Chương 11
áng hôm sau, Tracy và Kins gọi cho Cerrabone.
Hôm qua, ông ta nói chuyện với Dunleavy tới tận khuya. Dunleavy đồng ý với Cerrabone sẽ không khởi tố Angela hay Connor Collins mà sẽ đợi tới khi họ thu thập được thêm chứng cứ.
“Không có tin gì thêm từ Berkshire sao?” Kins hỏi. Sự im lặng của Berkshire vẫn khiến anh lấn cấn.
“Chẳng một lời.” Cerrabone đáp.
Tất cả bọn họ đều cho rằng Berkshire mà họ biết chắc chắn sẽ làm um lên vì họ lấy lời khai của Connor mà không có mặt ông ta. Thế nhưng Berkshire mà họ căm ghét sẽ không bao giờ cho phép Angela Collins cung cấp lời khai ngay từ đầu.
“Liệu có phải ông ta đã sắp đặt tất cả những việc này?” Kins nói.
“Cậu đã nói chuyện với Mark Collins chưa?” Cerrabone hỏi.
“Tôi và Faz sẽ tới đó ngay bây giờ.” Kins đáp.
Vì vụ Collins có vẻ như đang giậm chân tại chỗ, Kins và Faz thì đang săn lùng bằng chứng nên Tracy tập trung sự chú ý vào vụ Kimi Kanasket. Cô tra tên Earl và Élan Kanasket trên Accurint, cơ sở dữ liệu thương mại cung cấp các dữ liệu về dịch vụ công và báo cáo tín dụng, đồng nghĩa với việc cung cấp địa chỉ mới nhất. Với khoảng thời gian bốn mươi năm, cô e rằng mình đang thách thức giới hạn của hệ thống, nhưng cô nhẹ cả người khi tìm được một địa chỉ trùng khớp ở Yakama cho cả hai người. Cô tra nhanh trên Google Earth và xác nhận địa chỉ đó ở khu bảo tồn Yakama. Trực giác mách bảo cô tra cứu tên của Tommy Moore trên cùng cơ sở dữ liệu và xác định được Moore cũng sống trong khu bảo tồn. Tiếp theo, cô tra tên của cả ba trên hệ thống tra cứu hồ sơ hình sự. Moore từng bị bắt vào các năm 1978, 1979 và 1981, nguyên nhân là do say rượu và gây rối trật tự nơi công cộng. Một trong những lần đó, ông ta còn bị buộc tội hành hung người khác. Năm 1981 ông ta bị kết tội xâm nhập bất hợp pháp, năm 1982 ông ta phải ngồi tù vì tàng trữ ma túy trái phép. Sau thời gian đó, ông ta không có tội gì nữa. Việc không còn những vụ bắt giữ tiếp theo thường là dấu hiệu rõ ràng cho thấy tội phạm đã chết, nhưng dữ liệu dịch vụ công gần đây lại chỉ ra điều ngược lại. Tracy tự hỏi liệu Moore có phải một trong những người hiếm hoi may mắn thay đổi được số phận hay không? Cả Earl và Élan Kanasket đều không có tiền án nào. Tracy cũng tra tên của cả ba trong dữ liệu của Cục Cấp giấy phép và lấy được thông tin về bằng lái hiện tại cũng như những bằng lái trước đây còn được lưu lại của họ. Cục Cấp giấy phép có chính sách xóa bỏ ảnh chụp các bằng lái cũ, nhưng Tracy phát hiện ra cô có thể truy cập lại ba đến bốn vòng cấp phép – khoảng mười đến mười hai năm. Những bức ảnh hiện tại cần thiết cho chính bản thân cô. Những bức ảnh cũ thì cần thiết cho việc gợi nhớ ký ức của ai đó về bất kỳ người nào trong số ba người đàn ông này. Sẽ cực kỳ hữu ích nếu có một bức ảnh gần sát với thời gian xảy ra sự việc, giống như bức ảnh tốt nghiệp của Kimi Kanasket. Nghĩ vậy cô bèn ghi chú lại việc cần tới thư viện Stoneridge để nghiên cứu kỷ yếu của trường trung học và báo chí cũ trong khoảng thời gian đó để nắm được tình hình trường học của Kimi và Stoneridge vào thời điểm đó. Xong việc, Tracy gọi cho Jenni và thông báo cô sẽ quay lại Stoneridge.
“Sếp của cậu đồng ý cho cậu làm vụ này rồi ư?” Jenni biết mối quan hệ của Tracy với Nolasco vì cô cũng ở Học viện lúc Tracy tặng cho Nolasco một cú lên gối và đánh vỡ mũi ông ta vì ông ta dám sờ soạng cả hai cô trong một lần diễn tập bố ráp. “Không hẳn. Mình dùng ngày phép cá nhân.”
“Mình không thích cậu phải làm thế.” Jenni nói. “Để mình gọi điện thoại.”
“Đừng lo về việc đó. Nếu từ nay đến cuối năm mà mình không dùng hết phép thì cũng mất sạch thôi.” Cô nói với Jenni ý định của mình và bảo khi nào tới khách sạn cô sẽ gọi lại cho cô ấy.
“Tội gì phải thế.” Jenni nói. “Nhất là cậu lại phải bỏ tiền túi ra. Cậu có thể ở nhà mẹ mình. Hôm nay bọn mình đã tiễn mẹ đi du thuyền cùng với dì rồi. Cậu sẽ làm chủ cả căn nhà.”
Tracy nghĩ về căn nhà xinh đẹp với bãi cỏ rộng thênh thang. “Cậu chắc là không có vấn đề gì chứ?”
“Chắc chắn. Mẹ mình sẽ sướng rơn nếu biết có người ở đó. Và tên cậu cũng đang nằm trong danh sách liên lạc khẩn cấp của mình. Vài tuần nữa là tới buổi kỷ niệm bốn mươi năm ra trường của khóa 1976, họ đang lên kế hoạch cho đủ loại sự kiện. Mình hy vọng sẽ có nhiều người quay về thị trấn để nhớ về khoảng thời gian đó.”
“Thật mừng khi biết tin đó.”
“Mình có thể giúp bố trí các cuộc phỏng vấn nếu cậu muốn.”
“Cảm ơn, nhưng mình đã tới đó đâu. Với lại, mình thích làm mọi người ngạc nhiên.”
Tracy tới căn nhà nông trại của gia đình Almond trước khi trời ngả bóng. Vào mùa thu và mùa đông, hoàng hôn ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương thường tới sớm. Cô đỗ xe sau chiếc SUV màu đen trắng của Jenni, chiếc xe có một dàn đèn chạy ngang trên nóc và ngôi sao vàng sáu cánh chạm trên cửa. Từ trong xe bước ra, Tracy nhận thấy nhiệt độ đã thay đổi đáng kể so với thời điểm cô rời căn nhà ở Tây Seattle. Xe cô không có nhiệt kế, nhưng những nốt gai ốc trên tay và cơn rùng mình đang chạy dọc sống lưng cho cô biết nhiệt độ phải hạ xuống gần điểm đóng băng. Trời chiều chạng vạng phủ xuống một màu xanh thăm thẳm, tựa như có bàn tay họa sĩ phết những nét cọ màu đỏ tía không đều nhau dọc theo đường viền của những ngọn đồi thoai thoải bao quanh khu nhà. Bóng tối len vào bãi cỏ, phủ ánh xam xám lên những cây ăn quả. Có tiếng cửa trước mở ra khiến Tracy quay người lại. Bóng Jenni hiện lên mờ mờ sau lớp màn che. Jenni đẩy cửa bước ra ngoài, thoáng chút do dự rồi lại quay vào trong. Ánh đèn bật sáng rọi lên hàng hiên, bậc thang và sân vườn.
“Mình đang chiêm ngưỡng nét yên bình của cảnh sắc bên ngoài.” Tracy nói khi Jenni bước xuống thềm.
“Sẽ yên bình hơn nhiều nếu cậu không có bảy đứa cháu ngoại chạy loạn trên bãi cỏ.” Jenni đồng tình. “Nhưng đó chính là thời thơ ấu trong ký ức của mình. Hỗn loạn kinh khủng, trẻ con chạy nhảy hò hét quanh sân. Bọn mình đã rất vui vẻ khi bố chuyển cả gia đình tới đây.”
“Một lần nữa, cảm ơn cậu vì đã cho mình ở nhờ.”
“Hôm nay mình đã nói chuyện với mẹ. Mẹ nhắn cậu cứ tự nhiên như ở nhà.” Jenni rùng mình xoa dọc cánh tay. “Nào, mình sẽ đưa cậu đi một vòng để cậu làm quen.”
Tracy lôi va li từ trên xe xuống và theo Jenni vào trong nhà. Jenni cầm mấy tờ báo đặt trên chiếc bàn ở lối vào kê dưới một chiếc gương trang trí tinh xảo. “Đây là vài tờ báo địa phương có đăng bài về buổi họp mặt cuối tuần.”
Tracy mở tờ Doanh nghiệp Goldendale, trong đó có một bài báo nói rằng lễ kỷ niệm lần thứ bốn mươi chức vô địch bóng bầu dục bang của trường Trung học Stoneridge sẽ được tổ chức song song với buổi họp mặt khóa 1976. Có một cột báo liệt kê các hoạt động lễ hội vào cuối tuần, bao gồm một giải golf từ thiện và buổi diễu hành quanh khu trung tâm vào sáng thứ Bảy để vinh danh các thành viên của đội bóng năm 1976. Lễ đặt tên khu liên hợp thể thao theo tên huấn luyện viên huyền thoại Ross Reynolds của Stoneridge sẽ diễn ra tối hôm đó, vào giờ nghỉ giữa hiệp của trận bóng bầu dục giữa các cựu học sinh với đội kình địch Columbia Central.
“Đi nào.” Jenni nói. “Mình sẽ đưa cậu đi xem phần còn lại của căn nhà.”
Kệ bếp ốp cẩm thạch, trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại. Jenni mở tủ lạnh ra, trong tủ phần lớn là đồ gia vị, giống tủ lạnh của Tracy. “Cậu muốn ăn gì thì ăn, nhưng nhớ kiểm tra hạn sử dụng. Mẹ mình mãi không thể thích nghi được với chứng chán ăn của bố mình. Sáu tháng qua, bọn mình đã phải vứt đi hàng tá đồ dễ hỏng và sữa hộp. Mình vẫn nhớ thói quen ăn uống chẳng lấy gì làm lành mạnh lắm của cậu nên đã mạn phép mang tới vài hộp đồ ăn thừa. Cũng không có gì đặc biệt đâu. Mì lasagna với một ít gà thôi.”
Jenni dẫn Tracy lên gác, tới căn phòng cuối cùng nằm ở cuối hành lang và bật đèn lên. Căn phòng có một chiếc giường có màn che, một tủ ngăn kéo lớn, một bàn phấn cổ màu trắng và băng ghế đôi quay mặt ra ngoài cửa sổ. Tracy đặt va li dưới chân giường rồi tới bên cửa sổ cùng Jenni.
“Đẹp quá.” Cô nói. Cửa sổ nhìn thẳng ra những ngọn đồi thoai thoải phía xa xa. Những nét cọ màu tía đã lẫn vào đường thẳng mảnh mai phía chân trời khi ráng chiều nhạt dần và màn đêm dần phủ bóng. “Nó gợi cho mình nhớ tới khung cảnh bên ngoài cửa sổ phòng ngủ của mình thời thơ ấu.”
“Đây là phòng của mình.” Jenni nói. “Maria và Sophia ở chung trong một phòng khác. Kể ra một mình mình có phòng riêng cũng khiến họ hơi xốn mắt, nhưng hai bà chị lại muốn dùng chuyện đó để mặc cả với bố mẹ mình. Họ sàn sàn tuổi nhau và thích ở chung với nhau.”
“Thật hoàn hảo. Cảm ơn cậu.”
Hai cô đi xuống nhà và vào phòng ăn. “Cậu định bắt đầu từ đâu?” Jenni hỏi.
“Earl Kanasket.” Cô đáp. “Theo phép lịch sự thì cần qua chỗ ông ấy trước tiên.”
“Cậu tìm được ông ấy rồi à?”
“Hy vọng thế. Địa chỉ cuối cùng là ở khu bảo tồn.” Tracy nói. “Hình như ông ấy sống cùng Élan, người anh trai. Dữ liệu cũng cho thấy Tommy Moore sống ở khu đó. Nếu thế, mình cũng sẽ tới chỗ ông ta.”
“Sẽ mất vài giờ để tới đó.” Jenni nói. “Nếu cần gì thì cứ nói với mình. Mình có thể dẫn cậu đi một vòng quanh thị trấn và giới thiệu cậu với Giám đốc Sở cảnh sát Stoneridge.”
Một số thị trấn nhỏ ký họp đồng với đồn cảnh sát quận, nhưng một số lại có lực lượng riêng – thẩm quyền của họ giới hạn trong phạm vi thị trấn. “Mình đã tới chào hỏi ông ta và thông báo cậu sẽ có mặt tại thị trấn. Vì Kimi chết bên ngoài thị trấn Stoneridge nên ông ta không có thẩm quyền, nhưng ông ta có vẻ dễ bị lửa đốt đít lắm.”
Tracy phì cười. “Mình sẽ lưu ý điều đó.”
Jenni nhìn chiếc đồng hồ quả lắc cổ đặt ở tiền sảnh. “Nhắc tới lửa đốt đít, mình phải về nhà cho lũ nhóc ăn thôi. Nếu cần gì thì cậu có số điện thoại di động của mình rồi đấy.” Cô đưa Tracy một chùm chìa khóa và Tracy theo cô ra bên ngoài. Nhiệt độ có lẽ đã giảm thêm vài độ, bóng tối đã chạm tới thềm nhà.
Jenni vào xe và hạ cửa kính bên ghế cạnh ghế lái xuống. “Nếu cần gì thì cứ gọi cho mình nhé.” Cô nói và lái xe đi. Tracy nhìn theo chiếc SUV đi ra phía ngoài khu nhà rồi rẽ về hướng bắc. Khi tiếng máy xe tắt dần, sự im lặng tuyệt đối lại bủa vây lấy cô. Bên tai cô như vang lên âm thanh xôn xao của một gia đình quây quần quanh bàn ăn để ăn tối hay xem phim Disney sau giờ tắm tối Chủ nhật. Đó vốn là thói quen của cô và Sarah. Ký ức bỗng ùa về với hình ảnh một chuyến đi bất ngờ của họ tới Disneyland, một chuyến đi diệu kỳ. Cô còn nhớ Sarah đã rú rít ầm ĩ khi chơi trò Cướp biển vùng Caribbean, nhắm tịt mắt khi vào Ngôi nhà ma, và nụ cười cứ nở mãi trên miệng bố cô tới tận ba ngày hôm sau. Đêm cuối cùng, khi họ cùng nhau xem đám diễu hành trên Phố Chính, Tracy đã hỏi bố: “Chúng ta có thể quay lại đây được không hả bố?”
“Bố tưởng chúng ta đã cày nát cái công viên này rồi chứ?” Bố cô nói. “Nhưng một ngày nào đó con sẽ quay trở lại. Con sẽ quay lại cùng em gái con và con cái của các con, và các con sẽ tạo ra ký ức cho chúng.”
Chuyện đó đã không bao giờ xảy ra.
Một kẻ tâm thần đã tước đi giấc mơ ấy của tất cả bọn họ.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống Tracy, cô vội vàng đi vào trong nhà và mặc thêm một cái áo dài tay có mũ. Cô mang báo vào chiếc bàn trong phòng khách, ngồi xuống phía dưới chiếc đèn dầu treo trần kiểu cổ. Ngoài những bài báo về cuộc hội ngộ, tờ báo còn có những tin tức về thị trấn nhỏ – một bài nghiên cứu tính khả thi của bể bơi, một bài kêu gọi dân thị trấn tham gia vào hội đồng nhân dân để cùng xây đắp cho tương lai của Stoneridge. Tuy nhiên, chính giữa trang bìa lại là bài báo về cuộc hội ngộ và lễ dâng tặng sân vận động. Bức ảnh đi kèm bài báo chụp một người đàn ông mặc quần kaki và áo polo đang đứng ngoài cổng vào sân vận động mà Tracy và Dan từng thấy lúc đang xây dựng. Theo dòng chú thích thì ông ta là Eric Reynolds, tiền vệ của đội bóng đoạt chức vô địch năm 1976 và là Chủ tịch Công ty Xây dựng Reynolds, công ty đã quyên góp nhân công, thiết bị và vật liệu để tái thiết sân vận động. Rõ ràng quyền đặt tên chính là món quà đáp lễ không lời từ địa phuơng. Reynolds trông vẫn có thể ra sân chơi bóng được.
Bài báo tiếp tục ở trang bên trong, bao gồm một cột báo so sánh ảnh xưa và nay. Trong một tấm ảnh, Eric Reynolds ở tuổi năm mươi bảy, đầu hói hình vành khăn, đứng cạnh một người đàn ông to cao đang khom người như muốn chuyền ra phía sau cho ông ta một quả bóng. Tấm ảnh được đặt liền kề với một tấm khác chụp bốn mươi năm trước, cũng của hai người đó, cũng tư thế đó, nhưng trong đồng phục đội bóng. Trong bức ảnh đen trắng, Reynolds để tóc dài, miệng cười rạng rỡ. Chú thích ghi trung vệ đang chuyền bóng là Hastey Devoe. Thời gian không nhân nhượng với Devoe như đã làm với Reynolds. Devoe thuở ấy to lớn vạm vỡ nhưng trông nhanh nhẹn, những đường nét trai trẻ và đôi mắt mở to khiến cậu trông lớn hơn tuổi. Trong bức ảnh mới, Devoe trông luộm thuộm, nét thơ ngây đã trở nên nhăn nhúm và biến dạng thành sự núng nính của một người đàn ông ham ăn tục uống, có khi còn nghiện rượu.
Những bức ảnh khiến cô ngậm ngùi. Bốn mươi năm đã trôi qua. Nửa đời người.
Nhưng với Sarah thì không phải. Và với Kimi Kanasket cũng vậy.
Trảng Đất Trống Trảng Đất Trống - Robert Dugoni Trảng Đất Trống