lên vì ẩm, và chỉ có một bồn vệ sinh là xả nước được tử tế.
Họ mang tới đồ đạc mới, vài cái bàn cái ghế cùng một vài chiếc giường dã chiến, và cứ quăng bừa khắp nhà mà chẳng tính toán gì nhiều. Hầu hết thời gian của tôi là ở trong phòng vẽ, xem thuyết trình, nghe băng, ghi nhớ trình tự tiếp xúc, và đọc về cuộc sống của người làm nông trại ở Minnesota. Tôi không thể nói là chẳng khác gì quay lại trường phổ thông, bởi vì họ bắt tôi học vất vả hơn cả hồi còn đi học, nhưng cái không khí quen thuộc đến kỳ cục thì đâu vẫn thế.
Hằng ngày tôi tới đó bằng chiếc Kawasaki mà họ đã thu xếp sửa cho. Họ muốn tôi ở lại qua đêm, nhưng tôi nói với họ rằng tôi cần vài chầu cho đã ở Luân Đôn trước khi đi, và dường như họ thích điều đó. Người Mỹ tôn trọng lòng yêu nước.
Bảng phân vai cứ thay đổi liên tục, và không bao giờ ít hơn sáu vai. Một người làm việc vặt tên Sam, Barnes thì cứ đi ra đi vào, một vài Carl quẩn quanh ở trong bếp, uống trà thảo mộc và chơi lên xà ở lối ra vào. Và rồi có những tay chuyên gia.
Tay đầu tiên tự xưng là Smith, có lẽ tôi không tin hắn cho lắm. Hắn nhỏ người nhưng béo, đeo kính và mặc gi lê chật cứng, nói nhiều về những năm 60 và 70, những ngày tháng vàng son của khủng bố nếu như anh cùng cạ với hắn - mà điều đó thì dường như bao gồm việc bám chân các thành viên của Nhóm Hồng quân và hộ tống các chiến binh Lữ đoàn đỏ đi khắp thế giới giống như cô gái mới lớn bám theo chuyến lưu diễn của Jackson Five vậy. Áp phích, phù hiệu, ký tặng ảnh, bao nhiêu là thứ.
Những người làm cách mạng theo tư tưởng Mác đối với Smith là cả một thất vọng lớn, hầu hết bọn họ đã thôi không làm cách mạng nữa mà kiếm cho mình những khoản vay và bảo hiểm nhân thọ từ đầu những năm 80, cho dù những người theo Lữ đoàn đỏ ở Ý thi thoảng vẫn họp nhau để ca lại những bài hát cũ. Đảng Con đường sáng và những tổ chức như thế ở Trung và Nam Mỹ cũng không phải kiểu của Smith. Chúng cứ như đàn gảy tai trâu, chẳng đáng nhắc tới. Tôi buông vài câu hỏi gợi chuyện về Quân đội Cộng hòa Ireland, nhưng Smith bèn cười nhăn nhở và chuyển chủ đề.
Tiếp theo tới Goldman, cao gầy, thích thú với chuyện ông ta không thích công việc của mình. Nghề nghiệp của Goldman trước kia dường như mang tính nghi thức. Ông ta luôn có phương cách đúng và phương cách sai khi làm bất cứ việc gì, từ gác ống nghe điện thoại cho tới liếm nước bọt lên tem, và ông ta không thể chịu được những sai lệch. Goldman bảo tôi rằng từ rày về sau tôi sẽ được gọi bằng tên Durrell. Tôi hỏi ông ta liệu tôi có được tự chọn tên cho mình không, thì ông ta đáp không, Durrell đã được điền vào trong hồ sơ Điệp vụ Củi khô. Tôi hỏi ông ta đã từng nghe đến Tippex bao giờ chưa, ông ta liền trả lời đó là một cái tên ngớ ngẩn, tốt hơn là tôi nên tập cho quen với cái tên Durrell.
Travis là chuyên gia đánh tay bo; khi họ bảo anh ta rằng anh ta chỉ có một giờ với tôi, anh ta chỉ thở dài, nói “mắt và bộ hạ,” rồi biến mất tăm.
