Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Truy Tìm Dracula
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 13
C
huyến du hành kế tiếp lại đưa chúng tôi trở lại phía Đông,bên kia rặng Julian Alps. Thành phố bé nhỏ Khôngstanjevica, "thành phố câyhạt dẻ", quả thực đang ngập tràn hạt dẻ vào mùa này trong năm, vài quả còn rụngdưới chân, vì vậy nếu không để ý khi bước trên những con đường rải đá cuội, bạncó nguy cơ trượt chân ngã dập mặt. Phía trước tòa thị chính, nơi thoạt tiênđược xây dựng làm nơi trú ngụ của một quan chức Áo- Hung, những hạt dẻ trong lớpvỏ nhăn nheo xấu xí vương vãi khắp nơi như một bầy nhím nhỏ.
Cha cùng tôi thơ thẩn tản bộ, thưởng thức một buổi chiều thuấm áp - theo ngôn ngữ địa phương, được gọi là mùa hè Gypsy, một phụ nữ đứng coicửa hàng cho chúng tôi biết như vậy - và tôi liền nghĩ đến những dị biệt giữathế giới phương Tây, cách đây vài trăm cây số, và thế giới phương Đông này, chỉxuôi về phía Nam Emona một chút. Ở đây, mọi thứ trong các cửa hàng đều trônggiống nhau, các nhân viên cửa hàng cũng vậy, hình như họ hoàn toàn y changnhau, đều mặc áo khoác lao động màu xanh lam sẫm và đeo khăn quàng cổ in hoa,những chiếc răng vàng hoặc thép không tì vết lấp lánh trước mặt chúng tôi, từđằng sau quầy hàng trống trơn hết một nửa. Chúng tôi mua một thanh sô cô lathật lớn để dùng cho bữa ăn ngoài trời với xúc xích salami xắt lát, bánh mì nâuvà pho mát, cha cũng không quên mang theo những chai Naranca ưa thích của tôi,thứ nước cam làm tôi nhớ đến Ragusa, Emona, Venice.
Buổi họp cuối cùng tại Zagreb, Croatia đã kếtthúc một ngày trước khi tôi hoàn thành những nét chỉnh sửa hoa mỹ cuối cùng chobài tập lịch sử của mình. Lúc đó, cha muốn tôi học tiếng Đức, và tôi rất hàohứng, không phải do bị cha thúc ép vì dù cha không thúc thì tôi cũng vẫn muốnhọc như thường; tôi muốn bắt đầu ngay ngày mai, bằng một cuốn sách mua ở hiệusách ngoại văn tại Amsterdam. Tôi mặc váy ngắn mới màu xanh, đi tất dài vàng,cha mỉm cười nhớ lại một câu đùa khó hiểu hai nhà ngoại giao nọ nói với nhausáng hôm đó, và những chai nước cam Naranća khua lanh canh trong túi lưới. Phíatrước chúng tôi là một cây cầu đá thấp nằm vắt ngang sông Khôngstan. Tôi vội vãchạy đến đó để nhìn ngắm trước tiên, muốn được thưởng thức khoảnh khắc đó mộtmình, thậm chí không muốn có cha bên cạnh.
Gần sát bên cầu, dòng sông lượn ra xa khỏi tầm nhìn, ở khúcquanh ấy thấp thoáng một lâu đài nhỏ, một lâu đài kiểu Đông Âu chỉ bằng cỡ mộtbiệt thự, dưới chân có đàn thiên nga bơi lội hoặc đứng rỉa lông trên bờ sông.Lúc tôi đang ngắm nhìn, một phụ nữ mặc áo choàng xanh mở cửa sổ mắt cáo trênlầu, đẩy cánh cửa ra phía ngoài, tấm kính sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời,rũ bụi miếng vải lau sàn. Bên dưới cầu, những cây liễu non mọc bên nhau san sátvà lũ chim nhạn bay ra bay vào trên doi đất nhô ra sông. Trong sân vườn lâuđài, tôi nhìn thấy chiếc ghế đá dài (không nằm quá gần những con thiên nga,những con vật mà đến tận bấy giờ, mười mấy tuổi đầu rồi, tôi vẫn sợ), những câyhạt dẻ nghiêng mình bên trên, bức tường thành lâu đài cũng phủ bóng mát lênchiếc ghế. Bộ com lê sạch sẽ của cha hẳn sẽ được an toàn ở đấy, cha có thể ngồilâu hơn dự định và nói chuyện thoải mái hơn.
