Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Thiếu Tá …De Coverley
iệc thay đổi tuyến ném bom trên bản đồ không lừa được quân Đức, nhưng lại lừa được thiếu tá …de Coverley, ông đã gói đồ vào túi vải bố, trưng dụng một máy bay và, với cảm giác là Florence cũng đã bị quân Đồng minh chiếm, ông tự bay tới thành phố đó để thuê hai căn hộ cho các sĩ quan và binh lính trong phi đoàn tới ở khi nào được nghỉ. Tới tận lúc Yossarian nhảy ra khỏi cửa phòng thiếu tá Major và tự hỏi nên cầu cứu ai nữa, ông vẫn chưa về.
Thiếu tá …de Coverley là một ông già đường bệ, uy nghi, nghiêm nghị với cái đầu khổng lồ như đầu sư tử và bộ tóc trắng hoang dã kinh hoàng như một cơn bão tuyết cuồng nộ quanh khuôn mặt lạnh lùng gia trưởng. Nhiệm vụ của ông trong tư cách sĩ quan điều hành của phi đoàn, như bác sĩ Daneeka và thiếu tá Major phỏng đoán, bao gồm toàn bộ việc ném móng ngựa, bắt cóc người lao động Ý và thuê căn hộ cho binh lính và sĩ quan sử dụng trong kỳ nghỉ, và ông xuất sắc cả ba lĩnh vực này.
Mỗi khi có một thành phố như Naples, Rome hay Florence sắp bị rơi vào tay quân Đồng minh, thiếu tá …de Coverley lại đóng đồ vào chiếc túi vải bố của mình, trưng dụng một máy bay và một phi công, rồi sau đó bay đi, hoàn thành tất cả những công việc trên mà không cần nói một từ nào cả, chỉ bằng khả năng trấn áp tuyệt đối của một gương mặt nghiêm khắc, độc đoán và cử chỉ dứt khoát của cái ngón tay nhăn nhúm. Khoảng một tới hai ngày sau khi thành phố ấy thất thủ, ông sẽ trở về với chiến tích là thuê được hai căn hộ rộng rãi và sang trọng tại đó, một cho sĩ quan, chiếc kia cho lính, cả hai căn hộ đều có đội ngũ đầu bếp và những người phục vụ giỏi nghề, vui tính. Sau đó vài ngày, báo chí khắp nơi trên thế giới sẽ đăng hình những người lính Mỹ đầu tiên mở đường vào thành phố đã tan hoang trong khói bụi và đổ nát. Đương nhiên thiếu tá …de Coverley sẽ là một trong số ấy, ngồi thẳng tưng như một chiếc que thông nòng súng trên chiếc xe Jeep mà ông đã chiếm được ở đâu đó, không thèm liếc sang trái hay phải một li trong lúc lửa pháo bùng lên ngay sát mái đầu bất khả chiến bại của ông và những cậu lính bộ binh ẻo lả với súng carbine lố nhố chạy dọc vỉa hè dưới bóng những tòa nhà đang cháy hoặc chết ngay trên ngưỡng cửa. Ông dường như bất khả hủy diệt khi ngồi đó giữa hiểm nguy, ngũ quan quả quyết khuôn thành chính vẻ mặt hung dữ, vương giả, chính đáng và gớm guốc mà tất cả lính phi đoàn đều nhận ra và tôn sùng.
Đối với tình báo Đức, thiếu tá …de Coverley là một bí ẩn bực bội; không một ai trong hàng trăm tù binh Mỹ có thể đưa ra bất cứ thông tin cụ thể nào về viên sĩ quan già tóc trắng với vầng trán dô uy lực và đôi mắt sáng quắc mạnh mẽ dường như luôn là mũi nhọn dẫn đầu mọi cuộc tấn công quan trọng một cách đầy gan dạ và thành công. Đối với những quan chức Mỹ, danh tính của ông cũng gây đau đầu không kém; cả một trung đoàn gồm các C.I.D. xuất sắc từng bị đẩy ra tiền tuyến để tìm hiểu xem ông là ai, trong lúc một tiểu đoàn các sĩ quan quan hệ công chúng được lệnh phải trực chờ tin 24/24 để đưa hình ảnh của ông tới công chúng ngay khoảnh khắc xác định được.
Ở Rome, thiếu tá …de Coverley đã thành công hơn bao giờ hết trong việc thuê căn hộ. Đối với các sĩ quan, những người đi theo nhóm bốn hoặc năm người, có một phòng đôi khổng lồ dành cho mỗi nhóm ở trong một tòa nhà đá trắng mới xây, với ba phòng tắm thênh thang tường ốp gạch lung linh màu lam ngọc và cả một cô hầu phòng mảnh mai tên Michaela luôn cười khúc khích và giữ cho căn hộ luôn sạch bong gọn ghẽ. Ông bà chủ nhà khúm núm sống ở đầu cầu thang phía dưới. Ở đầu cầu thang phía trên là nơi ở của một bá tước phu nhân tóc đen giàu có xinh đẹp cùng cô con dâu tóc đen giàu có xinh đẹp, cả hai người bọn họ đều chỉ ưng mỗi Nately, trong khi cậu lại quá nhút nhát không dám ham muốn họ, và Aarfy, trong khi gã này lại quá đứng đắn đã không tiếp nhận họ lại còn thuyết phục họ đừng ngủ với ai ngoài chồng mình, những ông chồng này thì đã quyết định ở hẳn lại miền Bắc để làm ăn.
“Bọn họ thực sự là những đứa trẻ ngoan,” Aarfy chân thành tiết lộ với Yossarian, kẻ cứ liên tục mơ mộng tới cảnh hai tấm thân nữ giới trắng sữa của cả hai đứa trẻ ngoan ngoãn tóc đen giàu có xinh đẹp này duỗi dài lõa lồ khêu gợi trên giường bên y.
Những người lính đến Rome theo các nhóm mười hai người hoặc đông hơn với thói quen ăn thùng uống vại cùng những chiếc thùng nặng đầy đồ hộp cho đám đàn bà ở đây nấu rồi phục vụ họ tại phòng ăn căn hộ riêng của bọn họ trên tầng sáu một tòa nhà gạch đỏ với một chiếc thang máy kẽo kẹt. Ở chỗ của lính luôn có nhiều chuyện hơn. Đầu tiên, luôn có nhiều lính hơn, và có nhiều phụ nữ hơn tham gia nấu nướng, phục vụ, quét và lau nhà, và cuối cùng, luôn có những cô gái trẻ, gợi tình, ngốc nghếch và vui vẻ mà Yossarian đã tìm thấy và đem tới đó, cả những cô mà những gã lính thiếu ngủ trở về Pianosa sau bảy ngày ăn chơi tráng táng đã đem tới và để lại ở đó cho bất cứ ai thèm muốn họ. Những cô gái có thể ăn và ở đó bao nhiêu lâu tùy thích. Đổi lại thì họ chỉ cần phải ngủ với bất cứ ai có yêu cầu, điều này làm cho mọi thứ dường như trở nên hoàn hảo đối với tất cả bọn họ.
Cứ khoảng bốn ngày một lần, Hungry Joe lại ập đến như một kẻ khốn khổ, cộc cằn, hoang dại và điên cuồng, nếu như gã không may lại tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ bay chiến đấu và chuyển sang lái máy bay đưa thư. Hầu hết những lần như vậy, gã đều ngủ ở căn hộ dành cho lính trơn. Không ai biết chắc được thiếu tá …de Coverley đã thuê bao nhiêu phòng, ngay cả bà mập mặc coóc xê đen ở tầng một cũng không biết mặc dù bà ta chính là người cho ông thuê. Họ chiếm toàn bộ tầng trên cùng, và Yossarian biết bọn họ đã mở rộng ra chiếm cả tầng năm nữa, bởi vì chính tại căn phòng của Snowden ở tầng năm, y đã tìm được cô hầu phòng mặc xi líp màu vàng chanh với cây chổi lau nhà một ngày sau trận Bologna, sau khi Hungry Joe phát hiện ra y ở trên giường với Luciana trong căn hộ dành cho sĩ quan cùng buổi sáng hôm đó và chạy đi tìm chiếc máy ảnh như một kẻ lên cơn nghiện.
Cô hầu phòng mặc xi líp màu vàng chanh là một cô béo vui vẻ và tốt bụng ở độ tuổi ba mươi với cặp giò mềm và quả mông núng nính trong chiếc xi líp màu vàng chanh mà cô luôn sẵn lòng cởi ra cho bất cứ gã đàn ông nào thèm muốn cô. Cô có khuôn mặt to để mộc và là người phụ nữ đức hạnh nhất còn sống: cô ngủ với tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, màu da hay xuất thân, cô hiến mình cho xã hội như một hành động thể hiện lòng hiếu khách, không trì hoãn dù chỉ một khoảnh khắc để vứt bỏ quần áo, chổi hay cây lau nhà mà cô đang cầm lúc bị anh nào tóm lấy. Sự quyến rũ của cô xuất phát chính từ sự dễ dãi này; giống như núi Everest, cô cứ ở đó, và đàn ông cứ việc leo lên cô mỗi khi họ thấy ham muốn thúc giục. Yossarian yêu cô hầu xi líp vàng chanh này bởi cô dường như là người phụ nữ duy nhất còn sót lại mà y có thể làm tình mà không phải lòng. Ngay cả cô hói ở Sicily cũng gợi lên trong y cảm giác thương xót, dịu dàng và tiếc nuối rất mãnh liệt.
Bất chấp hàng loạt hiểm nguy vây quanh thiếu tá …de Coverley mỗi lần ông đi thuê nhà, lần duy nhất ông bị thương, mỉa mai thay, lại là khi ông đang dẫn đoàn quân chiến thắng vào thành Rome đã bỏ ngỏ, khi ông bị thương ở mắt do một bông hoa phi thẳng vào ông từ cự ly gần bởi một lão già tiều tụy và độc địa, kẻ mà, như chính Satan, sau đó đã nhảy bổ lên xe của thiếu tá …de Coverley trong niềm hân hoan hiểm độc, thô bạo và khinh bỉ túm lấy mái đầu trắng đáng kính của ông mà hôn lên hai bên má ông đầy chế nhạo bằng cái miệng phả hơi chua loét của rượu vang, pho mát và tỏi, trước khi nhảy xuống trở lại vào đám đông đón mừng cùng một tiếng cười trống rỗng, khô khan đầy đả kích. Thiếu tá …de Coverley, một người Sparta trong nghịch cảnh, đã không nhăn mặt dù chỉ một lần trong suốt thử thách ghê tởm này. Chỉ đến lúc trở về Pianosa sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ở Rome thì ông mới đến gặp bác sĩ để điều trị vết thương ấy.
Ông quyết làm người nhìn đời bằng hai mắt nên đã đặc biệt yêu cầu bác sĩ Daneeka làm cho miếng bịt mắt trong suốt để ông có thể tiếp tục quăng móng ngựa, bắt cóc người lao động Ý và thuê nhà với thị lực không suy giảm. Đối với những người trong phi đoàn, thiếu tá …de Coverley là một tượng đài khổng lồ, mặc dù chẳng bao giờ họ dám nói với ông điều này. Người đầu tiên dám nói với ông là Milo Minderbinder, anh này tiến đến chỗ ông ném móng ngựa cùng một quả trứng luộc kỹ vào tuần thứ hai ở phi đoàn và giơ nó cao lên cho thiếu tá …de Coverley nhìn rõ. Thiếu tá …de Coverley thẳng người lên kinh ngạc trước cách tiếp cận trơ trẽn của Milo và tập trung sức mạnh giáng lên gã toàn bộ cơn thịnh nộ của nét mặt bão táp với vầng trán dô gồ ghề thô ráp và sống mũi khoằm bự chảng cheo leo chìa ra khỏi mặt ông hùng hổ như một gã hậu vệ bóng bầu dục khổng lồ. Milo vẫn đứng yên tại chỗ, náu mình sau quả trứng luộc kỹ huơ huơ che trước mặt như một cái bùa thiêng. Dần dần giông tố cũng lắng xuống, và hiểm nguy qua đi.
“Cái gì đấy?” thiếu tá …de Coverley cuối cùng cũng hỏi.
“Một quả trứng,” Milo trả lời.
“Trứng gì vậy?” thiếu tá …de Coverley hỏi.
“Một quả trứng được luộc kỹ,” Milo trả lời.
“Quả trứng luộc kỹ kiểu gì vậy?” thiếu tá …de Coverley hỏi.
“Một quả trứng tươi đã được luộc kỹ,” Milo trả lời.
“Quả trứng tươi kiếm ở đâu ra vậy?” thiếu tá …de Coverley hỏi.
“Kiếm từ một con gà,” Milo trả lời.
“Con gà ở đâu?” thiếu tá …de Coverley hỏi.
“Con gà ở Malta,” Milo trả lời.
“Có bao nhiêu gà ở Malta?”
“Có đủ gà để đẻ trứng tươi cho toàn bộ số sĩ quan trong phi đoàn với giá năm xu một quả do ngân sách nhà ăn trả,” Milo trả lời.
“Tôi luôn rất yếu mềm trước những quả trứng tươi,” thiếu tá …de Coverley thú nhận.
“Nếu ai đó cho tôi tùy ý sử dụng một chiếc máy bay của phi đoàn, tôi sẽ bay ra đó mỗi tuần một lần và đem về tất cả số trứng gà tươi mà ta cần,” Milo trả lời. “Vả lại Malta cũng không quá xa.”
“Malta không quá xa đâu,” thiếu tá …de Coverley nhận xét. “Anh có thể bay tới đó mỗi tuần một lần bằng máy bay của phi đoàn và đem về tất cả số trứng tươi mà chúng ta cần.”
“Vâng,” Milo đồng ý. “Tôi nghĩ là tôi có thể làm được nếu như có ai đó muốn và cho tôi tùy ý sử dụng một chiếc máy bay.”
“Tôi thích ăn trứng gà tươi rán,” thiếu tá …de Coverley nhớ lại. “Rán bơ tươi.”
“Tôi có thể tìm được tất cả số bơ tươi mà chúng ta cần ở Sicily với giá hai mươi lăm xu một pound(34),” Milo trả lời. “Hai mươi lăm xu cho một pound bơ tươi là giá hời. Ngân sách nhà ăn cũng đủ tiền cho ta mua bơ, và chúng ta còn có thể bán một ít cho các phi đoàn khác lấy lãi và bù lại được gần hết số tiền mà chúng ta đã bỏ ra.”
“Tên của anh là gì, con trai?” thiếu tá …de Coverley hỏi.
“Tên tôi là Milo Minderbinder, thưa sếp. Tôi hai mươi bảy tuổi.”
“Anh là một sĩ quan cấp dưỡng tốt, Milo.”
“Tôi không phải là một sĩ quan cấp dưỡng, thưa ngài.”
“Anh là một sĩ quan cấp dưỡng tốt, Milo.”
“Xin cảm ơn ngài. Tôi sẽ làm tất cả trong khả năng của mình để là một sĩ quan cấp dưỡng tốt.”
“Chúa sẽ phù hộ anh, con trai. Cho anh một cái móng ngựa này.”
“Xin cảm ơn ngài. Tôi sẽ làm gì với nó đây?”
“Ném nó.”
“Ném đi?”
“Ném vào cái móc ở kia. Sau đó nhặt nó lên và ném vào cái móc này. Đó là một trò chơi, hiểu không? Anh sẽ có lại cái móng ngựa.”
“Vâng, thưa ngài. Tôi hiểu ạ. Những chiếc móng ngựa này bán với giá bao nhiêu vậy?”
Mùi một quả trứng tươi xèo xèo trong một vũng bơ tươi đã bay đi khá xa theo những ngọn gió Địa Trung Hải và đưa tướng Dreedle rầm rập trở lại trong cơn thèm ăn khủng khiếp, đi cùng với ông là cô y tá, cô này đi cùng ông khắp nơi, và con rể của ông, đại tá Moodus. Đầu tiên, tướng Dreedle ăn ngấu nghiến toàn bộ bữa cơm của mình ở nhà ăn của Milo. Sau đó ông ra lệnh cho ba phi đoàn khác trong liên đoàn dưới quyền đại tá Cathcart giao quyền quản lý nhà ăn cho Milo và mỗi phi đoàn trao cho gã một chiếc máy bay cùng với một viên phi công để gã có thể mua trứng tươi và bơ tươi cho họ. Những chiếc máy bay của Milo đi tới đi lui cả bảy ngày một tuần khi tất cả các sĩ quan trong bốn phi đoàn bắt đầu mê mải ăn ngấu nghiến món trứng tươi mãi không chán. Tướng Dreedle ngấu nghiến những quả trứng tươi cho bữa sáng, bữa trưa và bữa tối - giữa những bữa ăn ông còn ngấu nghiến nhiều trứng tươi hơn - cho đến khi Milo tìm được nơi có nhiều thịt bê tươi, thịt bò, thịt vịt, sườn cừu non, mũ nấm, súp lơ xanh, đuôi tôm hùm đá Nam Phi, tôm, đùi lợn muối, bánh pudding, nho, kem, dâu, và a ti sô. Có ba liên đoàn khác ở trong không đoàn chiến đấu của tướng Dreedle, mỗi liên đoàn đều ganh tị và gửi máy bay của họ đến Malta mua trứng tươi, nhưng đều phát hiện ra rằng trứng tươi ở đó bán với giá bảy xu một quả. Do họ có thể mua được từ Milo với giá năm xu một quả, nên sẽ là hợp lý hơn rất nhiều khi giao những nhà ăn của họ cho xanh đi ca của gã, và giao cho gã máy bay cũng như phi công để chuyên chở tất cả những thức ăn ngon khác mà gã cũng hứa sẽ cung cấp cho họ.
Tất cả mọi người đều phấn khởi trước những sự kiện mới này, hơn hết thảy là đại tá Cathcart, gã nghĩ rằng mình đã có thêm một chiến công. Gã luôn vui vẻ chào đón Milo mỗi khi họ gặp nhau và trong lúc tỏ ra hào phóng, gã đã ngẫu hứng đề nghị thăng cấp cho thiếu tá Major. Lời đề nghị này đã bị từ chối ngay lập tức tại trụ sở quân đoàn Không lực Hai mươi bảy do cựu binh nhất Wintergreen, tay này đã nguệch ngoạc viết một lời nhắc nhở cộc cằn, không có chữ ký rằng quân đội chỉ có một thiếu tá Major Major Major và rằng họ sẽ không chịu mất đi điều đó bằng việc thăng cấp cho anh ta chỉ để cho đại tá Cathcart hài lòng. Đại tá Cathcart bị sốc vì lời khiển trách lỗ mãng và giận cá chém thớt bằng một hành động khá gay gắt. Gã đổ lỗi cho thiếu tá Major về thất bại này và quyết định giáng cấp Major thành trung úy vào cùng ngày hôm đó.
“Có lẽ họ sẽ không cho phép anh làm điều đó đâu,” trung tá Korn nhận xét với một nụ cười cảm thông, gã đang thích thú theo dõi toàn bộ câu chuyện. “Bởi cùng một lý do mà họ đã không cho phép anh thăng cấp cho anh ta. Ngoài ra, chắc chắn trông anh sẽ càng ngớ ngẩn nếu anh giáng cấp anh ta xuống trung úy ngay sau khi cố thăng cấp anh ta lên ngang chức tôi.”
Đại tá Cathcart cảm thấy bị bao vây từ mọi phía. Gã đã thành công hơn nhiều trong vụ kiếm lấy một tấm huân chương cho Yossarian sau khi Ferrara sụp đổ, khi cây cầu bắc qua sông Po vẫn đứng vững không bị phá hỏng bảy ngày sau khi đại tá Cathcart xung phong đưa quân đi ném bom nó. Tổng cộng có tới chín chuyến bay mà quân của gã đã thực hiện trong vòng sáu ngày, và cây cầu vẫn không bị phá cho tới chuyến bay thứ mười vào ngày thứ bảy, khi Yossarian giết chết Kraft và những người trên cùng máy bay với y bằng việc đưa cả đoàn bay gồm sáu chiếc lượn lại mục tiêu thêm một lần nữa. Yossarian rất cẩn thận trong lần ném bom thứ hai bởi vì hồi đó y rất dũng cảm. Y vùi đầu vào máy ngắm cho đến khi toàn bộ bom được thả xuống; khi y nhìn lên, bên trong máy bay thấy đều đẫm một màu cam kỳ dị. Lúc đầu y còn tưởng máy bay của chính mình đang bốc cháy. Sau đó y nhìn thấy chiếc máy bay khác với bộ động cơ bị bốc cháy ở ngay phía trên và y đã hét lên qua điện đàm nội bộ ra lệnh cho McWatt rẽ trái ngay. Một giây sau đó cánh máy bay của Kraft bị rụng ra. Chiếc máy bay bất hạnh ngùn ngụt rơi xuống, đầu tiên là phần thân, sau đó là chiếc cánh vẫn đang quay tít, trong lúc một trận mưa rào những mảnh kim loại nhỏ nhảy nhót lách tách trên nóc máy bay của Yossarian và những tiếng đạn phòng không bùm chéo! bùm chéo! bùm chéo! vẫn liên tục vang lên khắp nơi xung quanh y.
Trở lại mặt đất, mọi con mắt đều nhìn chằm chằm dõi theo khi y bước đi trong cảm giác chán ngán ủ ê tới gặp đại úy Black bên ngoài mái hiên xanh của phòng chỉ dẫn để báo cáo và biết được rằng đại tá Cathcart và trung tá Korn đều đang đợi gặp y ở trong. Thiếu tá Danby đứng chặn cửa, xua tất cả mọi người ra xa với bộ mặt tái mét. Yossarian chân tay rã rời vì kiệt sức và chỉ muốn cởi bỏ bộ quần áo đang dính chặt vào người. Y bước vào phòng chỉ dẫn với những cảm xúc lẫn lộn, chưa biết nên cảm thấy thế nào về Kraft và những người khác, bởi vì tất cả bọn họ đều đã chết ở một nơi rất xa trong đớn đau riêng tư câm lặng vào lúc y cũng mắc kẹt trong cùng cảnh tiến thoái lưỡng nan gớm guốc và dằn vặt của nhiệm vụ kiêm kiếp đọa đày.
Mặt khác, sự kiện này cũng khiến cho đại tá Cathcart hoàn toàn tuyệt vọng. “Hai lần ư?” gã hỏi.
“Vì nếu thả ngay lần đầu tiên thì tôi hẳn đã hụt mục tiêu,” Yossarian nhẹ nhàng đáp, mặt cúi gằm xuống.
Tiếng họ nói vọng suốt căn nhà gỗ dài và hẹp.
“Nhưng những hai lần?” đại tá Cathcart hỏi lại, hoàn toàn không tin nổi.
“Vì nếu thả ngay lần đầu tiên thì tôi hẳn đã hụt mục tiêu,” Yossarian lặp lại.
“Nhưng Kraft hẳn đã còn sống.”
“Và cây cầu hẳn vẫn còn đó.”
“Một phi công được đào tạo có trách nhiệm phải thả bom ngay trong lần đầu tiên,” đại tá Cathcart nhắc cho y nhớ. “Cả năm người cắt bom kia đều đã thả hết bom trong lần đầu tiên.”
“Và đều không trúng mục tiêu,” Yossarian nói. “Nếu tôi cũng vậy thì có lẽ chúng ta lẽ ra đã phải quay lại đó.”
“Nhưng rất có thể anh sẽ thả trúng mục tiêu ngay lần đầu tiên.”
“Và cũng rất có thể tôi thả trượt.”
“Nhưng rất có thể sẽ không có tổn thất nào cả.”
“Và rất có thể sẽ có nhiều mất mát hơn, khi cây cầu vẫn còn đó. Tôi tưởng sếp muốn phá hủy cây cầu?”
“Đừng cãi,” đại tá Cathcart nói. “Tất cả chúng ta đều gặp quá đủ rắc rối rồi.”
“Tôi đâu có cãi sếp.”
“Anh đang cãi đấy. Ngay cả câu này cũng là một câu cãi.”
“Vâng thưa sếp. Tôi xin lỗi.”
Đại tá Cathcart điên cuồng bẻ đốt ngón tay. Trung tá Korn, một người chắc nịch, da sậm, ủy mị và bụng phệ đang ngồi hoàn toàn thư giãn trên một ghế hàng đầu, bàn tay đan lại thoải mái đặt trên cái đầu hói ngăm đen. Đôi mắt đằng sau cặp kính trần lấp lánh lộ vẻ thích thú.
“Chúng ta đang cố gắng để có thể khách quan hoàn toàn trong vụ này,” gã khều đại tá Cathcart.
“Chúng ta đang cố gắng để có thể khách quan hoàn toàn trong vụ này,” đại tá Cathcart sôi nổi nói với Yossarian trong niềm cảm hứng bất chợt. “Không phải là tôi ủy mị hay gì đâu. Tôi cóc thèm quan tâm đến mạng người hay chiếc máy bay. Chỉ có điều chuyện có vẻ quá ngớ ngẩn trên bản báo cáo. Làm thế nào để có thể che đậy được một thứ như này trong báo cáo?”
“Tại sao sếp không tặng thưởng cho tôi một huân chương?” Yossarian rụt rè gợi ý.
“Vì đã bay đi bay lại tới hai lần?”
“Sếp cũng đã cho Hungry Joe một huân chương khi anh ta mắc lỗi làm mất một chiếc máy bay.”
Đại tá Cathcart buồn bã cười khẩy. “Chúng tôi không đưa anh ra tòa án binh thì đã là rất may mắn cho anh rồi.”
“Nhưng tôi đã phá được cây cầu trong lần thứ hai,” Yossarian phản đối. “Tôi tưởng sếp muốn phá hủy nó.”
“Ôi, tôi đâu có biết tôi muốn gì,” đại tá Cathcart kêu lên bực tức. “Chậc, dĩ nhiên là tôi muốn phá hủy cây cầu. Nó đã gây cho tôi biết bao phiền toái kể từ khi tôi quyết định đưa các anh tới đó. Nhưng tại sao anh lại không thể làm được điều đó trong lần đầu tiên?”
“Tôi không có đủ thời gian. Hoa tiêu của tôi không chắc là chúng tôi đã tới đúng thành phố chưa.”
“Đúng thành phố ư?” đại tá Cathcart kinh ngạc. “Có phải giờ thì anh đang cố đổ trách nhiệm lên đầu Aarfy?”
“Không thưa sếp. Lỗi của tôi là đã để cho anh ta làm tôi mất tập trung. Tất cả những gì tôi muốn nói là tôi không phải là không thể mắc sai lầm.”
“Không ai là không thể sai,” đại tá Cathcart gay gắt nói, và rồi nói tiếp một cách đầy mơ hồ sau khi đã suy nghĩ thêm:
“Cũng không có ai là không thể thiếu được.”
Không có lời phản đối nào cả. Trung tá Korn uể oải vươn vai. “Chúng ta cần phải có một quyết định,” gã chăm chú nhìn về phía đại tá Cathcart.
“Chúng ta cần phải có một quyết định,” đại tá Cathcart nói với Yossarian. “Và tất cả chuyện đó là lỗi của anh. Tại sao anh lại vòng đi vòng lại hai lần? Tại sao anh không thể thả bom vào lần đầu tiên như tất cả những người khác?”
“Vì nếu thả ngay lần đầu tiên thì tôi hẳn đã hụt mục tiêu.”
“Dường như là chúng ta đang vòng đi vòng lại hai lần,” trung tá Korn ngắt lời, bật cười một tiếng.
“Nhưng chúng ta sẽ làm gì đây?” đại tá Cathcart kêu lên tuyệt vọng. “Mọi người đang chờ bên ngoài kia kìa.”
“Sao anh không tặng thưởng cho anh ta một huân chương nhỉ?” trung tá Korn đề xuất.
“Vì đã vòng đi vòng lại hai lần ư? Chúng ta có thể cho anh ta huân chương vì cái gì được đây?”
“Vì đã vòng đi vòng lại hai lần,” trung tá Korn trả lời với một nụ cười trầm ngâm và thỏa mãn. “Rốt cuộc thì theo tôi phải rất dũng cảm mới dám vòng lại mục tiêu đó lần thứ hai mà không có máy bay nào hỗ trợ để phân tán bớt đạn phòng không. Và anh ta đúng là đã ném bom trúng cây cầu. Anh biết đấy, đó có thể là câu trả lời - hãy ca ngợi những gì đáng ra chúng ta phải xấu hổ. Dùng mẹo này thì không bao giờ thất bại cả.”
“Anh nghĩ mọi chuyện sẽ ổn chứ?”
“Vụ này tôi chắc đấy. Và để chắc thêm nữa thì ta hãy thăng cấp cho anh ta lên hàm đại úy luôn đi.”
“Anh không nghĩ như vậy là hơi quá lố sao?”
“Không, tôi không nghĩ vậy. Cứ chơi chắc thì hơn. Và cấp đại úy thì cũng chẳng khác gì mấy.”
“Được thôi,” đại tá Cathcart quyết định. “Chúng tôi sẽ trao cho anh huân chương vì đã đủ dũng cảm để bay quanh mục tiêu hai vòng. Và chúng tôi cũng sẽ phong anh làm đại úy.”
Trung tá Korn với tay cầm mũ lên.
“Hãy cười như khi bước ra sân khấu,” gã nói đùa và vòng tay khoác lên vai Yossarian khi bọn họ bước ra ngoài cửa.
34. 1 Pound = 0,454 kg.
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22