Chương 12
ác bạn của Danny giúp Cướp Biển giữ lời thề như thế nào, và, để tưởng thưởng, bầy chó của Cướp Biển nhìn thấy linh ảnh Thánh Francis ra sao.
★★★
Chiều nào cũng thế Cướp Biển đẩy chiếc xe cút-kít trống không của mình lên đồi rồi vào sân nhà Danny. Hắn dựa nó vào hàng rào, lấy bao tải phủ lại; rồi hắn chôn rìu xuống đất, vì, như mọi người đều biết, thép được chôn thì sẽ cứng hơn nhiều. Cuối cùng, hắn vào trong nhà, thò tay vào cái túi Bull Durham[40] đeo trên sợi dây quanh cổ, lấy ra đồng hai mươi lăm xu của ngày hôm đó đưa cho Danny. Rồi Danny và Cướp Biển cùng bất kỳ người bạn nào đang tình cờ có mặt ở nhà long trọng tiến vào phòng ngủ, giẫm lên chăn ga bừa bãi trên sàn. Trong khi các paisano đứng nhìn, Danny thò tay xuống dưới gối, lấy cái túi vải ra và bỏ đồng hai mươi lăm xu mới vào đó. Nghi thức này đã tiếp diễn được một quãng thời gian khá dài.
Túi tiền đã trở thành biểu tượng trung tâm của tình bằng hữu, tâm điểm của lòng tin cậy mà tình huynh đệ xoay quanh. Họ tự hào về món tiền, tự hào rằng họ không bao giờ táy máy nó. Xung quanh việc bảo vệ tiền của Cướp Biển, một cơ chế tự tôn mà không hề tự mãn đã hình thành. Thật tốt khi người ta được tin cậy. Món tiền này đã từ lâu thôi không còn là tiền trong tư tưởng của những người bạn. Quả là đã có lúc họ mơ tưởng món tiền đó mua được bao nhiêu rượu, nhưng sau một thời gian họ đã mất đi ý niệm rằng nó là tiền tệ. Kho tàng ấy nhằm để mua một giá nến bằng vàng, và cái giá nến tương lai này sẽ là tài sản của Thánh Francis de Assisi. Lừa một vị thánh thì tệ hại hơn nhiều so với việc giỡn mặt với pháp luật.
Một tối nọ, theo một bức điện nhanh và chính xác nhưng không ai hiểu, có tin rằng một tàu tuần duyên đã mắc cạn ở bãi đá gần Carmel. Joe Voi đi vắng vì có việc riêng, nhưng Danny, Pablo, Pilon, Jesus Maria và Cướp Biển cùng bầy chó hân hoan cất bước xuống đồi; vì nếu có điều gì mà họ yêu thích, thì đó là nhặt những vật dụng còn dùng được trên bãi biển. Họ nghĩ đây là việc lý thú nhất trên đời. Mặc dù tới hơi muộn, họ làm bù lại cho quãng thời gian đã mất. Cả đêm những người bạn loanh quanh trên bãi biển, cóp nhặt được một đống kha khá hàng hóa trôi giạt, một thùng bơ năm cân[41], nhiều thùng đồ hộp, một cuốn sách hàng hải sũng nước, hai áo khoác thủy thủ, một thùng nước từ một thuyền cứu sinh và một súng máy. Tới khi trời hửng sáng, họ đã gom được một đống đáng kể.
Họ đổi số đồ đạc này lấy tổng cộng năm đô-la từ một trong những người đứng xem, vì không thể bàn đến việc khênh toàn bộ chỗ đồ nặng nề ấy hơn sáu dặm đường dốc đứng tới Tortilla Flat.
Bởi vì hôm đó không đi đốn củi nên Cướp Biển nhận một đồng hai mươi lăm xu từ Danny mà hắn bỏ vào cái túi Bull Durham. Rồi mệt nhoài nhưng với niềm hạnh phúc ấm áp và lòng đầy háo hức, họ cất bước vượt qua những ngọn đồi tới Monterey.
Về đến nhà Danny thì đã chiều. Theo nghi thức Cướp Biển mở túi đưa đồng hai mươi lăm xu cho Danny. Cả hội hành quân sang phòng bên kia. Danny thò tay vào dưới gối - nhưng rút ra trống rỗng. Chàng lật gối lên, lật đệm lên, rồi từ từ quay sang các bạn, mắt chàng chợt dữ dằn như mắt hổ. Chàng nhìn từ mặt người này sang mặt người kia, trên mỗi gương mặt người ta thấy nỗi kinh hoàng và căm phẫn không thể bắt chước.
“Được rồi,” chàng nói, “ - được rồi.” Cướp Biển bắt đầu thút thít. Danny choàng tay qua vai hắn. “Đừng khóc, người bạn nhỏ,” giọng chàng như báo trước điềm xấu. “Cậu sẽ có lại tiền của mình.”
Các paisano lặng lẽ ra khỏi phòng. Danny bước ra sân, tìm một khúc gậy gỗ thông dài ba bộ, thử vung vẩy. Pablo đi vào bếp, khi trở ra mang theo một cái khui đồ hộp cổ lỗ sỉ có lưỡi rất ghê rợn. Jesus Maria lôi từ bên dưới sàn nhà ra một cán cuốc chim gãy. Cướp Biển nhìn họ sững sờ. Tất cả bọn họ quay trở lại vào nhà lặng lẽ ngồi xuống.
Cướp Biển lấy ngón tay cái trỏ xuống đồi. “Nó hả?” hắn hỏi.
Danny chầm chậm gật đầu. Mắt chàng bí ẩn, đầy vẻ chết chóc. Cằm chàng vênh lên, và khi chàng ngồi trên ghế, toàn bộ cơ thể chàng hơi lắc lư, như một con rắn chuông đang chuẩn bị nhắm mổ.
Cướp Biển đi ra sân đào rìu lên.
Họ ngồi trong nhà một đỗi lâu. Không lời nào được nói ra, nhưng một làn sóng thịnh nộ lạnh lẽo tràn qua rồi ngự trị trong căn phòng. Cảm giác trong nhà là cảm giác của một tảng đá khi ngòi nổ đang cháy dần về phía khối thuốc nổ.
Chiều tàn, mặt trời khuất sau đồi. Cả Tortilla Flat dường lặng thinh và bồn chồn.
Nghe tiếng chân ngoài đường, họ siết chặt cây gậy của mình. Joe Voi lảo đảo đi lên hàng hiên vào lối cửa trước. Trong tay chàng là một ga-lông rượu. Mắt chàng bồn chồn đảo từ gương mặt này sang gương mặt kia, nhưng các bạn ngồi yên và không nhìn thẳng chàng.
“Chào cả nhà,” Joe Voi lên tiếng.
“Chào,” Danny nói. Chàng đứng dậy, uể oải vươn vai. Chàng không nhìn Joe Voi; chàng không đi thẳng về phía Joe mà đi xéo, như để đi ngang qua mặt Joe. Khi Joe ở ngang tầm ngực, chàng ra đòn với tốc độ của một con rắn mổ mồi. Cây gậy giáng trúng phía sau đầu của Joe Voi, và Joe Voi đổ xuống, gục hoàn toàn.
Danny thận trọng lấy một sợi dây da thô trong túi ra cột các ngón tay cái của chàng người Bồ lại với nhau. “Giờ thì hắt nước,” chàng nói.
Pablo tạt một xô nước vào mặt Joe Voi. Joe quay đầu, duỗi cổ ra như một con gà, rồi mở mắt lơ mơ nhìn các bạn mình. Họ không nói với chàng tiếng nào. Danny ước lượng khoảng cách một cách cẩn thận, như một tay golf so trái banh. Gậy của chàng quật lên vai Joe Voi; rồi sau đó những người bạn tiến hành công việc một cách lạnh lùng và có phương pháp. Jesus Maria nắm cặp giò, Danny nắm vai và ngực. Joe Voi tru lên, lăn lộn trên sàn. Họ phủ khắp người chàng từ cổ trở xuống. Mỗi cú đánh tìm được một chỗ chưa dính đòn để quật vào đó. Tiếng gào rú tắt dần. Cướp Biển đứng đó bất lực, khư khư chiếc rìu.
Cuối cùng, khi toàn bộ mặt trước cơ thể Joe Voi là một khối bầm dập, họ ngừng tay. Pablo quỳ xuống ngay đầu Joe Voi với cái khui đồ hộp. Pilon tháo giày của chàng người Bồ và lại cầm gậy lên.
Khi ấy Joe Voi rú lên sợ hãi. “Tôi chôn ngoài cổng trước,” chàng kêu. “Vì Chúa, xin đừng giết tôi.”
Danny và Pilon ra ngoài cổng trước, chỉ vài phút sau họ trở lại, xách theo túi vải. “Mi lấy ra bao nhiêu?” Danny hỏi.
Giọng chàng thẳng băng.
“Chỉ bốn đồng thôi, thề có đức Chúa trời. Tôi chỉ lấy có bốn đồng, tôi sẽ làm việc để trả lại.”
Danny quỳ xuống, túm lấy vai Joe và đẩy chàng nằm sấp trở lại. Rồi những người bạn tiếp tục công việc ở mặt lưng với cùng sự chính xác chết người như vậy. Những tiếng kêu khóc yếu dần đi, nhưng công việc chỉ ngừng lại khi Joe Voi bị đánh đến bất tỉnh nhân sự. Rồi Pilon xé toạc cái áo sơ-mi xanh phô ra tấm lưng thô nhão. Chàng dùng cái đồ khui hộp rạch những đường chéo song song trên da thật khéo đến nỗi mỗi đường cào là máu tươm ra một ít. Pablo mang muối đến giúp Pilon xát vào khắp cái lưng nát bươm.
Cuối cùng Danny ném một tấm chăn đậy kẻ bất tỉnh lại.
“Tôi nghĩ giờ thì hắn sẽ trung thực,” Danny nói.
“Mình nên đếm tiền,” Pilon đề nghị. “Lâu rồi mình chưa đếm.” Họ mở ga-lông rượu của Joe Voi ra rót đầy các hũ trái cây, vì công việc đã làm họ mệt nhoài, và cảm xúc của họ đã cạn kiệt.
Họ đếm những đồng hai lăm xu thành từng đống mười, và rồi hào hứng đếm một lần nữa. “Ôi Cướp Biển,” Danny kêu lên, “được một nghìn linh bảy đồng! Thời gian tích lũy của cậu đã hết. Đã đến ngày cậu đi mua giá nến dâng Thánh Francis!”
Ngày hôm ấy đã quá nhiều sự kiện đối với Cướp Biển. Hắn đi vào trong góc với bầy chó của mình, gục đầu xuống con Fluff và òa khóc nức nở. Lũ chó bồn chồn quanh quẩn, chúng liếm tai hắn, lấy mũi ẩy vào đầu hắn; nhưng Fluff, cảm nhận được niềm vinh dự của kẻ được chọn, nằm yên và cọ cọ đám lông dày lên cổ Cướp Biển.
Danny bỏ tất cả tiền trở lại túi, đoạn cất túi trở lại dưới gối mình.
Bấy giờ Joe Voi đã hồi tỉnh và rên rỉ, vì muối đang ngấm vào lưng. Các paisano không chú ý đến chàng; cho đến lúc, Jesus Maria, con mồi của lòng nhân ái ấy, cởi trói cho hai ngón tay trỏ của Joe Voi và đưa cho chàng một hũ rượu. “Ngay cả kẻ thù của Đấng Cứu Thế cũng còn cho ngài chút tiện nghi,” chàng tự bào chữa.
Hành động ấy chấm dứt sự trừng phạt. Những người bạn dịu dàng xúm xít quanh Joe Voi. Họ đặt chàng nằm trên giường Danny gột muối khỏi các vết thương. Họ đặt vải lạnh lên đầu chàng và luôn giữ cho hũ rượu của chàng được đầy. Joe Voi rên rỉ mỗi khi họ chạm vào. Đạo đức của chàng có thể không suy suyển, nhưng có thể an toàn mà tiên đoán rằng chàng sẽ không bao giờ dám ăn cắp từ các paisano nhà Danny nữa.
Cơn kích động của Cướp Biển đã qua. Hắn uống rượu, mặt hắn sáng lên khoan khoái khi nghe Danny lên kế hoạch cho hắn.
“Nếu ta mang tất cả chỗ tiền vào thị trấn, tới ngân hàng, người ta sẽ nghĩ rằng ta ăn trộm từ máy đánh bạc. Chúng ta phải mang số tiền này đến cho Cha Ramon và kể với Cha. Rồi ông sẽ đi mua cái giá nến bằng vàng, ban phước cho nó, và Cướp Biển sẽ đi nhà thờ. Có lẽ Cha Ramon sẽ nói đôi lời về cậu ấy vào ngày Chủ nhật. Cướp Biển phải ở đó để nghe.”
Pilon ngao ngán nhìn quần áo rách rưới bẩn thỉu của Cướp Biển. “Ngày mai,” chàng nghiêm khắc nói, “cậu phải mang bảy đồng xu thừa đi mua một ít đồ tử tế. Ngày thường những thứ này có thể tạm được, nhưng vào một dịp như thế này cậu không thể đi nhà thờ trông như một con chuột cống. Như thế thì cậu sẽ làm mất mặt các bạn cậu.”
Cướp Biển tươi cười với chàng. “Mai tôi sẽ đi,” hắn hứa.
Sáng hôm sau, giữ đúng lời hứa, hắn đi xuống Monterey. Hắn mua sắm cẩn thận và mặc cả với một vẻ sành sỏi đến mức thật khó tin là hơn hai năm qua hắn chẳng mua thứ gì. Hắn đắc thắng quay trở về nhà Danny, mang theo một một chiếc khăn tay lụa lớn màu tía chen xanh lục và một cái thắt lưng bản to đính đầy những hạt thủy tinh màu. Các bạn của hắn trầm trồ những món hắn mua.
“Nhưng cậu định mặc gì?” Danny thất vọng hỏi. “Hai ngón chân cậu thò ra khỏi cái chỗ mũi giày mà cậu khoét lỗ để khỏi bị cọ vào chỗ viêm kẽ chân. Cậu có mỗi một cái áo liền quần đã rách và chẳng có mũ gì cả.”
“Chúng ta sẽ cho cậu ấy mượn quần áo,” Jesus Maria nói. “Tôi có áo khoác ngoài và áo veston. Pilon có cái mũ đẹp của cha anh ấy. Còn huynh, Danny, huynh có một cái sơ-mi và Joe Voi có cái quần màu xanh khá tốt.”
“Nhưng vậy thì chúng ta sẽ không đi được,” Pilon phản đối.
“Đó có phải giá nến của chúng ta đâu,” Jesus Maria nói. “Cha Ramon chắc là không thể nói gì tốt đẹp về chúng ta được.”
Chiều hôm đó họ chuyển kho báu đến nhà vị linh mục.
Ông lắng nghe câu chuyện về con chó bị ốm, và mắt ông dịu đi. “… thế rồi, thưa Cha,” Cướp Biển nói, “có một con chó nhỏ rất ngoan, nhưng mũi nó khô, mắt nó giống như những chai thủy tinh vớt lên từ biển, và nó rên rỉ bởi vì nó đau đớn trong người. Thế rồi, thưa Cha, con hứa dâng một cái giá nến vàng đáng giá một nghìn ngày làm việc lên Thánh Francis. Ngài quả thực là người bảo trợ của con, thưa Cha. Và rồi phép lạ xảy ra. Vì con chó đó vẫy đuôi ba lần, và ngay lập tức nó bắt đầu bình phục. Đó là phép lạ của Thánh Francis, phải không, thưa Cha?”
Vị linh mục gật đầu nghiêm trang. “Đúng thế,” ông nói. “Đó là phép lạ mà vị thánh nhân hậu Francis của chúng ta gửi đến. Cha sẽ mua giá nến cho con.”
Cướp Biển rất vui mừng, vì khi lời nguyện cầu của một người được đáp lại bằng một phép lạ đích thực, ấy chẳng phải là chuyện nhỏ. Nếu chuyện này được bàn tán xôn xao, Cướp Biển hẳn sẽ có một vị thế cao hơn ở Tortilla Flat. Các bạn hắn đã nhìn hắn bằng một sự tôn trọng mới mẻ rồi. Họ không bận tâm đến trí thông minh của hắn như ngày trước nữa; họ biết rằng cái trí khôn còm cõi của hắn được bổ sung bằng tất cả quyền năng của Thiên đàng và tất cả sức mạnh của các vị thánh.
Họ đi ngược về nhà Danny, lũ chó theo sau. Cướp Biển cảm thấy rằng hắn đã được gội rửa bằng nước hoàng kim đại phúc. Những luồng khoái lạc nóng, lạnh rượt đuổi nhau qua cơ thể hắn. Các paisano mừng rỡ vì họ đã canh gác cho tiền của hắn, vì chính họ cũng đã được hưởng chút thiêng liêng trong hành động đó. Pilon nhẹ người vì chàng đã không ăn trộm món tiền ấy ngay từ đầu. Ai mà biết được những chuyện khủng khiếp nào có thể xảy ra nếu chàng lấy những đồng hai mươi lăm xu thuộc về một vị thánh ấy! Tất cả các người bạn đều trầm lặng như thể họ đang ở trong nhà thờ.
Năm đô-la có được từ vụ vớt hàng nằm như lửa bỏng trong túi của Danny, nhưng giờ chàng biết chàng phải làm gì với nó. Chàng và Pilon đi ra chợ mua bảy cân thịt lợn xay, một túi củ hành, bánh mì và một gói kẹo lớn. Pablo và Jesus Maria sang nhà Torrelli kiếm hai ga-lông rượu mà không uống một giọt nào trên đường về nhà.
Đêm đó, khi bếp lửa được đốt lên và hai ngọn nến cháy trên bàn, những người bạn tự chiêu đãi mình no căng. Đó là một bữa tiệc vinh danh Cướp Biển. Hắn đã cố cư xử thật đàng hoàng trong bữa tiệc. Mặc dù vậy, hắn cứ mỉm cười luôn miệng khi lẽ ra phải tỏ vẻ trịnh trọng. Nhưng hắn không thể không làm thế.
Sau khi cả đám ăn uống no say, họ ngồi thư giãn nhấp rượu từ các hũ trái cây. “Người bạn nhỏ của chúng ta,” họ gọi Cướp Biển như thế.
Jesus Maria hỏi, “Cậu cảm thấy thế nào khi chuyện ấy xảy ra? Cái lúc cậu hứa dâng giá nến và con chó bắt đầu hồi phục lại ấy, cậu cảm thấy sao? Cậu có nhìn thấy linh ảnh nào không?”
Cướp Biển cố nhớ. “Tôi không nghĩ vậy - có thể tôi đã thấy một chút linh ảnh nào đó - có lẽ tôi đã nhìn thấy Thánh Francis trong không trung tỏa sáng lấp lánh như vầng dương…”
“Cậu không nhớ chuyện đó sao?” Pilon hỏi
“Có - tôi nghĩ tôi nhớ - Thánh Francis nhìn tôi - và ngài mỉm cười, vì ngài là vị thánh nhân hậu. Rồi tôi biết phép lạ đã được thực hiện. Ngài nói, “Hãy đối xử tốt với những con chó nhỏ, kẻ bẩn thỉu kia.”
“Ngài gọi cậu như vậy sao?”
“Chà, thì tôi bẩn thỉu, và ngài mà nói dối thì sao là thánh được!”
“Tôi nghĩ là cậu chả hề nhớ chuyện đó,” Pablo nói.
“Thì, có thể là không. Nhưng tôi vẫn nghĩ là tôi có nhớ,” Cướp Biển đã ngà ngà vì hạnh phúc từ niềm vinh dự và sự chú ý.
“Bà ngoại tôi đã nhìn thấy Đức Mẹ Đồng Trinh,” Jesus Maria nói. “Bà ốm gần chết, và chính tai tôi nghe bà kêu. Bà kêu, ‘Ôi chao. Con nhìn thấy Đức Thánh Mẹ. Ôi chao. Đức Mẹ Maria của con, đầy ân phước.’ ”
“Một số người được chọn để nhìn thấy những sự này,” Danny nói. “Cha tôi không phải là người tốt lắm, nhưng đôi khi ông nhìn thấy các vị thánh, và đôi khi nhìn thấy ma quỷ. Tùy vào ông tốt hay xấu khi nhìn thấy họ. Cậu có bao giờ nhìn thấy những linh ảnh nào khác không Cướp Biển?”
“Chưa,” Cướp Biển nói. “Thấy thêm gì nữa tôi sẽ sợ lắm ấy.”
Lâu lắm rồi mới có một bữa tiệc ra trò như thế. Những người bạn biết rằng đêm nay họ không có một mình. Xuyên qua các bức vách, các cửa sổ và mái nhà họ có thể cảm thấy ánh mắt của các vị thánh linh thiêng đang nhìn xuống họ.
“Chủ nhật giá nến của cậu sẽ ở đó,” Pilon nói. “Bọn tôi không thể đi, vì cậu sẽ mặc quần áo của bọn tôi. Tôi không chắc là Cha Ramon sẽ nhắc đến tên cậu, nhưng có thể Cha sẽ nói gì đó về cái giá nến. Cậu phải cố nhớ những gì cha nói nhé Cướp Biển, để rồi còn nói lại với bọn tôi.”
Pilon chợt nghiêm nghị. “Hôm nay, người bạn nhỏ của tôi ạ, quanh nhà Cha Ramon đầy những chó. Hôm nay thì được, nhưng cậu phải nhớ Chủ nhật này đừng có tha chúng đến nhà thờ. Lũ chó ấy đến nhà thờ thì không phù hợp đâu nhé. Phải để chúng ở nhà.”
Trông Cướp Biển có vẻ thất vọng. “Chúng muốn đi,” hắn kêu lên. “Làm thế nào mà tôi bỏ chúng lại được? Tôi có thể bỏ chúng ở đâu bây giờ?”
Pablo kinh ngạc. “Trong chuyện này từ đầu đến giờ cậu đã cư xử đúng mực, Cướp Biển nhỏ bé ạ. Giờ là đến giờ chót, cậu lại muốn phạm điều báng bổ sao?”
“Tôi đâu dám,” Cướp Biển nhún nhường nói.
“Vậy thì để bầy chó của cậu ở lại đây, bọn tôi sẽ chăm sóc chúng. Mang chúng đến nhà thờ là hành vi báng bổ.”
Thật lạ kỳ, đêm hôm ấy họ uống nhưng lại tỉnh táo làm sao. Thậm chí phải sau ba tiếng đồng hồ họ mới hát một bài hát tục tĩu. Khi ý nghĩ của họ lạc sang những ả đàn bà dễ dãi thì đã khuya. Và tới lúc đầu óc họ chuyển sang đánh đấm thì họ gần như quá buồn ngủ nên chả đánh đấm gì được. Đêm nay là một cột mốc tuyệt tốt trong đời họ.
Sáng Chủ nhật, công việc chuẩn bị rất tưng bừng nhộn nhịp. Họ tắm rửa cho Cướp Biển rồi kiểm tra tai và lỗ mũi hắn. Joe Voi, quấn mình trong một tấm chăn, nhìn Cướp Biển tròng cái quần xẹc màu xanh của mình vào. Pilon mang mũ của cha mình ra. Họ thuyết phục Cướp Biển đừng đeo cái thắt lưng khảm đá bên ngoài áo khoác, và chỉ cho hắn cách hé vạt áo khoác để các viên đá thỉnh thoảng có thể lóe lên. Vấn đề giày là đau đầu nhất. Joe Voi có đôi giày duy nhất đủ to cho Cướp Biển nhưng giày của chàng ta thậm chí còn tệ hơn giày của Cướp Biển. Khó khăn nằm ở chỗ mấy cái lỗ được khoét để các ngón chân thò ra cho mấy nốt viêm kẽ chân được thoải mái. Rốt cuộc Pilon giải quyết được sự vụ bằng một ít bồ hóng lấy bên trong bếp lò. Bôi kỹ lên da, bồ hóng làm người ta khó mà phát hiện ra cái lỗ khoét dành cho nốt viêm.
Cuối cùng Cướp Biển đã sẵn sàng; cái mũ của cha Pilon đội lệch trên đầu, sơ-mi của Danny, quần của Joe Voi, chiếc khăn vuông to đùng quanh cổ, và thỉnh thoảng, có ánh lóe sáng của cái thắt lưng nạm đá. Hắn đi lại cho các bạn kiểm tra, và họ săm soi hắn ra trò.
“Nhấc chân lên, Cướp Biển.”
“Đừng có lê gót.”
“Đừng mân mê cái khăn cổ nữa.”
“Người nào gặp cậu sẽ nghĩ rằng cậu không quen mặc đồ đẹp.”
Cuối cùng Cướp Biển quay sang các bạn. “Giá mà lũ chó có thể đi cùng tôi,” hắn phàn nàn. “Tôi sẽ bảo chúng không được vào trong nhà thờ.”
Nhưng các paisano rất cứng rắn. “Không,” Danny nói. “Chúng vẫn có thể chui vào được. Bọn tôi sẽ giữ chúng ở nhà cho cậu.”
“Chúng không thích đâu,” Cướp Biển vớt vát. “Chắc là chúng sẽ cô đơn.” Hắn quay sang bầy chó trong góc. “Chúng mày phải ở lại đây,” hắn nói. “Chúng mày đi nhà thờ thì không hay lắm. Ở lại đây với các bạn tao tới lúc tao về nhé.” Rồi hắn lách ra, đóng cánh cửa sau lưng. Ngay lập tức trong nhà tiếng sủa, tiếng tru hoang dại rền rĩ rộ lên. Duy nhờ niềm tin vào sự xét đoán của các bạn mà Cướp Biển không quỵ hàng.
Ra đường, hắn cảm thấy mình trần trụi và không được bảo vệ khi không có lũ chó đi cùng. Cứ như thể một trong những giác quan của hắn biến mất. Hắn sợ đi ra ngoài một mình. Ai cũng có thể tấn công hắn. Nhưng hắn dũng cảm bước đi, xuyên qua thị trấn, về phía nhà thờ San Carlos.
Lúc này, trước khi buổi lễ bắt đầu, những cánh cửa lật hai chiều còn mở. Cướp Biển nhúng đầu ngón tay vào chậu nước thánh bằng cẩm thạch, làm dấu thánh, quỳ trước Đức Mẹ Đồng Trinh, vào bên trong nhà thờ, làm phận sự trước bệ thờ rồi ngồi xuống. Nhà thờ sâu và khá tối, nhưng bệ thờ trên cao có nhiều ngọn nến cháy bập bùng. Trước các bức hình ở hai bên hông nhà thờ, những ngọn đèn thờ cúng cũng sáng. Mùi hương trầm ngòn ngọt loang khắp nhà thờ.
Cả một hồi lâu Cướp Biển ngồi nhìn bệ thờ, nhưng nó quá xa xôi, quá linh thiêng nên hắn không thể nghĩ quá nhiều về nó; cái bệ thờ, quá xa cách đối với một kẻ nghèo. Mắt hắn kiếm tìm một thứ gì đó ấm áp hơn, một thứ gì không làm hắn sợ hãi. Kia rồi, ngay trước tượng Thánh Francis, là một giá nến bằng vàng tuyệt đẹp trong đó có một ngọn nến đang cháy.
Cướp Biển thở một hơi dài, háo hức. Mặc dù mọi người đã vào trong, cửa đã đóng, buổi lễ đã bắt đầu và Cướp Biển làm theo nghi thức lễ, hắn không thể ngừng ngắm vị thánh của mình và cái giá nến. Nó đẹp quá. Hắn không thể tin rằng chính mình, Cướp Biển, đã dâng nó. Hắn cố nhìn gương mặt của vị thánh để xem Thánh Francis có thích cái giá nến không. Hắn chắc chắn rằng trong ảnh, vị thánh thỉnh thoảng hơi mỉm cười, nụ cười thường trực của người hay nghĩ đến những điều dễ chịu.
Cuối cùng bài giảng bắt đầu. “Trong nhà thờ có một vẻ đẹp mới,” Cha Ramon cất tiếng. “Một trong những người con của nhà thờ đã dâng một giá nến bằng vàng để vinh danh Thánh Francis.” Rồi cha kể câu chuyện về con chó, cố ý kể một cách khá ngắn gọn. Nhìn các giáo dân, cha thấy những nụ cười mỉm trên mặt họ. “Đây là không phải là một chuyện đáng buồn cười,” cha nói. “Thánh Francis yêu những con vật rất nhiều, đến nỗi ngài còn giảng thuyết cho chúng.” Rồi Cha Ramon kể câu chuyện về con sói tồi tệ vùng Gubbio, câu chuyện về những con chim gáy hoang và về những con chim chiền chiện. Cướp Biển nhìn cha đầy ngưỡng mộ suốt bài giảng.
Đột nhiên một âm thanh dồn dập vọng vào từ cửa. Có tiếng sủa ầm ĩ và tiếng cào cửa sột soạt. Cánh cửa bung ra, rồi lao vào là Fluff, Rudolph, Enrique, Pajarito và Señor Alec Thompson. Chúng nghếch mũi lên, rồi tranh nhau lao về phía Cướp Biển. Chúng vừa chồm lên người hắn vừa kêu rên ư ử. Chúng vây quanh hắn.
Vị linh mục ngừng nói, nghiêm nghị nhìn xuống đám lộn xộn. Cướp Biển nhìn lên bất lực, đau khổ. Thôi thế là hết, đã phạm phải điều báng bổ rồi.
Khi ấy Cha Ramon bật cười, và giáo đoàn cũng bật cười. “Mang lũ chó ra ngoài,” Cha nói. “Hãy để cho chúng chờ đến khi nào chúng ta lễ xong.”
Cướp Biển, ngượng ngùng và đầy vẻ hối lỗi, dẫn lũ chó ra ngoài. “Như vậy là sai,” hắn nói với chúng. “Tao giận chúng mày rồi. Ôi, ta thật xấu hổ về chúng mày.” Lũ chó nằm phệt xuống đất rên rỉ ra điều biết lỗi. “Tao biết chúng mày làm gì rồi,” Cướp Biển nói. “Chúng mày cắn các bạn của tao, phá vỡ cửa sổ, rồi phóng ra đây. Giờ thì nằm chờ ở đây, ôi lũ chó hư hỏng; ôi, lũ chó báng bổ.”
Hắn bỏ lũ chó rũ rượi vì đau khổ và ăn năn ở bên ngoài rồi quay vào trong nhà thờ. Mọi người, vẫn còn đang cười, quay lại nhìn hắn, cho đến lúc hắn rúc vào chỗ của mình và cố thu mình hết cỡ.
“Con không phải xấu hổ,” Cha Ramon nói. “Con được lũ chó yêu quý, và con cũng yêu quý chúng, ấy không phải là tội lỗi. Hãy xem Thánh Francis được các con vật yêu như thế nào.” Rồi ông kể thêm nhiều câu chuyện về vị thánh nhân từ ấy nữa.
Cướp Biển thôi ngượng ngùng. Môi hắn mấp máy. “Ôi,” hắn nghĩ, “giá mà lũ chó nghe được chuyện này. Chúng sẽ vui mừng nếu chúng biết được tất cả những chuyện này.” Khi buổi giảng đạo đã xong, tai hắn vẫn còn ngân lên những câu chuyện ấy. Hắn cứ bất giác làm theo các nghi thức nhưng hắn không nghe thấy lời hành lễ. Khi tan lễ, hắn lao ra cửa. Hắn là người đầu tiên ra khỏi nhà thờ. Lũ chó, vẫn còn rầu rĩ và rụt rè, vây quanh hắn.
“Lại đây,” hắn kêu. “Tao có đôi điều muốn nói với chúng mày.”
Hắn bắt đầu thoăn thoắt đi lên đồi về phía rừng thông, bầy chó nhấp nhổm chạy theo xung quanh hắn. Cuối cùng hắn đến được bìa rừng, nhưng hắn vẫn đi tiếp, đến khi tìm thấy một lối đi dài dưới những hàng thông, chỗ các tán thông trên cao giao nhau và các thân cây đứng sát gần nhau. Trong giây lát hắn nhìn quanh bất lực.
“Tao muốn phải giống hệt như thế,” hắn nói. “Phải chi chúng mày có thể có mặt ở đó nghe Cha giảng.” Hắn chồng một phiến đá lớn lên một phiến khác. “Bây giờ, đây là hình ảnh đức thánh,” hắn bảo lũ chó. Hắn cắm một cái que nhỏ lên mặt đất. “Ngay đây là cái giá nến, có nến bên trong.”
Trảng cỏ nhuốm hoàng hôn, không gian có mùi ngòn ngọt của nhựa thông. Cây cối dịu dàng thì thào trong những làn gió thoảng. Cướp Biển trịnh trọng nói, “Bây giờ, Enrique, mày ngồi đây. Còn mày, Rudolph, ở đây. Tao muốn Fluff ở đây bởi vì nó nhỏ nhất. Pajarito, đồ ngốc nghếch, ngồi đây và đừng có gây rắc rối gì đấy. Señor Alec Thompson, cấm mày nằm xuống.”
Rồi hắn xếp chúng thành hai hàng, hàng trước hai con, hàng sau ba con.
“Tao muốn kể với chúng mày chuyện đã diễn ra như thế nào,” hắn nói. “Chúng mày đã được tha tội đột nhập nhà thờ. Cha Ramon nói lần này không phải là báng bổ. Bây giờ, chú ý. Tao có chuyện để kể.”
Bầy chó ngồi tại chỗ của mình nghiêm chỉnh ngắm nhìn hắn. Señor Alec Thompson đập đập đuôi, khiến Cướp Biển phải bảo. “Đây không phải là chỗ làm việc đó,” hắn nói. “Thánh Francis không bận tâm đâu, nhưng tao không thích mày nguẩy đuôi trong lúc đang lắng nghe. Bây giờ tao sắp kể cho chúng mày câu chuyện về Thánh Francis.”
Ngày hôm đó trí nhớ hắn được truyền cảm hứng. Mặt trời tìm thấy những khe hở trong tán lá và ném xuống những hoa văn rỡ ràng trên tấm thảm lá thông. Lũ chó kiên nhẫn ngồi, mắt chúng dán vào môi Cướp Biển. Hắn kể lại mọi điều mà vị linh mục đã kể, tất cả các câu chuyện, mọi bình luận. Gần như không bỏ sót chữ nào.
Kể xong, hắn nghiêm nghị nhìn bầy chó. “Thánh Francis làm tất cả những việc ấy đấy,” hắn nói.
Cây cối rì rào. Khu rừng yên ắng và tràn ngập niềm hân hoan.
Đột nhiên có một thanh âm khe khẽ phía sau Cướp Biển. Cả bầy chó nhìn lên. Cướp Biển sợ hãi nên không quay đầu lại. Một khắc trôi qua.
Và rồi khoảnh khắc ấy kết thúc. Bầy chó hạ mắt xuống. Các ngọn cây sôi động trở lại và những hoa văn nắng tưng bừng nhảy múa.
Cướp Biển hết sức hạnh phúc đến nỗi đau cả tim. “Chúng mày có nhìn thấy Ngài không?” hắn kêu lên. “Có phải đó là Thánh Francis? Ôi chao, chúng mày phải là chó ngoan đến chừng nào mới nhìn thấy linh ảnh Ngài.”
Giọng nói của hắn khiến bầy chó nhảy chồm lên. Chúng há mõm, ngoáy tít đuôi mừng rỡ.
Thị Trấn Tortilla Flat Thị Trấn Tortilla Flat - John Steinbeck Thị Trấn Tortilla Flat