Chương 9
ơi đáng lẽ phải có một cỗ quan tài lại có một cái thang dẫn xuống bóng tối. Chúng tôi cùng ngó vào trong ngôi mộ vừa mở.
“Không có chuyện tớ trèo xuống dưới đó đâu nhé!” Horace nói. Nhưng rồi ba cú bom làm rung chuyển tòa nhà, làm các mảnh bê tông rơi như mưa xuống đầu chúng tôi, và đột nhiên Horace leo qua bên tôi, chộp lấy cái thang. “Xin lỗi, làm ơn tránh đường cho tớ, người mặc bảnh nhất đi đầu tiên!”.
Emma tóm lấy tay áo cậu ta. “Tớ có ánh sáng, thế nên tớ sẽ đi đầu tiên. Rồi Jacob sẽ theo sau, phòng khi có... những thứ đó ở dưới kia”.
Tôi thoáng nở một nụ cười yếu ớt, chỉ nguyên ý nghĩ đó đã làm hai đầu gối tôi mềm nhũn.
Enoch nói, “Ý cậu là những thứ khác ngoài chuột cống, vi khuẩn tả và tất cả những thứ điên rồ vẫn hay tồn tại dưới các hầm mộ hả?”.
“Có gì dưới đó cũng chẳng quan trọng”, Millard ảm đạm nói. “Chúng ta sẽ phải đối diện với nó, vậy thôi”.
“Được lắm”, Enoch nói. “Nhưng tốt hơn cô Wren cũng nên có dưới đó, vì các vết chuột cống cắn không khỏi nhanh đâu”.
“Những vết hồn rỗng cắn thậm chí còn khó lành hơn”, Emma nói, rồi cô đặt chân lên thang.
“Cẩn thận”, tôi nói. “Tớ sẽ ở ngay trên cậu”.
Cô chào tôi bằng bàn tay bốc cháy của mình. “Thêm một lần xuống hố nữa nào”, cô nói, và bắt đầu leo xuống.
Sau đó đến lượt tôi.
“Các cậu đã bao giờ leo xuống một lòng mộ mở toang giữa một trận oanh tạc”, tôi nói, “và chỉ ước gì mình ở yên trên giường chưa?”.
Enoch đá vào giày tôi. “Thôi nhùng nhằng đi”.
Tôi bám vào gờ mộ và đặt chân lên thang.
Và trong chốc lát thoáng nghĩ tới tất cả những điều vui vẻ, nhàm chán có thể tôi đã thực hiên trong mùa hè của mình nếu cuộc đời tôi diễn ra khác đi. Trại tennis. Tập thuyền buồm. Những cái giá bày hàng. Thế rồi, nhờ một nỗ lực ý chí khổng lồ, tôi buộc mình leo xuống.
Chiếc thang dẫn xuống một đường hầm. Đường hầm cụt ở một đầu, còn ở hướng đối diện chạy hun hút vào bóng tối. Không khí lạnh lẽo, ngột ngạt với một thứ mùi lạ lùng, giống như mùi quần áo bị bỏ mặc cho mục nát trong một tầng hầm ngập nước. Mặt đá thô ráp của bờ tường đọng những giọt hơi ẩm có nguồn gốc bí hiểm chảy dài xuống.
Trong lúc Emma và tôi đợi tất cả mọi người leo xuống, hơi lạnh dần dà len lỏi ngấm vào trong tôi. Những người khác cũng cảm thấy điều đó. Khi Bronwyn xuống tới nơi, cô mở cái rương của mình ra và phân phát những chiếc áo len làm từ lông những con cừu đặc biệt chúng tôi đã được tặng tại trại động vật. Tôi xỏ một chiếc qua đầu. Cái áo ôm trùm lấy tôi như một cái bao tải, hai ống tay áo dài quá các ngón tay tôi, còn gấu áo thì lơ lửng trùm xuống gần đầu gối, song ít nhất nó cũng ấm.
Giờ thì cái rương của Bronwyn đã rỗng không, và cô bỏ nó lại. Cô Peregrine tiếp tục hành trình bên trong áo khoác của cô gái, trên thực tế bà đã biến nó thành tổ của mình. Millard nhất quyết đòi mang quyển Những truyện kể trong tay, bất chấp sự nặng nề, cồng kềnh của nó, vì cậu ta có thể sẽ cần tham khảo tới cuốn sách vào bất cứ lúc nào, Millard nói vậy. Song tôi nghĩ cuốn sách đã trở thành tấm lá chắn an toàn cho cậu ta, và cậu ta nghĩ về nó như một cuốn sách kỳ bí mà chỉ mình cậu ta đọc được.
Chúng tôi là một nhóm thật lạ lùng.
Tôi bước lên trước để cảm nhận xem trong bóng tối có hồn rỗng hay không. Lần này, tôi có một cảm giác đau thắt trong bụng thật mới mẻ, dù rất nhẹ, như thể một con hồn rỗng đã có mặt ở đây rồi rời khỏi, và tôi đang cảm thấy dư vị của nó. Song tôi không đả động gì tới cảm giác này; chẳng có lý do gì để làm tất cả mọi người lo lắng không cần thiết.
Chúng tôi bước đi. Tiếng bước chân chúng tôi giẫm lên những viên gạch ướt vọng lại vô tận về hai đầu đường hầm. Chẳng có cách nào để lẩn trốn bất cứ thứ gì đang chờ đợi chúng tôi.
Thỉnh thoảng, từ phía trước, chúng tôi lại nghe thấy một tiếng đập cánh hay tiếng kêu của bồ câu, và chúng tôi rảo chân nhanh lên một chút. Tôi có cảm giác thật bất an là chúng tôi đang bị dẫn tới một bất ngờ khủng khiếp nào đó. Gắn trên các bức tường là những tấm bia đá như những tấm bia chúng tôi đã thấy trong hầm mộ, nhưng xa xưa hơn, chữ khắc bên trên hầu hết đã mờ hẳn. Rồi chúng tôi đi ngang qua một chiếc quan tài không huyệt mộ, được đặt trên sàn - rồi cả một đống những chiếc quan tài như thế được xếp chồng lên nhau tựa vào một bức tường như những chiếc thùng đựng đồ chuyển nhà bị bỏ đi.
“Chỗ này là thế nào vậy?” Hugh thì thào.
“Quá tải nghĩa địa”, Enoch nói. “Khi người ta cần chỗ cho các khách hàng mới, họ đào các vị khách hàng cũ lên rồi nhét bọn họ xuống dưới này”.
“Một lối vào Vòng Thời Gian mới kinh khủng làm sao”, tôi nói. “Thử hình dung đến việc phải đi qua chỗ này mỗi khi cậu muốn vào hay ra mà xem!”.
“Cũng chẳng khác mấy so với đường hầm trong mộ đá của chúng ta”, Millard nói.
“Những lối vào Vòng đáng sợ có một mục đích - những người bình thường có xu hướng tránh xa chúng, vậy là những người đặc biệt chúng ta có được chúng cho riêng mình”.
Thật hợp lý. Thật khôn ngoan. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là: Có những người chết ở khắp nơi và tất cả họ đã mục nát, xương xẩu và đã chết, và ôi Chúa ơi...
