Chương 14
ột ngày tuần trước, với một số album ảnh chàng đã chuẩn bị, Joe trở lại khách sạn trên đường 40. Sau khi nhìn kỹ qua tấm lưới, chàng trông thấy ba người hôm trước mặc áo sơ mi trần đang làm việc bên trong văn phòng, và chàng đã đập vào các chấn song để được cho vào. Sau khi trải các tập album ra, những người đàn ông đứng quây quần chung quanh chàng.
Tập album thứ nhất đựng bức ảnh của Johnson. Lúc này cuộc điều tra đã kéo dài quá lâu nên thâm tâm Joe cần đến sự xác nhận rằng quả thật Johnson là nhân viên cũ của họ, rằng thực sự có người đàn ông này. Tuy nhiên, Joe có mang theo một tập album thứ nhì chẳng liên quan gì đến Johnson cả.
Khi tấm ảnh của Johnson hiện ra chàng thấy ba người đàn ông ngầm liếc vội nhau và điều này làm chàng thỏa mãn, nhưng chẳng ai chính thức nhận dạng hắn cả.
Joe lên tiếng gay gắt, “Tôi xin được lưu ý các người về tội gây trở ngại cho công lý đấy”.
Morton Bluestone bắt đầu ho. “Trông giống như người nào đấy hay làm việc ở đây, tên ấy đấy - tên hắn là gì nhỉ? Johnson. Có phải tên hắn như thế không”.
Charlie đáp, “Tôi không thể đoan chắc điều ấy được, nhưng có thể là hắn đấy”.
Bluestone lại hắng giọng. Theo lão được biết cho đến nay, đã không có sự theo dõi nào về nguyên đơn gởi cho Nội Vụ cả, nên bây giờ lúc lão nhìn tấm ảnh căn cước của Johnson, lão bỗng thấy cần phải xoa dịu người cảnh sát này - cảnh sát nói chung “Hắn bị truy nã vì tội gì? Ma tuý, ông nói thế mà”.
Joe không đáp. Chàng trừng mắt nhìn Bluestone: người cảnh sát như người thẩm tra. Nhưng vai trò không kéo dài. Sự đắc thắng của Joe chấm dứt. Tập album ấy bây giờ đã xong, và một tập khác tiếp theo, tập mà Joe đang lo lắng. Một tập album ảnh những mụ đàn bà móc túi có ảnh của Mary lẫn đâu đấy trong đó, có lẽ cùng với một số giải đáp trong đó nữa. Có lẽ chàng không muốn nghe những lời giải đáp. Chàng định hỏi xem có ai nhớ là đã trông thấy Mary vào khách sạn không, và nếu có thì vào với ai. Chàng bắt đầu lật những trang album.
“Nữ phạm nhân”, chàng lên tiếng.
Chàng lật những trang album hơi nhanh một tí. Ngay cả nếu họ nhận ra Mary, có lẽ họ cũng chẳng nhận ra có gì khác lạ về nàng cả. Người cầm súng chắc đã đẩy nàng qua mặt họ quá nhanh. Lần này Joe vẫn còn tin lời kể của vợ chàng. Chàng tự nhủ rằng chàng tin. Trong lúc mải miết lật các trang album, chàng bồn chồn nhớ lại sáng hôm ấy mình đã mượn quyển album của tiểu đội chống móc túi như thế nào, một trong vài tiểu đội có nhiều nữ đối tượng. Lúc này nhiều tên móc túi là phụ nữ. Chúng hoạt động ở các cửa hàng tổng hợp. Chúng có thể cho tay vào ra các ví tay của những người phụ nữ khác nhanh như chớp. Sáng nay chàng đã nhét tấm ảnh của Mary vào giữa bọn chúng. Lúc ấy, chàng đã cảm thấy như là một hành động gian xảo và chàng sẽ lại cảm thấy gian xảo trong một lúc khi chàng lật đến ảnh nàng.
Ba người đàn ông mặc áo sơ mi cụt tay nhìn các khuôn mặt vụt qua chẳng có phản ứng nào cả. Mặt của Mary, khuôn mặt duy nhất đang cười, lướt qua họ, tấm ảnh từ bàn giấy của chàng ở nhà. Chẳng ai nói gì cả và ngay lúc ấy, Joe lật đến trang cuối của quyển album.
Nhưng mình lật quá nhanh, chàng tự nhủ. Mình không để họ có thời gian. Đó không phải là một cuộc thử thách công bằng. Mình sẽ phải lật lại. Nhưng cuộc thử thách không cần phải công bằng. Tại sao mình lại phải công bằng nhỉ? Nhưng chàng lại nghe một giọng nói cất lên và đấy lại là giọng nói của chàng.
Chàng bảo: “Tôi sẽ lật lại lần thứ nhì, chậm hơn. Tôi muốn các ông nhìn kỹ từng người trong số các ả này.”
Chàng lật từ từ. Độ nửa chừng, chàng bỗng thấy mình nhìn kỹ ảnh vợ, Mary mỉm cười với chàng. Mặc dầu muốn lật ảnh nàng qua nhanh như lần trước, nhưng chàng lại không làm như thế. Chàng buộc tay chàng phải hoạt động với tốc độ bình thường - nhưng điều này chứng tỏ không nhanh mấy.
Người trẻ nhất trong ba người đàn ông, lão độ năm mươi, lên tiếng, “Tôi nhận ra ả này. À, tôi nghĩ rằng tôi nhận ra đấy”.
Joe gấp album lại. “Nhưng ông không biết chắc chứ?”
“Cho tôi xem lại”.
Joe lại mở album ra. Chàng chợt rất căng thẳng.
“Ả trông đẹp đấy”, người đàn ông lên tiếng phê bình. Lão cứ trố mắt nhìn ảnh Mary một chặp. “Vâng, tôi đã trông thấy ả ít hôm trước đây”.
Joe bảo, “Cô ta là người đã đi vào đây với một người da đen. Có phải ông định bảo với tôi như thế không?”
“Không, không, với một người da trắng”.
Joe gấp mạnh quyển album lại. “Hắn trông như thế nào?
Viên thư ký suy nghĩ. “To con, tôi nghĩ thế. Nhiều cơ bắp. Tôi không nhớ hắn. Ả mới là người tôi nhớ đấy”.
Giọng của Joe đã trở thành đều đều. “Tại sao thế?”
“Tên ấy đưa ả lên lầu để chơi ả đấy”.
Từ mạnh nhất trong ngôn ngữ.
Điều này làm Joe đổi sức nặng từ chân này sang chân kia. “Ông nhớ cô ta về điều gì nhỉ?”
“Chỉ vì bản thân tôi cũng muốn chơi ả”.
Còn mạnh hơn từ Chúa nữa. Lần này điều ấy làm Joe nao núng. “Có lẽ ông không thể nào nhớ người đàn bà đặc biệt này đâu”, chàng lên tiếng. Một ảo ảnh đột ngột tấn công chàng. Mary với đôi chân giang ra - và một người đàn ông khác leo lên giữa chỗ ấy.
Viên thư ký khách sạn nhún vai.
“Mỗi ngày ông trông thấy cả chục ả đàn bà”, Joe bảo. “Ông đang bịa ra đấy”.
Bỗng nhiên, viên thư ký nhớ một điều đặc biệt. “Cô ả mang theo dưới cánh tay một ống hình trụ giấy bìa”. Đối với lão, chi tiết này giải quyết được vấn đề nhận dạng. Lão thốt lên một tiếng cười đắc thắng với Joe. “Ông biết đấy, như một tấm bích chương cuộn lại”.
Joe chẳng biết gì về bất cứ ống giấy bìa nào cả. Nhưng hôm ấy Mary có thể đã mang theo một cái. Suy cho kỹ, nàng đã vừa ở lớp nghệ thuật ra. Đôi lúc nàng về nhà với những bức tranh.
Viên thư ký nói với vẻ đắc thắng, “Ống giấy bìa ấy chứa đầy heroin, phải không? Có phải ông nghĩ như thế?”
Joe cười gằn, “Ông là thám tử Sherlock Holmes chính hiệu?”
Viên thư ký đáp, “Tôi nhớ rằng ả đứng bên cạnh có vẻ bối rối, trong lúc tên bạn trai của ả đăng ký phòng. Họ đều làm như thế cả - giả vờ bối rối. Như thể chơi đàn ông là điều xa lạ nhất trong tâm trí họ đấy”
Joe đi ra cửa. “Ông sẽ được tin của tôi đấy”, chàng lẩm bẩm và dập nó lại sau lưng chàng.
Đêm ấy chàng không về nhà nhưng ngủ lại trên chiếc giường trong văn phòng của chàng. Tâm trí quay cuồng và chàng không ngủ được. Sáng hôm sau chàng lái xe về nhà để hỏi Mary về cuộn giấy bìa. Nhưng nàng vẫn khăng khăng chẳng biết gì về chuyện ấy cả.
“Có lẽ em mang về nhà vài bức tranh em vẽ phải không?”
“Không”.
“Không có ống hình trụ nào ư?”
Nàng liếc lên chàng, có vẻ hơi cảnh giác. “Không, nàng đáp”.
“Tốt”, Joe bảo. Chàng vào phòng riêng của chàng để đặt tấm ảnh của nàng vào lại chiếc khung của nó, rồi trở ra xe. Lúc lái xe về thành phố, chàng cảm thấy đỡ căng thẳng. Lời khai của viên thư ký khách sạn đã làm chàng run, chàng thú nhận điều ấy. Nhưng bây giờ chàng tự hỏi xem mình đã từng lo lắng điều gì. Viên thư ký tuyệt nhiên đã không nhớ Mary. Không bao giờ có thể là Mary được. Lời khai của nhân chứng thường không đáng tin. Điều này được chứng minh hầu như trong mỗi phiên xử. Nhân chứng được gọi như thế chỉ vì không thể tin tưởng được.
o O o
Tại học viện cảnh sát, cuộc nghiên cứu của phòng thí nghiệm về những cục băng keo đã hoàn tất từ lâu. Một bản báo cáo gửi cho thanh tra Hearn đã nằm trên bàn giấy của đại úy Lauder trong nhiều ngày, và ông đã điện thoại nhắn Joe, nhưng những cú điện thoại của ông chưa được phúc đáp.
Nhưng cả Lauder cũng đã nghe đồn về thái độ kỳ quặc của Joe lúc gần đây, về cuộc điều tra bí ẩn của chàng. Hiển nhiên các cục băng keo ấy là một phần của vụ án này. Nhưng Lauder, vì tò mò muốn biết nhiều hơn, vẫn cứ gọi mãi. Cuối cùng, điện thoại được thông.
“Tôi đã nghĩ rằng ông nôn nóng có được bản báo cáo này”, Lauder bắt đầu.
Vì cuộc điều tra của chàng có vẻ như đã xong, và vì lần này Phó Thanh tra Parson ngẫu nhiên lại đứng cạnh bàn giấy của chàng nên Joe đã trả lời điện thoại của Lauder. Chàng đã bắt đầu nhận một số cú điện thoại và đáp lại số còn lại. Vụ án hoàn toàn bị bế tắc. Chàng đã cố gắng bắt đầu làm việc bình thường trở lại.
“Vâng, có đây”.
“Chúng tôi đã hoàn tất xét nghiệm trên chỗ băng keo ấy đấy”.
“Tôi đã bận quá”, Joe bảo. Chàng đang lựa qua những câu nhắn điện thoại khác.
“Bốn đoạn băng keo riêng biệt”, Lauder bảo. “Đấy là điều bí ẩn”.
Joe, với ống nghe bên tai, đã xoay ghế và nhìn đăm đăm ra cửa sổ.
“Ông không chỉ có một nạn nhân đâu”, Lauder bảo, “Hai đấy”.
“Không,” Joe bảo, “Một nạn nhân thôi”.
“Có nhiều tóc trên những đoạn băng keo ấy và chúng thuộc về hai người khác nhau. Lý do mà chúng tôi biết là thuộc hai phái tính khác nhau. Tất cả đều có trong bản báo cáo của tôi đấy”.
Pearson vẫn đứng bên ghế của Joe. Ông đã đến với một bản dự thảo của kế hoạch tái tổ chức. Họ đã thông qua bản dự thảo từng đoạn một. Đối với Pearson, công tác quan trọng là bản dự thảo này. Lúc này công việc của ông có vẻ an toàn và bản dự thảo này là chìa khóa đưa đến vấn đề ấy. Ông đứng đợi cạnh ghế Joe, chờ điện thoại ngưng để trở lại vấn đề.
“Một người đàn ông và một người đàn bà”, Lauder bảo và ông cười to tiếng. “Trừ phi”, ông ta đùa, “một trong hai là một tên pê đê. Lúc này có nhiều tên pê đê tẩy cho tóc trắng đi phải không?”
Joe chẳng nói gì cả.
“Người đàn bà có tóc sọc hoe”, Lauder giải thích.
Tóc của Mary đấy, Joe nghĩ thế. Chàng đã biết như thế. Cả phần còn lại nữa, có lẽ thế.
“Tóc của tên đàn ông màu đen. Vẫn còn đen, tôi cho rằng như thế”.
“Một người đàn bà tóc đen đấy”, Joe bảo.
“Lông mặt hắn cũng đen. Râu hắn. Ông biết đấy. Ria mép của hắn đấy. Có một sự khác biệt giữa lông mặt của một người đàn ông và một người đàn bà”. Lauder cố đùa một vố nặng nữa. “Tôi muốn nói, trừ phi người đàn bà cạo tỉa mỗi ngày”.
Joe chẳng nói gì cả.
“Hai miếng bịt mắt, hai miếng bịt miệng”, Lauder bảo. “Hai nạn nhân, một người đàn ông và một người đàn bà đấy. Tôi sẽ gửi những báo cáo này đến ông”.
Khi Joe đã gác máy, Pearson xích lại còn gần hơn.
Bản thảo đang nằm trên bàn và bằng cách chủ động, ông ta đưa cây bút chì chạm đến nó. “Tất nhiên, thưa Thanh tra, tôi nhận ra rằng ông sẽ muốn sửa lại bản này. Thực ra có lẽ hơi nặng đấy”.
Joe liếc nhìn ông. Pearson thực sự rất trung thành, tuyệt nhiên chẳng phải là người nguy hiểm như chàng đã tưởng tượng lúc đầu.
“Ông sẽ không làm tổn thương tình cảm của tôi với việc sửa lại của ông đâu, thưa Thanh tra”.
Joe đột nhiên đứng dậy. “Hãy cho đánh máy đi và tôi sẽ ký”.
Pearson trông có vẻ hài lòng. “Rõ, thưa thanh tra”.
Joe ra đến giữa cửa.
“Mai ông sẽ có nó để trình cho trưởng ngành điều tra và ủy viên cảnh sát đấy.” Pearson nói sau lưng chàng.
Joe lái thẳng đến Hội nghệ thuật Midtown. Chàng đã gặp thầy dạy của Mary một lần, một ông già đầu hói. Chàng không nhớ tên ông. Chàng phải ghé qua văn phòng và mô tả hình dạng ông. Sau đấy chàng phải tìm ra phòng học. Ông thầy nghệ thuật ra khỏi sảnh đường để nói chuyện với chàng.
Ông mặc áo khoác vấy sơn. Có những giọt sơn trong bộ râu cũng như trên cái đầu hói của ông. Ông bắt tay Joe thật nồng nhiệt. “Vợ ông thật là một tài năng đấy,” ông bảo. “Tuy vậy bà ấy đã vắng mặt hai buổi sinh hoạt đấy nhé. Chẳng có điều gì xấu cả, tôi hy vọng như thế chứ?”
“Chẳng có gì xấu cả,” Joe bảo.
“Một trong những cháu bé bị đau, có lẽ thế. Một điều gì đại loại như thế. Mà thôi, tôi có thể giúp ông thế nào nhỉ?”
Joe bảo rằng chàng muốn hỏi thăm về một ống giấy bìa nào đấy. Chàng cho biết thời điểm xuất hiện lần cuối cùng của Mary tại trường. Chàng hỏi nàng có rời khỏi nơi đây và mang theo một số bức tranh của nàng trong một ống giấy bìa không.
Người họa sĩ gật đầu: “Đó là những bức tranh thành công đặc biệt. Tại sao ông hỏi thế? Bức tranh quả thực là một tuyệt tác đấy.”
Năm phút sau Joe đứng trên vỉa hè dưới ánh nắng trước mặt tòa nhà và mắt chàng quá ướt đến nỗi không thể nhìn rõ. Chàng đứng đấy nháy mắt. “Ồ, Mary,” chàng lên tiếng và bắt đầu bước đi. Chàng đi bộ lên phố trên. Chàng đi bộ lên Quảng trường Times. Chàng đi qua các đám đông, qua những tủ kính của các cửa hàng tình dục, đi qua dưới mái che cửa vào của các rạp xi nê khiêu dâm. Chàng đi lên đại lộ 7, qua những khách sạn lớn, qua tòa Carnegie, đến đường 59. Bên kia đường là quảng trường Trung ương Chàng đi qua dòng xe cộ qua lại và lẫn vào trong ấy. Chàng bước đi nhanh dưới các hàng cây như nôn nóng đến một nơi nào đấy. Chàng thở mạnh nhưng trong trí chẳng có điểm đến nào cả. Cuối cùng, chàng đã có tất cả bằng chứng mà chàng đã tránh né. Tên hiếp dâm không dí súng bắt vợ chàng vào khách sạn. Nàng đã ở sẵn trong đấy. Mary của chàng. Với một gã đàn ông khác. Nhưng mình đã biết rồi, chàng tự nhủ, phải không? Lẽ ra mình đã phải biết điều ấy rồi. Chắc chắn mình đã biết. Mình đã biết từ đầu. Mình là một cảnh sát mà. Mình đã nghe đủ loại chuyện kể, và mình không bao giờ tin lời kể của Mary cả. Mình có thể đã muốn tin điều ấy, mình cố gắng tự dối mình đấy. Nhưng mình đã biết rõ câu chuyện từ đầu đến cuối.
Chàng đi trong ánh nắng lốm đốm. Một ngọn gió nồng nàn thổi vào mặt, lùa vào tóc chàng. Chàng bước đi trong công viên dọc theo một con đường đầy bóng cây. Có những đứa trẻ trượt patanh trên những con đường trải nhựa kêu lách cách. Vì chàng đã biết từ đầu đến cuối, vậy bây giờ tại sao chàng lại đau khổ đến mức này nhỉ? Sự đau đớn của chàng có tính chất vật chất, nó ở trong lồng ngực, trong hộp sọ đang chấn động của chàng, nhưng nó cũng mang tính chất lý trí nữa. Chàng biết rõ sự thân mật đã có giữa vợ và chồng, giữa chàng và Mary, và đang cố tìm hiểu tại sao Mary đã chia sẻ niềm thân mật này với một người khác, và điều này đối với chàng không thể hiểu được. Chàng không thể nào tin được rằng suốt từ đầu đến cuối nàng đã có một cuộc sống bí mật, một cuộc sống của riêng nàng mà chàng không biết - mỗi tuần ba giờ tại Hội Nghệ Thuật, đúng, nhưng không phải thứ này. Chàng không thể nào chấp nhận được ý nghĩ về chuyện nàng cười cợt, nói chuyện, chạm đến một người đàn ông khác, thỏa mãn tình dục cho một người đàn ông khác. Một người đàn ông mà chàng không biết. Một tư cách như thế không phù hợp với tâm tính của nàng như chàng biết. Một tình huống đương đầu với chàng mà chàng không thể nào hiểu được. Mary của chàng. Sự tin tưởng của chàng ở nàng đã thực là toàn diện. Chàng không thể nào hiểu được tại sao nàng đã có thể phản bội chàng như thế, dan díu với một người đàn ông khác mà không cho chàng biết, mà chàng không biết gì về chuyện ấy cả. Mary của chàng.
Có những chiếc thuyền trên mặt hồ. Người người, chủ yếu là các đôi tình nhân, lờ lững trôi dưới ánh nắng. Chàng bắt đầu đi vòng bờ hồ. Chàng di qua một chiếc xe đẩy với những đứa bé mua kem lạnh vây quanh. Có một tia sáng chói chang từ mặt nước và một tia sáng chói chang từ điều mà chàng tưởng tượng là tư cách của vợ và chàng cảm thấy như bị lòa. Chàng hầu như không nhìn được gì cả.
Một lúc sau chàng rời quảng trường. Chàng bắt đầu xuống phố dưới trên đại lộ 6, đi ngược dòng xe cộ đông đúc. Chàng không biết phải làm gì tiếp theo. Chàng tin rằng chàng phải làm một điều gì đấy. Chàng cố gắng đặt ra một loạt hành động. Chàng không thể đơn giản chẳng làm gì cả - sự thống khổ của chàng quá lớn. Cuộc đời của chàng cho đến lúc này đã là một cuộc đời hoạt động. Lúc nào chàng cũng quay lại trực diện đối đầu với định mệnh và bây giờ chàng cũng muốn làm như thế.
Một sự rối rắm của những điều có thể xảy ra bắt đầu đi qua đầu óc của chàng. Chúng đến không theo trật tự lô gích nào cả và một số tự bản thân chúng không lô gích tí nào cả. Chàng đau khổ quá nhiều đến nỗi chàng không thể nào nghĩ đúng được. Nếu chàng đương đầu với Mary thì sẽ sao nhỉ? Nàng sẽ chẳng bao giờ cho chàng biết tên người tình của nàng. Chàng biết nàng. Nàng sẽ không làm điều ấy. Hơn nữa, đương đầu với nàng sẽ là đưa nàng vào vòng tay của một người đàn ông khác. Có phải chàng muốn điều ấy không? Không. Chàng muốn kéo nàng lại. Nếu chàng đương đầu với nàng, cuộc hôn nhân của họ sẽ chấm dứt, nhưng chàng không muốn nó chấm dứt. Bây giờ chàng muốn có nàng còn hơn cả việc chàng đã muốn có nàng vào đêm đầu tiên ấy, khi họ đã sống chung với nhau, trong một khách sạn ở bờ bể với tiếng sóng vỗ vọng qua cửa sổ hòa lẫn với tiếng thì thầm yêu đương cho nhau của họ. Chàng phải giành nàng lại nhưng điều ấy chỉ có thể được nếu chàng giữ im lặng. Chàng sẽ phải im lặng hoặc mất nàng. Nếu chàng đương đầu với nàng, nàng sẽ ghét chàng, đặc biệt nếu cuộc tình của nàng với người đàn ông kia đã chấm dứt, và có lẽ thế. Nếu nàng nghĩ chồng nàng đã bắt được nàng trong hành động như thế, nàng sẽ bỏ chàng đi. Phương án duy nhất của chàng là không được đương đầu với nàng. Nàng không bao giờ được biết rằng chàng biết. Tất cả những gì chàng hỏi là cơ may để giành nàng lại.
Đồng thời chàng phải tìm hiểu xem người tình của nàng là ai, vì khuôn mặt của mỗi người đàn ông đang lướt qua đầu chàng và trong hướng ấy có sự điên rồ. Chàng sẽ nhận diện người đàn ông này. Việc chàng truy tầm kẻ hiếp dâm bây giờ sẽ chấm dứt, và việc chàng truy tìm người tình của Mary sẽ bắt đầu. Chàng có thể phát hiện ra cuộc tình đã chấm dứt. Chàng còn có thể phát hiện ra chẳng có người đàn ông nào, rằng chàng đã tưởng tượng ra tất cả điều này. Có thể lắm. Chàng sẽ chẳng sẽ làm gì liều lĩnh cho đến lúc mình biết rõ. Vấn đề tìm người đàn ông tối thiểu cũng đã trì hoãn sự chấm dứt cuộc hôn nhân của họ, lần mất vợ cuối cùng của chàng. Điều ấy sẽ cho chàng thời gian để làm cho Mary yêu chàng lại.
Chiều hôm ấy chàng ghé lại Học viện Cảnh sát để ký nhận một máy thu âm lọc tiếng. Lúc tối đến, chàng lặng lẽ lẻn vào phòng riêng chàng, mở hộp tiếp hợp và gắn chiếc máy vào giây điện thoại. Từ đây trở đi nó sẽ ghi lại bất kỳ cú điện thoại đi và đến nào của Mary.
Việc mắc rẽ đường giây vào điện thoại là một phần trong kế hoạch của chàng, và việc giám thị Mary là một phần khác. Bắt đầu sáng hôm sau chàng chiếm vị trí ở cuối đường nhà chàng và đợi để đi theo nàng đến bất kỳ nơi đâu mà nàng sẽ đi. Chàng ngồi đấy suốt ngày và mãi đến khuya. Nhưng nàng rời nhà chỉ có một lần, lúc ban trưa, mặc một chiếc áo dự tiệc cốc-tai thôi. Chàng không nhận ra đó là một chiếc áo dự tiệc cốc-tai. Chàng cứ nghĩ nàng ăn mặc kỹ lưỡng, nàng sắp đi đâu đấy. Lòng chàng chợt thót lên, và chàng bắt đầu run.
Nhưng trước sự hồi hộp mạnh mẽ của chàng, nàng chỉ đưa chàng đến siêu thị rồi về.
Ngày thứ nhì nàng chẳng bỏ nhà đi chút xíu nào cả, và đối với Joe ngày ấy trôi qua rất chậm chạp. Khi là một nhân viên điều tra trẻ, chàng đã từng ngồi lâu để theo dõi. Đó là việc làm của các nhân viên điều tra. Họ quan sát và chờ đợi. Lúc ấy, điều này chưa bao giờ làm chàng phiền cả.
Mỗi đêm chàng lẻn vào phòng riêng của mình và kiểm tra lại máy ghi âm. Chẳng có gì ở đấy trừ tiếng chiếc điện thoại reo không đáp lại của Mary.
Hàng chục nhân viên điều tra, trong lúc ấy, quanh quẩn khắp Harlem và Bedford Stuyvesant nhưng chẳng có ai đến nhận báo cáo hoặc ra chỉ thị cho họ cả. Kế hoạch tái tổ chức của Đơn vị chống ma túy được Phó thanh tra Pearson trình lên ủy viên cảnh sát. Khi hỏi về những chỗ ở của chỉ huy trưởng ông, ông đáp rằng ông không biết. Bằng đôi mắt sụp xuống, ông khiêm tốn nhận những lời khen về kế hoạch rồi rời khỏi văn phòng ủy viên cảnh sát với những chỉ thị thực hiện nó - và với cảm giác rằng chức vụ riêng của mình đã vừa tiến được một bước nhảy vọt lớn. Ông cũng được chỉ thị từ một ông xếp Cirillo thịnh nộ - để tìm ra Thanh tra Hearn bất kỳ chàng có thể ở đâu và báo chàng biết rằng chàng được lệnh phải trình diện ngay tại văn phòng trưởng ngành điều tra.
Sáng hôm thứ ba, Mary lại ra khỏi nhà, lần này nàng mặc một chiếc áo màu cam rực rỡ mà Joe, vì đã quên bẵng đám cưới của em gái nàng từ lâu, không hề nhận ra chiếc áo ấy. Mary lại chỉ đưa chàng đến siêu thị và trở về. Chàng ngồi trong xe gần suốt ngày còn lại, bây giờ điềm tĩnh hơn, chàng mong muốn cuộc giám thị này xong đi, vì bất kỳ tin tức nào mà chàng có thể có thêm được chỉ làm chàng đau khổ hơn thôi. Tuy vậy, chàng vẫn còn ở vị trí khi nàng lùi xe ra khỏi đường xe riêng nhà nàng lúc chiều sẩm và hướng về sân bóng chày của trường trung học.
Sau khi nhìn nàng đậu bên cạnh khu thứ nhất của sân chơi, Joe lái xe vòng qua trường đến bãi đậu của cán bộ giảng dạy. Chàng rẽ vào một khe hở giữa hai xe khác và nhìn nàng đi về hướng mình, băng qua sân chơi về chỗ đánh bóng. Lúc này nàng mặc quần và áo thun, bước đi có chủ đích, hầu như giận dữ, về hướng vị trí phát bóng và Joe thấy hình như lần đi ra ngoài này của Mary cũng vô hại và chàng cảm thấy một sự xúc động chắc chắn, là sự khuây khỏa, gần như hạnh phúc. Cho tới nay, chẳng có dấu hiệu nào Mary có tình nhân, thực sự có một người đàn ông nào như thế cả. Joe muốn tin như thế. Chàng muốn bỏ cuộc giám thị đi và dẹp hết những nỗi nghi ngờ của chàng, quy lỗi cho sự tưởng tượng điên cuồng của mình. Trong những ngày tiếp sau lần vợ chàng bị hiếp dâm, chàng đã gần mất trí và điều này giải thích vấn đề ấy. Mary cũng thế thôi.
Lúc này chàng quan sát nàng nói chuyện với Loftus, huấn luyện viên bóng chày. Họ đứng ngoài vị trí đánh bóng, mọi người đều thấy rõ. Rõ ràng đây chẳng phải là cuộc hẹn hò của người tình gì cả. Lúc này cuộc trao đổi của họ có vẻ sắp kết thúc, vì Loftus đã bỏ đi được nhiều bước. Joe đã vặn chìa khóa đề-ma-rơ. Chàng chuẩn bị lùi xe ra khỏi bãi đậu để vào vị trí theo Mary về nhà.
Và rồi Mary tát tai Loftus. Vợ chàng đã tát tai huấn luyện viên bóng chày.
Có lẽ đấy là một điều kinh ngạc hơn bất kỳ điều gì khác làm cho Joe khóc. Chàng đã không hy vọng tìm ra bằng cớ nào ở đây vào lúc này, trong ánh nắng rực rỡ trên một sân bóng chày.
Chính lúc ấy là lúc đầu chàng gục xuống tay lái và khóc.
Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt - Robert Daley Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt