Ký Ức Phiên Lãng epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Trời Xanh Bungari
ÔPHIA, nửa đêm. Trên trời, sáng trăng. Đến lúc xuống, đi trong phố, thấy ông trăng chỉ bằng một ngọn điện mơ màng. Cả thành phố dìu dịu ánh điện như trăng xuống. Có người mách tôi “Sôphia có cái gió lạ lắm”. Gió tự dưng ở đâu đến, giật lên, thế là các cửa sổ, cả đến mỗi đám lá thông đều rào rạt và những hộp sắt tây lăn leng keng quay cuồng khắp nơi.
Tôi đã được nếm ngay cái gió Sôphia lạ lùng. Hốc vòm trên đầu nhà như con chó bị gió quất, chốc chốc hú lên. Nhưng lát sau, yên tĩnh như không. Gió Sôphia hay làm nũng như thế.
Buổi sáng êm đềm, sương mỏng tan dần, trời đất trước mặt như sân khấu vén màn. Triền núi Vi-tô-xa xanh mờ. Tôi hiểu được cơn gió thình lình nửa đêm qua. Đấy là gió trong núi tràn xuống thung lũng, thổi quẩn lại. Ở Hoàng Liên Sơn, gió Than Uyên trên đèo Khau Co quật ngã cả người đi đường. Gió núi đá bên huyện Văn Bàn lùa xuống thành bão cạn. Quét đổ nhà cửa cánh đồng Mường Than.
Ô, đương kể chuyện thủ đô Sôphia mà.
Bungari trên bờ phải sông Đa-nuýp, Tây Nam châu Âu, lập quốc đã ngoài 1.300 năm. Ngót nửa thế kỷ đã qua, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Bungari đã trở thành nước công nghiệp hiện đại và công nghiệp tiên tiến với 289 nông trường, nông trang nông công nghiệp trên cả nước. Lợi tức quốc gia hàng năm có sức tăng vào bậc các nước cao nhất thế giới.
Nước Bungari anh em hôm nay tự hào về sự phát triển xã hội và kinh tế, những con đường đã trải không phải dễ dàng. Bởi con người ở vùng ruộng đồng này đã đổi thay từ đèn dầu đến sử dụng năng lượng nguyên tử, từ người nông dân cầm cái liềm bước lên ngồi máy gặt đập, còn các bà chị thì ngày trước vẫn phải đem váy áo ra rũ ngoài sông, giờ nhà đã sắm máy giặt.
Không đâu mà quang cảnh hài hòa đến lạ lùng của văn minh và thiên nhiên, như ở Sôphia. Bốn phía, những cánh đồng, những trái đồi rỡn quanh công trường và nhà máy đương thúc rộng ra ngoài thành phố.
Cả Sôphia là cuộc nô rỡn rồng rắn uốn khúc của đường, của nhà và của những làn cây. Rừng thông cao cao chạy thi với đường cái. Đương mùa đào, anh đào và mận, mỗi thứ chín đỏ đậm khác nhau. Búi cỏ mượt mà quanh những tòa nhà cao tầng như cái đinh khổng lồ đóng xuống mặt đất trơ trọi. Nhưng đã có bóng cây xanh biếc lượn khéo bốn bên, như bó lá nõn ôm bông lay ơn mảnh khảnh.
Trên núi Vi-tô-xa nhìn xuống, Sôphia hệt một vịnh biển, biển xanh sóng cây đung đưa. Những dãy phố cao cao, những lâu đài, dinh thự như những con thuyền bơi giữa làn sóng xanh rờn.
Cửa sổ quầy giải khát tầng hai khách sạn Vi-tô-xa trông ra một đường phố nhỏ. Buổi sáng tôi có thể nhìn thấy đầy đủ mọi sinh hoạt gia đình. Dưới bóng giàn lưa thưa, thấp thoáng quần áo phơi tựa hoa li la hồng nở trái tiết. Những tấm chăn sặc sỡ vắt lên thành cửa sổ trên gác. Vườn anh đào trước nhà như cái ô che. Tiếng vòi nước róc rách góc sân và gà gáy xa xa đằng kia. Rác rưởi trong nhà đem bỏ thùng trước cửa. Xe hốt rác tới, ngoạm quai thùng hất rác lên xe rồi hạ xuống đặt thùng vào chỗ cũ. Cái xe lần lượt đi suốt phố rợp bóng cây.
Giáo sư A Lanh Lơ Roa ngồi trước chai bia Thổ Nhĩ Kỳ, cũng đương ngắm xuống phố. Giáo sư đã 92 tuổi, khách của ngành giáo dục Bungari, đã nhiều lần thăm Sôphia.
Giáo sư chắp tay lịch sự, hỏi tôi:
- Ông đến Pa-ri chưa?
Tôi đáp:
- Tôi chưa được đến Pa-ri lần nào.
Giáo sư kêu lên:
- Trời ơi, may cho ông chưa đến. Những cái nhà chọc trời đã dìm cả Pa-ri xuống rồi. Nhưng ông cũng phải đến mà thấy. Không thể tưởng tượng được, những khu nhà chọc trời dìm chết một thành phố. Ở đây, nhà, cây, đường thật hòa hợp. Ồ, nếu tôi còn trẻ, chắc tôi đã dọn nhà đến Sôphia rồi.
Nhà ở thành phố lớn sống theo mùa. Mùa hè mở cửa sổ, tiếng động bên ngoài hòa với người nói và làm việc ở nhà cửa. Mùa đông, người ta quen với mọi riêng tư trong nhà. Nhưng ở Pa-ri bây giờ không biết thế nào là mùa nào nữa. Cánh cửa rung lạch cạch suốt mùa đông, những cái xe, những cái xe ghê gớm rên xiết đêm ngày ngoài đường - giáo sư Lơroa cắt nghĩa cho tôi và lại thở dài.
Tôi đương đi vào vùng bắc Sôphia chi chít ống khói nhà máy và nhan nhản trên ngã ba những tấm bảng treo ảnh chiến sĩ công nhân với thành tích thi đua trong tháng. Hai bên đường ngổn ngang ống cống, phiến xi măng đúc sẵn và xe húc làm việc, công trường như chiến lũy - chiến lũy của mặt trận công nghiệp hiện đại. Những thành phố vệ tinh của Sôphia bạt ngàn nhà máy đương sôi nổi lao động. Nhưng con đường đi qua đấy lại tới vùng núi nghỉ ngơi. Người ta làm việc mãnh liệt và người ta giải trí thảnh thơi, hai sinh hoạt sóng đôi.
Chẳng mấy chốc đã vào chân núi. Con sông Itka vẫn quấn quít bên đường cái bắt đầu hẹp lại và dòng nước uốn lên gờ núi đã đổi dáng ra con suối đổ theo hai dòng, một tự nhiên, một vào đường ống về thành phố. Sông suối nghìn đời cũng tham gia chiến tuyến công nghiệp. Nước và điện cho Sôphia đều bắt nguồn từ nhà máy thủy điện trên hồ chứa ngọn suối này.
Dãy núi Rila xanh ngợp mắt. Nhưng trong các đỉnh rừng, các đèo yên ngựa, giữa hoang dại lại mở ra những thành phố, đường sá, những khu nhà nghỉ, dài rộng lên xuống quanh co hàng trăm cây số trong thế giới rừng. Giữa bóng đại ngàn, đôi chỗ thoáng mặt nước sáng loáng, con suối ứa nước thành hồ khe đá những hồ nước như con mắt thơ ngây chợt mở thao láo. Có tới trên bảy mươi hồ nước xinh xinh vùng núi Rila.
Đâu cũng rợp rừng, giữa trưa mà râm mát như vào hoàng hôn. Có hai cụ già bước nhanh trước mặt tôi. Các cụ mặc quần áo lông cừu thể thao. Ba lô trên lưng ngang gáy tóc bạc, giày cao cô, tay ôm bó cần câu. Cụ nào cũng râu bạc cước, mặt đỏ bừng hơi núi, đi thoăn thoắt như chạy.
Quán Bờ Suối ôm hai dãy nhà bên suối lởm chởm những tảng đá được sắp xếp lại thành ghế ngồi và mặt bàn. Khách gọi nước ngọt hay bia và nếu đói bụng, làm chiếc bánh mì kẹp ba tê rồi lắp cần trúc, mở túi mồi ốc sên và buông câu. Suối trên núi Rila nhiều giống cá hoa. Cá hoa mảnh mình như cá diếc, cá thiều, lưng điểm những chấm hồng. Cả suối núi đá thịt chắc và thơm. Nhà hàng đã đưa lò than và xiên sắt cho khách đặt những con cá vừa câu được lên nướng ngay, nhắm cá nướng với bia. Đôi chỗ, khói nước cá bốc lên xanh xanh.
Người câu cá rải rác bên suối. Một cụ bắt những con sên bỏ vào hộp mồi. Cụ ngẩng đầu lên nói với đồng chí lái xe đương loay hoay tìm chỗ thả câu. Cô Ni-cô-lai-va bảo tôi:
- Cụ ấy hỏi anh có muốn câu cá hoa không?
- Tôi rất mê câu cá.
- Cụ có hai cần và đủ mồi cho anh mượn.
Tôi cười và cảm ơn.
Cụ nói:
- Câu cho vui. Khi trẻ chỉ thích đi biển, về già thích lên núi tìm yên tĩnh. Hè năm nào tôi cũng lên đây câu cá hoa.
Nhiều người ngồi câu cá đến xế chiều mới trở về nhà nghỉ trong rừng thông. Hỏi ra, các cụ đều thọ trên chín mươi, có cụ ngoài trăm tuổi vững vàng.
Đằng xa, ríu ran như chim hót. Từng đoàn các cháu nhỏ vừa đi vừa hát. Các cháu cầm gậy, đeo ba lô con cóc. Có lẽ tối nay đoàn học sinh cắm trại trong rừng. Từng đám dài đi ngoằn ngoèo như dòng suối xanh chảy ngược lên đá.
Ở cửa rừng ra, lại gặp hồ nước sáng trong. Rừng càng xanh, càng ánh bóng xuống làn nước sáng rợn. Trên thuyền, người đứng cầm cột buồm như lực sĩ, lướt ngang mặt sóng.
Một đoàn xe khách lên núi. Xe đỗ trước những nhà nghỉ bên hồ, những xe khác chạy tiếp vào rừng. Khách xuống xe, phần nhiều những người trẻ tuổi, trai gái gọn gàng xách chiếc túi, cái va li nhỏ. Hôm nay thứ bảy, chắc đây là công nhân các nhà máy lên núi chơi hai ngày cuối tuần.
Chúng tôi trèo đến đỉnh Muxala. Đứng đây trông sang dãy Pirin thấy thành phố Bankô mùa hè băng đóng trắng lưng núi - thành phố của những người thích chơi tuyết giữa nắng hạ. Ở Bankô có cây bách cổ thụ, cùng tuổi 1305 năm với nước Bungari.
Thành phố Plôđíp giữa bảy quả đồi. Sông Miruca vắt ngang các phố trong tiếng chim, không biết tiếng chim gáy trên cành cao hay những con le le ở búi sậy đương thì thầm, lẫn tiếng nước chảy, tiếng nhà máy dụng cụ dọc bờ sông, tiếng của phố xá.
Vụ lúa mì xuân hè chín vàng suốt dọc đường. Cánh đồng ngô trổ cờ xanh rờn chen bên đồng nho, đồng cà chua. Ống dẫn nước tưới tỏa trắng mù mịt, đổi làn như đuôi công múa. Những đàn cừu, đàn dê lúc nhúc quanh quẩn bên chân những ông chăn cừu có bộ râu dài rậm vàng ám khói, nhác trông tưởng lão vác con cừu đi cắt lông.
Một chú cò bạch thơ thẩn trên đồng cỏ xanh ngắt.