Vào ngày cuối cùng, những người lập kế hoạch tới; hai đàn ông và hai đàn bà, ăn mặc như nhân viên ngân hàng và mang những chiếc cặp lớn. Tôi cố tán tỉnh mấy người đàn bà nhưng họ chẳng hào hứng chút nào. Người lùn hơn trong hai người đàn ông thì lại có vẻ thích thú. Người cao hơn, Louis, tỏ ra thân thiện nhất trong bốn người, và cũng là người nói chính. Ông ta có vẻ hiểu những thứ của mình, mà không khi nào thực sự nói ra những thứ của mình là gì, đó là một cách để cho thấy ông ta hiểu những thứ của mình đến chừng nào. Ông ta gọi tôi là Tom.
Có một điều, và chỉ một điều, có thể thấy rõ ràng từ tất cả những cái đó. Củi khô không phải chỉ là do một phút ngẫu hứng của ai kia, và những người này không phải chỉ ngồi lại cùng nhau một ngày trước đó với quyển sách của Ladybird về khủng bố quốc tế. Nó đã được vận hành từ nhiều tháng trước khi tôi bị lôi ra nước ngoài.
“Kintex có ý nghĩa gì với anh không, Tom?” Louis gác tréo chân và nghiêng ra trước về phía tôi giống như kiểu của David Frost.
“Không, Louis,” tôi nói. “Tôi là một tờ giấy trắng.” Tôi châm thêm một điếu thuốc nữa cốt để chọc tức họ.
“Thế cũng không sao. Điều đầu tiên anh nên biết, và tôi đoán là anh đã biết rồi: không còn tồn tại những kẻ mơ mộng trên thế giới này.”
“Ngoại trừ ông và tôi, Louis.”
Một trong hai người phụ nữ nhìn đồng hồ đeo tay.
“Đúng thế, Tom,” ông ta nói. “Anh và tôi. Nhưng những chiến sĩ đấu tranh cho tự do, những người giải phóng, những kiến trúc sư của bình minh thời đại mới, tất cả những thứ kiểu như thế đã ra đi giống như mốt quần ống loe rồi. Khủng bố thời nay là đám thương gia.” Một người phụ nữ hắng giọng, đâu đó phía sau căn phòng. “Và những nữ thương gia. Và khủng bố là một nghề ngon lành cho các cậu choai choai thời nay. Thật đấy. Nhiều triển vọng, được đi đây đi đó, phí tổn đi lại người khác lo, được nghỉ hưu sớm. Nếu mà tôi có một thằng con trai, tôi sẽ bảo nó hoặc theo ngành luật hoặc đi làm khủng bố. Hãy chấp nhận thực tế: có khi khủng bố còn ít gây hại hơn.”
Đó là một câu chuyện đùa.
“Có thể anh sẽ băn khoăn rằng tiền ở đâu mà có?” Ông ta nhướng mày nhìn tôi, và tôi gật đầu giống như người dẫn chương trình truyền hình thiếu nhi. “Có những người xấu, người Syria, người Libya, người Cuba, những người vẫn đang xem khủng bố như một nền công nghiệp quốc gia. Thỉnh thoảng họ viết những tờ ngân phiếu mệnh giá lớn, và nếu như kết quả là cửa sổ Đại sứ quán Mỹ bị một hòn gạch ném vào thì họ sẽ lấy làm vui sướng. Nhưng trong khoảng mười năm trở lại đây có vẻ họ đã lùi một bước. Ngày nay, lợi nhuận là yếu tố cơ bản, và khi nói về lợi nhuận, mọi ngả đường đều dẫn tới Bungari.”
Ông ta ngồi lại xuống ghế và đó là lời nhắc cho một trong hai người phụ nữ bước lên đọc một kẹp hồ sơ, mặc dù rõ ràng cô ta biết mình đã thuộc nằm lòng và chỉ giữ cái kẹp hồ sơ cho tiện tay thôi.
“Kintex,” cô ta đã bắt đầu, “về danh nghĩa là một đại lý thương mại quốc doanh, trụ sở ở Sofia, nơi năm trăm hai mươi chín người được tuyển dụng làm xuất nhập khẩu. Một cách lén lút, Kintex điều khiển tới tám mươi phần trăm lượng ma túy vận chuyển từ Trung Đông sang Tây Âu và Bắc Mỹ, thường xuyên trao đổi lấy vũ khí hợp pháp và bất hợp pháp rồi bán lại cho các nhóm nổi loạn ở Trung Đông. Tương tự, hêrôin cũng được bán lại cho những đường dây vận chuyển riêng ở Trung và Tây Âu. Những người liên quan đến các hoạt động trên hầu hết không phải người Bungari, nhưng được trang bị nhà kho và trang thiết bị ở Varna và Burgas trên Biển Đen. Kintex, dưới cái tên hoạt động mới là Globus, cũng tham gia rửa tiền có được từ việc buôn bán ma túy trên khắp châu Âu, đổi tiền lấy vàng và đá quý đem phân phối lại tiền cho khách hàng thông qua chuỗi hoạt động thương mại ở Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Âu.”
Cô ta ngẩng lên nhìn Louis để xem ông ta có muốn nghe nữa không, nhưng Louis nhìn tôi, thấy mắt tôi đã hơi đờ ra, ông ta liền khẽ lắc đầu.
“Những anh bạn thật tuyệt, phải không?” Ông ta nói. “Họ cũng là người đã cấp súng cho Mehmet Ali Agca.” Điều đó cũng chẳng có nghĩa nhiều lắm đối với tôi. “Bắn một phát vào Giáo hoàng John Paul năm 81. Cũng tạo được mấy dòng tít đấy.”
Tôi “à, vâng” và ngúc ngoắc đầu để cho thấy tôi bị ấn tượng thế nào.
“Kintex,” ông ta tiếp tục, “là cửa hàng mà anh có thể mua mọi thứ, Tom. Anh muốn gây rắc rối ở đâu đó trên thế giới, phá hủy vài đất nước, lấy đi vài triệu mạng sống, vậy anh chỉ cần cầm thẻ tín dụng rồi thẳng đường mà tới Kintex. Chẳng ai cạnh tranh được với giá cả của họ.”
Louis đang cười, nhưng tôi dám nói rằng ông ta đang bừng bừng căm giận. Bởi thế tôi nhìn quanh phòng, và tôi khá chắc chắn rằng ba người kia cũng có cái vòng lửa nhiệt huyết đó xung quanh đầu họ.
“Và Kintex,” tôi nói, thống thiết hy vọng rằng họ sẽ trả lời ‘không’, “là những người mà Alexander Woolf đã giao thiệp phải không?”
“Đúng,” Louis nói.
Đó chính là lúc và cũng là lý do tại sao tôi nhận ra, trong một khoảnh khắc hết sức tệ hại, rằng không ai trong những người này, kể cả Louis, có một chút khái niệm mơ hồ nào về chuyện Sau Đại học thực sự là gì hoặc Điệp vụ Củi khô thực ra nhằm đạt được điều gì. Những người này thực sự nghĩ họ đang chiến đấu trong một cuộc chiến chính nghĩa chống bọn khủng bố được tài trợ bằng tiền buôn lậu ma túy, hay khủng bố ma túy, hay bất cứ cách gọi quái quỷ nào người ta dùng gọi nó, nhân danh một chú Sam nhân từ và bà cô Phần Còn lại Của Thế giới. Đây là một điệp vụ bình thường của CIA, chẳng có gì là khác thường cả. Họ đang đưa tôi vào một nhóm khủng bố hạng hai với hy vọng đơn giản, không một chút lấn cấn, rằng tôi sẽ núp vào một cái hộp điện thoại vào một buổi tối rảnh rỗi và trao cho họ thật nhiều những cái tên và địa chỉ.
Tôi đang được những giáo viên mù dạy lái xe, và ý thức về điều đó làm tôi hơi run một chút.
Họ lập ra một kế hoạch thâm nhập và bắt tôi nhắc lại từng giai đoạn của nó đến cả triệu lần. Tôi nghĩ, bởi vì tôi là người Anh nên họ lo rằng tôi không thể lưu giữ được nhiều hơn một ý nghĩ trong đầu mình cùng một lúc, nên khi thấy tôi tiếp thu cả đống khá dễ dàng, họ vỗ lưng nhau mà nói “làm tốt lắm”.
Sau một bữa tối chán ngoét với thịt viên và Lambrusco, được phục vụ bởi một anh chàng Sam nom rầu rĩ, Louis và các đồng sự của ông ta gói ghém va li, lắc lắc tay tôi và gật đầu một cách đầy hàm ý, trước khi họ trèo vào xe và xuôi về con đường gạch vàng. Tôi không buồn vẫy tay.
Thay vào đó, tôi nói với bọn Carl là tôi sẽ đi dạo, rồi bước xuyên qua khu vườn sau ngôi nhà, ở đó có một bãi cỏ chạy dài tới bờ sông và khung cảnh đẹp nhất có thể thấy trên suốt cả chiều dài sông Thames.
Đó là một đêm ấm áp, trên bờ sông phía bên kia các cặp tình nhân trẻ tuổi và những người lớn tuổi dắt chó đi dạo vẫn thong dong bước. Một vài chiếc ca nô được buộc lại gần đó, nước vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền, các cửa sổ chiếu ra một thứ ánh sáng màu vàng dịu mắt và mời mọc. Người ta đang cười, và tôi có thể ngửi thấy mùi xúp đóng hộp của họ.
Tôi đang ngập trong đống phân.
Barnes đến ngay sau nửa đêm, và ông ta trông khác hẳn so với lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Những thứ đồ Brooks Brothers đã không còn nữa, giờ đây trông ông ta như có vẻ đã sẵn sàng chui vào rừng rậm Nicaragua ngay khi có tiếng bom rơi. Quần kaki, sơ mi xanh đậm, ủng Red Wing. Một chiếc đồng hồ kiểu quân sự với quai vải bố đã thế chỗ chiếc đồng hồ thời trang Rolex. Tôi có cảm giác rằng xém chút nữa thôi là ông ta sẽ ngồi xuống trước gương mà táp phấn ngụy trang vào mặt. Những nếp hằn hiện rõ hơn bao giờ hết.
Ông ta bảo mấy gã Carl lui đi và hai chúng tôi ngồi trong phòng vẽ, ở đó ông ta lục ra một nửa chai rượu Jack Daniels, một hộp Malboro và chiếc bật lửa Zippo vẽ sơn ngụy trang.
“Sarah thế nào?” Tôi hỏi.
Cảm giác như đó là một câu hỏi ngờ nghệch, nhưng tôi vẫn phải hỏi. Cuối cùng thì cô là nguồn cơn khiến tôi làm tất cả những điều này - và giả như cô đã bị chèn dưới bánh xe buýt sáng nay hoặc bị chết vì sốt rét thì chắc chắn tôi sẽ bỏ vụ này. Không phải chỉ để Barnes trả lời rằng liệu cô có bị như thế hay không, mà còn để xem tôi có thể nhận được điều gì từ khuôn mặt ông ta khi ông ta trả lời.
“Tốt,” ông ta nói. “Cô ấy ổn cả.” Ông ta rót rượu vào hai cốc, và đẩy một cốc trên sàn gỗ tới trước mặt tôi.
“Tôi muốn nói chuyện với cô ấy,” tôi nói. Ông ta không mảy may phản ứng. “Tôi cần biết rằng cô ấy vẫn ổn. Vẫn còn sống và vẫn ổn.”
“Tôi nói với ông là cô ấy ổn mà.” Ông ta tu một ngụm.
“Tôi biết là ông nói với tôi thế,” tôi nói. “Nhưng ông là một thằng thần kinh, lời nói của ông chẳng đáng để chùi chân.”
“Tôi cũng không thích gì ông, Thomas.”
Chúng tôi đang ngồi đối diện nhau, uống rượu hút thuốc, nhưng không khí đã trầm xuống theo kiểu quan hệ điệp viên- người chỉ đạo, và còn tệ hơn ngay sau đó.
“Ông có biết vấn đề của ông là gì không?” Một lúc sau Barnes nói.
“Tôi biết rất rõ vấn đề của mình. Nó mua quần áo từ một catalogue của L.L. Bean, và hiện đang ngồi đối diện với tôi.”
Ông ta vờ không nghe thấy. Có thể ông ta không nghe thấy thật.
“Vấn đề của ông, Thomas ạ, là ông là người Anh.” Ông ta bắt đầu quay đầu theo một đường kỳ quặc. Thi thoảng một cái xương trong cổ ông ta lại kêu “cậc” một cái, hình như điều đó làm cho ông ta sảng khoái. “Những điều không ổn ở ông cũng là những gì không ổn ở cái hòn đảo bô đái tồi tàn này.”
“Chờ một phút,” tôi nói. “Chờ nguyên một phút, một phút tròn trịa đã nào. Chẳng thể nào. Chẳng lẽ nào một thằng lợn người Mỹ lại đang nói với tôi về điều gì đó sai trái nơi cái đất nước này.”
“Dái thọt mất rồi, Thomas. Ông không có. Cái đất nước này không có. Có thể ông đã từng có, nhưng ông đánh mất nó rồi. Tôi không biết nữa, mà cũng chẳng quan tâm mấy.”
“Này Rusty, cẩn thận đấy nhé,” tôi nói. “Tôi nên nhắc ông rằng ở đây người ta dùng từ đó để chỉ sự dũng cảm. Chúng tôi không hiểu trong tiếng Mỹ nó nghĩa là gì, người Mỹ luôn to mồm và dựng chim lên mỗi lần nói ‘Delta’, ‘tấn công’ và ‘đá đít’. Có sự khác biệt văn hóa đáng kể ở đây. Và khi nói về khác biệt văn hóa,” tôi thêm vào, bởi vì tôi phải thú thực là máu tôi đang nóng lên, “chúng tôi không có ý nói sự bất đồng về các giá trị. Ý chúng tôi là lấy cái bàn chải sắt mà đụ mẹ nhà các ông.”
Ông ta phá ra cười. Đó không phải là phản ứng mà tôi mong đợi. Tôi đã mong ông ta sẽ đánh tôi, nếu thế thì tôi có thể đấm vào cổ họng ông ta rồi thanh thản biến vào bóng đêm.
“Chà, Thomas,” ông ta nói, “Tôi hy vọng chúng ta đã xả hơi được một chút. Hy vọng giờ ông cảm thấy dễ chịu hơn rồi.”
“Dễ chịu hơn rất nhiều, cảm ơn,” tôi nói.
“Tôi cũng thế.”
Ông ta đứng dậy để tiếp đầy rượu vào cốc của tôi, rồi thả bao thuốc và cái bật lửa vào lòng tôi.
“Thomas, tôi sẽ nói thẳng nhé. Lúc này không thể gặp, hoặc nói chuyện với Sarah Woolf. Đơn giản là không thể. Nhưng đồng thời, tôi không mong chờ ông sẽ nhón tay làm gì cho tôi trừ khi ông đã nhìn thấy cô ấy. Thế nào? Như thế nghe sòng phẳng với ông chứ?”
Tôi nhấp một ngụm rượu và lấy một điếu thuốc từ trong bao.
“Các ông không giữ cô ấy, phải không?”
Ông ta lại cười. Dù sao tôi cũng phải kết thúc chuyện này.
“Tôi chưa từng nói là chúng tôi giữ cô ấy, Thomas. Ông nghĩ gì thế, rằng chúng tôi buộc cô ấy vào chân giường ở một chỗ nào đó sao? Thôi nào, hãy dành cho chúng tôi một chút tín nhiệm được không? Chúng tôi làm để kiếm miếng ăn, ông biết đấy. Chúng ta không cùng quan điểm về chuyện này.” Ông ta thả người xuống ghế và lại tiếp tục bài giãn gân cốt cổ, và tôi ước gì có thể giúp ông ta chuyện đó. “Sarah ở nơi mà chúng tôi có thể tới được khi chúng tôi cần. Hiện giờ, khi ông đang như một cậu nhóc người Anh ngoan ngoãn, chúng tôi không cần thiết phải làm việc đó. Được chưa?”
“Không, không được.” Tôi dụi mẩu thuốc và đứng dậy. Điều đó dường như cũng chẳng làm Barnes bận tâm. “Tôi phải gặp cô ấy, chắc chắn rằng cô ấy ổn, bằng không tôi sẽ không làm chuyện này. Không chỉ không làm chuyện này, tôi thậm chí còn có thể giết ông chỉ để chứng tỏ rằng tôi sẽ không làm. Được chưa?”
Tôi bắt đầu lừ lừ tiến lại phía ông ta. Tôi nghĩ rằng ông ta sẽ kêu to để gọi bọn Carl, nhưng điều đó không làm tôi lo lắng. Nếu như chuyện đó xảy ra, tôi chỉ cần vài giây - trong khi bọn Carl phải cần đến cả tiếng để vác những cái thân xác lố bịch kia vào vị trí chiến đấu. Rồi tôi nhận ra tại sao ông ta lại vẫn thoải mái đến thế.
Ông ta buông tay xuống chiếc cặp da cạnh sườn, và ánh kim loại sáng màu lóe lên khi cái tay nhấc lên. Đó là một khẩu súng lớn, và ông ta cầm nó lỏng lẻo ngay trước đũng quần, hướng thẳng vào ức tôi, cách khoảng hơn hai mét.
“Chà, Chúa ơi,” tôi nói. “Ông đang dựng lên à, ông Barnes. Chẳng phải là ông đang ôm khẩu Colt Delta Elite ở bụng sao?”
Lần này thì ông ta không trả lời. Chỉ nhìn.
“Mười milimét,” tôi nói. “Một khẩu súng cho những kẻ có hòn dái bé hoặc ít có niềm tin vào khả năng bắn trúng giữa mục tiêu.”
Tôi đang phân vân làm sao vượt qua khoảng cách hơn hai mét ấy mà không bị ông ta bắn một phát gọn gàng. Sẽ không dễ, nhưng hoàn toàn có thể. Miễn là phải có can đảm. Trước và sau khi kết thúc sự việc.
Hẳn ông ta đánh hơi thấy tôi đang nghĩ gì, bởi vì ông ta lên cò súng. Rất chậm rãi. Nó tạo ra một tiếng cạch rất vừa ý, tôi phải thừa nhận thế.
“Ông biết loại đạn Glaser chứ, Thomas?” Ông ta nói nhẹ nhàng, gần như mơ màng.
“Không, Rusty,” tôi nói, “Tôi không biết đạn Glaser thế nào. Nghe có vẻ như đây là dịp để ông làm tôi chết vì buồn chán thay vì bắn tôi chết. Xin cứ việc.”
“Thomas, đầu đạn của Glaser Safety Slug là một cái chén nhỏ làm bằng đồng. Đổ đầy đạn chì trong teflon lỏng.” Ông ta chờ cho tôi tiếp nhận điều đó, biết rằng tôi sẽ hiểu nó có ý nghĩa gì. “Khi tác động, Glaser sẽ đảm bảo chuyển tải chín mươi lăm phần trăm năng lượng của nó lên mục tiêu. Không xuyên qua, không bật lại, chỉ có sức mạnh quật ngã ghê gớm.” Ông ta dừng lại, nhấp một hớp whisky. “Những cái lỗ to, rất to trên người ông.”
Hẳn chúng tôi đã như thế trong một thời gian khá lâu. Barnes nhấm nháp whisky, còn tôi thì nhấm nháp cuộc đời. Tôi có thể thấy thân mình đang đổ mổ hôi và xương bả vai đã bắt đầu ngứa ngáy.
“Được thôi,” tôi nói. “Có thể tôi sẽ không cố giết ông lúc này.”
“Rất vui khi nghe điều đó,” một lúc lâu sau Barnes nói, nhưng khẩu Colt vẫn không dịch chuyển.
“Khoét một lỗ to trên người tôi cũng chẳng giúp ông được nhiều.”
“Cũng chẳng làm tôi đau đớn gì.”
“Barnes, tôi cần phải nói chuyện với cô ấy,” tôi nói. “Cô ấy là lý do tại sao tôi ở đây. Nếu tôi không được nói chuyện với cô ấy thì chả có nghĩa lý gì.” Thêm vài trăm năm nữa trôi qua, và rồi tôi bắt đầu nghĩ Barnes đang cười. Nhưng tôi không hiểu tại sao cũng như khi nào thì ông ta bắt đầu cười. Nó giống như ngồi trong rạp chiếu phim trước khi tới phần phim chính, phân vân tự hỏi đèn đã thật sự tắt hay chưa.
Và rồi nó đập vào tôi. Đúng hơn là mơn trớn tôi. Mùi hương Fleur de Fleurs của hãng Nina Ricci, nồng độ một phần tỷ.
Chúng tôi bước xuống bờ sông. Chỉ có hai chúng tôi. Bọn Carl đang đi đâu quanh đó, nhưng Barnes đã bảo họ giữ khoảng cách và họ làm như vậy. Mặt trăng đã nhô lên, trải ánh bạc trên mặt nước cho tới chỗ chúng tôi ngồi, chiếu sáng mặt cô bằng thứ ánh sáng lóng lánh yếu ớt.
Sarah trông thảm thương nhưng vẫn thật tuyệt vời. Cô đã sụt cân một chút, và cô đã khóc quá nhiều. Họ nói với cô rằng bố cô đã chết mười hai tiếng trước đó, và vào khoảnh khắc ấy tôi muốn quàng tay ôm cô, hơn tất cả những gì tôi từng muốn trong đời. Nhưng có gì đó không đúng. Tôi không biết tại sao.
Chúng tôi ngồi im lặng một lúc, nhìn ra mặt nước xa xa. Những chiếc ca nô đã tắt đèn, người ta phủ vải bạt lên chúng từ lâu rồi. Ở hai bên vệt trăng, dòng sông tối đen và yên tĩnh.
“Này,” cô nói.
“Vâng,” tôi nói.
Lại một khoảng yên lặng dài, trong khi chúng tôi nghĩ về những điều phải nói. Nó như một cục bê tông tròn lớn mà anh biết mình sẽ phải nhấc lên. Anh bước xung quanh nó, bước hoài, tìm một chỗ để nắm, nhưng không có.
Sarah thử trước.
“Hãy nói thật nhé. Ông đã không tin chúng tôi, phải không?”
Cô gần như cười, bởi vậy tôi suýt trả lời rằng cô đã từng không tin là tôi không định giết bố cô. Tôi dừng lại kịp lúc.
“Đúng, tôi đã không tin,” tôi nói.
“Ông nghĩ chúng tôi chỉ làm trò cười. Giống như hai người Mỹ nửa đêm gặp ma.”
“Cũng từa tựa thế.”
Cô lại bắt đầu khóc, và tôi ngồi chờ cho cơn xúc động qua đi. Khi nó đã qua rồi, tôi châm hai điếu thuốc, đưa cô một điếu. Cô rít thật sâu, rồi cứ vài giây lại gẩy chỗ tàn thuốc không có thật xuống dòng sông. Tôi nhìn cô mà vờ như không nhìn.
“Sarah này,” tôi nói. “Tôi rất tiếc. Về mọi thứ. Về mọi thứ đã xảy ra. Và tiếc cho cô. Tôi muốn...” Tôi thật không thể nào nghĩ được điều đúng đắn để nói. Tôi chỉ cảm thấy mình nên nói gì đó. “Về mặt nào đó, tôi muốn làm mọi việc cho đúng. Tôi muốn nói là, tôi biết bố cô...”
Cô ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười, bảo tôi đừng lo.
“Nhưng luôn luôn có một lựa chọn,” tôi lắp ba lắp bắp, “giữa việc làm điều đúng đắn và làm điều sai trái, bất chấp điều gì đã xảy ra. Và tôi muốn làm điều đúng đắn. Cô hiểu chứ?”
Cô gật đầu. Đó là một điều quá tốt ở cô, bởi tôi chẳng có chút khái niệm nào dù mơ hồ nhất về chuyện thật ra ý tôi muốn nói gì. Tôi có quá nhiều điều để nói, nhưng bộ óc lại quá nhỏ không sao sắp xếp được chúng. Bưu điện ba ngày trước Giáng sinh, đó là cái đầu tôi lúc này đây.
Cô thở dài.
“Ông ấy là người tốt, Thomas ạ.”
Chà, phải nói gì bây giờ?
“Tôi biết ông ấy là người tốt,” tôi nói. “Tôi quý ông.” Điều đó là thật.
“Tôi không thật sự biết điều đó cho đến năm ngoái,” cô nói. “Chúng ta không hay nghĩ cha mẹ mình là người thế nào, phải không? Tốt hay xấu. Họ có đó thì vẫn có đó thôi.” Cô dừng lại. “Cho tới khi họ không còn nữa.”
Chúng tôi nhìn dòng sông một lúc. “Bố mẹ ông còn sống chứ?”
“Không,” tôi nói. “Bố tôi mất khi tôi mười ba. Đau tim. Mẹ tôi thì qua đời bốn năm trước.”
“Tôi rất tiếc.”
Tôi không thể tin được. Cô đang lịch sự, dù cho tất cả những chuyện này...
“Cũng không sao,” tôi nói. “Lúc đó bà sáu mươi tám tuổi rồi.”
Sarah nghiêng người về phía tôi và tôi nhận ra rằng mình đang nói rất khẽ. Tôi không chắc tại sao. Có thể bởi vì đó là sự tôn trọng nỗi đau buồn của cô, hoặc có lẽ tôi không muốn giọng nói của mình phá vỡ sự điềm tĩnh mà cô đang có.
“Ông có kỷ niệm đáng nhớ nào về mẹ mình không?”
Đó không phải là một câu hỏi buồn. Nghe như cô thực sự muốn biết, như thể cô đang sẵn sàng thưởng thức câu chuyện về thời thơ ấu của tôi.
“Kỷ niệm đáng nhớ.” Tôi nghĩ ngợi một lúc. “Hằng ngày, giữa bảy giờ và tám giờ tối.”
“Tại sao?”
“Bà uống gin tăng lực. Bảy giờ đúng. Chỉ một cốc. Và trong một giờ bà trở thành người phụ nữ hạnh phúc nhất, vui tính nhất mà tôi từng biết.”
“Thế còn sau đó?”
“Buồn,” tôi nói. “Chẳng có từ nào khác cả. Bà là một phụ nữ buồn, mẹ tôi ấy. Buồn vì bố tôi, và buồn vì bản thân bà. Giá tôi như là bác sĩ của bà, chắc tôi sẽ kê đơn cho bà uống rượu gin sáu lần một ngày.” Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng chừng muốn khóc. Rồi nó qua đi. “Thế còn cô?”
Cô không phải nghĩ quá nhiều về chuyện của mình, nhưng cô vẫn chờ, đùa với nó trong đầu mình và việc đó khiến cô mỉm cười.
“Tôi không có nhiều kỷ niệm hạnh phúc với mẹ của tôi. Khi tôi lên mười hai bà ấy bắt đầu ngủ với tay huấn luyện viên quần vợt của mình rồi mùa hè năm sau thì biến mất. Điều tốt nhất từng đến với chúng tôi là,” và cô nhắm mắt lại trong sự ấm áp của ký ức, “bố tôi đã dạy anh trai tôi và tôi chơi cờ. Khi chúng tôi lên tám, chín gì đó. Michael chơi tốt, tiếp thu rất nhanh. Tôi cũng chơi khá, nhưng Michael chơi tốt hơn. Nhưng khi chúng tôi học chơi, bố tôi thường chơi chấp Hậu. Ông luôn lấy quân đen và luôn đánh không có Hậu. Khi Michael và tôi chơi tiến bộ hơn, ông cũng không bao giờ lấy lại quân đó. Vẫn cứ chơi không Hậu, thậm chí khi Michael có thể hạ bố tôi chỉ sau mười nước. Cho tới khi Michael có thể chơi không có Hậu mà vẫn thắng. Nhưng bố tôi vẫn cứ tiếp tục, thua hết ván này tới ván khác, và không một lần nào chơi với đầy đủ quân trên bàn cờ.”
Cô cười to, toàn thân cử động, và những cử động ấy khiến cô phải duỗi người ra sau, tựa trên hai khuỷu tay.
“Vào sinh nhật thứ năm mươi của bố, Michael tặng ông một con Hậu đen, đựng trong chiếc hộp nhỏ bằng gỗ. Ông đã khóc. Thật lạ khi thấy bố mình khóc. Nhưng tôi nghĩ ông đã rất vui được thấy chúng tôi học hỏi, mạnh lên cứng cáp lên, ông không bao giờ muốn mất đi cái cảm giác đó. Ông muốn chúng tôi chiến thắng.”
Rồi, đột nhiên, nước mắt ùa ra như một cơn sóng khổng lồ, xô vào cô làm rung tấm thân mảnh dẻ của cô cho tới lúc cô hầu như không còn thở được. Tôi nằm xuống, vòng tay quanh cô, siết cô thật chặt để che chắn cho cô khỏi mọi thứ.
“Sẽ ổn thôi,” tôi nói. “Tất cả mọi thứ rồi sẽ ổn.”
Nhưng tất nhiên chẳng ổn chút nào. Còn xa mới ổn.
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm