Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Phi Trường
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Phần II 05
K
hông, Mel Bakersfeld quyết định, tối nay ông không thể vào thành phố được.
Mel đang ở trong văn phòng của ông trên tầng lửng hành chính. Những ngón tay ông gõ nhịp trên mặt bàn, từ nơi này ông gọi đi và nhận được những báo cáo mới nhất về tình hình hoạt động của sân bay.
Đường băng 3-0 vẫn chưa sử dụng được, vẫn bị chặn bởi chiếc phản lực Aéreo-Mexican. Do đó, tình hình đường băng chung hiện nay rất nghiêm trọng và tình trạng chậm trễ giao thông - cả trên không và trên mặt đất - đang trở nên tồi tệ. Trong vài giờ tới, khả năng phải tuyên bố đóng cửa sân bay một thời gian là rất có thể.
Trong khi đó, máy bay vẫn đang tiếp tục cất cánh trên Meadowood, vốn là một tổ ong vò vẻ. Tổng đài sân bay, cũng như đài KSKL, đang bị ngập trong những cuộc gọi phàn nàn cay cú từ các gia đình ở Meadowood - lúc này đang ở nhà. Mel đã được thông báo về cuộc họp phản đối vào tối nay, là rất nhiều người đã có mặt; và bây giờ có một tin đồn - mà người chỉ huy tháp KSKL đã thông báo vài phút trước - rằng một cuộc biểu tình công khai nào đó đã được lên kế hoạch, sẽ diễn ra tại sân bay tối nay.
Đúng là chỉ còn thiếu đám người biểu tình nữa thôi, Mel buồn bã nghĩ thầm.
Một điều tốt là tình trạng báo động cấp ba vừa được công bố kết thúc, do chiếc máy bay quân sự KC-135, đã hạ cánh an toàn. Nhưng một trường hợp khẩn cấp đã kết thúc là không có gì đảm bảo sẽ không bắt đầu một trường hợp khẩn cấp khác. Mel vẫn không quên sự bất an mơ hồ, tình trạng nguy hiểm mà ông cảm thấy khi ở ngoài sân bay một giờ trước. Cái cảm giác khó xác định và khó giải thích ấy vẫn không rời bỏ ông. Ngay cả khi không có nó, các tình huống khác cũng đủ để yêu cầu ông ở lại đây.
Tất nhiên Cindy - lúc này vẫn đang chờ đợi ông tại buồi dạ hội từ thiện - sẽ gây ra cả địa ngục vào ông. Nhưng dù sao thì cô đã giận rồi, vì ông đến muộn; nên nếu ông có hoàn toàn không đến, thì cũng chỉ làm cô ta giận hơn chút nữa thôi; ông sẽ phải chuẩn bị tinh thần để chịu đựng cơn thịnh nộ. Ông cho rằng ông cũng có sự sai sót đầu tiên của Cindy. Tờ giấy ghi số điện thoại trong thành phố nơi ông phải gặp vợ vẫn còn trong túi. Ông lấy nó ra và quay số.
Cũng như lần trước, phải đợi mất vài phút để Cindy đến nghe điện thoại, và thật đáng ngạc nhiên, không có ngọn lửa nào như cô đã thể hiện trong cuộc trò chuyện lần trước đó, chỉ có một cơn lạnh băng giá. Cô im lặng lắng nghe lời giải thích của Mel - tại sao ông cần thiết phải ở lại sân bay. Và khi sự bùng nổ chờ đợi không xảy ra, điều mà ông không ngờ tới, ông thấy mình lúng túng, với những lời khó khăn không hoàn toàn thuyết phục. Do đó ông đột ngột dừng lại.
Một phút im lặng trước khi có tiếng Cindy lạnh lùng hỏi, “Anh nói xong chưa?”.
“Xong rồi”.
Cô ta nói nghe như đang nói chuyện với một người khó chịu và xa cách. “Tôi không ngạc nhiên, vì tôi không mong đợi anh sẽ đến. Khi anh nói anh sẽ đến, tôi cho rằng anh đang nói dối như thường lệ”.
Ông nói nóng nảy, “Tôi không nói dối, và nó không như thường lệ. Tôi đã nói với cô mới đây, bao nhiêu lần tôi đã...”
“Tôi nghĩ anh vừa bảo anh đã nói xong rồi”.
Mel dừng lại. Cãi nhau làm gì? Ông thừa nhận một cách mệt mỏi, “Cô nói tiếp đi”.
“Tôi đã cố nói khi anh ngắt lời tôi - cũng giống như mọi khi...”
“Cindy, lạy chúa!”
“… biết anh đang nói dối, đã cho tôi cơ hội suy nghĩ”. Cô dừng lại. “Anh nói anh đang ở lại sân bay”.
“Hãy nhớ là chúng ta đang nói chính về chuyện đó”.
“Bao lâu?”
“Đến nửa đêm; mà có khi cả đêm nay”.
“Nếu vậy tôi sẽ đến đó. Anh có thể tin tôi”.
“Nghe đây, Cindy, như thế không được. Bây giờ không đúng lúc, không đúng chỗ”.
“Khi đó, chúng ta sẽ làm nó đúng lúc. Và với những gì tôi nói với anh, bất cứ nơi nào cũng đủ tốt”.
“Cindy, hợp lý chút đi. Tôi đồng ý có những điều chúng ta phải thảo luận, nhưng không...”
Mel dừng lại, nhận ra ông đang nói một mình. Cindy đã cúp máy.
Ông gác điện thoại và ngồi trong văn phòng tĩnh lặng. Sau đó, không biết tại sao, ông lại nhấc điện thoại lên và quay số về nhà lần thứ hai vào tối nay,. Trước đó, Roberta đã trả lời. Lần này là bà Sebastiani, người giữ trẻ thường xuyên của họ.
“Tôi chỉ gọi để kiểm tra”, Mel nói. “Xem mọi thứ có ổn không? Các cô gái đi ngủ chưa?”
“Roberta ngủ rồi, ông Bakersfeld. Còn Libby sắp sửa”.
“Tôi nói chuyện với Libby được không?”
“Chà… chỉ một phút thôi nhé, ông phải hứa thật nhanh đấy”.
“Tôi hứa”.
Bà Sebastiani khó tính và cẩn thận như mọi khi, Mel nghĩ thầm. Bà ta bắt mọi người vâng lời, không chỉ những đứa trẻ, mà cả gia đình. Thỉnh thoảng ông thắc mắc liệu bà Sebastiani - có một người chồng nhút nhát lặng lẽ như con chuột mà thỉnh thoảng cùng đến - có bao giờ gặp vấn đề tình cảm hôn nhân hay không. Ông nghi ngờ là không phải. Bà Sebastiani sẽ không bao giờ cho phép điều đó.
Ông nghe thấy tiếng chân của Libby đến gần điện thoại.
“Bố ơi”, Libby nói, “Có phải máu của chúng ta cứ chảy trong người mãi mãi không?”
Các câu hỏi của Libby luôn bất ngờ khác nhau. Cô mở những chủ đề mới như thể chúng là những món quà dưới gốc cây Giáng sinh.
“Không phải là mãi mãi, con yêu; không có gì là mãi mãi. Chỉ khi con sống thôi. Máu của con đã chảy được bảy năm, kể từ khi trái tim của con bắt đầu đập”.
“Con cảm thấy quả tim của con rồi, Libby nói. “Nó ở đầu gối của con”.
Ông định giải thích rằng trái tim không phải ở đầu gối, về nhịp tim, các động mạch và tĩnh mạch, sau đó ông lại thôi. Có nhiều thời gian cho những điều đó. Miễn là bạn có thể cảm nhận được trái tim của bạn - ở bất cứ nơi nào - đó là điều quan trọng. Libby đã có những bản năng cần thiết; đôi khi ông có ấn tượng rằng đôi bàn tay nhỏ của cô bé có thể vươn lên và thu hái những ngôi sao của sự thật.
“Chúc bố ngủ ngon”.
“Chúc con ngủ ngon, tình yêu của bố”.
Mel vẫn không chắc tại sao ông lại gọi về nhà, nhưng sau cuộc nói chuyện điện thoại này, ông cảm thấy dễ chịu hơn.
Về phần Cindy, khi cô đã nói điều gì là cô sẽ làm việc đó, nên hoàn toàn có khả năng cô sẽ đến sân bay vào tối nay. Và có lẽ cô ấy đúng. Có những điều cơ bản mà họ phải giải quyết, đáng chú ý là liệu cuộc hôn nhân rỗng tuếch của họ có nên tiếp tục vì lợi ích của con cái hay không. Ít nhất là họ sẽ có sự riêng tư ở đây, vì không có Roberta và Libby, hai đứa trẻ đã nghe được khá nhiều cuộc cãi nhau của họ trước đây.
Hiện tại không có việc gì cụ thể để Mel làm, ngoại trừ để phòng xa nếu có tình trạng khẩn cấp. Ông rời văn phòng của mình trên tầng lửng điều hành, nhìn xuống hoạt động đang tiếp tục nhộn nhịp của đám đông trong nhà ga chính.
Mel nghĩ, sẽ không mất nhiều năm nữa, trước khi đám đông ở sân bay thay đổi đáng kể. Một cái gì đó sẽ phải được thực hiện sớm để sửa đổi cách đưa mọi người đến và rời khỏi máy bay hiện tại không hiệu quả. Chỉ đơn giản từng cá nhân đi và về, là đã quá cồng kềnh và chậm chạp. Mỗi năm trôi qua, mỗi chiếc máy bay ngày càng đắt giá hơn nhiều triệu dollar; đồng thời, chi phí trên mặt đất cũng ngày càng lớn. Các nhà thiết kế máy bay, các nhà quy hoạch hàng không, đã cố gắng sắp xếp nhiều giờ bay hơn vì tạo ra lợi nhuận và ít giờ trên mặt đất hơn vì không tạo ra lợi nhuận mà còn mất thêm chỉ phí.
Người ta đang triển khai các kế hoạch thực hiện “container hành khách” - dựa trên “lều tuyết” kiểu American Airline hiện nay, được sử dụng để chất hàng hóa trước khi đưa vào máy bay. Hầu hết các hãng hàng không khác đều có các biến thể riêng của hệ thống lều tuyết.
Lều tuyết chở hàng là những khoang khép kín, có hình dạng vừa khít trong thân máy bay phản lực. Mỗi lều tuyết được chất sẵn hàng hóa, và có thể được lắp gọn vào thân một chiếc máy bay phản lực chỉ trong vài phút. Không giống như các máy bay chở khách thông thường, bên trong một máy bay phản lực vận tải hàng hóa thường là vỏ rỗng. Ngày nay, khi một chiếc máy bay vận tải hàng hóa đến một nhà ga hàng hóa của sân bay, các lều tuyết đã có trong máy bay được dỡ xuống và những chiếc mới được lắp vào. Với tối thiểu thời gian và công sức, toàn bộ máy bay phản lực hàng hóa có thể được dỡ hàng xuống, chất hàng mới lên nhanh chóng và một lần nữa sẵn sàng để cất cánh.
“Container hành khách” được làm thích nghi cho con người với ý tưởng tương tự, và Mel đã nhìn thấy những ý đồ này được thực hiện trên bản vẽ. Chúng bao gồm các cabin nhỏ, thoải mái, đầy đủ chỗ ngồi, nơi hành khách sẽ bước vào tại quầy check-in của sân bay. Các cabin sau đó sẽ được di chuyển trên các băng chuyền - tương tự như các hệ thống băng chuyền hành lý hiện tại - đến chỗ lên máy bay. Trong khi hành khách vẫn ngồi yên, các cabin được đưa vào một chiếc máy bay - có thể vừa hạ cánh trước đó chỉ vài phút, nhưng đã tháo dỡ xong các cabin chứa hành khách đến.
Khi các cabin được lắp đặt đúng vị trí, các cửa sổ của chúng sẽ khớp với các cửa sổ trên thân máy bay. Cửa đi cuối mỗi cabin sẽ ẩn vào trong vách để tiếp viên và hành khách có thể đi qua các cabin khác. Các thành phần riêng biệt khác như cabin đầy thực phẩm tươi và cabin tiếp viên mới, sẽ được chèn thêm vào.
Dần dần những hệ thống này có thể được cải tiến đến mức hành khách có thề ngồi vào chỗ của mình ngay từ nhà ga hàng không trong thành phố, cũng như có thể chuyền từ máy bay này sang máy bay khác mà không cần phải rời khỏi chỗ ngồi.
Một nguyên mẫu có liên quan được gọi là “phòng khách trên trời” đã được phát triển ở Los Angeles. Mỗi phòng khách, chứa bốn mươi hành khách, một phần là xe buýt, một phần là trực thăng. Nó có thể tự di chuyển trên các con đường ngoại ô hoặc trung tâm thành phố, sau đó, tại một sân bay trực thăng địa phương trở thành một cabin bên dưới một chiếc trực thăng ngoại cỡ - toàn bộ chiếc trực thăng với những cabin sẽ bay tới sân bay.
Và tất cả những điều này sẽ xảy ra, Mel Bakersfeld nghĩ. Hoặc nếu không phải là chính xác, thì cũng là cái gì đó tương tự, và sớm. Một niềm đam mê đối với những người làm việc trong lĩnh vực hàng không, là biến những giấc mơ tuyệt vời nhanh chóng trở thành sự thật.
Một tiếng kêu đột ngột từ đám đông bên dưới, phá tan suy nghĩ của ông.
“Này ông Bakersfeld! Ê! Trên kia”.
Mel đưa mắt nhìn xuống, tìm kiếm nơi phát ra giọng nói. Việc định vị nó trở nên khó khăn hơn bởi thực tế là năm mươi khuôn mặt tò mò về người được gọi, đã ngẩng đầu nhìn lên. Một lúc sau ông mới xác định được người gọi. Đó là Egan Jeffers, một người da đen cao, gầy trong bộ quần áo màu nâu nhạt và áo sơ mi ngắn tay. Một cánh tay nâu gân guốc cử chỉ khẩn trương.
“Mời ông xuống đưới này, ông Bakersfeld! Ông phải nghe tôi. Ông đang gặp chuyện rắc rối đây”.
Mel mỉm cười. Jeffers, người được nhượng quyền đánh giày trong nhà ga, là một nhân vật đặc sắc của sân bay. Với một nụ cười đầy thách thức, rộng ngoác trên khuôn mặt giản dị, anh ta có thể đưa ra những tuyên bố kỳ quặc nhất và bằng cách nào đó vẫn không bị làm sao.
“Tôi nghe thấy rồi, Egan Jeffers. Anh có thề lên đây được không?”
Nụ cười mở rộng. “Không được, ông Bakersfeld! Tôi là người được nhượng quyền, và đừng quên điều đó”.
“Nếu tôi quên, tôi chắc rằng anh sẽ đọc cho tôi nghe quyền công dân”.
“Ông đã nói rồi đó, ông Bakersfeld. Bây giờ lê mông của ông xuống đây”.
“Anh xem lại phát ngôn của anh trong sân bay của tôi đấy nhé”. Vẫn còn thích thú, Mel quay lưng lại với lan can tầng lửng và đi về phía thang máy của nhân viên. Ở sảnh chính tầng dưới, Egan Jeffers đang chờ đợi.
Jeffers làm chủ bốn gian hàng đánh giày trong nhà ga. Đối với những người được nhượng quyền, đó không phải là một nhượng quyền lớn, các bãi đậu xe, nhà hàng và quầy bán báo tạo ra doanh thu lớn hơn nhiều nếu so sánh. Nhưng Egan Jeffers, một người từng khởi đầu là người đánh giày trên đường phố, đã cư xử một cách trắng trợn như thể chỉ một mình anh ta được nhượng quyền ở sân bay.
“Chúng ta đã có giao kèo, tôi với sân bay, đúng không?”
“Đúng”.
“Trong các điều khoản đặc biệt đó có nói rằng tôi có đ-ộ-c quy-ề-n đánh giày, ở đây trong phần mở đầu. Đ-ộ-c quy-ề-n, Đúng không?”
“Đúng”.
“Như tôi đã nói, ông gặp rắc rối rồi. Đi với tôi ông Bakersfeld”.
Họ băng qua sảnh chính đến thang cuốn xuống tầng dưới mà Jeffers bước những bước dài, một lần hai bậc. Anh ta vẫy tay chào vài người khi họ đi qua. Chậm hơn, do một chân bị đau, Mel bước theo.
Dưới chân thang cuốn, gần nhóm các gian hàng cho thuê xe hơi của Hertz, Avis và National chiếm giữ, Egan Jeffers ra hiệu. “Nó đây, ông Bakersfeld! Nhìn đi! Họ cướp cơm của tôi và những chàng trai làm việc cho tôi”.
Mel kiểm tra nguyên nhân của khiếu nại. Tại gian hàng Avis, một tấm bảng quảng cáo in đậm đọc được:
VỪA THUÊ XE VỪA ĐÁNH GIÀY
Với sự trân trọng của chúng tôi
* * *
Chúng tôi đang cố gắng hơn nữa!
Ngay bên dưới quầy, là một cái máy đánh bóng giày, được đặt để bất kỳ ai đứng ở quầy đều có thể làm được những gì mà bảng quảng cáo nói.
Tâm trí Mel thấy nửa thích thú; nửa còn lại công nhận khiếu nại của Egan Jeffers. Dù có đùa hay không, Jeffers nắm quyền trong tay của anh ta. Hợp đồng của anh ta nói rõ rằng không ai khác có quyền đánh giày ở sân bay, giống như bản thân Jeffers không có quyền cho thuê xe hơi hoặc bán báo. Mỗi người được nhượng quyền đều được hưởng một sự bảo vệ tương tự, đổi lại họ phải nộp cho sân bay một phần đáng kể lợi nhuận của mình.
Với sự chứng kiến của Egan Jeffers, Mel băng qua gian hàng cho thuê xe. Vừa đi ông vừa rút cuốn sổ trong túi của mình - một cuốn sổ nhỏ chứa số điện thoại riêng của nhân viên cao cấp trong sân bay. Trong đó có liệt kê người quản lý gian hàng Avis. Cô gái đứng sau quầy nở một nụ cười tự động khi ông đến gần. Mel nói với cô ấy, “Tôi muốn sử dụng điện thoại của cô”.
Cô ta phản đối, “Thưa ngài, nó không phải công cộng...”
“Tôi là giám đốc sân bay”. Mel với tay qua, nhấc điện thoại và quay số. Không được nhận ra trong sân bay của mình là một kinh nghiệm thường xuyên. Hầu hết các công việc của Mel giữ ông ở hậu trường, cách xa khu vực công cộng, nên những người làm việc ở đó hiếm khi gặp ông.
Lắng nghe tiếng chuông reo, ông ước rằng các vấn đề khác có thể được giải quyết nhanh chóng và đơn giản như vấn đề này.
Chuông điện thoại reo cả chục lần, nhiều phút chờ đợi, mới nghe được giọng nói của người quản lý Avis vang lên. “Ken Kingsley đây”.
“Tôi có thể cần một chiếc xe”, Mel nói. “Ông đã ở đâu vậy?”
“Đang chơi xe lửa với con trai. Nó làm tôi quên mất chuyện xe cộ và cả những người gọi điện cho tôi về xe cộ”.
“Thật tuyệt khi có con trai”, Mel nói. “Tôi chỉ có con gái. Con trai ông cỏ thích máy móc không?”
“Một thiên tài tám tuổi đấy. Bất cứ khi nào ông cần điều hành cái sân bay đồ chơi của ông, hãy báo cho tôi biết”.
“Nhất định rồi, Ken”. Mel nháy mắt với Egan Jeffers. “Có một thứ con trai ông có thể làm bây giờ. Anh ta có thể lắp một máy đánh giày ở nhà. Tôi tình cờ biết nơi nào có dư một máy như thế. Chắc ông cũng biết rồi”.
Có một khoảng im lặng, rồi tiếng người quản lý Avis thở dài. “Tại sao các ông luôn muốn kìm hãm một chút khuyến mãi trung thực như vậy?”
“Hầu như vậy bởi vì những điều khoản chúng ta ký đều có ý nghĩa và đáng ghét. Nhưng chúng ta có thể vi phạm chúng. Hãy nhớ điều khoản hợp đồng - bất kỳ thay đổi không gian bên ngoài của quầy và những biển quảng cáo phải có sự chấp thuận trước của quản lý sân bay. Rồi có một điều về việc không xâm phạm vào hoạt động kinh doanh của những người được nhượng quyền khác”.
“Tôi hiều rồi”, Kingsley nói. “Chắc Egan Jeffers đã than phiền với ông phải không?”
“Hãy nói rằng ông ta không hoan hô đâu”.
“Được rồi, ông thắng. Tôi sẽ nói với người của tôi để kéo những thứ chết tiệt đó đi. Có cần gấp không?”
“Không nhất thiết”. Mel nói. “Ông có thể làm bất cứ lúc nào trong vòng nửa giờ nữa là được rồi”.
“Ông là đồ xỏ lá”.
Nhưng ông có thể nghe tiếng người quản lý Avis cười khúc khích khi cúp máy.
Egan Jeffers gật đầu hài lòng, nụ cười rộng mở của anh ta vẫn còn. Mel nghiền ngẫm: Mình là người thân thiện vui vẻ ở sân bay; Mình làm mọi người hạnh phúc. Ông ước mình có thể làm điều tương tự cho chính mình.
“OK, điểm A, ông Bakersfeld”, Jeffers nói. “Hãy cứ giữ quả bóng để nó không xảy ra nữa”. Với bước đi dõng dạc, vẫn rạng rỡ, anh ta hướng đến thang cuốn đi lên.
Mel thong thả theo sau. Ở tầng chính, tại quầy của Trans America, một đám đông đang đứng trước hai vị trí được đánh dấu:
Check-in riêng cho
Chuyến Hai - Du thuyền vàng
Bay thẳng đi Rome
Gần đó, Tanya Livingston đang nói chuyện sôi nổi với một nhóm hành khách. Cô ra hiệu cho Mel và sau một hoặc hai phút, đến gặp ông.
“Tôi không còn phút nào nghỉ nữa; ở đây giống như nhà thương điên. Tôi nghĩ ông đang vào thành phố”.
“Kế hoạch của tôi thay đổi”, Mel nói. “Về vấn đề đó, tôi lại tưởng cô đã xong ca trực rồi”.
“Ông TBVC yêu cầu tôi ở lại. Chúng tôi đang cố gắng để chuyến Du thuyền vàng bay đi đúng giờ. Người ta nói là vì uy tín, còn tôi nghi ngờ lý do thực sự là cơ trưởng Demerest không muốn chờ đợi”.
Mel cười. “Cô đang có định kiến đấy. Mặc dù đôi khi tôi cũng vậy”.
Tanya ra hiệu - xuyên qua đám đông - chỉ vào một cái bục cao với một cái quầy tròn ở giữa, cách nơi họ đang đứng vài mét. “Đây là cái mà cuộc chiến lớn của ông với ông em rể nói tới; tại sao cơ trưởng Demerest lại nổi điên với ông như vậy. Phải không?”
Tanya đang chỉ vào gian hàng bán bảo hiểm của sân bay. Một tá người hoặc nhiều hơn đang xếp xung quanh quầy tròn, hầu hết trong số họ đã hoàn tất các biểu mẫu mua bảo hiểm chuyến bay. Đằng sau quầy, hai cô gái hấp dẫn, một cô gái tóc vàng nổi bật với bộ ngực to, đang bận rộn viết các khế ước bảo hiểm.
“Phải”, Mel thừa nhận, “Hầu như đó là rắc rối duy nhất của chúng tôi gần đây. Vernon và ALPA nghĩ rằng chúng ta nên bãi bỏ các gian hàng bảo hiểm tại các sân bay và các máy bán bảo hiểm tự động. Tôi thì không. Hai chúng tôi đã có một trận chiến về việc này trước Hội đồng quản trị sân bay. Điều mà lúc đó Vernon không chịu nồi, và đến giờ vẫn không chịu được, là tôi đã thắng hắn ta”.
“Tôi có nghe chuyện đó”, Tanya nhìn Mel dò xét. “Một số người trong chúng tôi không đồng ý với ông. Trong trường hợp này chúng tôi nghĩ cơ trưởng Demerest đúng”.
Mel lắc đầu. “Sau đó, chúng tôi phải không đồng ý. Tôi đã suy nghĩ nhiều lần đến chuyện này. Lập luận của Vernon không có ý nghĩa gì”.
Lập luận của Vernon không có ý nghĩa gì - theo ý kiến của Mel - cách đây một tháng trước, tại phi trường Lincoln, khi Vernon Demerest xuất hiện trước một cuộc họp của Hội đồng quản trị sân bay. Vernon yêu cầu được điều trần, và đại diện cho ALPA, đang tiến hành một chiến dịch nhằm đưa việc bán bảo hiểm ra ngoài vòng pháp luật tại các sân bay ở khắp nơi.
Mel còn nhớ rõ ràng mọi chi tiết của phiên họp đó.
Đó là cuộc họp thường lệ của Hội đồng quản trị sân bay, vào mỗi buổi sáng thứ tư trong phòng hội đồng. Tất cả năm ủy viên đã có mặt: Bà Mildred Ackerman, một bà nội trợ tóc nâu quyến rũ, người được đồn đại là tình nhân của thị trưởng, do đó đã bổ nhiệm bà; và bốn ủy viên nam - một giáo sư đại học là chủ tịch hội đồng quản trị, hai doanh nhân địa phương và một quan chức công đoàn đã nghỉ hưu.
Phòng Hội đồng là một căn phòng được ốp gỗ gụ, trên tầng lửng điều hành của nhà ga. Ở một đầu, trên một cái bục cao, các ủy viên ngồi trên ghế da phía sau một cái bàn hình bầu dục bóng lộn. Ở phía dưới là một cái bàn thứ hai, không bóng lộn bằng. Mel Bakersfeld ngồi tại đây, bên cạnh các trưởng ban của mình. Bên cạnh là một bàn dành cho báo chí và ở phía sau, là phần dành cho công chúng, vì các cuộc họp của Hội đồng là công khai. Phần cho công chúng hiếm khi có người ngồi.
Hôm đó, người ngoài duy nhất, ngoài các ủy viên và bộ máy lãnh đạo, là Cơ trưởng Vernon Demerest, sang trọng trong bộ đồng phục Trans America, bốn vạch vàng cấp bậc của anh ta sáng rực dưới ánh đèn trên cao. Anh ta ngồi đợi ở khu vực công chúng, với sách và tài liệu trải trên hai chiếc ghế khác bên cạnh. Một cách lịch sự, Hội đồng đã nhất trí để nghe Cơ trưởng Demerest trước, sau mới đến công việc thường xuyên của Hội đồng.
Demerest đứng dậy. Anh ta phát biều với Hội đồng bằng vẻ tự tin của mình và thỉnh thoảng mới nhắc đến các ghi chú. Anh ta đã xuất hiện, giải thích, thay mặt cho ALPA, trong đó anh là chủ tịch phân hội địa phương. Tuy nhiên, quan điểm mà anh trình bày là của riêng anh và được hầu hết phi công của các hãng hàng không ủng hộ.
Các ủy viên Hội đồng ngồi ngả người trên ghế, sẵn sàng lắng nghe.
Việc bán bảo hiểm trong sân bay, Demerest bắt đầu, là một trò buồn cười, cổ xưa từ những ngày đầu tiên của ngành hàng không. Sự hiện diện của gian hàng bảo hiểm và máy bán bảo hiểm tự động nổi bật trong sân bay, đã là điều sỉ nhục đối với ngành hàng không thương mại, trong đó hồ sơ an toàn, nếu tính theo dặm đường đã bay, là an toàn nhất, hơn bất kỳ hình thức vận tải nào khác.
Trong một nhà ga đường sắt hoặc bến xe buýt, hoặc trên một chiếc tàu biển, hoặc lái xe ô tô riêng của mình từ nhà xe, người ta có chìa vào mặt hành khách những phiếu bảo hiểm trường hợp chết người hay bị thương không? Dĩ nhiên là không!
Thế thì tại sao người ta lại làm chuyện đó trong ngành bàng không?
Demerest tự trả lời câu hỏi của mình. Lý do, anh ta tuyên bố, là các công ty bảo hiểm chỉ cần biết họ có thể kiếm chác được ở chỗ nào, “và không bao giờ để ý đến hậu quả”.
Hàng không thương mại vẫn còn khá mới nên nhiều người nghĩ rằng di chuyển bằng máy bay là nguy hiểm, mặc dù thực tế đã chứng minh rằng người ta an toàn hơn trong một chiếc máy bay thương mại so với ở nhà riêng của mình. Sự không tin tưởng vốn có của việc bay này đã được phóng đại trong những dịp cực kỳ hiếm khi xảy ra tai nạn hàng không. Tác động là bi thảm và che khuất thực tế rằng những cái chết và thương tích xảy ra ở những phương tiện giao thông khác, lại xảy ra nhiều hơn nhiều.
Sự thật về sự an toàn của việc bay, Demerest chỉ ra, đã được chứng thực bởi chính các công ty bảo hiểm. Các phi công hàng không dân dụng, những người phải làm việc, đi lại bằng hàng không nhiều hơn so với hành khách, có thể mua bảo hiểm tiêu chuẩn ở mức giá thông thường và nếu mua bảo hiểm tập thề, họ còn phải trả ít hơn cả dân chúng.
Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm, được khuyến khích bởi các quản lý sân bay tham lam, và với sự chấp thuận ngoan ngoãn của các hãng hàng không, vẫn tiếp tục hưởng lợi với nỗi sợ hãi và sự cả tin của hành khách hàng không.
Lắng nghe tại bàn nhân viên, Mel thừa nhận về mặt tinh thần rằng em rể của ông đang trình bày một cách sáng suốt, mặc dù các tài liệu tham khảo về “việc quản lý sân bay tham lam” là không khôn ngoan. Nhận xét đó đã tạo ra những cái cau mày từ một vài trong số năm ủy viên, bao gồm cả bà Ackerman.
Vernon Demerest dường như không chú ý. “Bây giờ, thưa quý bà và quý ông, chúng tôi đến điểm chủ yếu nhất, quan trọng nhất”.
Điều này, theo anh ta, là mối nguy hiểm thực sự, đối với mọi hành khách trên không và cho tất cả các phi hành đoàn, được gây ra bởi việc bán bảo hiểm dễ dàng, vô trách nhiệm tại quầy hàng không, và bằng máy bán bảo hiểm tự động... chính sách bảo hiểm hứa hẹn những khoản tiền lớn, bằng cả gia sản, trả lại cho một vài dollar ban đầu.
Demerest tiếp tục sôi nổi: “Hệ thống này - nếu các ông bà chọn làm cho nghiêm túc một dịch vụ công cộng bằng cách gọi nó là một hệ thống... và hầu hết các phi công thì không - đưa ra một lời mời mở, cơ hội vàng cho những kẻ điên và bọn tội phạm tham gia phá hoại và giết người hàng loạt. Mục tiêu của họ chỉ cần đơn giản nhất: phần thưởng cá nhân cho chúng hoặc người thụ hưởng của chúng.
“Cơ trưởng!” Nữ ủy viên, bà Ackerman, đang cúi người về phía trước trên ghế. Từ giọng nói và biểu cảm của bà ấy, Mel đoán rằng bà ấy đang sôi máu về nhận xét “sự quản lý sân bay tham lam”. “Cơ trưởng, chúng tôi đang nghe rất nhiều ý kiến của ông. Ông có bất cứ sự thật nào để dẫn chứng cho tất cả những điều này không?”
“Tất nhiên là có, thưa bà. Có rất nhiều sự kiện”.
Vernon Demerest đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Sử dụng các biểu đồ và đồ thị, anh ta đã chứng minh rằng các thảm họa trên máy bay gây ra bởi các vụ đánh bom hoặc các hành động bạo lực khác trung bình một lần rưỡi mỗi năm. Động cơ khác nhau, nhưng một nguyên nhân phổ biến, nhất quán là lợi ích tài chính từ bảo hiểm chuyến bay. Đồng thời, có cả các trường hợp đánh bom nhưng không thành công hoặc bị ngăn chặn, và các thảm họa khác mà người ta nghi ngờ có tính chất phá hoại, nhưng không tìm được bằng chứng..
Anh ta gọi tên các sự cố kinh điển: Canadian Pacific Airlines, năm 1949 và 1965; Western Airlines, năm 1957; National Airlines, năm 1960 và một vụ nghi ngờ phá hoại năm 1959; hai chiếc Mexican Airlines, năm 1952 và 1953; Venezuelan Airlines, năm 1960; Continental Airlines, năm 1962; Pacific AirLines, năm 1964; United AirLines, năm 1950, 1955, một vụ nghi ngờ phá hoại năm 1965. Chín trong số mười ba sự cố đó, tất cả hành khách và thành viên phi hành đoàn đều thiệt mạng.
Thực ra, khi đã xác minh được là do phá hoại, tất nhiên bất kỳ chính sách bảo hiểm do những người liên quan đưa ra đều tự động bị vô hiệu. Nói tóm lại: phá hoại máy bay thì không được trả bảo hiểm, và bình thường, những người được thừa hưởng bảo hiểm nhận thức được điều này. Họ cũng biết rằng ngay cả sau một thảm họa hàng không mà không có người sống sót, nhưng nếu tìm được các mảnh vỡ, vẫn có thể biết liệu có một vụ nổ hay không, và nổ vì cái gì.
Nhưng, Demerest nhắc nhở các ủy viên, những người đã thực hiện các vụ đánh bom hoặc hành động bạo lực dã man đó không phải là người bình thường. Đó là những kẻ tâm thần, bất thường, những kẻ điên rồ hình sự, những kẻ giết người hàng loạt vô lương tâm. Những người như vậy là những kẻ ít hiểu biết, mà cho dù có biết, tâm trí của chúng chỉ nhận thức những gì chúng muốn, uốn cong sự thật để phù hợp với những gì chúng tin.
Bà Ackerman lại xen vào; lần này sự thù địch của bà với Demerest là không thể nhầm lẫn. “Tôi không chắc ai trong chúng ta, kể cả ông, cơ trưởng, có trình độ để thảo luận về những gì diễn ra trong tâm trí của kẻ tâm thần”.
“Tôi không thảo luận về vấn đề này”, Demerest nói thiếu kiên nhẫn. “Trong mọi trường hợp, đó không phải là vấn đề”.
“Xin lỗi, ông đã thảo luận về nó. Và tôi tình cờ nghĩ rằng đó là vấn đề”.
Vernon Demerest đỏ bừng mặt. Anh ta đã quen với việc ra lệnh, không quen bị chất vấn. Tính khí của anh ta, không bao giờ biết kiềm chế, nổi khùng. “Thưa bà, bà bẩm sinh ngu ngốc hay chỉ là cố tình đần độn?”
Ông chủ tịch Hội đồng phải lấy búa gõ mạnh mẽ, còn Mel Bakersfeld thì cố nín cười.
Chà, Mel nghĩ, mọi chuyện có thể chấm dứt ngay bây giờ. Vernon tốt hơn hết nên làm nghề bay mà hắn ta có tài, chứ không nên làm ngoại giao, nơi hắn ta vừa thất bại tan tành. Cơ hội để Hội đồng quản trị sân bay làm bất cứ điều gì mà Cơ trưởng Demerest muốn vào lúc này, là âm dưới zero - ít nhất là trừ khi Mel giúp Demerest thoát được. Trong một khoảnh khắc ông tự hỏi liệu có nên. Ông chắc Demerest nhận ra mình đã đi quá xa. Tuy nhiên, vẫn còn thời gian để biến những gì vừa xảy ra thành một trò đùa mà mọi người đều có thể cười, kể cả Mildred Ackerman. Mel có sở trường làm điều đó, tạo ra cơ hội có thể chấp nhận được, đồng thời giữ thể diện cho những người ở cả hai phía. Ngoài ra, ông biết Millie Ackerman có thiện cảm với ông; họ rất hợp nhau và bà ấy luôn chăm chú lắng nghe mọi điều Mel nói.
Rồi ông quyết định: thây kệ hắn ta. Ông chắc rằng ông em rể cũng làm điều tương tự nếu tình huống của họ bị đảo ngược. Hãy để Vernon thoát ra khỏi mớ hỗn độn hắn ta gây ra. Trong mọi trường hợp, Mel sẽ có tiếng nói riêng trong vài phút nữa.
“Cơ trưởng Demerest”, Chủ tịch Hội đồng quản trị quan sát lạnh lùng, “Nhận xét cuối cùng không được chấp nhận, không đúng nguyên tắc, và xin ông rút lại ý kiến đó”.
Demerest vẫn còn nóng mặt. Thoáng chốc anh ta ngập ngừng, rồi gật đầu. “Rất tốt, tôi xin rút ý kiến”. Anh ta liếc nhìn bà Ackerman. “Tôi xin bà ấy thứ lỗi. Có lẽ bà ấy có thể hiểu rằng đây là một chủ đề mà tôi cũng như hầu hết các phi công thương mại, quan tâm mạnh mẽ. Khi có điều gì đó dường như quá rõ ràng với tôi...” Và anh ta dừng lại không nói hết câu.
Bà Ackerman trừng mắt nhìn lại. Lời xin lỗi như đã xảy ra, đã bị xử lý tồi, Mel nghĩ. Bây giờ đã quá muộn để làm mọi thứ trôi chảy, ngay cả khi ông muốn.
Một trong những ủy viên khác hỏi, “Cơ trưởng, chính xác ông muốn gì ở chúng tôi?”
Demerest tiến thêm một bước về phia bục. Giọng anh ta trở nên thuyết phục. “Tôi đang kêu gọi các ông bà dẹp bỏ các máy bán bảo hiểm và việc bán bảo hiểm ở quầy tại sân bay này, và một lời hứa rằng các ông bà sẽ từ chối nhượng quyền, với mục đích tương tự.
“Nghĩa là ông muốn xóa bỏ hoàn toàn việc bán bảo hiểm?”
“Tại các sân bay - đúng vậy. Tôi có thể nói, thưa quý bà và quý ông, rằng ALPA đang thúc giục các sân bay khác làm điều tương tự. Chúng tôi cũng yêu cầu Quốc hội hành động để việc bán bảo hiểm tại sân bay là bất hợp pháp”.
“Làm điều đó ở Hoa Kỳ có tác dụng gì, khi vận chuyển hàng không là quốc tế?”
Demerest mỉm cười yếu ớt. “Chiến dịch này cũng mở ra quy mô quốc tế”.
“Ra quy mô quốc tế như thế nào?”
“Chúng tôi có sự hỗ trợ tích cực của các nhóm phi công ở bốn mươi tám quốc gia khác. Hầu hết đều tin rằng nếu một vấn đề được đặt ra ở Bắc Mỹ, bởi Hoa Kỳ hoặc Canada, thì những nước khác sẽ làm theo”.
Cũng ủy viên đó nói một cách hoài nghi, “Tôi muốn nói rằng tất cả các ông đều mong đợi quá nhiều”.
“Chắc chắn”, chủ tịch hội đồng can thiệp, “Công chúng có quyền mua bảo hiểm vận chuyển hàng không nếu họ muốn”.
Demerest gật đầu đồng ý. “Dĩ nhiên. Không ai nói họ không có quyền đó”.
“Không, ông ông đã nói như thế”. Bà Ackerman một lần nữa lên tiếng.
Demerest nghiến răng. “Thưa quý bà, bất cứ ai cũng có thể có tất cả các bảo hiểm du lịch nếu muốn. Tất cả những gì anh ta cần là nhìn xa trông rộng để sắp xếp trước - thông qua bất kỳ nhà môi giới bảo hiểm nào hoặc thậm chí là một công ty du lịch”. Anh ta đưa mắt nhìn các ủy viên khác. “Ngày nay, rất nhiều người thực hiện bảo hiềm sinh mạng khi đi lại và khi sử dụng tất cả các phương tiện giao thông; sau đó họ thực hiện tất cả các chuyến đi mà họ muốn và họ được bảo hiểm vĩnh viễn. Có rất nhiều cách để làm điều đó. Ví dụ, các công ty thẻ tín dụng lớn - Diners, American Express, Carte Blanche - tất cả đều cung cấp bảo hiểm du lịch vĩnh viễn cho chủ thẻ của họ; nó có thể được gia hạn tự động mỗi năm và được lập hóa đơn”.
Hầu hết các doanh nhân khi đi lại, Demerest chỉ ra, đều có ít nhất một trong những thẻ tín dụng mà anh ta đã nói trên, vì vậy bãi bỏ việc bán bảo hiểm ở sân bay không áp đặt bất kỳ khó khăn hay bất tiện nào cho các doanh nhân.
“Và với tất cả các bảo hiểm loại này, chi phí rất thấp. Tôi biết, vì bản thân tôi có loại bảo hiểm đó”.
Vernon Demerest tạm dừng một chút, sau đó tiếp tục, “Điều quan trọng về tất cả các chính sách bảo hiểm này là chúng đi qua nhiều kênh. Các phiếu bảo hiểm được xử lý bởi những người có kinh nghiệm; mất khoảng một ngày phiếu bảo hiểm mới được chấp nhận. Bởi vì điều này, có một cơ hội tốt hơn nhiều để có thể phát hiện ra những người tâm thần, cuồng tín, thần kinh mất cân bằng, và đặt câu hỏi xem hắn ta có ý đồ gì không”.
“Một điều khác cần nhớ - một người mất trí hoặc mất cân bằng là một sinh vật bị ảnh hưởng bởi xung động thần kinh. Trường hợp mua bảo hiểm ở sân bay, được phục vụ bởi sự dễ dàng nhanh chóng, không có chất vấn nào từ các máy bán bảo hiểm tự động và tại các quầy bảo hiểm, cái xung động đó có thể xuất hiện nhanh chóng”.
“Tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi đã hiểu vấn đề ông đang muốn nói”, ông chủ tịch nói rõ ràng. “Ông bắt đầu lặp lại lời của mình rồi, cơ trưởng”.
Bà Ackerman gật đầu. “Tôi đồng ý. Cá nhân mà nói, tôi muốn nghe ý kiến của ông Bakersfeld”.
Ánh mắt của các ủy viên quay về phía Mel. Ông thừa nhận. “Vâng, tôi có thực hiện một số quan sát. Nhưng tôi muốn đợi cho đến khi cơ trưởng Demerest nói xong”.
“Ông ta đã nói xong rồi”, Mildred Ackerman nói. “Chúng tôi vừa quyết định như thế”.
Một vị trong hội đồng bật cười, và ông chủ tịch phải gõ búa. “Vâng, tôi thực sự nghĩ vậy... Mời ông, ông Bakersfeld”.
Khi Mel đứng dậy, Vernon Demerest bực tức trở lại chỗ ngồi của mình.
“Có lẽ tôi nên làm cho mọi chuyện rõ ràng”, Mel bắt đầu, “Rằng tôi đưa ra quan điểm ngược lại với mọi thứ mà Vernon đã nói. Tôi nghĩ các ông bà có thể gọi nó là một bất đồng trong gia đình”.
Các ủy viên, những người biết rõ mối quan hệ của Mel với Vernon Demerest, đã mỉm cười, và rồi Mel cảm nhận được sự căng thẳng trong vài phút trước đó đã giảm bớt. Ông đã quen với những cuộc họp này và biết rằng giữ thái độ không chính thức luôn là cách tiếp cận tốt nhất. Vernon cũng có thể đã phát hiện ra điều đó - nếu anh ta chịu khó hỏi thăm.
“Có một số điểm chúng ta nên nghĩ tới”, Mel tiếp tục. “Trước tiên, chúng ta hãy đối mặt với thực tế là hầu hết mọi người luôn có nỗi sợ hãi vốn có khi bay, và tôi tin rằng cảm giác đó sẽ luôn tồn tại, bất kể chúng ta có tiến bộ bao nhiêu, và chúng ta cải thiện thành tích an toàn của mình bao nhiêu đi nữa. Ngẫu nhiên, một điểm mà tôi đồng ý với Vernon là mức độ an toàn của chúng ta cực kỳ tốt”.
Ông tiếp tục: Vì nỗi sợ cố hữu này, nhiều hành khách cảm thấy thoải mái hơn, yên tâm hơn, nếu có bảo hiểm chuyến đi bằng máy bay. Họ muốn nó. Họ cũng muốn có thể nhận được nó tại sân bay, một thực tế đã được chứng minh bằng khối lượng bán hàng khổng lồ từ máy bán bảo hiểm tự động và gian hàng bảo hiểm sân bay. Đó là vấn đề tự do mà hành khách nên có quyền, và cơ hội, để mua bảo hiểm hay không. Đối với việc mua bảo hiểm trước, thực tế rõ ràng là hầu hết mọi người không nghĩ về nó. Bên cạnh đó, Mel nói thêm, nếu bảo hiểm chuyến bay được bán theo cách này, một khoản doanh thu lớn cho các sân bay - bao gồm cả sân bay Lincoln - sẽ bị mất. Khi nhắc đến doanh thu sân bay, Mel mỉm cười. Các ủy viên sân bay cũng mỉm cười với ông.
Đó là điểm mấu chốt, dĩ nhiên, Mel nhận ra. Doanh thu từ nhượng quyền bảo hiểm là quá quan trọng không thể để mất. Tại sân bay Lincoln, sân bay đã kiếm được nửa triệu dollar hàng năm từ tiền hoa hồng bán bảo hiểm, mặc dù ít người mua nhận ra rằng sân bay đã nhận được hai mươi lăm xu từ mỗi dollar mua bảo hiểm. Tuy nhiên, bảo hiểm chỉ là nhượng quyền lớn thứ tư, chỉ có bãi đậu xe, nhà hàng và cho thuê ô tô mới tạo ra doanh thu lớn hơn cho ngân sách của sân bay. Tại các sân bay lớn khác, doanh thu bảo hiểm tương đương hoặc cao hơn. Tất cả đều rất đúng, Mel nhận xét, như Vernon Demerest đã nói về “sự tham lam của quản lý sân bay”, nhưng một khoản thu nhập lớn như thế không thể bỏ qua được.
Mel quyết định không đưa suy nghĩ riêng của mình vào bài phát biểu. Tài liệu tham khảo ngắn gọn duy nhất của ông về doanh thu là đủ. Các ủy viên, những người quen thuộc với các vấn đề tài chính của sân bay, đều hiểu được điểm này.
Ông tham khảo các ghi chú của mình. Chúng là những ghi chú mà một trong những công ty bảo hiểm kinh doanh tại phi trường Lincoln đã cung cấp cho ông ngày hôm qua. Mel đã không yêu cầu các tài liệu tham khảo này, ông cũng không đề cập với bất cứ ai bên ngoài văn phòng của mình rằng cuộc tranh luận về bảo hiểm sẽ diễn ra hôm nay. Nhưng các nhân viên bảo hiểm bằng cách nào đó đã biết được, và thật phi thường khi họ luôn làm thế - sau đó hành động kịp thời để bảo vệ lợi ích của họ.
Mel sẽ không sử dụng các ghi chú đó nếu như chúng không phù hợp với quan điềm riêng trung thực của ông. May mắn thay là chúng trùng hợp.
“Bây giờ”, Mel nói, “Về sự phá hoại - phá hoại ngầm và các kiều phá hoại khác”. Ông nhận thấy được các ủy viên hội đồng đang lắng nghe chăm chú.
“Vernon đã nói khá nhiều về điều đó - tôi đã lắng nghe một cách cẩn thận, nhưng phải nói rằng, hầu hết những nhận xét của anh ấy dường như là hơi phóng đại. Trên thực tế, các thảm họa hàng không đã được chứng minh do các vụ đánh bom lấy cảm hứng từ bảo hiểm là rất ít”.
Ở khu vực cho công chúng, cơ trưởng Demerest bật dậy. “Trời ơi! Cần có bao nhiêu thảm họa nữa chúng ta mới tính đến chuyện ấy?”
Ông chủ tịch gõ mạnh búa. “Cơ trưởng… xin ông!”
Mel đợi cho đến khi Demerest lắng xuống, rồi tiếp tục bình tĩnh, “Vì câu hỏi đã được hỏi, câu trả lời là “không”. Một câu hỏi thích hợp hơn là: Các thảm họa có xảy ra hay không, ngay cả khi không bán bảo hiểm tại sân bay nữa?”
Mel dừng lại, để cho mọi người nắm được hết ý nghĩa câu hỏi, trước khi tiếp tục.
“Tất nhiên, có thể lập luận rằng nếu không mua được bảo hiểm tại sân bay, những thảm họa mà chúng ta đang nói đến có thể không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, đây là những tội ác của sự thúc đẩy, được kích hoạt bởi việc mua bảo hiểm tại sân bay quá dễ dàng. Tương tự như vậy, có thể cho rằng ngay cả khi các tội ác đã được âm mưu trước, chúng có thể không thực hiện được nếu không mua được bảo hiểm tại sân bay. Những cái đó, tôi nghĩ, là những lập luận của Vernon - và của ALPA”.
Mel liếc nhanh về phía em rể mình, không có dấu hiệu gì ngoài vẻ cau có tức giận.
“Điểm yếu rõ ràng của tất cả những lập luận đó”, Mel tiếp, “Là ở chỗ chúng hoàn toàn là giả định. Đối với tôi, khi ai đó đang lên kế hoạch cho một tội ác như vậy sẽ không bị ngăn cản bởi việc không thể mua bảo hiểm ở sân bay, mà chỉ đơn giản là mua bảo hiểm ở nơi khác, là một điều dễ dàng thực hiện như chính Vernon đã chỉ ra”.
Nói cách khác, Mel chỉ ra, bảo hiểm chuyến bay chỉ là một động cơ thứ yếu, không phải là lý do chính cho tội ác của những kẻ phá hoại. Động cơ thực sự, khi sự phá hoại trên không xảy ra, dựa trên những điểm yếu của con người - thất tình, lòng tham, thất bại trong kinh doanh, tự tử.
Chừng nào còn có con người, Mel lập luận, những động cơ này là không thể loại bỏ, quan điểm này đã được chứng minh. Do đó, những người liên quan đến an toàn hàng không và phòng chống phá hoại nên tìm kiếm, tăng cường các biện pháp phòng ngừa khác trên không và trên mặt đất, không nên bãi bỏ việc mua bảo hiểm tại sân bay. Các biện pháp như vậy là kiểm soát chặt chẽ hơn việc bán thuốc nổ - công cụ chính được sử dụng bởi hầu hết những kẻ phá hoại trên không cho đến nay. Một đề xuất khác là phát triển các thiết bị có thể phát hiện chất nổ trong hành lý. Một thiết bị như vậy, Mel thông báo cho các ủy viên đang chăm chú, đang trong giai đoạn thử nghiệm...
Một biện pháp thứ ba - được yêu cầu bởi các công ty bảo hiểm - là hành lý của hành khách phải được mở để kiểm tra trước chuyến bay, giống như cách kiểm tra Hải quan bây giờ. Tuy nhiên, Mel kết luận, cái biện pháp cuối cùng này rõ ràng có nhiều khó khăn.
Cần phải có sự thực thi chặt chẽ hơn, ông tuyên bố, về các luật hiện hành cấm mang vũ khí trên máy bay thương mại. Và thiết kế máy bay nên được nghiên cứu liên quan đến phá hoại, với mục tiêu máy bay có thể chịu đựng tốt hơn một vụ nổ từ bên trong. Trong mối liên hệ đó, một ý tưởng - cũng được các công ty bảo hiểm ủng hộ - là gia cố cho lớp vỏ của khoang hành lý chịu lực tốt hơn và nặng hơn so với hiện tại, ngay cả khi điều đó làm tăng trọng lượng và giảm doanh thu hàng không.
FAA, Mel chỉ ra, đã thực hiện một nghiên cứu về bảo hiểm chuyến bay và sau đó phản đối bất kỳ lệnh cấm nào đối với việc bán bảo hiểm tại sân bay. Mel liếc nhìn Vernon Demerest, người đang tỏ vẻ khó chịu. Cả hai đều biết rằng “nghiên cứu” của FAA là một vết thương đau đớn đối với các phi công hàng không vì nó được thực hiện bởi một giám đốc điều hành của công ty bảo hiểm - công ty có bán bảo hiểm trong sân bay - đáng lẽ phải là người vô cùng vô tư.
Có một vài điểm còn lại trong các ghi chú do công ty bảo hiểm cung cấp mà Mel chưa chạm tới, nhưng ông quyết định rằng ông đã nói đủ. Bên cạnh đó, một số lập luận còn lại kém thuyết phục. Ông thậm chí còn có những nghi ngờ nghiêm trọng, nhưng giờ ông đã nói ra, về khoang hành lý trong một hoặc hai phút trước. Chi phí do trọng lượng tăng thêm ai sẽ gánh chịu, ông tự hỏi - hành khách, hãng hàng không, hay các công ty bảo hiểm chuyến bay? Còn những lý lẽ khác, ông nghĩ, là đã đủ có tiếng vang.
“Như vậy”, ông kết luận, “Những gì chúng ta phải quyết định, vì vài giả thuyết rất ít căn cứ, liệu chúng ta có nên tước đi của công chúng một dịch vụ mà họ rất muốn có hay không”.
Khi Mel ngồi xuống, Mildred Ackerman nói ngay lập tức và dứt khoát, “Tôi muốn nói không”. Bà bắn sang Vernon Demerest cái nhìn đắc thắng.
Các ủy viên khác cũng đồng ý với bà ta, cuộc họp sau đó tạm dừng, những vấn để khác hoãn lại cho đến chiều.
Trong hành lang bên ngoài, Vernon Demerest đang đợi Mel.
“Chào, Vernon!” Mel nói nhanh, cố hòa giải trước khi em rể có thể nói. “Hy vọng cậu không bất bình với tôi. Xưa nay, ngay cả bạn bè và người thân cũng thường có những ý kiến bất đồng”.
Tất nhiên, từ “bạn bè” ở đây hơi phóng đại. Mel Bakersfeld và Vernon Demerest chưa bao giờ thích nhau, mặc dù Demerest cưới em gái của Mel, Sarah và cả hai người đàn ông đều biết điều đó. Gần đây sự hiềm khích đã trở thành sự thù địch công khai.
“Chết tiệt, dĩ nhiên là tôi bất bình”, Demerest nói. Đỉnh điểm của cơn giận đã qua, nhưng đôi mắt anh ta vẫn còn hằn học.
Các ủy viên từ phòng Hội đồng bước ra tò mò nhìn hai người. Các ủy viên đang đi ăn trưa. Vài phút nữa Mel sẽ tham gia cùng họ.
Demerest nói một cách khinh bỉ, “Những kẻ như anh, đầu óc bị trói chặt vào cải bàn như chim cánh cụt dính chặt mặt đất, lý luận thì giỏi. Nếu anh ở trên không thường xuyên như tôi, anh sẽ có quan điểm khác về tầm nhìn”.
Mel trả lời sắc bén, “Không phải tôi luôn dính chặt với bàn giấy đâu”.
“Ôi lạy chúa! Đừng đưa cho tôi cái cục cứt anh hùng kỳ cựu đó chứ. Bây giờ anh đang ở cao độ zero, cái cách suy nghĩ của anh khẳng định điều đó. Nếu không, anh đã xem xét câu chuyện về bảo hiểm như bất cứ một người phi công biết tự trọng nào”.
“Cậu có chắc là cậu tự trọng, không phải tự phụ không?” Nếu Vernon muốn xỏ xiên, Mel quyết định sẵn sàng đối đáp với hắn ta. Bây giờ không có ai khác nghe họ. “Khó khăn với hầu hết bọn phi công các cậu là đã quá quen với việc nghĩ mình là những ông thánh và cơ trưởng trên những đám mây, do đó mà tin rằng các cậu có bộ óc siêu phàm. Chà, thực ra bộ óc các cậu cũng chỉ hết sức bình thường thôi, ngoại trừ trong một vài công việc chuyên biệt. Đôi khi tôi nghĩ rằng các cậu đã mắc phải việc nghĩ mình là những ông thánh khi ngồi trong không khí tù túng đó quá lâu, không làm gì trong khi các máy móc tự động làm việc. Vì vậy, khi ai đó đưa ra một ý kiến trung thực, tình cờ trái ngược lại với ý kiến các cậu, là các cậu nổi nóng lên như trẻ con hư hỏng quen được nuông chiều”.
“Tôi bỏ ngoài tai tất cả những điều anh nói”, Demerest đáp, “Mặc dù nếu có ai là trẻ con ở đây, thì đó chính là anh. Điều quan trọng hơn là anh không vô tư chút nào”.
“Nhìn này, Vernon...”
“Một ý kiến trung thực, anh đã nói vậy”. Demerest khịt mũi trong sự ghê tởm. “Ý kiến trung thực cái con mắt! Ở trong đó, anh đã sử dụng một tờ cứt của công ty bảo hiểm. Anh đã đọc từ đó! Tôi có thể nhìn thấy từ nơi tôi đang ngồi, và tôi biết bởi vì bản thân tôi có một bản sao”. Anh ta chạm vào đống sách và giấy tờ đang mang. “Anh thậm chí không có tự trọng, hay khó khăn gì để tự chuẩn bị bài phát biểu”.
Mel đỏ bừng mặt. Em rể đã bắt thóp được ông. Ông nên chuẩn bị bài phát biểu của riêng mình, hoặc ít nhất là điều chỉnh các ghi chú của công ty bảo hiểm và đánh máy lại. Đúng là ông đã bận rộn hơn bình thường trong vài ngày trước cuộc họp, nhưng đó không phải là lý do để thanh minh.
“Một ngày nào đó anh sẽ hối hận về điều này”, Vernon Demerest nói. “Nếu khi nào xảy ra chuyện đó, tôi sẽ có mặt và nhắc anh nhớ đến ngày hôm nay. Cho đến lúc đó, tôi chỉ gặp anh không nhiều hơn mức cần thiết”.
Trước khi Mel có thể đáp trả, em rể ông đã quay đi thẳng.
* * *
Bây giờ nhớ lại, với Tanya bên cạnh trong gian phòng chính của nhà ga, Mel tự hỏi - vì ông đã tự hỏi nhiều lần từ lúc đó - không biết ông có thể xử lý cuộc đụng độ với Vernon tốt hơn hay không. Ông có cảm giác khó chịu rằng ông đã cư xử tồi tệ. Ông vẫn có thể khác ý kiến với em rể; ngay cả bây giờ Mel thấy không có lý do gì để thay đổi quan điểm của mình. Nhưng ông có thể làm điều đó một cách tốt bụng hơn, tránh sự vô cảm là một phần trong tính cách của Vernon Demerest, chứ không phải của Mel.
Không có cuộc đối đầu nào khác giữa hai người, kể từ ngày hôm đó; cuộc gặp gỡ gần gũi với Demerest trong quán cà phê sân bay tối nay là lần đầu tiên Mel nhìn thấy em rể của mình kể từ cuộc họp của hội đồng quản trị sân bay. Mel chưa bao giờ gần gũi với em gái của mình, Sarah và họ hiếm khi đến thăm nhà của nhau. Dù sớm hay muộn, Mel và Vernon Demerest sẽ phải gặp nhau, nếu không giải quyết được sự đối đầu giữa họ, ít nhất cũng để chấm dứt cuộc tranh cãi. Và Mel nghĩ, bản báo cáo mạnh mẽ của ủy ban chống tuyết chắc chắn lấy cảm hứng từ sự đối nghịch của Vernon - nó xảy ra càng sớm càng tốt.
“Tôi sẽ không đề cập đến chuyện bảo hiểm”, Tanya nói, “Nếu tôi biết nó cuốn anh đi xa khỏi tôi”.
Mặc dù những hồi ức lóe lên trong tâm trí ông chỉ chiếm vài giây thời gian, Mel một lần nữa ý thức được sự nhạy cảm của Tanya với tất cả những gì có liên quan đến chính ông. Không ai khác mà ông nhớ có tài có thề đoán được ý nghĩ của ông tương tự như Tanya. Điều đó chứng tỏ một sự gần gũi theo bản năng giữa họ.
Ông nhận ra Tanya đang nhìn ông, đôi mắt dịu dàng, thấu hiểu, nhưng ngoài sự dịu dàng là sức mạnh của một người phụ nữ và sự gợi cảm mà bản năng bảo ông có thể nhảy qua ngọn lửa đó. Đột nhiên, ông muốn sự gần gũi giữa họ trở thành mãi mãi.
“Chuyện đó không làm anh xa em đâu”, Mel trả lời. “Nó chỉ càng làm anh gần em hơn. Lúc này anh muốn em rất nhiều”. Khi ánh mắt họ chạm nhau trực tiếp, ông nói thêm, “Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu”.
Tanya chân thành với tính thẳng thắn vốn có. “Em cũng muốn anh”. Cô khẽ mỉm cười. “Em muốn thế từ lâu rồi”.
Ông thôi thúc muốn đề nghị cả hai rũ bỏ tất cả và rời đi ngay bây giờ, tìm một nơi yên tĩnh cùng nhau... căn hộ của Tanya có lẽ được... và bất chấp mọi hậu quả! Rồi Mel đành chấp nhận; ông không thể bỏ đi. Chưa được.
“Chúng ta sẽ gặp nhau sau”, ông nói với cô. “Đêm nay. Anh không chắc là bao lâu nữa, nhưng chúng ta sẽ gặp nhau. Đừng về nhà mà không có anh”. Ông muốn vươn ra, nắm lấy và giữ cô lại, và siết chặt cơ thể cô vào người, nhưng xung quanh họ mọi người đang đi lại tấp nập.
Cô đưa tay ra, đầu ngón tay khẽ đặt lên tay ông. Cảm giác tiếp xúc như luồng điện. “Em sẽ đợi”, Tanya nói. “Anh muốn em đợi bao lâu cũng được”.
Một lúc sau, cô rời đi và ngay lập tức bị nuốt chửng trong đám đông hành khách chen chúc xung quanh quầy của hãng Trans America.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Phi Trường
Arthur Hailey
Phi Trường - Arthur Hailey
https://isach.info/story.php?story=phi_truong__arthur_hailey