“Ái chà”, Emma thốt lên, và cô đột ngột dừng lại, khiến tôi đâm sầm vào cô và những người khác dồn đống lại sau lưng tôi.
Cô giơ ngọn lửa của mình chiếu sang một bên, để lộ ra một khung cửa vòm trên tường. Cánh cửa hơi hé mở, nhưng qua kẽ hở chỉ có thể thấy toàn bóng tối.
Chúng tôi lắng nghe. Suốt một hồi lâu không có âm thanh nào ngoài hơi thở của chúng tôi và tiếng nước nhỏ giọt ngoài xa. Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng động, nhưng không phải loại chúng tôi trông đợi – không phải tiếng đập cánh hay tiếng cào cào bàn chân của một con chim – mà là một âm thanh của con người.
Ai đó đang khóc, rất khẽ.
“Xin chào?” Emma gọi. “Ai ở đó vậy?”.
“Làm ơn đừng làm đau tôi”, một giọng nói vọng ra.
Hay đó là hai giọng nói nhỉ?
Emma làm ngọn lửa cháy sáng hơn. Bronwyn dò dẫm bước tới trước lấy bàn chân đạp vào cửa. Cánh cửa mở vào một căn phòng nhỏ toàn xương là xương. Xương đùi, xương cẳng chân, xương sọ - những phần cơ thể bị đào từ dưới mộ lên của hàng trăm người, lổn nhổn chồng chất.
Tôi loạng choạng lùi lại, xây xẩm mặt mày vì sốc.
“Xin chào?” Emma nói. “Ai nói đấy? Ra mặt đi nào!”.
Thoạt đầu, tôi không thể nhìn thấy gì trong đó ngoài những đống hài cốt, nhưng rồi tôi nghe thấy một tiếng sụt sịt và đưa mắt nhìn theo hướng âm thanh lên đỉnh đống xương, có hai cặp mắt đang chớp chớp nhìn vào chúng tôi từ trong bóng tối âm u ở phía trong gian phòng.
“Không có ai ở đây cả”, một giọng nói khẽ cất lên.
“Đi đi”, giọng nói thứ hai vang lên. “Chúng tôi chết rồi”.
“Không, các cậu chưa chết”, Enoch nói, “và tôi phải biết chứ!”.
“Ra khỏi đó đi”, Emma dịu dàng nói. “Chúng tôi sẽ không làm hại các bạn đâu”.
Cả hai giọng nói đồng thời lên tiếng. “Hứa nhé?”.
“Chúng tôi hứa”, Emma nói.
Những cái xương bắt đầu chuyển động. Một cái xương sọ tách rời ra khỏi đống hài cốt và rơi cạch xuống sàn, lăn đi dừng lại dưới chân tôi, hai hốc mắt ngước lên nhìn tôi chằm chằm.
Xin chào, tương lai, tôi thầm nghĩ.
Thế rồi hai cậu bé loay hoay lổm ngổm bò trên đống xương ra vùng ánh sáng. Làn da họ tái nhợt như người chết, và họ nhìn chúng tôi với đôi mắt quầng đen đảo qua đảo lại đến chóng mặt trong hốc mắt.
“Tôi là Emma, đây là Jacob, và đây là các bạn của chúng tôi”, Emma nói. “Chúng tôi là những người đặc biệt và sẽ không làm hại các cậu”.
Hai cậu bé bò rạp xuống như những con vật hoảng loạn, không nói gì, mắt đảo liên hồi, dường như nhìn khắp nơi nhưng lại chẳng nhìn đâu cả.
“Có gì không ổn với họ vậy?” Olive thì thào.
Bronwyn suỵt cô bé. “Đừng thô lỗ”.
“Các cậu có thể cho chúng tôi biết tên được không?” Emma hỏi, giọng cô thật dịu dàng ngọt ngào.
“Tớ là Joel và Peter”, cậu bé lớn hơn nói.
“Cậu là ai?” Emma hỏi lại. “Joel hay Peter?”.
“Tớ là Peter và Joel”, cậu bé nhỏ hơn nói.
“Bọn này không có thời gian đùa đâu”, Enoch nói. “Có con chim nào ở đây với các cậu không? Các cậu có thấy con chim nào bay qua không?”.
“Lũ bồ câu thích ẩn nấp”, cậu bé lớn hơn nói.
“Trên tầng áp mái”, cậu bé nhỏ hơn thêm vào.
“Tầng áp mái nào?” Emma hỏi. “Ở đâu?”.
“Trong nhà chúng tôi”, cả hai cậu bé đồng thanh nói, và cùng đưa cánh tay lên chỉ xuống lối đi tối om. Họ có vẻ luôn phối hợp với nhau khi nói, và nếu một câu dài hơn vài ba từ, một người sẽ bắt đầu còn người kia kết thúc, và giữa hai người không hề có khoảng gián đoạn nào có thể phát hiện được. Tôi cũng nhận thấy bất cứ khi nào một người nói còn người kia không nói, người không nói sẽ cử động miệng đúng theo những từ người kia nói với sự đồng bộ hoàn hảo – như thể họ cùng chia sẻ một bộ óc.
“Các cậu có thể làm ơn chỉ đường cho chúng tôi tới nhà các cậu được không?” Emma hỏi. “Dẫn chúng tôi đến chỗ tầng áp mái của các cậu ấy?”.
Joel-và-Peter lắc đầu và lại rút lui vào bóng tối.
“Có chuyện gì vậy?” Bronwyn hỏi. “Sao các cậu lại không muốn đi?”.
“Chết chóc và máu!” một cậu bé kêu lên.
“Máu và gào thét!” cậu kia kêu lên.
“Gào thét và máu và những cái bóng biết cắn!” cả hai cùng kêu lên.
“Hoan hô!” Horace thốt lên rồi quay ngoắt lại. “Tớ sẽ gặp lại tất cả mọi người trên hầm mộ. Hy vọng là tớ không bị dẹp lép vì một quả bom!”.
Emma chộp lấy tay áo Horace. “Ồ không, cậu không đi đâu hết! Cậu là người duy nhất trong chúng ta đã bắt được một trong những con bồ câu đáng nguyền rủa đó”.
“Cậu không nghe họ nói à?” Horace nói. “Cái Vòng đó đầy ắp những cái bóng biết cắn - chỉ có thể là một thứ. Hồn rỗng!”.
“Nó đã từng đầy ắp chúng”, tôi nói. “Nhưng có thể là từ nhiều ngày trước rồi”.
“Lần cuối cùng các cậu ở trong nhà của mình là từ khi nào?” Emma hỏi hai cậu bé.
Vòng Thời Gian của họ đã bị tấn công, họ giải thích theo cách lạ lùng và ngắt quãng của mình, nhưng hai người họ đã chạy thoát được vào các hầm mộ và ẩn náu giữa những đống hài cốt. Họ không thể nói được đã bao lâu rồi. Hai ngày chăng? Hay ba ngày? Họ đã mất hết khái niệm về thời gian trong bóng tối dưới này.
“Ôi, hai cậu bé khốn khổ!” Bronwyn nói. “Các cậu đã phải chịu đựng những nỗi kinh hoàng khủng khiếp biết chừng nào!”.