Lần nào miệt mài với những lá thư này trong căn hộ của mình,cha chùi những vết xúc xích salami bằng một chiếc khăn tay vải và bắt đầu kể,một chuyện gì đó nằm ngoài toàn bộ vụ mất tích bi thảm của thầy Rossi cũng cứdằn vặt đầu óc cha. Khi đặt lá thư kể lại chi tiết về tai nạn khủng khiếp xảyra với anh bạn Hedges của thầy Rossi xuống, trong một thoáng, cha cảm thấykhông đủ khỏe để suy nghĩ rõ ràng. Cha đã rơi vào một thế giới bệnh hoạn, cõiâm ty của cái thế giới hàn lâm mà cha đã quen thuộc bao năm qua, tìm thấy ýnghĩa ẩn sâu trong lịch sử bình thường mà lâu nay cha vẫn mặc nhiên chấp nhận.Với kinh nghiệm nghiên cứu sử của cha, những người chết không thể sống lại,những nỗi kinh hoàng thời Trung cổ là do con người gây ra, chứ không phải donhững thế lực siêu nhiên, Dracula là một huyền thoại đầy màu sắc của vùng ĐôngÂu, hồi sinh nhờ những bộ phim Hollywood vẫn gắn liền với tuổi thơ cha, và năm1930 là ba năm trước khi Hitler thâu tóm chính quyền độc tài tại Đức, đó mới lànỗi kinh hoàng lớn đến nỗi chắc chắn đã ngăn chặn mọi quyền lực kinh hoàngkhác.
Vì vậy, trong một thoáng cha cảm thấy mình không được khỏe,tinh thần suy sụp, giận người thầy mất tích đã truyền lại cho cha những ảotưởng khủng khiếp này. Nhưng sau đó giọng điệu nhẹ nhàng đầy hối tiếc trong cáclá thư của ông lại tác động lên cha, và cha lại cảm thấy ân hận vì ý nghĩ bấttrung vừa qua của mình. Thầy Rossi phải dựa vào cha - chỉ một mình cha; nếu chatừ chối không tin vì một nguyên tắc mô phạm nào đó, chắc chắn cha sẽ không baogiờ được gặp lại ông ấy.
Và còn một điều nữa đang dằn vặt cha. Khi đầu óc đã sángsuốt hơn một chút, cha nhận ra đó là ký ức về người phụ nữ trẻ mà cha đã gặptại thư viện, cha mới gặp cô ta vài giờ trước đó nhưng có cảm tưởng như phảivài ngày rồi. Cha nhớ lại ánh mắt kỳ lạ của cô ta khi nghe cha giải thích vềcác lá thư của thầy Rossi, cau mày như đàn ông khi chú ý tập trung tinh thần.Tại sao cô ta lại đọc về Dracula, ngay tại chính chiếc bàn của cha, ngay chiềutối hôm đó, ngay sát bên cha? Tại sao cô ta đề cập đến Istanbul? Cha đã đủ nhứcđầu với những gì đã đọc trong những lá thư của thầy Rossi nên tạm gác mối hoàinghi của mình lại và bác bỏ ý niệm về sự trùng hợp để chọn một lý giải nào đóthuyết phục hơn. Và tại sao không? Nếu cha đã thừa nhận một thế lực siêu nhiên,đương nhiên cha sẽ phải thừa nhận nhiều điều siêu nhiên khác; đây chỉ là vấn đềlogic.
Cha thở dài, cầm lá thư cuối cùng của thầy Rossi lên. Saukhi xem xong lá thư này cha chỉ cần xem lại các tư liệu khác còn giấu kín trongchiếc phong bì xoàng xĩnh kia, rồi sau đó tự lo. Dù sự xuất hiện của cô gái kiacó bất kỳ ý nghĩa gì - chắc hẳn cũng không mang ý nghĩa nào bất thường, đúngkhông nhỉ? - thì cha cũng chưa có thời gian để tìm hiểu cô ta là ai hoặc lý dovì sao cô ta lại chia sẻ mối quan tâm đến chuyện bí ẩn này. Thực là kỳ quặc khinghĩ bản thân cha là người thích thú những chuyện bí ẩn; cha không phải ngườinhư thế, không một mảy may, phải nói thẳng như vậy. Cha chỉ quan tâm đến việcphải tìm ra thầy Rossi.
Lá thư cuối cùng, không giống các thư khác, được viết tay - trên giấy tập học trò, bằng mực đen. Cha mở lá thư.
Ngày 19 tháng Tám năm 1931
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Chà, tôi có thể giả vờ cho rằng có thể bạn đang ở đâu đóngoài kia, chờ đợi để ra tay cứu giúp nếu một ngày nào đó đời tôi bỗng nhiênsụp đổ. Và bởi vì tôi còn một ít thông tin để bổ sung những gì bạn vẫn (cứ cholà vậy) theo đuổi, tôi cảm thấy cần phải châm cho tràn đầy chiếc bình cay đắngnày. "Học hỏi không đến nơi đến chốn là một việc nguy hiểm," anh bạn Hedges đãtrích dẫn như vậy. Nhưng bây giờ anh đã mất, và chắc chắn anh đã mất là tạitôi, tựa như tôi đã mở tung cánh cửa phòng làm việc của mình, chính tay tung ramột đòn chết người, sau đó la lên cầu cứu. Lẽ tất nhiên, tôi không làm việc đó.Nếu đã đồng ý đọc đến đây, bạn sẽ không nghi ngờ gì lời nói của tôi.
Nhưng cuối cùng tôi đã nghi ngờ sức mạnh của chính mình, vàitháng trước đây, tôi đã hành động như vậy vì những lý do có liên quan đến cáikết cục kinh khủng và thật đáng phẫn nộ của Hedges. Tôi đã trốn chạy thẳng từrìa mộ của anh đến Hoa Kỳ - gần đúng theo nghĩa đen là vậy; tôi đã thực sự đượcbổ nhiệm và vào cái ngày đến Dorset để thăm viếng nơi anh an nghỉ, tôi đang thuxếp hành lý rồi. Sau khi lên đường sang Hoa Kỳ, làm thất vọng một vài người ởOxford và khiến song thân mình rất buồn lòng, e là thế, tôi chợt thấy mìnhtrong một thế giới mới sáng sủa hơn, nơi mà học kỳ bắt đầu sớm hơn (tôi đã đượcphân công giảng dạy ba lớp và sẽ phấn đấu để có thêm giờ dạy), và các sinh viêncó quan điểm cởi mở và thực tế, một đặc tính còn xa lạ tại Oxford. Nhưng thậm chísau tất cả những chuyện này, tôi không thể rũ bỏ hoàn toàn mối liên hệ của mìnhtới con ma cà rồng đó. Hậu quả là, dường như, hắn - Nó - không thể tự quên tôi.
Bạn hẳn còn nhớ vào đêm Hedges bị tấn công, tôi đã bất ngờkhám phá ra ý nghĩa của hình vẽ khắc gỗ giữa cuốn sách báo điềm gở của mình, vàđã tự mình xác định được Hầm Mộ Tội Lỗi ghi trên các tấm bản đồ mà tôi pháthiện tại Istanbul cũng chính là mộ của Vlad Dracula. Tôi đã hét to cái thắc mắccòn lại này của mình - vậy thì, mộ của hắn ở đâu? - như đã thốt lên trong trungtâm lưu trữ tư liệu ở Istanbul, và lần hét to thứ hai này đã triệu đến một sựhiện diện khủng khiếp, cảnh cáo tôi bằng mạng sống của một người bạn thân. Cólẽ chỉ một bản ngã không bình thường mới tự mình đối đầu với những sức mạnh tựnhiên - trong trường hợp này lại là những sức mạnh phi tự nhiên - nhưng tôi thềvới bạn là sự trừng phạt này đã khiến tôi nổi giận, vượt khỏi nỗi sợ hãi, suốtmột thời gian, tôi đã thề phải tìm cho ra đến manh mối cuối cùng và, nếu còn đủsức, truy lùng kẻ truy lùng tôi đến tận hang ổ của hắn. Đối với tôi, ý tưởng lạlùng này trở nên bình thường như mong muốn được công bố bài viết kế tiếp củamình, hay có một chỗ đứng thường xuyên tại trường đại học mới lạ và vui vẻ này,nơi đang đòi hỏi trái tim mệt mỏi của tôi.
Sau khi đã thích nghi ổn định với lịch giảng dạy và nghiêncứu, chuẩn bị một chuyến đi ngắn ngày về nước Anh vào cuối học kỳ để thăm chamẹ và chuyển luận án tiến sĩ của mình cho một tờ báo ở Luân Đôn, nơi đang ngàymột o bế tôi, một lần nữa tôi lại lần theo dấu vết của Vlad Dracula, dù hắn quảthực có là bất cứ thứ gì đi nữa, một nhân vật có thực trong lịch sử hay một thếlực siêu nhiên. Đối với tôi, có vẻ như nhiệm vụ kế tiếp là tìm hiểu nhiều hơnvề cuốn sách cổ kỳ lạ đó: nó từ đâu đến, ai là tác giả, ra đời đã bao lâu. Tôigiao cuốn sách (một cách miễn cưỡng, phải thừa nhận như vậy) cho phòng thínghiệm Viện Smithsonian. Ở đó người ta đã lắc đầu với các câu hỏi đặc biệt củatôi và gợi ý rằng việc tham khảo và tra cứu sử dụng đến những nguồn lực ngoàiphương tiện hiện có của họ có thể khiến tôi tốn kém nhiều hơn. Nhưng là kẻ cứngđầu, tôi nghĩ không một đồng xu nào thừa hưởng từ ông tôi, hoặc số tiền dànhdụm ít ỏi từ thời gian làm việc ở Đại học Oxford nên bị ném vào việc may sắm áoquần, hoặc ăn uống hoặc giải trí trong lúc Hedges, người bạn của tôi đang nằmđó (nhưng, ơn Chúa, trong an bình) tại một nghĩa trang mà chưa được trả thù, vàcó lẽ phải năm mươi năm nữa tôi mới nhìn thấy lại quan tài của anh. Tôi khôngcòn e sợ hậu quả nữa vì điều tệ hại nhất có thể tưởng tượng đã xảy ra với tôirồi; về mặt này, ít nhất, các thế lực hắc ám đã tính toán sai lầm.
Nhưng không phải tính tàn bạo của điều xảy ra sau đó đã làmtôi nghĩ khác, đồng thời nhận thức được ý nghĩa trọn vẹn của sự sợ hãi. Màchính là vẻ khác thường của nó.
Cuốn sách của tôi được xử lý tại Viện Smithsonian, dưới taymột anh chàng nhỏ thó tên Howard Martin, một con người tuy lầm lì nhưng đã tậntình xem xét trường hợp của tôi tựa như đã biết toàn bộ câu chuyện. (Không - khi nghĩ lại, nếu biết toàn bộ câu chuyện, có thể anh ta đã tống cổ tôi ra khỏicửa ngay từ lần gặp đầu tiên). Nhưng dường như anh ta nhận ra tôi chỉ là mộtngười đam mê lịch sử, nên anh ta thông cảm và cố sức giúp tôi. Anh làm rất tốtvà tận tình, so sánh những gì mà phòng thí nghiệm chuyển đến với sự cẩn trọngcó thể làm Oxford thấy vinh hạnh hơn là mấy văn phòng bảo tàng quan liêu ởWashington đó. Tôi rất ấn tượng, càng ấn tượng hơn trước vốn hiểu biết của anhvề công nghệ làm sách tại Âu châu vào những thế kỷ trước và sau thờiGutenberg 1.
Khi dường như đã làm mọi chuyện có thể, anh viết thư báo chotôi biết có thể nhận kết quả, và sẽ tận tay trả sách lại cho tôi, như trước đótôi đã tận tay trao nó cho anh, nếu tôi không muốn nó được chuyển theo đườngbưu điện lên miền Bắc. Sáng hôm sau, tôi đáp xe lửa xuống phía Nam, ngắm nhìnphong cảnh trên đường đi, rồi xuất hiện ở cửa phòng làm việc của anh mười phúttrước giờ hẹn. Tim đập mạnh, miệng khô khốc, tôi nôn nóng muốn được cầm lạicuốn sách ấy trên tay và tìm hiểu xem anh đã biết được gì về nguồn gốc của nó.
Martin ra mở cửa, khẽ mỉm cười chào và dẫn tôi vào phòng."Tôi mừng vì anh đã đến," anh nói tiếng Mỹ bằng một giọng mũi đều đều, nhưngvới tôi đó là lời đón chào thân tình nhất thế giới.
Khi đã yên ổn trong phòng làm việc đầy ắp các bản chép taycủa anh, tôi nhận ra mình đang ngồi ngay trước mặt anh và lập tức cảm thấy sốcvì sự thay đổi sắc diện của anh. Vài tháng trước tôi đã có một cuộc gặp gỡ ngắnvới anh và còn nhớ rõ gương mặt anh lúc ấy, trong những bức thư rõ ràng vàchuyên nghiệp gửi cho tôi không có dấu hiệu gì cho thấy bệnh tật hay đau yếu.Hiện tại, trông anh buồn rầu và xanh xao, hốc hác, nước da bủng vàng, cặp môiđỏ bầm một cách bất thường. Anh đã gầy đi rất nhiều, bộ veston cũ trông lụngthụng, ôm hờ hững trên bờ vai gầy guộc. Anh ngồi hơi khom người tới trước, nhưthể một cơn đau nào đó hoặc sự ốm yếu đã làm anh không ngồi thẳng được. Có vẻnhư anh đã cạn kiệt sức sống.
Tôi cố gắng tự nhủ là ở lần gặp đầu tiên mình đã vội vàng, không nhìn kỹ, và rằng lần này tôi đã chú ý quan sát kỹ hơn người đàn ông vốn bấy lâu chỉ có mối sơ giao qua đường bưu điện, hoặc đúng hơn đã trắc ẩn hơn khi quan sát anh, nhưng vẫn không sao rũ bỏ được cảm giác là anh đã tàn tạ quá nhanh trong một thời gian ngắn ngủi. Tôi thầm quả quyết là có thể anh đã không may mắc phải chứng bệnh khiến cơ thể suy kiệt nào đó, một căn bệnh ung thư đang phát triển nhanh chóng chẳng hạn. Tất nhiên, phép xã giao không cho phép tôi nêu lên bất kỳ nhận xét nào về sắc diện anh.
"Chà, tiến sĩ Rossi," anh lên tiếng, theo kiểu cách Mỹ. "Tôi không tin là anh ý thức được mình đang sở hữu một vật nhỏ bé có giá trị như thế này."
"Có giá trị ư?" Tôi nghĩ anh không thể nào nhận thức được giá trị của cuốn sách đối với tôi, không thể dù bằng tất cả các phương pháp phân tích hóa học trên thế giới. Đây là chìa khóa cho cuộc báo thù của tôi.
"Vâng. Đây là một phiên bản hiếm của ngành ấn loát Trung Âu thời Trung cổ, một món đồ rất thú vị và lạ thường, và bây giờ tôi rất hân hạnh nói rằng nó đã được in vào khoảng năm 1512, có lẽ tại Buda 2 hoặc Wallachia. Thời điểm này chắc chắn sau thời đại của Corvinus - Thánh Luke 3 nhưng trước sự ra đời của sách Tân ước tiếng Hungary năm 1520, có lẽ cuốn sách này có ảnh hưởng đối với sự kiện đó, nếu lúc đó nó đã hiện hữu." Anh loay hoay làm chiếc ghế kêu cọt kẹt. "Thậm chí còn có khả năng bức tranh khắc gỗ trong quyển sách của anh đã thực sự ảnh hưởng đến sách Tân ước tiếng Hungary năm 1520 ấy, cuốn này cũng có một hình minh họa tương tự, một bức quỷ Xa tăng có cánh." Nhưng không có cách nào để chứng minh được điều này. Dù sao chăng nữa, ảnh hưởng này cũng khá buồn cười, phải vậy không? Ý tôi là, chứng kiến một phần cuốn Kinh Thánh lại được trang trí bằng những bức tranh minh họa giống như bức tranh đầy tà khí này."
"Đầy tà khí?" Tôi thích thú được nghe âm thanh lời cáo buộc thoát ra từ cửa miệng một người khác.
"Chắc chắn như vậy. Anh đã cung cấp thông tin về truyền thuyết Dracula cho tôi, nhưng chẳng lẽ anh nghĩ tôi dừng lại ở đó sao?"
Giọng nói của Martin đều đều và rõ ràng, đậm chất Mỹ, điều này làm tôi thoáng bị sốc. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được sự hung gở đến thế trong một giọng nói quá ư bình thản nhường này. Tôi nhìn anh chăm chăm, bối rối, nhưng giọng điệu kia không còn nữa, nét mặt của anh lại trở nên hòa nhã. Anh đang nhìn vào xấp giấy vừa rút ra khỏi chiếc bìa cứng. "Đây là kết quả các xét nghiệm của chúng tôi," anh nói. "Tôi đã tự tay chép lại sạch sẽ cho anh, tôi nghĩ anh sẽ thấy chúng thú vị. Chúng cũng không cho biết gì nhiều hơn những lời tôi vừa nói với anh - à, nhưng còn có hai điều đáng lưu ý khác. Qua xét nghiệm, chúng tôi biết rõ cuốn sách này có lẽ đã từng được lưu giữ một thời gian dài trong một môi trường đầy bụi đá, và đó là việc xảy ra trước năm 1700. Ngoài ra, phần sau của cuốn sách đã từng bị thấm nước biển - có thể nó đã được mang theo trong một chuyến hành trình vượt đại dương. Tôi nghĩ có thể đó là vùng Biển Đen, nếu các suy đoán của chúng tôi về địa điểm in là đúng, nhưng lẽ dĩ nhiên có rất nhiều khả năng khác. Tôi e rằng chúng tôi không thể cho anh biết gì nhiều hơn nữa theo như yêu cầu của anh - mà có phải anh từng nói là anh đang viết về lịch sử châu Âu thời Trung cổ không nhỉ?"
Anh ngước lên nhìn tôi mỉm cười, một nụ cười bâng quơ, hiền hậu, kỳ dị trên gương mặt tiều tụy đó, và ngay lúc đang ngồi đó, tôi nhận ra cùng một lúc hai điều làm tôi cảm thấy lạnh cả xương sống.
Điều đầu tiên là tôi chưa bao giờ nói với anh bất cứ điều gì về việc viết lịch sử châu Âu Trung cổ; tôi chỉ nói muốn có thông tin về quyển sách để có thể hoàn thành một thư mục các tư liệu liên quan đến cuộc đời của Vlad Kẻ Xiên Người, kẻ được biết đến trong truyền thuyết là Dracula. Howard Martin là người luôn chính xác trong phương pháp chuyên môn của anh cũng như bản thân tôi trong phương pháp học thuật của mình, nên anh sẽ không bao giờ phạm phải một lỗi như thế mà không biết. Trước đó, tôi rất ấn tượng về trí nhớ của anh với khả năng ghi nhớ như chụp hình từng chi tiết, khả năng mà tôi luôn chú ý và thật lòng trân trọng bất kỳ khi nào nhận ra nó ở người khác.
Điều thứ hai tôi cảm nhận được lúc đó là, có thể do căn bệnh nào đó mà anh đang chịu đựng - anh chàng khốn khổ, tôi buộc phải thầm thốt lên - lúc anh cười, đôi môi trông mềm nhũn rệu rã, hai răng nanh trên lộ ra, và nổi bật lên theo một kiểu cách làm cho toàn bộ gương mặt anh trông rất khó chịu. Tôi bỗng nhớ lại như in hình ảnh tên quan chức ở Istanbul, mặc dù cái cổ Howard Martin không có gì bất thường, theo như tôi nhận thấy. Vừa mới dứt cơn rùng mình, tôi cầm lấy quyển sách và xấp ghi chú từ tay anh. Lúc đó, anh lại lên tiếng.
"À, cũng nhân tiện, tấm bản đồ kia cũng đặc biệt lắm đấy."
"Tấm bản đồ?" tôi lạnh người. Tôi chỉ biết một tấm bản đồ - thực ra là ba tấm, được vẽ theo tỷ lệ xích tăng dần - nhưng nó chẳng liên quan gì với kế hoạch hiện tại của tôi và tôi chắc chắn mình chưa bao giờ đề cập về sự tồn tại của chúng với con người xa lạ này.
"Anh tự tay phác thảo nó à? Hình vẽ đó không cũ lắm, rõ ràng như vậy, nhưng tôi không đánh giá anh là một nghệ sĩ đâu. Và chắc chắn dù sao cũng không phải hạng người bệnh hoạn, nếu anh không phiền vì tôi đã nói như vậy."
Tôi nhìn anh trừng trừng, không thể giải mã những lời nói ấy và sợ sẽ hớ hênh làm lộ một chuyện gì đó nên đã hỏi ý anh muốn nói gì. Phải chăng tôi đã để quên bức vẽ phác thảo nào trong cuốn sách? Nếu vậy thì quả là quá ngu ngốc. Nhưng chắc chắn tôi đã kiểm tra cẩn thận từng trang trước khi giao cuốn sách cho anh.
"À, tôi đã nhét nó lại vào trong quyển sách, vì vậy nó còn trong đó," anh nói, giọng trấn an. "Bây giờ, tiến sĩ Rossi, tôi có thể đưa anh xuống phòng kế toán nếu anh muốn, hoặc thu xếp để anh thanh toán hóa đơn tại nhà." Anh mở cửa cho tôi và lại một lần nữa khuôn mặt anh biến dạng thành một nụ cười chuyên nghiệp. Ở đó và ngay lúc đó, tôi biết mình không nên lục tìm trong quyển sách đang cầm trong tay, và trong ánh sáng hành lang tôi chợt nhận ra chắc hẳn mình đã tưởng tượng ra nụ cười kỳ dị của Martin, thậm chí có lẽ cả vẻ đau ốm của anh nữa; da dẻ anh bình thường, người chỉ hơi còng xuống do hàng chục năm lăn lộn giữa đống giấy tờ của quá khứ, ngoài ra không có gì khác. Anh đứng bên cửa, chìa tay ra chào tạm biệt, thân tình đúng kiểu dân Washington, tôi bắt tay anh, lầm bầm nói muốn thanh toán hóa đơn tại địa chỉ của mình ở trường đại học.
Tôi mệt mỏi bước xa khỏi cửa phòng anh, ra khỏi đại sảnh và cuối cùng ra khỏi tòa lâu đài màu đỏ nơi chứa những công trình lao động của anh và các đồng nghiệp đó. Trong bầu không khí trong lành của quảng trường Mall, tôi lững thững bước ngang qua bãi cỏ đến một băng ghế rồi ngồi xuống, cố gắng không lo lắng, cả bề ngoài và trong lòng.
Quyển sách bỗng mở ra trong tay tôi, với sự mời gọi quái gở thường lệ, và tôi tìm kiếm trong vô vọng ở đó một tờ giấy rời mang theo điều gì đó sẽ khiến mình ngạc nhiên. Chỉ đến khi lật các trang giấy từ cuối lên lần nữa tôi mới tìm được nó - một bản vẽ rất đẹp in lên nhờ giấy than, như thể có ai đó đã có trước mặt tấm bản đồ thứ ba, cũng là tấm chi tiết nhất trong số những tấm bản đồ bí mật của tôi, và đã căn ke lại tất cả những đường nét bí ẩn trên nó cho tôi. Tên các địa danh viết bằng một phương ngữ Xlavơ, chính xác là những cái tên mà tôi đã biết trên tấm bản đồ của mình - Làng Trộm Heo, Thung Lũng Tám Cây Sồi. Thực ra, đối với tôi, bản phác thảo này chỉ có duy nhất một đặc điểm khác lạ. Bên dưới cái tên Hầm Mộ Tội Lỗi có những con chữ Latin viết rõ ràng bằng một thứ mực có vẻ như cùng loại mực của các tiêu đề khác. Phía trên vị trí có vẻ là nấm mộ, vòng quanh đó tựa như để chứng tỏ mối liên hệ tuyệt đối của nó với địa điểm này, là những con chữ tôi đọc được: BARTOLOMEO ROSSI.
Độc giả thân mến, hãy đánh giá tôi là kẻ hèn nhát nếu bạn buộc phải như vậy, nhưng tôi đã rũ bỏ tất cả ngay lúc đó. Tôi là một giáo sư trẻ và đang sống tại Cambridge, Massachussetts, nơi tôi đang giảng dạy, hay ra ngoài ăn tối với những người bạn mới, và viết thư về cho cha mẹ già hàng tuần. Tôi không phải mang theo tỏi, hoặc thánh giá bên người, hoặc làm dấu thánh khi nghe có tiếng bước chân trong gian sảnh. Tôi chọn một sự bảo vệ tốt hơn - tôi đã dừng lại, không chúi mũi vào giao lộ lịch sử đáng sợ kia nữa. Kẻ đó hẳn sẽ thỏa mãn khi thấy tôi câm lặng, vì tôi đã không còn băn khoăn lo lắng với tấn bi kịch này nữa.
Bây giờ, nếu chính bạn phải lựa chọn giữa sự tỉnh táo và cuộc sống đáng nhớ của mình, với sự bất ổn thực sự, bạn sẽ lựa chọn bên nào, như một cách thích đáng mà một học giả có thể sống trọn những ngày tháng của mình? Tôi biết, Hedges không hề yêu cầu tôi đâm đầu vào bóng tối. Dù vậy, nếu bạn đã đọc tới đây, nghĩa là, sau cùng, tôi đã bị hãm hại. Bạn cũng phải lựa chọn. Tôi đã cho bạn biết từng chi tiết của những kiến thức mà tôi sở đắc, những kiến thức liên quan đến những chuyện khủng khiếp này. Biết được câu chuyện của tôi, liệu bạn có thể từ chối làm người kế thừa cho tôi?
Người bạn sầu khổ của bạn, Bartholomew Rossi
Bóng râm bên dưới hàng cây đã dài ra thành một mảng lớn uể oải, cha đá tung một hạt dẻ dưới gót giày. Tôi bất chợt có cảm giác nếu là người thô lỗ hơn, có lẽ cha đã nhổ nước bọt lên mặt đất, để loại bỏ mùi vị tởm lợm nào đó. Thay vì vậy hình như cha cố gắng nuốt vào và cố trấn tĩnh để mỉm cười. "Chúa ơi! Chúng ta đã nói chuyện gì vậy? Chiều nay hình như chúng ta nghiêm trang quá thì phải." Cha cố nở nụ cười, nhưng đồng thời cũng liếc nhìn tôi, một cái nhìn đầy lo âu, tựa như một hình bóng vô hình nào đó có thể chụp xuống tôi, đặc biệt riêng tôi, và mang tôi đi không một lời cảnh báo.
Lúc này, tôi duỗi bàn tay lạnh giá ra khỏi rìa băng ghế và nỗ lực giữ cho lòng được thanh thản. Mình phải nỗ lực để thanh thản từ khi nào thế nhỉ? Tôi băn khoăn tự hỏi, nhưng đã quá trễ. Tôi đang làm công việc này thay cho cha mất rồi, đồng thời cố khiến cha nghĩ sang chuyện khác, như ông từng cố làm với tôi. Tôi vờ hờn dỗi, nhõng nhẽo để khỏa lấp - một chút thôi, không quá đáng để cha khỏi nghi ngờ. "Con lại đói nữa rồi, muốn ăn một bữa ra trò quá."
Cha mỉm cười, tự nhiên hơn một chút, đôi giày xịn của ông nện xuống nền đất khi ông lịch sự đưa tay đỡ tôi đứng dậy, bắt đầu nhét vào túi xách các vỏ chai Naranca rỗng và các tàn tích khác của bữa ăn ngoài trời. Tôi hào hứng giúp cha thu dọn phần của mình, giờ lòng đã nhẹ nhõm vì như vậy có nghĩa là cha sẽ cùng quay về thành phố với tôi, thay vì nán lại để xem mặt tiền tòa lâu đài. Đã có lúc tôi quay người lại, khi câu chuyện gần kết thúc và thấy ở cửa sổ tầng trên, một bóng đen lừng lững đã thay thế cho bà lão giúp việc. Tôi đã nói, huyên thiên, về bất kỳ điều gì xuất hiện trong đầu. Chỉ cần cha không nhìn thấy bóng đen đó, sẽ không có va chạm nào cả. Cả hai chúng tôi có thể an toàn.
Chú thích
1 Gutenberg (1400- 1468): tên đầy đủ là Johannes Genfleish Gutenberg, người Đức, người đầu tiên sáng chế ra máy in.
2 Buda: viết tắt của Budapest, thủ đô Hungary.
3 Matthias Corvinus (1443- 1490): vua Hungary, việc chiếm được nước Áo và nhiều tỉnh khác đã biến ông thành một ông vua đầy quyền lực; ông cũng là người bảo trợ cho các ngành nghệ thuật.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Truy Tìm Dracula
Elizabeth Kostova
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova
https://isach.info/story.php?story=truy_tim_dracula__elizabeth_kostova