Chương 15
êm đó, trong khi Arrietty nằm thẳng bất động dưới trần nhà bằng hộp xì gà, bà Homily và ông Pod nói chuyện hàng tiếng đồng hồ. Họ nói chuyện trong phòng khách, họ nói chuyện trong bếp, và sau đó, muộn hơn nữa, cô bé vẫn nghe thấy họ nói chuyện trong phòng ngủ của họ. Cô bé nghe tiếng ngăn kéo đóng và mở, những cánh cửa cọt kẹt, những chiếc hộp kéo ra từ dưới các giường. “Họ đang làm gì?” cô bé tự hỏi. “Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?” Rất im lặng, cô bé nằm trên chiếc giường nhỏ bé mềm mại của mình với những đồ đạc quen thuộc quanh cô: cái tem thư vẽ phong cảnh cảng Rio; con lợn bằng bạc từ một chiếc vòng tay hộ mệnh; cái nhẫn ngọc mà có lúc cô bé đội làm mũ miện cho vui, và quý giá nhất là những cô gái bay trên trời mồm thổi chiếc kèn vàng phía trên thành phố yên bình của họ. Cô không muốn mất những thứ này, cô bé đột nhiên nhận ra điều ấy trong khi đang nằm thẳng người và bất động trên giường, nhưng vẫn muốn có được tất cả những thứ khác, cả phiêu lưu lẫn an toàn - đó là điều cô muốn. Và đó là điều ta không thể làm được (những tiếng ồn và tiếng thì thầm không ngừng cho cô bé biết vậy).
Thực ra bà Homily chỉ đang trong tâm trạng bồn chồn: mở các ngăn kéo rồi đóng lại, không thể ngồi im. Và cuối cùng, khi ông Pod đã lên giường, bà quyết định uốn tóc. “Thôi nào, bà Homily,” ông Pod đang mặc đồ ngủ nằm trên giường liền mệt mỏi phản đối, “đâu cần phải làm thế. Có ai nhìn bà cơ chứ?”
“Có đấy,” bà Homily vừa kêu lên vừa tìm cặp uốn tóc trong một cái ngăn kéo, “trong những lúc thế này ta không biết được. Tôi sẽ không thình lình bị bắt với mái tóc như thế này đâu!” bà cáu cẳn rồi lật ngược ngăn kéo và nhặt đồ đạc rơi ra.
Cuối cùng thì bà cũng lên giường với bộ tóc chĩa lên như đinh, giống như một con búp bê da đen bằng vải bị giặt, cuối cùng ông Pod đành thở dài đánh thượt rồi quay đi và nhắm mắt.
Bà Homily nằm một lúc lâu nhìn chằm chằm vào chiếc đèn dầu; đó là cái nút bằng bạc của một chai nước hoa với cái bấc tí xíu trôi nổi trên dầu. Bà không muốn, vì lý do nào đó, thổi tắt nó. Có tiếng đi lại trong phòng bếp trên nhà, giờ này đã muộn quá làm gì còn ai đi lại - cả nhà lẽ ra đang ngủ cả rồi - và cái kẹp uốn tóc gồ ghề ấn vào gáy bà thật khó chịu. Bà nhìn say sưa - y như Arrietty đã làm - quanh căn phòng quen thuộc (quá nhiều đồ, bà nhận ra, nào những chiếc túi nhỏ bé, nào những cái hộp, nào những cái tủ tạm bợ) và nghĩ, “Bây giờ thì sao? Có thể cuối cùng cũng chẳng có gì xảy ra; con bé có thể nói đúng, chúng ta đã làm chuyện bé xé ra to; cậu bé ấy dù sao cũng chỉ là một người khách; có lẽ thế,” bà Homily nghĩ, “nó lại sắp rời khỏi đây,” bà uể oải tự nhủ, “và thế là hết chuyện.”
Sau đó (như sau này bà nhận ra) bà đã chợp mắt một chút vì có vẻ như bà đang đi qua cánh đồng Parkin’s Beck; lúc đó đang đêm, gió thổi và cánh đồng có vẻ rất dốc; bà lật đật trèo lên dọc theo thành đường ống ga, rồi trượt ngã vào mớ cỏ ướt. Những cái cây đối với bà có vẻ như đang đập đập vào nhau, cành phất phơ đung đưa trên bầu trời. Lúc đó (như bà kể cho họ nghe nhiều tuần sau đó) có tiếng gỗ bị bẻ gãy...
Và bà Homily tỉnh dậy. Bà lại nhìn thấy căn phòng và cái đèn dầu lập lòe, nhưng có gì đó khác biệt, bà biết ngay: có một luồng gió kỳ lạ và bà cảm thấy miệng khô và đầy sạn. Rồi bà nhìn lên trần nhà: “Ông Pod!” bà thét lên, tóm lấy vai ông.
Ông Pod quay người lại và ngồi dậy. Cả hai đều nhìn chằm chằm lên trần nhà: cả mặt trần nhà đang bị dốc nghiêng và một đầu đã bị tách khỏi tường - đó là nguyên nhân gây ra luồng gió - và sụp xuống bên trong căn phòng, chỉ hai phân nữa là đến giường, một vật kỳ lạ xuyên vào: một thanh sắt màu xám khổng lồ với một cạnh bẹp bóng nhoáng.
“Đó là một cái tua vít,” ông Pod nói.
Họ nhìn nó chằm chằm như bị thôi miên, không cử động được, và trong giây lát tất cả đều nín lặng. Rồi từ từ cái vật to lớn kia bật lên cho đến khi cái đầu bẹp áp vào trần nhà và bà Homily nghe thấy tiếng cạo từ sàn nhà ở phía trên và tiếng thốt lên của một con người. “Ôi, đầu gối của tôi,” bà Homily kêu lên, “ôi, linh cảm của tôi...” trong khi, với một tiếng xoạc, cả cái trần nhà của họ bị bẻ gãy và sụp xuống lóc cóc, ở một nơi khác ngoài tầm nhìn của họ.
Rồi bà Homily kêu lên. Nhưng lần này là một tiếng kêu thực sự, to hết sức, chói tai; bà có vẻ như trở nên bình tĩnh hơn sau tiếng kêu của mình, trong khi mắt bà trợn ngược lên, hơi cuốn hút vào cái khoang rỗng sáng đèn. Có một trần nhà nữa, bà nhận thấy, cao tít trên đầu họ - có vẻ như cao hơn cả bầu trời; một miếng thịt lợn hun khói treo trên đó và hai chuỗi hành tây. Arrietty hiện ra ở khung cửa, sợ hãi và run rẩy, tay nắm chặt áo ngủ. Còn ông Pod thì vỗ vào lưng bà Homily. “Thôi nào,” ông nói, “thế là đủ rồi,” và bà Homily đột nhiên im lặng.
Một khuôn mặt khổng lồ hiện ra giữa họ và khoảng cách cao xa ấy. Nó đung đưa trước họ, vừa tươi tỉnh vừa đáng sợ; có một khoảng im lặng và bà Homily ngồi thẳng dậy, miệng há hốc. “Đây là mẹ cậu à?” một giọng ngạc nhiên hỏi sau giây lát, và Arrietty từ cửa nói thầm, “Phải.”
Đó là cậu bé.
Ông Pod bước ra đứng bên giường, run rẩy trong bộ đồ ngủ. “Ngồi dậy đi,” ông nói với bà Homily, “bà không thể ở lại đó được!”
Nhưng bà Homily vẫn ở lại. Bà đang mặc chiếc váy ngủ cũ kỹ với một miếng vá đằng sau lưng và không điều gì khiến bà di chuyển được. Một nỗi tức giận từ từ nổi lên trong bà Homily: bà đã bị “nhìn thấy” khi đeo lô uốn tóc; ông Pod đã nhấc tay mình lên cho bà vịn; thế rồi bà nhớ ra, trong sự hỗn loạn chung và lần đầu tiên trong đời, bát đĩa lẽ ra phải rửa vào buổi tối bà lại để sang buổi sáng, và nó lù lù ở đó, trên bàn bếp, cho cả thế giới thấy!
Bà giận dữ nhìn cậu bé - dù sao nó cũng chỉ là một đứa trẻ. “Đặt nó lại!” bà nói, “đặt nó lại ngay lập tức!” Mắt bà lóe lên và những chiếc lô uốn tóc dường như run lên.
Sau đó cậu bé quỳ xuống, nhưng bà Homily không chùn bước khi khuôn mặt khổng lồ từ từ đến gần hơn. Bà nhìn thấy cái môi dưới của nó, hồng hào và đầy đặn - như một sự phóng đại khổng lồ của bờ môi Arrietty - và bà thấy cái môi hơi run run. “Nhưng cháu có cái này cho các bác,” cậu bé nói.
Vẻ mặt của bà Homily không thay đổi và Arrietty kêu lên từ khung cửa nơi cô bé đang đứng, “Cái gì thế?”
Cậu bé với tay ra đằng sau mình và rất rón rén, cẩn thận để giữ cho thẳng đứng, cậu bé cầm một vật bằng gỗ trên đầu họ. “Là thứ này,” cậu bé nói, và rất thận trọng, cái lưỡi thè ra và thở nặng nề, cậu bé đặt vật đó xuống cái lỗ của họ: đó là một cái tủ đựng bát đĩa của búp bê, đầy đủ cả bộ đĩa. Nó có hai ngăn kéo và một khoang tủ ở dưới; cậu bé chỉnh lại vị trí của cái tủ ở chân giường của bà Homily. Arrietty chạy vòng ra phía trước để nhìn cho rõ.
“Ôi,” cô kêu lên ngây ngất. “Mẹ nhìn kìa!”
Bà Homily liếc nhìn cái tủ - nó làm bằng gỗ sồi sẫm màu và những cái đĩa được vẽ bằng tay - rồi bà lại nhanh chóng nhìn đi nơi khác. “Phải,” bà lạnh lùng nói, “nó rất đẹp.”
Không ai biết làm thế nào để phá vỡ sự im lặng.
“Cái tủ này mở được thật đấy,” cuối cùng cậu bé nói, và bàn tay khổng lồ luồn xuống giữa họ, thơm mùi xà phòng tắm. Arrietty nép người vào bức tường và ông Pod kêu lên, căng thẳng, “Cẩn thận!”
“Phải,” bà Homily đồng tình sau giây lát. “Tôi thấy là nó mở được.”
Ông Pod hít một hơi dài - một hơi thở dài nhẹ nhõm khi bàn tay lại nhấc lên.
“Đấy, bà Homily,” ông nói với giọng đấu dịu, “bà luôn muốn một cái như thế này!”
“Phải,” bà Homily nói - bà vẫn đang ngồi thẳng người, hai bàn tay siết vào nhau trên đùi. “Cảm ơn cháu rất nhiều. Còn bây giờ,” bà lạnh lùng nói tiếp, “cháu có thể làm ơn đặt cái trần nhà lại không?”
“Đợi một phút đã,” cậu bé năn nỉ. Cậu bé lại với ra sau; bàn tay lại đưa xuống; và ở đó, bên cạnh cái tủ, nơi chỉ vừa đủ chỗ cho nó, là chiếc ghế rất nhỏ cho búp bê; đó là một chiếc ghế thời Victoria với đệm vải nhung đỏ. “Ôi!” Arrietty lại kêu lên và ông Pod nói hơi e thẹn, “Nó vừa khít với tôi.”
“Thử đi,” cậu bé van nài, và ông Pod căng thẳng nhìn cậu bé. “Bố thử đi!” Arrietty nói, thế là ông Pod ngồi xuống - trong bộ đồ ngủ, bàn chân trần của ông lộ ra. “Hay đấy,” ông nói sau giây lát.
“Nó sẽ hợp khi đặt bên cạnh lò sưởi trong phòng khách,” Arrietty kêu lên, “nó trông sẽ rất đẹp trên tấm giấy thấm đỏ!”
“Ta thử xem sao nhé,” cậu bé nói, và bàn tay lại thò xuống. Ông Pod nhảy lên vừa kịp lúc đỡ lấy cái tủ khi chiếc ghế nhung đỏ bị lấy biến đi trên đầu ông và chắc là được đặt xuống phòng bên cạnh. Arrietty chạy ra khỏi cửa và chạy dọc hành lang để xem. “Ôi,” cô bé gọi bố mẹ mình, “bố mẹ ra đây mà xem. Nó đẹp lắm!”
Nhưng ông Pod và bà Homily không cử động. Cậu bé đang cúi phía trên họ, thở nặng nề, và họ có thể nhìn thấy mấy cái cúc giữa của chiếc áo ngủ cậu bé mặc. Cậu bé có vẻ như đang dò xét căn phòng phía xa hơn.
“Các bác đựng gì trong cái lọ mù tạt đó?” cậu bé hỏi.
“Than,” Arrietty nói. “Và tôi đã giúp đi mượn tấm thảm mới này. Đây là cái đồng hồ tôi đã kể với cậu, và những bức tranh...”
“Tôi có thể kiếm cho cậu những con tem đẹp hơn những con tem kia,” cậu bé nói. “Tôi có vài cái được phát kỷ niệm có hình cung điện Taj Mahal.”
“Nhìn này,” Arrietty lại kêu lên, và ông Pod cầm lấy bàn tay của bà Homily, “đây là sách của tôi...”
Bà Homily túm chặt lấy ông Pod khi bàn tay khổng lồ một lần nữa lại thò xuống gần hơn về phía Arrietty. “Im lặng,” ông nói thầm, “ngồi im...” Cậu bé có vẻ như đang sờ những cuốn sách.
“Tên những cuốn sách này là gì?” cậu bé hỏi, và Arrietty lưu loát đọc lên những cái tên.
“Ông Pod,” bà Homily nói thầm, “tôi sẽ hét lên mất...”
“Không,” ông Pod nói thầm. “Bà không được làm thế. Không được như vậy nữa.”
“Tôi cảm thấy sắp sửa thế rồi đây,” bà Homily nói.
Ông Pod trông có vẻ lo lắng. “Bà nín thở đi,” ông nói, “và đếm đến mười.”
Cậu bé đang nói với Arrietty, “Cậu đọc những cuốn sách này cho tôi nghe nhé?”
“Ừ, được,” Arrietty nói, “nhưng tôi thích đọc cái gì đó mới mẻ hơn.”
“Nhưng cậu đã không đến,” cậu bé phàn nàn.
“Tôi biết,” Arrietty nói, “nhưng tôi sẽ đến.”
“Ông Pod,” bà Homily nói thầm, “ông có nghe thấy không? Ông có nghe con bé nói gì không?”
“Có, có,” ông Pod nói thầm, “im lặng nào...”
“Cậu có muốn nhìn các phòng kho không?” Arrietty gợi ý tiếp và bà Homily bịt một tay lên miệng như để kìm tiếng kêu lại.
Ông Pod nhìn lên cậu bé. “Này,” ông gọi, cố gắng thu hút sự chú ý của cậu. Cậu bé nhìn xuống. “Đặt cái mái lại ngay,” ông Pod van xin cậu bé rồi cố gắng nói một cách đơn giản và có lý, “chúng tôi đang bị lạnh.”
“Được thôi,” cậu bé đồng ý, nhưng cậu có vẻ do dự: cậu với tay qua họ lấy một miếng ván vốn là một phần của trần nhà. “Cháu có nên đóng đinh chặt vào không?” cậu bé hỏi, và họ thấy cậu ấy cầm chiếc búa lên; nó đung đưa trên đầu họ, trông rất nguy hiểm.
“Tất nhiên rồi, cháu đóng đinh lại đi,” ông Pod nói cáu kỉnh.
“Ý cháu là,” cậu bé nói, “cháu có vài đồ đạc nữa ở trên nhà...”
Ông Pod trông có vẻ do dự và bà Homily huých ông. “Hỏi nó đi,” bà nói thầm, “những đồ gì?”
“Những đồ gì?” ông Pod hỏi.
“Đồ đạc từ cái nhà búp bê cũ ở trên giá cao nhất của cái tủ cạnh lò sưởi trong phòng học.”
“Tôi tuyệt chẳng bao giờ nhìn thấy một cái nhà búp bê,” ông Pod nói.
“Vâng, nó ở bên trong tủ,” cậu bé nói, “ngay gần trên trần nhà; bác không thể nhìn thấy nó được - bác phải trèo lên các giá thấp hơn để đến đó.”
“Có những loại đồ đạc gì trong ngôi nhà búp bê?” Arrietty hỏi từ phòng khách.
“Ôi, đủ thứ,” cậu bé nói với cô bé, “thảm mỏng này, thảm dày này, rồi giường với đệm, và có một con chim trong một cái lồng - không phải là chim thật, tất nhiên rồi, rồi chảo nấu và bàn và năm chiếc ghế mạ vàng và một cái chậu với một cây cọ - một món bánh được đúc bằng thạch cao và một cái đùi cừu giả...”
Bà Homily nghiêng người về phía ông Pod. “Bảo nó đóng đinh khẽ thôi,” bà nói thầm. Ông Pod nhìn bà chằm chằm và bà gật đầu dứt khoát, siết chặt hai tay.
Ông Pod quay về phía cậu bé. “Thôi,” ông nói, “cháu đóng đinh lại đi. Nhưng nhẹ nhàng nhé, nếu cháu hiểu ý của bác. Chỉ gõ một hay hai lần mỗi nơi thôi...”
Những Người Vay Mượn Tí Hon Những Người Vay Mượn Tí Hon - Mary Norton Những Người Vay Mượn Tí Hon