Những phố cổ như Plôđíp vẫn giữ nguyên hình dáng những thế kỷ đã qua. Nhưng không phải, khu bảo tàng làng, bảo tàng phố có hàng rào, có người gác và sổ ký tên lưu niệm, mà đây cũng vẫn có các nhà và người ở như mọi phố phường hàng ngày. Chỉ đặc biệt, nhà cửa, đường phố, một phiến đá, và giàn hoa hồng, màu tường đều phảng phất thời xưa. Đường phố lát đá củ đậu lổn nhổn. Ngày trước, những cỗ xe hai ngựa, bốn ngựa chạy qua, tiếng móng ngựa gõ sôi nổi một thoáng. Thành phố Trung Cổ vừa dân cư ở, vừa chiến lũy chống giặc ở trên đỉnh đồi nghiêng nghiêng xuống giữa dốc. Dốc phố lát đá tảng xanh. Một tòa nhà đột cao, khác những ngôi nhà liền tường hàng phố. Đấy là cơ ngơi của lão lái giàu có người nước Thổ chuyên buôn bên Ấn Độ về định cư ở đây. Ngôi nhà đã trên hai trăm năm, ngoài sân còn những chiếc chum đại đứng xếp dẫy cạnh giếng nước. Trong lầu, rèm lụa hoa buông quanh những phòng rộng, thành cửa sổ cao nhọn đầu kiểu kiến trúc Thổ. Lối vào hai bên cạnh đá gồ ra, cái ngõ cũng sâu tun hút. Chỉ một góc phố cũng nhận ra được mọi tạo tác và sinh hoạt pha trộn trên ngã năm ngã bảy châu Âu, châu Á.
Tối hôm ấy chúng tôi được mời ăn ở quán Pantôm giữa phố. Nhà hàng kín đáo mà ở nơi trung tâm, lấy lại cái dáng thời ấy, khi những đèn treo vừa được thắp lên trên cột cổng, tưởng như người ngựa chập tối dập dìu đổ đến cái quán có tiếng. Cỏ ngoài sân mọc lan cả vào thềm, không biết là ánh mờ của bóng đèn ấn trong hốc cột hắt ra hay chỉ có trăng xuống, mà ngọn nến đỏ lung lay trên quầng đèn cũng chẳng tỏ tường hơn. Khách ngồi, từng cỗ, trai gái bè bạn, dóng đôi, dóng bốn, dóng tám trên những tấm ghế bằng cả cây gỗ quanh những cái bàn thép mộc.
Khuya rồi, chưa ai muốn trở lại nhà. Có lẽ, bắt chước phong tục cũ, ăn uống xong, các bạn kéo ra nhà hát giữa trời. Những bậc đá xoáy chôn ốc, người ngồi vòng tròn xuống đến quãng trống dưới cùng đáy, đấy là sân khấu.
Văng vẳng tiếng hát dân ca. Tiếng hát như thoảng qua, như gần gũi sao mà trong óng đến thế. Tôi thấy ra ý nghĩa của cái sân khấu trũng giữa và người xem quây quần thành vành trăng xung quanh. Lời hát từ dưới bay lên, rõ đến như nhìn được tiếng thánh thót lượn vòng bậc thềm. Như một chỗ đọng nước, rồi ánh trăng sóng sánh rung rinh tỏa tròn rộng ra. Bóng sương xuống mờ, không trông thấy người đứng hát, mà tiếng ai thiết tha lượn lên, ngân mãi.
Chúng tôi đương đi giữa Bungari cổ kính và hiện đại trong những cánh đồng và làng mạc giàu có màu mỡ. Quận Kranêvô phía tây, năm nay mở tới 400 cửa hàng tổng hợp bách hóa và thực phẩm. Nhiều nông trang bên sông Đa-nuýp có nhà máy sản xuất nấm xuất khẩu. Chỉ mười cái hầm đất ủ hơi ấm nước sông nuôi nấm mọc đã được 200 tấn nấm một năm. Thị trấn ngoại thành Pêlin được tiếng đến cả khách nước ngoài cũng dừng xe vào quán ăn Gaiđơrét có món thịt cừu nướng lối “sốp” Vác-na.
Những cánh đồng phì nhiêu. Thấp thoáng cánh nhạn trong sương mờ. Những con nhạn bay khắp sông hồ, đâu cũng thấy. Khi mặt trời lên, nhìn ra, bốn phía đã rưng rưng những đồng hoa mặt trời. Hoa mặt trời rực rỡ cao ngang người, đường cây và thị trấn ngập trong màu vàng hoa.
Đến thành phố Pra-véc phải qua nhiều triền núi, núi chuyền sang núi.
Nhưng những quãng đường “cua” theo lối cũ vòng vèo mãi mới lựa ra chỗ vượt sang núi bên kia đều đã được xây cầu nối thẳng, cầu qua suối, cầu cạn, cầu trên sông, chân cao lênh khênh ba trăm, năm trăm thước. Những cây cầu và những hầm xuyên ruột núi gây cho người đi đường những cảm giác khác thường. Núi rừng chỉ còn như lớp phông trên sân khấu. Mỗi quãng đường mở ra một phông mới chưa bao giờ thấy. Bên đường vẫn những tảng đá chất ngất, những khóm rễ chùm, những bông hoa đỏ hoa tím không có tên phất phơ buông trong gió, những thác nước trên cao rơi xuống đá, bụi nước tỏa ra như mưa phùn quanh năm - quang cảnh tương tự mọi nơi, mà lại không phải đã gặp. Bởi bây giờ chỉ có đi thẳng, đường núi mà không một chút vòng vèo. Các tấm bảng giao thông ghi ký hiệu “qua suối”, “đường gấp”, “nguy hiểm” đã biến mất.
Những đường núi ở Bungari đều đương được nắn thẳng xuyên đường hầm và những cầu cạn như thế. Con đường băng núi đã hoàn toàn đạt đường “tiêu chuẩn châu Âu” sáu làn xe chạy một lúc. Có lẽ các đường núi trên thế giới chưa đâu bề thế khoáng đạt như ở đây.
Có năm dãy núi dọc ngang Bungari: từ Vi-tô-xa ngoại vi Sôphia ngược lên Pirin và Ôđôpi giáp Hy Lạp. Vùng núi Stragia biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và dãy núi Già - núi Strômônira mà tôi đương đi qua. Núi Già hùng vĩ, dãy núi nhiều tuổi nhất các núi vùng Ban Căng. Người ta gọi tên là Già, bởi tục truyền đây là dãy núi mẹ đẻ ra các núi con núi cháu tỏa khắp Nam Tư, Hy Lạp, Rumani, Thổ Nhĩ Kỳ và bọc quanh nửa bờ Hắc Hải.
Quê đồng chí Tôđo Gipcôp ở thành phố Pra-véc dưới chân núi. Đường Pra-véc xanh cây như mọi con đường vào thành phố. Dàn cây lila, khoảng vườn trước nhà, cây mận quả chín đỏ thậm, một con ngỗng thò đầu ra, ngơ ngác sau lưng cái ghế gỗ cạnh gốc bạch dương. Cụ già ngồi lặng lẽ nhìn người qua lại. Cỏ tóc tiên xõa ra lối đi vào căn nhà một tầng, nhà hai tầng mái ngói. Những ngôi nhà giản dị, mộc mạc cả phố từ xưa tới nay với người qua lại tương tự thế.
Bên hè, cạnh một cây liễu cổ thụ có ghế đá và vòi nước phun mát rợi. Chúng tôi nghỉ chân trong bóng nước. Cô Ni-cô-lai-va trỏ tay sang bên kia đường:
- Nhà đồng chí Tôđo Gipcôp đấy.
Chẳng khác các nhà hai bên láng giềng, tôi vào thăm ngôi nhà đồng chí lãnh đạo yêu quí của nước bạn. Cánh cổng gỗ đã mở sẵn khóa, người ra vào tự nhiên. Những cụm cỏ tóc tiên hai bên lối quết ngọn vào bước đi. Nhà hai gian tầng dưới thấp lửng, vừa nhà ở, lại là hầm đựng thùng rượu vang. Tầng trên, buồng khách và buồng ngủ, hai bên, giữa nhà là bếp. Cái chảo còn đặt trên kiềng và bàn ăn kê luôn cạnh bếp. Góc hiên, cái khung cửi dệt tay của bà mẹ, chiếc giường nhỏ bên bàn học của đồng chí Gipcôp với bộ quần áo học sinh treo trên mắc. Một nhà nông dân như mọi nhà trong làng xóm vùng này thời ấy.
Khu nhà cao tầng mọc giữa thành phố chỉ lan ra đến đầu đường đằng kia và dừng lại. Thành phố giữ một quãng phố cũ này như người ta bảo tồn vùng phố cổ Plôđíp. Cũng giống phố cổ ở Plôđíp, quang cảnh như nguyên nhưng không cắt lìa với sinh hoạt thành phố. Mọi nhà đều có hộ ở bình thường. Nhà đồng chí Tôđo Gipcôp có một ông già ở trông nhà và làm vườn.
Ra khỏi thành phố, gặp một hồ lớn mênh mang trước mặt.
Nắng rực rỡ lên. Người bơi, người lướt thuyền vi vút trên mặt hồ. Chúng tôi không xuống tắm, chỉ mua kem ăn. Những cái vỏ cốc kem bỏ vào thùng rác, đàn ong mật đương bay vù vù đến. Có lẽ ong kiếm đường dính ở các hộp kem còn dễ hơn đi tìm nhụy hoa mùa thu. Ở tầng cửa sổ nhà máy, trong vườn táo, ở công viên đâu cũng trông thấy những tổ ong lỗ chỗ cửa tròn sơn trắng.
Ở bờ biển Vác-na, nhiều bạn nhỏ ra đón chúng tôi. Các cháu gái gấu váy thêu viền màu hoa cà, các cháu trai áo sơ-mi trắng bốp là mới cứng. Các cháu từng đôi nhảy thành những vòng lớn như dang tay chào đón. Đằng kia, một dàn nhạc đứng nghiêm, thật oách. Dàn nhạc trường học sinh cấp một. Thế mà đủ kèn đồng, có sáo, có ắc-coóc, có kèn “gai-đơ”...
Tôi yêu cái kèn “gai-đơ”, tôi chưa trông thấy ở đâu bao giờ. Kèn kiểu này ở Trung Á cũng khác. Làm thế nào thấy được, lần này tôi mới đi qua các vùng đồng bằng, đồi núi và bờ biển Ban Căng, xứ sở những đàn cừu đông đến vàng mờ đồng cỏ.
Cái kèn “gai-đơ” làm bằng cả bộ da con cừu bột, một chân thuỗi ra làm ống thổi và một lỗ bắt nhịp. Cái gì gần người cũng thành bạn thân thiết với người. Cây trúc làm cái sáo, thanh sinh tiền và đàn T’rưng, quả bầu lọ hóa chiếc đàn bầu và con cừu biến thành cái kèn cừu. Trong truyện Những vì sao của A.Đôđê dễ thường cái cậu chăn cừu trên đồi đêm ấy đã thổi cây kèn cừu này cho cô gái con ông chủ trại nghe. Tiếng kèn “gai-đơ” hay đến đỗi những vì sao xa lắc xa lơ trên trời cũng mê tiếng réo rắt phải xuống bậu vai người thổi kèn.
Cái kèn vắt trên vai, như người ta vác con cừu đi chơi. Cả dàn nhạc vang lừng chào khách: kèn “gai-đơ” giơ lên, chú bé nhạc sĩ thổi căng ra, như con cừu con ngóc dậy. Tòe tòe... pòm pòm..., tiếng “gai-đơ” ấm hơi da, không thể lẫn với bất cứ tiếng nào khác. Thấy như mình đương chen chúc đi giữa đàn cừu với người chăn cừu thổi chiếc kèn kỳ diệu. Bất giác, cả những tiếng sáo véo von, tiếng ắc-coóc sôi nổi cũng lạc đi đâu mất, bên tai chỉ trầm trầm những tiếng tòe tòe... pòm pòm ấm áp mùi cừu, tiếng cừu.
Ban nhạc hoa tay lên chào, dứt tiếng. Cái kèn cừu xẹp xuống và chú bé thổi kèn lại vắt bộ da cừu lên vai, bước ra giữa đám vui nhộn quây lấy chúng tôi. Dưới kia, bãi cát trắng ngần ven biển, sát mép núi. Người ta đi vào những đêm những ngày thần tiên trên bờ biển Hắc Hải, từ Vác-na, Buốc-ga sang Pla-tăng-ga bên Rumani và Yanta, Pitsunđa, Ô-đét-xa Liên Xô... Chỉ một khu du lịch An-bê-na này ở Vác-na đã có 40 khách sạn và hàng trăm hiệu ăn, chưa kể các nhà trọ rải rác trong núi ven biển. Bungari kinh doanh du lịch khắp nước. Những vùng xa xôi dọc đường dọc sông đều có nhà trọ và quán hàng đủ tiện nghi hiện đại cho khách quốc tế. Ở nông trang quận Ruta mỗi tuần hàng nghìn khách du lịch trong nước ngoài nước đi đường tạt vào và dưới sông lên nghỉ lại, và ăn uống.
Quán “Phong Lan” trên cửa hang núi. Lại rộn tiếng “gai-đơ” kèn cừu và điệu múa “sốp”, hát “sốp” của người Vác-na thời cổ, váy áo tưng bừng đến hoa mắt. Những rễ đá cổ thụ im lìm rủ xuống trước lò nướng có ông nhà bếp mũ trắng tạp dề trắng, nghiêng ngả quay những xiên thịt theo nhịp kèn cừu ngoài sân.
Vác-na đây rồi, ngay trước mặt. Trong mỗi khe núi hé ra, sương mù và mặt biển dâng lên như miệng cốc, những cốc nước sóng sánh giữa hai gờ đá. Đố ai đoán được ngay dưới chân núi dựng đứng ấy lại là những bờ cát mịn, những bãi tắm. Nghe tiếng sóng có thế phân biệt được. Sóng thì thào vào cát, khác sóng gầm thét vỗ vào đá...
Khắp thành phố treo những tấm áp phích xanh tươi vẽ một nửa trái đất tròn như một tổ chim, một vỏ trứng chim vừa nở. Trong đó có những con chim con, dẩu mỏ, mắt tròn hồn nhiên nhô đầu lên.
Hơn một nghìn các vị khách bé bỏng từ 116 nước trên trái đất tới Sôphia. Các bạn khác nhau khuôn mặt và tiếng nói. Nhưng các bạn lại giống nhau trong vui chơi và tình bạn, ý nghĩa cuộc họp mặt thiếu nhi “ Ngọn cờ hòa bình ” sâu xa ở đấy.
Một vệ tinh lớn ở dải thiên hà nào không biết, đã từ từ hạ xuống hội trường. Các bạn ấy ở hành tinh khác nghe trái đất có hội thiếu niên hòa bình Sôphia bèn rủ nhau đến chơi. Những thế hệ của mai sau, quê tận những tinh cầu xa xôi. Những người nhìn thấy, cũng tưởng mình bay vào khoảng không không biết có chân trời. Con cháu loài người khắp vũ trụ đương mở hội hòa bình ở đây.
Chúng ta phải làm cho khắp nơi đâu cũng được biết tin vui. Các bạn kéo lên đồi Chuông. Trên đồi Chuông trong cánh đồng ngoại thành Sôphia treo bao nhiêu chuông của các bạn nhỏ các nước gửi tới. Thiếu nhi Việt Nam đã đến treo lên đấy một quả chuông chùa Việt Nam thật to.
Những tiếng chuông thế giới cùng gióng một lúc. Đủ các kiểu chuông và các dạng chuông khác nhau từ thành phố hòa bình này vang lên đỉnh núi, ngọn sông, đến từng vì sao xa nhất. Tiếng chuông vang lên: Chúng em yêu hòa bình! Chúng em đương vui chơi ở Sôphia.
Thành phố Sôphia tuyệt đẹp của chúng em. Các đường phố lớn đã thành vườn chơi hóa trang của thiếu nhi Sôphia và các bạn thiếu nhi quốc tế. Chúng em khoác vai bạn gấu. Chúng em cưỡi ngựa, cưỡi voi, thò tay xuống vuốt râu ông phễnh đi xe đạp một bánh. Chúng em dung dăng dung dẻ với các bạn thỏ, các bạn cừu.
Những sân chơi và những sân khấu giữa trời chỗ nào cũng vây quanh cung văn hóa Lút-mi-la Gipkôva nguy nga đồ sộ. Các cháu gái Nhật Bản cười lúm má đồng tiền đương cắm hoa - nghệ thuật cắm hoa Nhật, biếu khách.
Cháu Rakhila quê ở nước Li Băng, cháu bé bỏng nhất cuộc chơi. Bé hát, người nghe ra tiếng thương, tiếng đau của nước Li Băng đương bị bọn đế quốc giày xéo giết chết biết bao nhiêu trẻ con.
Các cháu cầm phấn màu vẽ thi trên sân.
Cung Văn hóa xanh đầy mơ mộng và tiếng trẻ thơ.
Các cháu Thái Lan múa sự tích nàng tiên và con quỷ.
Các cháu Phi-líp-pin hát tốt giọng nhất hội. Các cháu Bungari chơi ú tim mèo bắt chuột. Các cháu Tangiania có bộ nhạc gõ...
Ô kìa, các cháu Việt Nam. Nguyên đương dẻo tay vừa múa quạt vừa hát giữa các bạn chơi vi-ô-lông và thổi sáo. Liên ở thành phố Hồ Chí Minh uốn dẻo, lắc vòng trơn, vòng lửa. Các bạn xúm lại xem reo lên, vỗ tay rào rào rồi chìa sổ tay đòi Liên ký. Trà đương hí húi vẽ những cảnh nhà em, trường em ngoài sân.
Mai Hương làm thơ:
Màu xanh gửi vào trong giỏ
Lời cây nói
Những bông hồng trong nắng
Chúng em yêu hòa bình
Hòa bình.
Một em bé người Anh lấy khăn cọ mặt cho một em bé da màu người Ma đagatxca. Bé tưởng mặt bạn bị nhọ. Ôi là tình cảm hồn nhiên. Cứ thế này, đến hôm chia tay, tha hồ mà nhớ, mà khóc nhé. Và tôi đã rưng rưng chứng kiến những trận khóc như thế. Lên cửa máy bay rồi, các cháu Cu Ba còn quay lại vẫy các bạn đứng dưới chân cầu thang, rồi cả trên cả dưới bưng mặt khóc nức nở.
Chiều hôm ấy, nhà khách Chính phủ thết cỗ hơn một nghìn khách tí hon, cháu ngoan, cháu học giỏi khắp thế giới hội lại. Quang cảnh nhà khách Bôyana chứa chan tình bác cháu, tình bạn giữa thiên nhiên. Một đội kèn thổi vang lừng. Tất nhiên, phải có kèn “gai-đơ”, kèn cừu! Trên vườn cỏ, đến ven hồ chân đồi, bàn thức ăn bày ra bên cạnh gò đông, những đào và anh đào cùng đỏ thắm như dưa hấu, như táo. Ở mỗi góc sân, lại gặp nụ cười của một bác nhà bếp đội mũ trắng ngất ngưởng, đưa từng hộp kem cho các cháu. Kem Sôphia ngon có tiếng rồi.
Cả thành phố của chúng em. Sôphia, Sôphia của chúng em - một vùng yên vui trên trái đất của các thế hệ chúng em.
Đêm Sôphia sáng rực trong quầng đèn, đêm bình yên.
Ký Ức Phiên Lãng Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài Ký Ức Phiên Lãng