“Các cậu không thể ở đây mãi được”, Emma nói. “Các cậu sẽ già đi nếu không sớm tìm tới được một Vòng Thời Gian khác. Chúng tớ có thể giúp các cậu – nhưng trước hết chúng ta phải bắt được một con bồ câu đã”.
Hai cậu bé nhìn vào đôi mắt đảo loạn của nhau và có vẻ đang trao đổi mà không nói ra lấy một lời. Họ đồng thanh nói, “Theo chúng tớ”.
Họ trượt từ trên đống xương xuống và bắt đầu đi xuống đường hầm.
Chúng tôi theo sau. Tôi không thể rời mắt khỏi họ: họ lạ lùng một cách đáng kinh ngạc. Hai cậu bé luôn nắm lấy tay nhau, và cứ đi vài bước, họ lại phát ra những âm thanh lọc tọc thật lớn bằng lưỡi của mình,
“Họ làm gì vậy?” tôi thì thầm.
“Tớ nghĩ đó là cách họ nhìn”, Millard nói. “Cũng giống như cách những con dơi nhìn trong bóng tối. Âm thanh họ phát ra sẽ phản xạ lên các vật thể rồi trở lại chỗ họ, tạo ra một bức tranh trong đầu họ”.
“Chúng tôi là những người định vị bằng tiếng vang”, Joel-và-Peter nói.
Có vẻ như họ cũng rất thính tai.
Lối đi rẽ nhánh, rồi lại rẽ nhánh lần nữa. Đến một chỗ tôi đột nhiên cảm thấy áp lực trong tai mình và phải nuốt nước bọt để giải tỏa nó. Đó là lúc tôi biết chúng tôi đã rời khỏi năm 1940 và bước vào một Vòng Thời Gian. Cuối cùng chúng tôi đến đầu tận cùng, một bức tường chắn ngang với những bậc đặt chân theo phương thẳng đứng đục vào trong tường. Joel-và-Peter đứng dưới chân tường và chỉ lên một chấm ánh sáng ban ngày nhỏ xíu phía trên đầu.
“Nhà của chúng tôi...” cậu bé lớn hơn nói.
“Ở trên kia”, cậu bé nhỏ hơn nói.
Và khi họ nói xong, họ lại rút lui vào trong bóng tối.
***
Các bậc đặt chân đều bám đầy rêu trơn tuột rất khó leo, và tôi buộc phải leo thật chậm nếu không sẽ có nguy cơ bị ngã. Chúng tôi leo lên bức tường để tới một khung cửa tròn vừa người chui lọt trên trần, ở đó chỉ có một tia sáng chiếu xuống. Tôi luồn tay vào khe trống và đẩy qua bên, cánh cửa trượt mở ra như một cửa sập máy ảnh, để lộ một đường ống tròn xây bằng gạch vươn cao lên khoảng sáu đến chín mét tới một mảng trời hình tròn. Tôi đang ở dưới đáy giả của một cái giếng giả.
Tôi nâng mình chui vào lòng giếng rồi leo lên. Đến nửa chừng tôi phải dừng lai nghỉ ngơi, tựa lưng vào phía đối diện của lòng giếng. Khi cảm giác bỏng rát trong các bó cơ đã dịu xuống, tôi leo nốt phần còn lại của quãng đường, trèo lên khỏi miệng giếng và đáp xuống một đám cỏ.
Tôi đang ở trong sân một ngôi nhà trông có vẻ xập xệ. Bầu trời tuyền một sắc vàng bệnh tật, nhưng không hề có khói bốc lên, cũng chẳng có tiếng động cơ nào. Chúng tôi đang ở vào một thời kì xa xưa hơn, trước chiến tranh - thậm chí là trước khi xuất hiện xe hơi. Không khí lạnh buốt, và những bông tuyết la đà rơi xuống rồi tan ra dưới đất.
Emma là người tiếp theo leo lên khỏi giếng, rồi đến Horace. Emma đã quyết định chỉ ba chúng tôi đi thám hiểm ngôi nhà. Chúng tôi không biết sẽ tìm thấy điều gì trên này, và nếu cần khẩn trương rời đi, tốt nhất nên là một nhóm nhỏ có thể di chuyển nhanh. Không ai bên dưới tranh cãi; những lời Joel-và-Peter cảnh báo về máu và những bóng ma đã làm họ sợ chết khiếp. Chỉ có Horace cảm thấy không vui, cứ lẩm bẩm một mình mãi là cậu ta ước gì chưa bao giờ vồ được con bồ câu đó ngoài quảng trường.
Bronwyn từ bên dưới vẫy tay với chúng tôi rồi đóng cái nắp tròn dưới đáy giếng lại. Mặt trên cái nắp được sơn để trông giống như mặt nước - thứ nước đen sậm, bẩn thỉu bạn sẽ không bao giờ muốn thả xô múc nước ăn xuống. Thật thông minh.
Ba chúng tôi xúm lại sát nhau và nhìn quanh. Khoảng sân và ngôi nhà đã tàn tạ thê thảm vì bị bỏ bẵng lâu ngày. Cỏ mọc quanh giếng đã bị giẫm rạp xuống, nhưng ở những chỗ khác cỏ đã mọc thành từng khóm còn cao hơn cả một số khung cửa sổ dưới tầng trệt. Một cái chuồng chó mục nát đã đổ sụp một phần nằm ở một góc, còn gần đó là một giàn dây phơi đổ sập xuống đang dần bị các bụi cây dại nuốt chửng.
Chúng tôi đứng đó chờ đợi, nghe ngóng động tĩnh của những con bồ câu. Từ phía bên kia các bức tường của ngôi nhà, tôi có thể nghe thấy tiếng móng ngựa gõ xuống mặt đường. Không, chắc chắn đây không thể là London khoảng năm 1940.
Thế rồi ở một ô cửa sổ trên lầu, tôi thấy một tấm rèm nhúc nhích.
“Ở trên kia!” tôi khẽ thì thầm, chỉ tay về phía đó.
Tôi không biết liệu một con chim hay một người đã làm điều đó, nhưng cũng đáng để kiểm tra. Tôi bắt đầu hướng tới một cánh cửa ra vào dẫn vào trong nhà, đang ra hiệu bảo những người còn lại đi theo thì vấp phải thứ gì đó. Một thân hình nằm dưới đất, có một tấm vải đen che kín từ đầu tới tận mắt cá chân. Một đôi giày sờn rách thò ra ở cuối tấm vải, mũi giày chĩa lên trời. Có một tấm thẻ màu trắng gài vào một nết nứt trên đế giày, trên đó có những dòng chữ viết bằng nét nắn nót:
Ông A. F. Crumbley
Vốn người Tỉnh Ngoài
Thà già trước tuổi còn hơn bị bắt sống
Xin đề nghị để thi thể của mình được thả xuống sông Thames.
“Gã khốn khổ đen đủi”, Horace thì thầm. “Ông ta từ nông thôn tới đây, có lẽ sau khi Vòng Thời Gian của chính ông ta bị tấn công - chỉ để rồi bắt gặp cảnh Vòng Thời Gian ông ta chạy trốn tới cũng bị tấn công luôn”.
“Nhưng tại sao họ lại để ông Crumbley khốn khổ nằm phơi ra thế này?” Emma thì thào.
“Vì họ đã phải vội vã rời đi”, tôi nói.
Emma cúi xuống, đưa tay tới mép tấm vải phủ lên ông Crumbley. Tôi không muốn nhìn nhưng không thể đừng được, và tôi hơi quay mặt đi chỗ khác, song rồi lại ngó lại qua khe các ngón tay. Tôi những tưởng sẽ thấy một cái xác tàn tạ, nhưng ông Crumbley trông nguyên vẹn một cách hoàn hảo và trẻ trung đến mức đáng kinh ngạc, có lẽ chỉ khoảng bốn mươi hay năm mươi tuổi, mái tóc đen chỉ mới ngả xám quanh thái dương. Mắt ông ta nhắm nghiền, bình yên, như thể ông ta chỉ đang ngủ. Có thể nào ông ta đã thực sự già đi, giống như quả táo héo quắt tôi cầm theo từ Vòng Thời Gian của cô Peregrine.
“Này, ông chết rồi hay đang ngủ vậy?” Emma hỏi. Cô dùng ủng đá nhẹ vào tai người đàn ông, và cả bên đầu ông ta sụt xuống vụn ra thành bụi.
Emma thảng thốt há hốc miệng và buông tấm vải xuống. Crumbley đã trở thành một cái khối khô khốc mang hình dạng của ông ta, dễ nát vụn đến mức một cơn gió mạnh cũng có thể thổi ông ta tan biến.
Chúng tôi để ông Crumbley khốn khổ đang vỡ vụn lại đằng sau và đi tới chỗ cửa ra vào. Tôi cầm lấy tay nắm cửa rồi xoay. Cánh cửa mở ra, và chúng tôi bước vào một phòng giặt. Có những món đồ trông có vẻ vừa mới giặt để trong một cái hòm mây, một bảng giặt treo gọn gàng phía trên một cái chậu. Nơi này bị bỏ hoang chưa lâu lắm.
Cảm Giác ở đây vẫn còn mạnh, song chỉ là dư vị. Chúng tôi mở một cánh cửa khác và bước vào một phòng khách. Ngực tôi thắt lại. Ở đây có bằng chứng rõ ràng của một cuộc ẩu đả: đồ đạc bị lật nhào, vỡ nát, tranh ảnh bị hất rơi khỏi mặt lò sưởi, những mảng giấy dán tường bị xé bung ra thành từng dải.
Thế ròi Horace lẩm bẩm, “Ôi không”, và tôi nhìn theo ánh mắt cậu ta hướng lên phía trên, tới một vết sẫm làm đổi màu một mảng trần gần như hình tròn. Có điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra trên lầu.
Emma nhắm nghiền mắt lại. “Chỉ nghe thôi”, cô nói. “Lắng nghe mấy con chim và đừng nghĩ về điều gì khác cả”.
Chúng tôi nhắm mắt lại và lắng nghe. Một phút trôi qua. Rồi cuối cùng một tiếng cu cu mơ hồ của một con chim bồ câu. Tôi mở mắt ra để xem âm thanh đó từ đâu tới.
Cầu thang.
Chúng tôi nhẹ nhàng leo lên cầu thang, cố không làm vang lên những tiếng cọt kẹt dưới chân mình. Tôi có thể cảm thấy tiếng tim đập thình thịch trào lên cổ họng, ở thái dương. Tôi có thể chịu đựng được những cái xác cũ kỹ mục nát. Nhưng tôi không dám chắc liệu mình có chịu nổi một cảnh tàn sát hay không.
Lối đi trên lầu ngổn ngang những mảnh vỡ. Một cánh cửa, bị rứt ra khỏi bản lề, nằm gãy vụn. Phía trong khung cửa vỡ là một đống rương hòm và tủ bị đổ lổng chổng; một nỗ lực chặn cửa bất thành.
Trong căn phòng tiếp theo, tấm thảm trắng thấm đầy máu – máu đã thấm qua sàn ngấm xuống tận trần nhà bên dưới. Nhưng chủ nhân của chỗ máu đổ ra ở đó đã biến mất từ lâu.
Cánh cửa cuối cùng trên lối đi không có dấu vết bị vũ lực tác động. Tôi cảnh giác đẩy cửa ra. Đôi mắt tôi lướt qua quanh phòng: có một tủ quần áo, một tủ ngăn kéo với những bức tượng người nhỏ được bày cẩn thận trên nóc, rèm cửa viền đăng ten phất phơ ở một ô cửa sổ. Thảm trải sàn sạch sẽ. Mọi thứ đều không bị xáo trộn.
Thế rồi đôi mắt tôi nhìn về phía chiếc giường cùng những thứ nằm trên đó, và tôi loạng choạng lùi lại tựa người vào khung cửa. Nằm dưới những tấm chăn trắng là hai người đàn ông, có vẻ đang ngủ - và giữa họ là hai bộ xương người.
“Bị già đi”, Horace nói, hai bàn tay run rẩy đưa lên cổ. “Hai người trong số họ già đi nhanh hơn đáng kể so với những người khác”.
Những người đàn ông trông có vẻ đang ngủ cũng đã chết như ông Crumbley dưới sân, Horace nói, và nếu chúng tôi chạm vào họ, họ cũng sẽ vụn nát ra tương tự.
“Họ đã từ bỏ”, Emma thì thầm. “Họ đã phát chán với việc chạy trốn và họ bỏ cuộc”. Cô nhìn họ với thái độ thương hại pha lẫn ghê tởm.
Cô nghĩ họ yếu đuối và hèn nhát – nghĩ rằng họ đã chọn cách dễ dàng. Song tôi không đừng được thầm nghĩ liệu có phải những người đặc biệt này chỉ đơn giản là biết nhiều hơn chúng tôi về những gì đám xác sống đã làm với những người bị chúng bắt. Rất có thể nếu biết chúng tôi cũng đã lựa chọn cái chết.
Chúng tôi dạt ra ngoài lối đi. Tôi cảm thấy chóng mặt, buồn nôn, và tôi muốn ra khỏi ngôi nhà này – song chúng tôi chưa thể rời đi được. Vẫn còn một cầu thang cuối cùng cần leo lên.
Ở trên đầu cầu thang, chúng tôi tìm thấy một chiếu nghỉ bị hư hại ám khói. Tôi hình dung ra những người đặc biệt chống đỡ được đợt tấn công đầu tiên vào ngôi nhà này đã tập trung tại đây để làm nơi chống cự cuối cùng. Có thể họ đã tìm cách dùng lửa để chống lại những kẻ biến chất - hoặc có thể chính chúng đã tìm cách dùng khói hun họ. Dù là thế nào đi nữa, có vẻ như ngôi nhà thiếu chút nữa đã bị đốt trụi.
Chui qua một khung cửa thấp, chúng tôi bước vào tầng áp mái chật chội có tường dốc thoai thoải. Mọi thứ đều đã cháy đen. Lửa đã tạo ra những lỗ thủng toang hoác trên mái nhà.
Emma thúc Horace: “Chúng ở đâu đó quanh đây”, cô khẽ nói. “Hãy sử dụng phép mầu của cậu đi, chàng bắt chim”.
Horace nhón chân bước tới giữa phòng và réo rắt gọi, “Ở đđâââyyy, bồ câu, bồ câu, bồ câu...”.
Thế rồi, từ sau lưng mình, chúng tôi nghe thấy một tiếng đập cánh và một tiếng gù gù bị bóp nghẹt. Quay lại, chúng tôi thấy không phải một con bồ câu mà là một cô gái mặc váy đen, thấp thoáng chìm lẫn vào bóng tối.
“Đây là thứ các người tìm kiếm hả?” cô gái nói, giơ một cánh tay ra một luồng sáng mặt trời. Con bồ câu quằn quại trong bàn tay cô ta, vùng vẫy cố thoát ra.
“Phải!” Emma nói. “Ơn Chúa là cậu đã bắt được nó!”. Cô bước về phía cô gái kia, hai bàn tay chìa ra để đón lấy con bồ câu, song cô gái quát lớn, “Dừng lại đó!” rồi búng ngón tay. Một tấm thảm trải sàn cháy đen bay vụt lên từ dưới chân Emma, lôi theo hai bàn chân cô, làm cô ngã vật ra sàn.
Tôi lao vội tới chỗ Emma. “Cậu không sao chứ?”.
“Quỳ gối xuống!” cô gái gắt lên với tôi. “Đặt hai bàn tay mày lên đầu!”.
“Tớ không sao”, Emma nói. “Làm như cô ta nói đi. Cô ta có thể dịch chuyển đồ vật từ xa và rõ ràng thần kinh không được ổn định lắm”.
Tôi quỳ xuống cạnh Emma và đặt hai bàn tay ra sau gáy.
Emma cũng làm tương tự. Horace, run lẩy bẩy và lặng thinh, nặng nề ngồi xuống và chống hai lòng bàn tay xuống sàn.
“Chúng tôi không định làm hại gì cậu cả”, Emma nói. “Chúng tôi chỉ đuổi theo con bồ câu thôi”.
“À, tao biết chính xác chúng mày đang đuổi theo cái gì”, cô gái đáp kèm theo tiếng cười khinh bỉ. “Loại chúng mày không bao giờ chịu bỏ cuộc, phải không nào?”.
“Loại chúng tôi ư?” tôi nói.
“Bỏ vũ khí xuống và hất chúng tới đây!” cô gái gắt gỏng.
“Chúng tôi chẳng có vũ khí nào cả”, Emma bình thản nói, cố hết sức để không làm cô gái nổi nóng hơn nữa.
“Chuyện này sẽ dễ dàng hơn cho chúng mày nếu chúng mày không coi tao là đồ ngốc!” cô gái la lên. “Chúng mày yếu ớt và chẳng có sức mạnh nào của chính mình, vì thế chúng mày trông cậy vào súng và những thứ vũ khí khác. Giờ hãy để chúng xuống sàn!”.
Emma quay đầu lại và thì thầm, “Cô ấy nghĩ bọn mình là xác sống!”.
Tôi gần như bật cười thành tiếng. “Chúng tôi không phải là xác sống. Chúng tôi là người đặc biệt!”.
“Chúng mày không phải là những kẻ mắt trắng đục đầu tiên tới đây săn bồ câu”, cô gái nói, “cũng không phải là những kẻ đầu tiên tìm cách đóng giả những đứa trẻ đặc biệt. Và cũng không phải là những kẻ đầu tiên tao giết! Giờ hãy bỏ vũ khí của chúng mày xuống sàn trước khi tao vặn cổ con bồ câu này - rồi sau đó vặn cổ chúng mày!”.
“Nhưng chúng tôi không phải là xác sống!” tôi khăng khăng. “Hãy nhìn đồng tử trên mắt chúng tôi nếu cậu không tin chúng tôi!”.
“Mắt chúng mày chẳng có ý nghĩa gì cả!” cô gái nói. “Kính giả áp tròng là trò lừa bịp xưa nhất trong sách – và tin tao đi, tao biết tất cả những trò đó!”.
Cô gái bước một bước về phía chúng tôi, và đi vào vùng ánh sáng. Căm thù hiện rõ trên mắt cô. Cô gái trông chẳng khác gì một cậu con trai, ngoại trừ chiếc váy, với mái tóc ngắn và bộ hàm khỏe mạnh. Ánh mắt cô đờ đẫn vô hồn như một người đã nhiều ngày không ngủ; một người lúc này đang làm mọi việc dựa vào bản năng và sự kích động. Một người ở tình trạng đó sẽ không thể tử tế với chúng tôi, và cũng không kiên nhẫn.
“Chúng tôi là những người đặc biệt, tôi xin thề!” Emma nói. “Đợi đã... tôi sẽ cho cậu thấy!”. Cô đưa một bàn tay ra khỏi đầu và chuẩn bị phát lửa thì một trực cảm đột ngột làm tôi chộp lấy cổ tay cô.
“Nếu có hồn rỗng gần đây, chúng sẽ cảm thấy ngọn lửa đó”, tôi nói. “Tớ nghĩ chúng có thể cảm nhận được chúng ta giống như cách tớ cảm thấy chúng, nhưng sẽ dễ dàng hơn nhiều cho chúng khi chúng ta dùng đến năng lực của mình. Điều đó cũng giống như kích hoạt chuông báo động vậy”.
“Nhưng cậu đang sử dụng năng lực của cậu”, cô bực bội nói. “Và cô ta cũng đang dùng năng lực của mình!”.
“Năng lực của tớ thụ động”, tôi nói. “Tớ không thể tắt nó đi được, vì thế nó không để lại nhiều dấu vết. Còn về cô ta, có thể chúng đã biết cô ta ở đây rồi. Có thể cô ta không phải là thứ chúng muốn”.
“Thật tiện lợi làm sao!” cô gái nói với tôi. “Và mày định nói đó là năng lực của mày sao? Cảm nhận thấy các sinh vật của bóng tối?”.
“Cậu ấy có thể nhìn thấy chúng nữa”, Emma nói. “Và giết chúng”.
“Các người cần bịa ra những lời dối trá khá hơn”, cô gái nói. “Không ai dù chỉ có nửa bộ não lại mắc lừa mấy lời vừa rồi”.
Đúng lúc chúng tôi đang nói về năng lực của tôi, một Cảm Giác mới lại bùng lên thật đau đớn bên trong tôi. Tôi không còn chỉ cảm nhận thấy dư vị còn lại của một con hồn rỗng, mà sự hiện diện thực sự của một trong số chúng.
“Có một gã gần đây”, tôi nói với Emma. “Chúng ta cần rời khỏi đây”.
“Không đâu, nếu không có con chim”.
Cô gái bắt đầu băng qua phòng về phía chúng tôi. “Đã đến lúc bắt đầu”, cô gái nói. “Tao đã cho chúng mày quá đủ cơ hội để chứng minh bản thân. Dù sao đi nữa, tao bắt đầu thấy thích giết chúng mày. Sau những gì chúng mày đã làm với các bạn tao, có vẻ như tao thấy điều đó bao nhiêu cũng không đủ!”.
Cô gái dừng lại cách chúng tôi vài bước chân và giơ bàn tay còn tự do của mình lên, có lẽ để chuẩn bị kéo phần còn lại của mái nhà đổ ụp xuống đầu chúng tôi. Nếu như chúng tôi cần có hành động nào đó, thì nó phải được thực hiện ngay lúc này.
Đang quỳ phục, tôi bật dậy, lao hai cánh tay ra trước và đâm sầm vào cô gái, hất cô ta ngã lăn ra sàn. Cô gái hét lên trong cơn ngạc nhiên đầy tức giận. Tôi ấn nắm tay mình vào lòng bàn tay còn tự do của cô gái, để cô ta không thể khép các ngón tay lại được. Cô gái buông rời con chim ra, và Emma chộp lấy nó.
Rồi Emma và tôi đứng dậy, hối hả lao về phía cánh cửa đang mở. Horace vẫn còn choáng váng ngồi đờ ra dưới sàn. “Đứng dậy chạy mau!” Emma quát cậu ta.
Tôi đang cầm lấy cánh tay Horace kéo cậu ta dậy thì cánh cửa đóng sầm lại trước mặt tôi và một chiếc tủ cháy sém bay bổng lên khỏi góc phòng và lao vút qua phòng. Cạnh tủ nện vào đầu tôi, làm tôi ngã vật ra, kéo theo Emma cùng ngã xuống.
Cô gái nọ đang nổi điên, la lối ầm ĩ. Tôi tin chắc chúng tôi chỉ còn vài giây để sống. Thế rồi Horace đứng dậy và lấy hết sức hét to:
“Melina Manon!”.
Cô gái cứng người lại. “Mày vừa nói gì?”.
“Tên cô là Melina Manon”, cậu ta nói. “Cô sinh ra tại Luxembourg năm 1899. Cô tới sống với cô Thrush (*) năm mười sáu tuổi, và đã ở đây suốt từ hồi đó”.
(*) Chim hét.
Horace đã làm cô gái bất ngờ. Cô ta cau mày, sau đó vung bàn tay thành một đường vòng cung. Cái tủ vừa thiếu chút nữa đập tôi ngất xỉu bay đi trong không trung rồi dừng lại, lơ lửng ngay trên đầu Horace. Nếu cô gái để nó rơi xuống, cái tủ sẽ đè nát cậu ta. “Mày chuẩn bị kỹ lắm”, cô gái nói, “nhưng bất cứ gã xác sống nào cũng có thể biết tên và nơi sinh của tao. Thật không may cho mày, tao không còn thấy những trò lừa gạt của chúng mày thú vị nữa”.
Dẫu vậy, trông cô gái có vẻ chưa sẵn sàng giết cậu ta.
“Bố cô là một nhân viên ngân hàng”, Horace hối hả nói thật nhanh. “Mẹ cô rất đẹp nhưng sặc mùi hành, một tình trạng suốt đời bà ấy không thể làm gì để trị cho hết được”.
Cái tủ lắc lư trên đầu Horace. Cô gái nhìn cậu ta chằm chằm, đôi lông mày nhíu lại, bàn tay giơ lên trên không.
“Năm lên bảy, cô thích mê một con ngựa Ả Rập”, Horace nói tiếp. “Bố mẹ cô không có điều kiện mua một con vật xa xỉ như vậy, thay vì thế họ mua cho cô một con lừa. Cô đặt tên cho nó là Habib, có nghĩa là yêu quý. Và cô thực sự yêu quý nó”.
Miệng cô gái há hốc ra.
Horace nói tiếp.
“Mười ba tuổi cô nhận ra mình có thể điều khiển các đồ vật chỉ bằng cách sử dụng ý nghĩ. Cô bắt đầu với những món đồ nhỏ, kẹp giấy hay tiền xu, rồi sau đó là những thứ ngày càng lớn hơn. Nhưng cô không bao giờ dùng ý nghĩ nhấc Habib lên được, vì năng lực của cô không có tác dụng trên sinh vật. Khi gia đình cô chuyển nhà, cô nghĩ năng lực đó đã hoàn toàn biến mất, vì cô không còn có thể di chuyển được bất cứ cái gì nữa. Nhưng đó chỉ là vì cô chưa biết rõ ngôi nhà mới. Một khi đã quen thuộc với nó, ghi nhớ nó trong đầu, cô có thể di chuyển các đồ vật trong nhà”.
“Làm thế nào cậu biết được tất cả những chuyện đó?” Melina hỏi, thảng thốt nhìn cậu ta.
“Vì tôi nằm mơ về cô”, Horace nói. “Đó là điều tôi có thể làm”.
“Chúa ơi”, cô gái thốt lên, “cậu là người đặc biệt”.
Rồi cái tủ nhẹ nhàng hạ xuống sàn.
***
Tôi loạng choạng đứng dậy, chỗ đầu bị cái tủ đập trúng đau rần rật.
“Cậu chảy máu kìa!” Emma kêu lên, bật dậy để xem xét vết thương của tôi.
“Tớ không sao, tớ không sao”, tôi nói, né tránh khỏi cô. Cảm Giác đang biến chuyển trong người tôi, và bị chạm vào trong lúc đó khiến cho việc giải đoán nó trở nên khó hơn do tiến trình bị gián đoạn.
“Xin lỗi về cái đầu của cậu”, Melina Manon nói. “Tớ nghĩ mình là người đặc biệt duy nhất còn sót lại!”.
“Có cả một nhóm chúng tớ dưới cái giếng của cậu, trong đường hầm của hầm mộ”, Emma nói.
“Thật sao?” mặt Melina sáng lên. “Thế thì vẫn còn hy vọng!”.
“Từng có đấy”, Horace nói. “Nhưng nó vừa bay qua cái lỗ trên mái nhà của cậu rồi”.
“Ý cậu là...Winnifred sao?” Melina đưa hai ngón tay vào miệng và thổi sáo. Một khoảnh khắc sau, con bồ câu xuất hiện, bay xuống qua lỗ thủng và đậu lên vai cô gái.
“Kỳ diệu!” Horace thốt lên và vỗ tay. “Sao cậu làm vậy được?”.
“Winnie là bạn thân của tớ”, Melina nói. “Ngoan ngoãn như một con mèo nhà vậy”.
Tôi lấy mu bàn tay chùi bớt máu trên trán, rồi chọn cách mặc kệ cảm giác đau. Giờ không phải lúc để đau. Tôi nói với cô gái, “Cậu có nói là bọn xác sống từng tới đây săn lùng những con bồ câu”.
Melina gật đầu. “Chúng và đám quái vật của chúng tới đây ba đêm trước. Bao vây nơi này, bắt cô Thrush cùng một nửa học viên tại đây, sau đó đốt nhà. Tớ nấp trên mái. Kể từ lúc đó, ngày nào bọn xác sống cũng quay lại từng nhóm nhỏ săn lùng Winnifred và bạn bè của nó”.
“Và cậu đã giết chúng?” Emma hỏi.
Melina nhìn xuống sàn. “Tớ đã nói vậy, đúng không nào?”.
Cô quá kiêu hãnh để thừa nhận mình đã nói dối. Cũng chẳng quan trọng.
“Vậy thì không phải chỉ có chúng ta tìm kiếm cô Wren”, Emma nói.
“Nghĩa là bà ấy vẫn còn tự do”, tôi nói.
“Có thể”, Emma nói. “Có thể”.
“Chúng tớ nghĩ con bồ câu có thể giúp được chúng ta”, tôi nói. “Chúng ta cần tìm cô Wren, và bọn tớ nghĩ con chim biết cách”.
“Tớ chưa bao giờ nghe nói tới cô Wren nào cả”, Melina nói. “Tớ chỉ cho Winnie ăn khi nó tới sân nhà chúng tớ. Tớ và nó là bạn. Phải không nào, Winnie?”.
Con chim gù gù đầy hạnh phúc trên vai cô gái.
Emma tới gần Melina và nói với con bồ câu. “Bạn biết cô Wren chứ?” cô nói to thành tiếng. “Bạn có thể giúp chúng tôi tìm bà ấy không? Cô Wren ấy?”.
Con chim bay lên khỏi vai Melina, rồi vỗ cánh vút qua phòng về phía cửa. Nó kêu cu cu và vỗ cánh, rồi bay trở lại.
Đường này, con bồ câu dường như nói vậy.
Chừng đó là đủ bằng chứng với tôi. “Chúng ta cần mang con chim theo”, tôi nói.
“Không đâu, nếu không có tớ”, Melina nói. “Nếu Winnie biết cách tìm ra bà Chủ Vòng này thì tớ cũng sẽ đi cùng”.
“Không phải là ý tưởng hay đâu”, Horace nói. “Chúng tớ đang thực hiện một sứ mệnh nguy hiểm, cậu thấy đấy...”.
Emma cắt ngang cậu ta. “Giao con chim cho chúng tớ. Chúng tớ sẽ quay lại tìm cậu, tớ hứa đấy”.
Một cơn đau đột ngột dội lên làm tôi thở dốc và cúi gập người lại.
Emma vội lao tới bên tôi. “Jacob! Cậu không sao chứ?”.
Tôi không thể nói. Thay vì thế, tôi loạng choạng tới bên cửa sổ, gồng mình đứng thẳng người lên, hướng Cảm Giác của tôi ra ngoài, về phía mái vòm Nhà thờ Lớn nhô lên trên các mái nhà chỉ cách đó có vài khối nhà, rồi xuống dưới đường, nơi những cỗ xe ngựa lọc cọc chạy qua.
Phải, ở đó. Tôi có thể cảm thấy chúng đang tới gần từ một phố nhánh cách nơi này không xa.
Chúng. Không phải một con hồn rỗng, mà là hai.
“Chúng ta phải đi thôi”, tôi nói. “Ngay bây giờ”.
“Làm ơn nào”, Horace nài nỉ cô gái. “Bọn tớ nhất định phải có con bồ câu!”.
Melina bật ngón tay, và cái tủ thiếu chút nữa đã giết tôi lại bay lên khỏi sàn. “Tớ không cho phép điều đó”, cô gái nói, nheo mắt lại và hướng về phía cái tủ chỉ để đảm bảo chúng tôi hiểu nhau. “Nhưng nếu cho tớ đi cùng, các cậu sẽ có luôn cả Winnie. Nếu không...”.
Cái tủ xoay tròn trên một cái chân bằng gỗ, rồi nghiêng đi và rơi rầm xuống một bên.
“Được rồi”, Emma nói qua hai hàm răng nghiến chặt. “Nhưng nếu cậu làm bọn tớ chậm lại, chúng tớ sẽ lấy con chim và bỏ cậu lại sau”.
Melina cười gằn, rồi với một cái vẫy tay của cô, cánh cửa bật mở.
“Muốn sao cũng được”.
***
Chúng tôi lao xuống cầu thang nhanh đến mức dường như bàn chân chúng tôi không chạm vào các bậc thang. Trong hai mươi giây, chúng tôi đã quay trở lại dưới sân, bước qua ông Crumbley quá cố, rồi chui xuống giếng. Tôi dẫn đầu, đạp xuống cái nắp giả đáy giếng thay vì mất thời gian kéo nó trượt mở ra. Cái nắp vỡ tan, rời ra khỏi các bản lề và rơi xuống tung ra từng mảnh. “Mọi người ở dưới cẩn thận!” tôi gọi, rồi tuột mất chỗ bám trên những chỗ đặt chân bằng đá ướt và loạng choạng ngã nhào vào bóng tối.
Hai cánh tay mạnh mẽ bắt lấy tôi – chính là Bronwyn - rồi đặt chân tôi xuống sàn. Tôi cảm ơn cô, tim đập thình thình.
“Có chuyện gì trên đó vậy?” Bronwyn hỏi. “Các cậu có bắt được con bồ câu không?".
“Chúng tớ có nó rồi”, tôi nói trong khi Emma và Horace xuống tới nơi, và một tiếng hoan hô vang lên từ những người bạn của chúng tôi. “Đó là Melina”, tôi nói, chỉ vào cô gái, và đó là tất cả thời gian dành cho việc giới thiệu. Melina vẫn ở trên đỉnh dãy bậc thang, bận rộn với thứ gì đó. “Xuống đi nào!” tôi gọi lớn. “Cậu đang làm gì thế?”.
“Câu giờ cho chúng ta!” cô gái lớn tiếng trả lời, rồi kéo một cái nắp gỗ đậy trên miệng giếng cho nó kín lại, rồi khóa, che kín nốt nhưng tia sáng cuối cùng. Trong lúc cô gái leo xuống trong bóng tối, tôi giir thích về mấy con hồn rỗng đang săn lùng chúng tôi. Trong cơn hốt hoảng của tôi, lời giải thích biến thành, “ĐI NGAY CHẠY HỒN RỖNG NGAY”, một thông điệp rất hiệu quả dù không được rõ ràng cho lắm, và khiến mọi người hoảng loạn cả lên.
“Làm sao chúng ta chạy được nếu không nhìn thấy gì cả!” Enoch la lên. “Thắp lửa lên, Emma!”.
Cô đã không thắp lửa vì những gì tôi cảnh báo trên tầng áp mái.
Lúc này có vẻ là thời điểm phù hợp để củng cố lại lời nhắc nhở đó, tôi liền nắm lấy cánh tay cô và nói, “Đừng! Chúng có thể dễ dàng phát hiện chính xác chỗ chúng ta!”. Tôi nghĩ hy vọng lớn nhất của chúng tôi là làm chúng lạc đường trong mê cung đường hầm như mạng nhện này.
“Nhưng chúng ta không thể cứ chạy bừa trong bóng tối được!” Emma nói.
“Tất nhiên”, cậu bé có khả năng định vị bằng tiếng vọng bé hơn nói.
“Chúng tớ có thể”, cậu lớn hơn nói.
Melina quờ quạng đi tới chỗ giọng nói của họ vang lên. “Các chàng trai! Các cậu còn sống! Là tớ đây, Melina đây!”.
Joel-và-Peter nói:
“Bọn tớ cứ nghĩ các cậu đã...?”.
“Chết hết...”.
“Đến người cuối cùng rồi”.
“Tất cả mọi người nắm lấy tay nhau nào!” Melina nói. “Để hai cậu ấy dẫn đường!”.
Vậy là tôi nắm lấy tay Melina trong bóng tối, còn Emma nắm lấy tay tôi, rồi cô tìm tay Bronwyn, và cứ như thế cho tới khi chúng tôi tạo thành một chuỗi người, hai anh em trai mù dẫn đầu. Rồi Emma phát lệnh, hai cậu bé bắt đầu chạy từ tốn, kéo chúng tôi lao sâu vào bóng tối.
Chúng tôi rẽ trái. Giẫm bì bõm qua những vũng nước đọng. Rồi từ đường hầm phía sau lưng chúng tôi vọng tới tiếng đổ vỡ, ám chỉ một điều duy nhất: mấy con hồn rỗng đã đập vỡ nắp giếng.
“Chúng chui vào rồi!” tôi kêu lên.
Tôi gần như có thể cảm thấy chúng đang thu người lại, loay hoay chui xuống lòng giếng. Một khi đã xuống được tới dưới đường hầm bằng phẳng và chạy được, chúng sẽ nhanh chóng đuổi kịp chúng tôi. Chúng tôi mới chỉ qua một nhánh rẽ trong hệ thống đường hầm – chưa đủ để đánh lạc hướng chúng. Còn xa mới gần đủ.
Và cũng chính vì thế những lời Millard nói ngay sau đó với tôi nghe đúng là mất trí, “Dừng lại! Mọi người dừng lại!”.
Hai cậu bé mù nghe theo cậu ta. Chúng tôi dồn đống lại sau lưng họ, vấp chân và vội vã dừng lại.
“Có chuyện quái quỷ gì với cậu thế?” tôi la lên. “Chạy mau!”.
“Rất xin lỗi”, Millard nói, “nhưng tớ vừa chợt nghĩ ra - một trong số chúng ta sẽ phải đi qua lối ra khỏi Vòng trước khi hai anh bạn định vị bằng tiếng vọng đây hay cô bạn kia đi qua, nếu không họ sẽ quay trở ra hiện tại còn chúng ta thì tới năm 1940, và chúng ta sẽ bị tách rời khỏi nhau. Để họ đi cùng chúng ta tới năm 1940, một người trong chúng ta cần phải đi đầu tiên và mở đường”.
“Các cậu không phải từ hiện tại tới sao?” Melina lúng túng hỏi.
“Từ năm 1940, như cậu ấy nói”, Emma đáp. “Nhưng ngoài đó bom đang rơi như mưa. Cậu có thể sẽ muốn ở lại đấy”.
“Nắn gân hay lắm”, Melina nói, “các cậu không rũ bỏ được tớ dễ dàng thế đâu. Ở hiện tại chắc còn tồi tệ hơn – xác sống nhan nhản khắp nơi! Đó là lý do vì sao tớ không bao giờ rời khỏi Vòng Thời Gian của cô Thrush”.
Emma bước tới trước và kéo tôi đi theo. “Được rồi! Chúng mình sẽ đi đầu tiên!”.
Tôi giơ cánh tay còn tự do quờ quạng như một kẻ mù lòa trong bóng tối. “Nhưng tớ chẳng nhìn thấy gì cả!”.
Cậu bé định vị bằng tiếng vọng lớn hơn nói, “Chỉ cách phía trước có hai mươi bước thôi, cậu...”.
“Không thể nhầm được”, cậu nhỏ hơn nói.
Thế là chúng tôi khó nhọc bước về phía trước, đưa tay ra quờ quạng. Chân đá phải thứ gì đó làm tôi vấp loạng choạng. Vai trái tôi cọ vào tường.
“Đi cho thẳng nào!” Emma nói, kéo tôi sang phải.
Bụng tôi quặn lên. Tôi có thể cảm nhận được: mấy con hồn rỗng đang chui xuống giếng. Lúc này đây, cho dù chúng không thể cảm nhận thấy chúng tôi, vẫn còn năm mươi phần trăm khả năng chúng chọn đúng ngã rẽ trong đường hầm và tìm ra chúng tôi.
Không còn thời gian để dò dẫm loanh quanh nữa. Chúng tôi phải chạy.
“Khỉ thật”, tôi nói. “Emma, cho tớ chút ánh sáng nào!”.
“Rất vui lòng!”. Cô buông bàn tay tôi ra và tạo nên một ngọn lửa lớn đến mức tôi cảm thấy tóc bên phải đầu mình bị cháy sém.
Tôi nhìn thấy điểm chuyển tiếp ngay lập tức. Nó ở trước mắt chúng tôi, được đánh dấu bằng một đường thẳng đứng vạch trên vách đường hầm. Chúng tôi đồng loạt chạy ào về phía nó.
Vào khoảnh khắc chúng tôi băng qua bên đường vạch, tôi cảm thấy áp lực trong tai. Chúng tôi đã trở lại năm 1940.
Chúng tôi hối hả chạy qua các hầm mộ, ngọn lửa Emma hắt những cái bóng ma quái lên các bức tường, hai cậu bé mù tặc lưỡi thật lớn tiếng và hô to “Trái!” hoặc “Phải!” mỗi khi chúng tôi tới các ngã rẽ trong đường hầm.
Chúng tôi chạy qua những chồng quan tài, những đống hài cốt chất cao. Cuối cùng, chúng tôi quay lại chỗ đầu cụt và chiếc thang dẫn lên hầm mộ. Tôi đẩy Horace lên trước mình, rồi Enoch, sau đó đến lượt Olive cởi giày ra và bay bổng lên.
“Chúng ta chậm quá!” tôi hét to.
Phía dưới lối đi, tôi có thể cảm thấy chúng đang tới. Có thể nghe thấy những cái lưỡi của chúng đập xuống sàn đá, kéo chúng tới trước. Có thể hình dung ra hàm chúng bắt đầu chảy ra thứ chất nhớt đen sì vì háo hức trước con mồi chúng sắp được giết.
Rồi tôi nhìn thấy chúng. Một chuyển động mơ hồ trong bóng tối phía xa.
Tôi hét to, “Đi!” và lao tới cái thang, là người leo lên cuối cùng. Khi tôi gần lên tới đỉnh, Bronwyn chìa tay xuống kéo tôi lên khỏi mấy nấc thang cuối cùng, và rồi tôi đã ở trong hầm mộ cùng tất cả những người khác.
Vừa rên to thành tiếng, Bronwyn vừa nhấc tấm nắp đá đậy trên mộ Christopher Wren lên và thả nó xuống chỗ cũ. Chưa tới hai giây sau, một thứ gì đó đập thật mạnh vào mặt dưới tấm đá, làm tấm nắp đá nặng trịch bị nâng lên. Nó sẽ không cầm chân được đám hồn rỗng lâu - nhất là khi có tới hai gã.
Chúng đang ở rất gần. Các tín hiệu báo động vang lên gấp gáp trong tôi, bụng tôi đau quặn như uống phải a xít. Chúng tôi lao vùn vụt lên cầu thang xoáy trôn ốc và trở ra giáo đường. Lúc này bên trong nhà thờ tối om, thứ ánh sáng duy nhất là một quầng sáng kỳ lạ màu cam hắt vào qua các khung cửa sổ với lớp kính ố bẩn. Trong giây lát tôi nghĩ đó là những tia sáng cuối cùng của hoàng hôn, nhưng rồi sau đó, khi chúng tôi chạy về phía lối ra, tôi thoáng thấy bầu trời qua mái nhà thủng vỡ.
Đêm đã buông xuống. Bom vẫn rơi, nổ lục bục như những nhịp tim đập không đều.
Chúng tôi chạy ra ngoài.
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng