Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Vụ Án Viên Nhộng Xanh
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
XII - Một Lần Nữa Bị Dồn Vào Chân Tường
D
ôi khi Elliot nghĩ, tiến sĩ Fell không hẳn là một đối tượng thích hợp cho những ai phải trò chuyện với ông vào buổi sáng trong khi đang phải chịu đựng sự mệt mỏi vì uống quá chén đêm qua. Trí não ông chuyển động nhanh đến nỗi nó vòng quanh các xó xỉnh và biến mất ngoài cửa sổ trước khi tâm trí bạn có thể bắt kịp. Bạn ý thức được tiếng vù vù của những đôi cánh, thấy được đỉnh chóp của những từ ngữ lớn lao. Và sau đó, trước khi kịp nhận biết được chuyện gì đang diễn ra, thì cả công trình đồ sộ ấy đã ngay lập tức hoàn thiện một cách hợp lí mặc dù sau này bạn khó mà nhớ được.
“Bình tĩnh lại, thưa ông!” Elliot đề nghị. “Tôi đã biết ông đã từng có suy luận tương tự trước đây, nhưng…”
“Không, nghe tôi đây,” tiến sĩ nói với vẻ cực kì tha thiết. “Anh phải nhớ rằng tôi đã bắt đầu cuộc đời mình với vai trò là một giáo viên trong trường học. Mỗi phút trong ngày, những chú bé luôn cố gắng kể cho tôi nghe những câu chuyện kì lạ hoặc những thứ tương tự khác, và bọn nhóc kể chúng một cách trôi chảy, đáng tin, với một sự khéo léo mà tôi chưa từng được nghe trừ lúc ở Old Bailey. Do đó tôi có lợi thế vượt trội hơn so với những cảnh sát khác. Tôi có nhiều kinh nghiệm hơn với những lời nói dối thường dùng. Và tôi chợt lóe lên ý nghĩ rằng anh đã quá ngoan ngoãn chấp nhận sự vô tội của Emmet.
“Ý nghĩ đó đã được gán cho anh, tất nhiên, bởi cô Wills, trước khi anh có thời gian để nghĩ. Vui lòng đừng tức giận, có thể cô ấy đã thực hiện nó trong vô thức. Nhưng anh bị ám ảnh về việc đó đến mức nào lận? Anh nói, ‘Tất cả mọi người trong căn nhà đó đều có bằng chứng ngoại phạm,’ – điều đó không đúng. Hãy giải thích, nếu anh sẵn lòng, làm sao Emmet lại có bằng chứng ngoại phạm được.”
“Ừ hử,” Elliot ậm ừ.
“Trên thực tế, không ai từng thấy qua Emmet. Các anh tìm thấy anh ta nằm bất tỉnh dưới một cái cây, với một que cời lửa cầm tay. Ai đó lập tức nói, ‘Rõ ràng cậu ta đã nằm đây một lúc lâu.’ Nhưng anh có bằng chứng y khoa nào (hoặc anh có thể) chứng tỏ anh ta đã nằm đó trong bao lâu không? Chuyện này không giống với việc công bố thời gian tử vong trong báo cáo khám nghiệm tử thi. Nó có thể mới chỉ xảy ra mười giây trước, hoặc hai hay ba phút trước. Các công tố thường gọi nó là trò-lươn-lẹo.”
Elliot hồi tưởng lại. “Thật vậy, thưa ông, tôi đã từng nghĩ về điều đó. Với giả thuyết này, hẳn người đàn ông đội mũ chóp cao phải là Emmet. Anh ta đã đóng vai của chính mình, ngoại trừ việc anh ta cho ông Chesney uống một viên nhộng độc. Sau đó anh ta sắp xếp để đánh vào đầu mình, tự tạo ra một vết rách để chứng minh bản thân không có khả năng gây án, và cho thấy anh ta không thể là bác sĩ Nemo.”
“Chính xác. Và?”
“Anh ta là người dễ dàng hành động hơn bất kì ai khác,” Elliot thừa nhận. “Không có trò lừa gạt. Không cần mặc vào và cởi đống đồ hóa trang ra. Tất cả những gì anh ta phải làm là đóng phần việc của chính mình trong khoảng thời gian đã được lên kế hoạch sẵn. Tất cả những gì anh ta phải làm là thay thế viên nhộng vô hại bằng viên nhộng có axit xyanhydric. Anh ta biết mọi chi tiết nhỏ của vở diễn. Anh ta là người duy nhất biết tất cả chi tiết vở diễn. Anh ta…” Càng nghĩ nhiều về giả thiết này, Elliot càng cảm thấy tràn ngập tin tưởng. “Vấn đề là, thưa ông, tôi vẫn chưa biết gì về Emmet cả. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với anh ta. Emmet là ai? Anh ta là gì? Cho đến nay, không có bất kì ai hướng mũi tên nghi ngờ vào Emmet hết. Anh ta được lợi ích gì khi giết ông Chesney?”
“Anh ta được lợi ích gì,” tiến sĩ Fell hỏi, “khi đầu độc strychnine vào một nhóm trẻ em vô tội?”
“Chúng ta trở lại với giả thiết anh ta chỉ đơn giản bị điên thì sao?”
“Tôi không biết. Nhưng điều đó có thể khiến anh cân nhắc về động cơ gây án nhiều hơn một chút. Đối với Emmet…” tiến sĩ Fell cau có, và dập tắt điếu xì gà. “Tôi nhớ có gặp cậu ta trong cùng buổi tiệc nơi tôi đã gặp Chesney. Cao, tóc tối màu, một gã mũi đỏ, với giọng nói và cách cư xử giống như bóng ma người cha của Hamlet. Cậu ta đi đứng lén lút, nói chuyện hơi ngâm nga, và đã làm đổ kem xuống đầu gối. Chủ đề chính để nói về cậu ta là ‘Wilbur già nua tội nghiệp.’ Đó là vẻ ngoài của cậu ta. Vậy còn những đạo cụ khác thì sao? Chiếc mũ chóp cao, áo mưa và các thứ khác? Có phải kích cỡ của chúng chỉ vừa với Emmet thôi không?”
Elliot nhìn qua cuốn sổ ghi chú.
“Chiếc mũ chóp cao có cỡ số 7; nó là một món đồ cũ thuộc sở hữu của chính Marcus Chesney. Cái áo mưa, vốn thuộc sở hữu của Emmet thì có cỡ lớn của một người đàn ông bình thường. Người ta không làm áo mưa theo danh sách kích cỡ cẩn thận như đồ vét. Găng tay cao su, một đôi giá sáu xu từ cửa hàng Woolworth, tôi tìm thấy nó được cuộn lại một cách chuyên nghiệp trong túi phải của chiếc áo mưa.”
“Và?” tiến sĩ Fell nói.
“Và đây là số đo của mọi người; Bostwick đã cung cấp chúng cho tôi. Emmet cao 6 feet, nặng 11,8 st, đội mũ cỡ 7. Bác sĩ Joseph Chesney cao 5 feet 11 inch, nặng 13 st, mũ cỡ 7. George Harding cao 5 feet 9 inch, nặng 11 st, mũ cỡ 6⅞. Giáo sư Ingram cao 5 feet 8 inch, nặng 12,2 st, đội mũ cỡ 7¼. Marjorie Wills cao 5 feet 2 inch, nặng 7,8 st – nhưng ông sẽ không muốn nghe điều đó. Cô ấy ngoại phạm trong vụ này,” Elliot nói với vẻ hài lòng trầm mặc và dường như khá chắc chắn. “Những người khác thì hoàn toàn có thể mặc đống đồ ngụy trang đó mà trông chẳng hề kì quặc: ngoại trừ Emmet, hiện nay thứ duy nhất mà tất cả bọn họ có là bằng chứng ngoại phạm không bắt bớ gì được. Chúng ta chưa thể nói gì nhiều vào thời điểm này.Nhưng hiện nay mọi chuyện đều chỉ hướng nghi ngờ vào Emmet. Tôi tự hỏi, tại sao?”
Tiến sĩ Fell nhìn anh một cách tò mò. Anh sẽ nhớ ánh nhìn chăm chú này một thời gian dài sau đó.
“Những người bạn nghiên cứu về tâm lí học của chúng ta,” tiến sĩ trình bày, “chắc chắn sẽ nói rằng Emmet là người chịu đè nén, loại người phải chịu đựng chứng Thèm khát quyền lực khủng khiếp. Tôi thừa nhận căn bệnh này rất phổ biến trong số những kẻ phạm tội đầu độc. Jegado, Zwanziger, Van de Leyden, Cream… Danh sách này dài bất tận. Tôi cũng được nghe rằng Emmet mắc một chứng bệnh (hãy để chúng ta in hoa tên căn bệnh) gọi là Cảm Xúc Vô Vọng dành cho cô Wills. Chà, tôi đảm bảo với anh, bất kì ý tưởng phạm tội nào cũng đều là có thể thôi. Nhưng cũng có khả năng,” nói đến đây ông nhìn rất chăm chú vào người bạn ngồi trước mặt mình, “Emmet còn đóng một vai trò khác trong vụ án này: một vật tế.”
“Vật tế?”
“Đúng vậy. (Anh có thấy rằng) vẫn có một cách giải thích khác về chiếc túi quặp lò xo và tên sát nhân trong cửa hiệu bán sô cô la.” Tiến sĩ Fell cân nhắc. “Tôi rất tò mò, thanh tra, về việc tên sát nhân đã tham chiếu rất nhiều chi tiết từ vụ án của Christiana Edmunds năm 1871. Tôi nhận ra dường như có một bài học từ vụ án cũ đó.”
Nỗi nghi ngờ lại ập đến với Elliot nhanh và đột ngột như thể một mũi tên lao vào bia ngắm.
“Thưa ông, ý ông là…”
“Hả?” tiến sĩ Fell nói, ông đã tỉnh táo lại và thật sự giật bắn người khỏi những suy tư trầm trọng của bản thân. “Không, không, không! Chúa lòng lành, không! Có lẽ anh không hiểu chính xác ý tôi cho lắm.” Ông khoa tay múa chân với vẻ kích động, dường như ông rất nóng lòng thay đổi chủ đề. “Chà, hãy ứng dụng giả thuyết mà anh có và bắt đầu nghiêm túc thảo luận về công việc thôi. Chúng ta sẽ làm gì? Bước tiếp theo của chúng ta là gì?”
“Chúng ta sẽ coi cuộn phim đó,” Elliot nói. “Đó là điều chúng ta sẽ làm, nếu ông quan tâm và muốn tham gia cùng. Thiếu tá Crow nói với tôi có một dược sĩ ở Sodbury Cross là một gã rất mê công việc làm phim không chuyên và đã phát triển hãng kinh doanh riêng của mình. Thiếu tá Crow đã gõ cửa nhà anh ta lúc ba giờ mười lăm sáng nay và anh ta hứa sẽ chuẩn bị sẵn sàng cuộn phim cho chúng ta trước giờ ăn trưa ngày hôm nay. Người dược sĩ này có một máy chiếu phim cá nhân ở tầng trên hiệu thuốc của mình. Thiếu tá Crow nói rằng anh ta đáng tin. Chúng tôi sẽ gặp nhau ở đó lúc một giờ để cho chạy toàn bộ cuộn phim. Trời ạ!” Elliot thô bạo nói, và lắc nắm tay mình. “Thứ này có thể giải quyết những vấn đề của chúng ta. Chuyện thực sự đã xảy ra, nó ở ngay trong màn hình đen trắng đó, không thể nói dối được! Tất cả mọi thứ chúng ta muốn biết! Tôi nói cho ông biết, chuyện đó dường như tốt đến mức không tưởng. Giả sử có gì sai sót với cuộn phim thì sao? Giả sử nó không ra hình được? Giả sử…”
Anh đã không hề biết rằng một tiếng sau, anh sẽ nhận được một trong những cú sốc lớn nhất trong đời mình. Trong khi tiến sĩ Fell mặc quần áo, trong khi họ lái xe một quãng ngắn đến Sodbury Cross dưới bầu trời quang đãng, trong khi họ đậu xe ở con đường Đại Lộ xám ngắt bên ngoài cửa hiệu bán thuốc của Hobart Stevenson, Elliot đã lường trước hầu hết mọi khía cạnh, chỉ trừ đúng có một. Tiến sĩ Fell, trông như một tên cướp to lớn trong chiếc áo choàng không tay xếp nếp và chiếc mũ to vành, ngồi ở ghế sau, đã lớn tiếng đảm bảo để trấn an nỗi sợ của Elliot, anh cứ lo rằng người dược sĩ đã làm hỏng cuộn phim. Vào lúc họ đến anh gần như đã thuyết phục được bản thân rằng vụ án đã sắp khép lại.
Cửa hiệu của Hobart Stevenson, nằm ngay trung tâm Đại Lộ cực kì đông đúc, có một phong cách mang màu sắc nhiếp ảnh riêng biệt. Cửa sổ của nó trưng bày những chiếc hộp đựng phim nhỏ màu vàng xếp thành hình kim tự tháp. Một chiếc máy quay phim quay ra phía bên ngoài, và phía sau nó là một tấm áp phích trưng ra bức ảnh chụp những khoảnh khắc xuất thần đến khó tin. Từ đây bạn có thể nhìn dọc theo Đại Lộ và thấy cả cửa kính trưng bày của cửa hàng bà Terry, tiếp đến là một cái gara và trạm xăng, một hàng dài những cửa hàng chẳng trưng bày gì ngoài thức ăn, vài quán rượu, và đài phun nước uống ở ngay giữa con đường. Trông Đại Lộ như bị bỏ hoang, bất chấp luồng giao thông chính vẫn ngân nga những tiếng lao vun vút cô đơn và những nhân vật bất động như thể họ đang chăm chú nhìn ra từ những cửa sổ trưng bày các quầy hàng. Từ đây đến The Blue Lion, Elliot có cảm giác như mình bị theo dõi.
Chiếc chuông phía trên cánh cửa phát ra tiếng ping sắc gọn khi họ bước vào. Cửa hàng của Hobart Stevenson rất ảm đạm và đầy mùi hóa chất lờ mờ, nó mang lại cho Elliot những kí ức từ một nơi khác. Nhưng nó là một căn phòng nhỏ gọn gàng, có một mớ chai lọ được bao quanh bởi những cái chai lọ khác, từ chứng chỉ hoạt động được đóng khung trên tường cho tới quả cân của những chiếc cân nằm cạnh quầy thanh toán. Hobart Stevenson – một người thanh niên trẻ tuổi tròn trịa có đôi môi mím chặt, đang mặc bộ vest trắng gọn gàng – luồn ra từ sau quầy thanh toán để gặp họ.
“Thanh tra Elliot đúng không?” anh ta nói. Rõ ràng là anh ta đã quá lo lắng về tầm quan trọng của vụ việc nên khẽ liếc mắt ra ngoài cửa, và đang cân nhắc có nên khóa cửa để không phải tiếp thêm vị khách nào khác không. Mỗi lọn trong bộ tóc dẹp trên đầu anh ta dường như cũng rung lên theo từng chuyển động của đôi mắt; Elliot quan sát anh, và quyết định rằng người này có thể tin được.
“Đây là tiến sĩ Gideon Fell,” Elliot nói. “Xin lỗi vì đã đánh thức anh dậy tối qua.”
“Không có gì, không có gì, tôi không phiền đâu,” Stevenson nói, rõ ràng là không hề bận tâm về điều đó.
“Thế nào? Anh đã có cuộn phim chưa?”
“Đã sẵn sàng hết cho các anh rồi.”
“Nhưng cuộn phim có… Ổn cả chứ? Ý tôi là, nó ra hình thế nào?”
“Không tệ, hoàn toàn không tệ chút nào,” Stevenson trả lời một cách vui vẻ sau khi cân nhắc một chút. Đối với một nhà nhiếp ảnh nghiệp dư thì lời nhận xét đó khá là hào phóng. Anh chà hai bàn tay vào nhau, như thể đang cố xoa dịu điều gì đó. “Có hơi thiếu sáng một chút, hơi hơi thôi.” Anh nghiêng đầu sang một bên, cẩn thận suy xét lại lần nữa. “Nhưng không tệ đâu. Không hề tệ. Không.” Sau đó dường như anh không thể kiểm soát hoàn toàn được sự phấn khích trong người mình. “Tôi hi vọng anh sẽ không phiền, thanh tra. Tôi có chạy cuốn phim đó một lần trên máy chiếu của tôi, chỉ để đảm bảo rằng mọi chuyện đều ổn. Tôi đã sẵn sàng ngay từ lúc thiếu tá đến đây. Nếu anh không để tâm thì tôi xin phép nói rằng, chắc chắn anh sẽ có được vài thứ đáng chú ý trong đó. Những manh mối, tôi nghĩ anh sẽ gọi chúng như vậy.”
Điều anh ta vừa tiết lộ khiến lông tơ sau cổ Elliot dựng ngược. Nhưng anh nói với vẻ tình cờ rất tự nhiên.
“Ồ? Có gì đặc biệt trong đó thế?”
“Những manh mối.” Stevenson lặp lại với thái độ tôn trọng. Anh ta nhìn quanh. “Ví dụ như, vật thể thứ hai mà ông Chesney nhặt từ bàn lên, và giả vờ dùng nó để viết…”
“Vâng?”
“Như tôi đã nói, tôi hi vọng anh không bận tâm. Tôi đã xem qua cuộn phim và phóng to màn hình để hoàn toàn chắc chắn về điều này. Và sau đó mọi chuyện quá đơn giản đến mức tôi bắt đầu phì cười. Bây giờ tôi vẫn chưa ngừng cười được.”
“Vậy sao? Nó là gì thế?”
“Anh sẽ không bao giờ đoán được đâu,” Stevenson quả quyết nói mà không hề bật cười. “Nó là một…”
“S-U-Ỵ-T!” tiến sĩ Fell gầm nhẹ.
Tiếng rít vang rền này hợp làm một với tiếng ping phát ra từ chiếc chuông trên cửa, khi cánh cửa ra vào mở ra và giáo sư Gilbert Ingram bước vào.
Khuôn mặt của giáo sư Ingram không hề xuất hiện sự bất ngờ. Ngược lại, ông đang mang một biểu cảm hết sức hài lòng. Ông đội mũ lưỡi trai và mặc bộ đồ tối màu có quần chẽn gối thụng bằng vải tuýt, thứ không hề làm nổi bật thân hình hơi mập của ông. Nhưng Elliot không để ý đến ánh nhìn thẳng thắn, hay cử chỉ chào hỏi lịch sự của ông, bằng bầu không khí mà ông mang vào cửa hàng. Khi ông ấy đứng trong cánh cửa mở toang, và như thể mọi cái nhìn dữ tợn của Sodbury Cross, tất cả sự tập trung chú ý trong cửa hàng này, đều bị thổi bay vào thông qua cánh cửa như một cơn gió. Bên ngoài trời đang bắt đầu tối hơn báo hiệu cơn mưa sắp đến. Giáo sư Ingram đóng cửa lại.
“Chào buổi sáng, thanh tra,” ông nói. “Và đây, tôi nghĩ, hẳn là tiến sĩ Fell?” (tiến sĩ Fell nhận lời chào với một tiếng ậm ừ thân mật, và giáo sư Ingram mỉm cười.) “Tôi đã nghe rất nhiều điều tuyệt vời về ông, thưa ông, mặc dù tôi không chắc chúng ta có gặp nhau tại một buổi ăn tối hoặc dịp gì đó tương tự như vậy sáu tháng trước hay chưa. Nhưng dù sao, tôi đã được nghe Chesney nói chuyện về ông. Ông ấy đã viết cho ông một lá thư mới chỉ vài ngày trước, tôi nghĩ vậy, đúng không?”
“Đúng thế.”
“Tuy nhiên.” Giáo sư Ingram trở nên nghiêm túc. Ông quay sang Elliot. “Nếu sáng nay tôi ngủ quá giấc, thanh tra, tôi không nghĩ bất cứ ai sẽ trách cứ mình. Tôi đã vắt chân lên cổ mà chạy từ túp lều của mình lên đây.” Ông gồng người lên một cách hài hước để chứng tỏ rằng mình đã hết hơi. “Dường như tối qua tôi có nghe được anh lên kế hoạch cho… Ừm… Buổi xem trước cuộn phim đó ở đây, tại cửa hiệu Stevenson (chào buổi sáng, anh Stevenson!). Tôi không nghĩ mọi người sẽ phản đối mãnh liệt nếu tôi tham gia buổi chiếu cuộn phim đó chứ?”
Một lần nữa bầu không khí lại thay đổi một cách tinh tế. Elliot điềm tĩnh đáp. “Xin lỗi, thưa ông. Tôi e rằng điều đó là không thể.”
Sự thân thiện của Ingram bắt đầu biến thành bối rối. “Thật vậy ư, thanh tra?”
“Xin lỗi ông. Chính chúng tôi cũng chưa được xem nó nữa. Có lẽ ông sẽ có cơ hội xem cuộn phim này vào một thời điểm thích hợp hơn.” Khi anh nói đến đây cả căn phòng trở nên yên lặng.
“Thanh tra, anh không nghĩ rằng như vậy là hơi bất công sao?” giáo sư Ingram hỏi, với một sự thay đổi rất nhẹ trong giọng nói. “Dù sao, tôi đến với anh như một nhân chứng về chuyên môn. Tôi đã giúp anh với tất cả khả năng của mình, và chính anh người đầu tiên thừa nhận sự giúp đỡ ấy đã đem đến những chỉ dẫn hiệu quả. Nên đương nhiên tôi phải lo lắng xem coi liệu tôi có đúng không chứ.”
“Xin lỗi ông.”
Elliot di chuyển lùi lại phía quầy thanh toán. Anh va vào chiếc cân máy, khiến quả cân rung lên. Liếc mắt về bên trái, anh bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trong một tấm gương ảm đạm treo trên tường. Và khi bất ngờ nhận ra rằng đa phần những người bán dược phẩm phải có những tấm gương như thế để biết có khách hàng nào vào cửa hàng không trong khi anh ta đang bận loay hoay ở sau phòng chứa thuốc, Elliot lại phải tìm hiểu xem những sự trùng hợp đó là tốt hay xấu. Nhưng phần lớn cái liếc mắt của anh là để quan sát giáo sư Ingram – người đã chăm chú nhìn ra dưới chiếc mũ vải tuýt, và bật cười.
“Chà, cũng không sao,” giáo sư nói, trông sung sức, bận rộn và vui nhộn trở lại. “Tôi sẽ phải kiềm chế bản năng tò mò lại, vậy thôi, mặc dù anh đã làm tổn thương thói tự cao tự đại của tôi quá chừng đấy.” Ông ngừng lại để cân nhắc. “Đúng vậy, chính nó: thói tự cao. Tuy nhiên, nếu anh không phiền, tôi thực sự muốn mua vài thứ, và sau đó tôi hứa sẽ không gây trở ngại nữa. Ông Stevenson! Một gói lưỡi dao cạo râu loại thường. Và một hộp thuốc viên thanh quản Strymo, cỡ nhỏ. Đúng, ở đó. Ồ, và anh có thể đưa tôi…”
Ông di chuyển dọc theo quầy tính tiền, và tiếp tục nói một cách nghiêm túc hơn:
“Tôi phải đến Bellegarde. Sẽ có một đám tang được tổ chức sau cuộc khám nghiệm tử thi, và tôi biết chiều hoặc tối nay Vickers sẽ từ Bath đến để đọc di chúc. Ngoài ra, tôi đang băn khoăn không biết Wilbur Emmet đã tỉnh lại hay chưa nữa.”
“Tôi cho rằng,” tiến sĩ Fell quan sát và bỗng bất ngờ nói. Ông lên tiếng một cách đột ngột đến nỗi tất cả bọn họ đều bị giật mình một chút. Chuyện đó như thể ông ấy bỗng đưa tay ra và nói chuyện với ai đó trên đường vậy. “Ông có giả thuyết nào đó đúng không?” tiến sĩ hỏi với vẻ cực kì hứng thú.
“A!” giáo sư Ingram nói. Ông đang cúi xuống chỉ vào vài loại thuốc trong tủ bày hàng thấp hơn, nhưng ông nhanh chóng đứng thẳng lên. “Nếu tôi có, thưa ông, liệu đây có phải là thời gian hay địa điểm để trình bày điều đó không?”
“Không sao…”
“Không sao, như ông nói! Bây giờ, thưa ông, ông là một người thông minh. Tôi nghĩ tôi có thể dựa vào ông được.” (Elliot đột nhiên hoàn toàn bị lờ đi như thể anh là một người phụ nữ trẻ bằng giấy bìa có kích thước người thật đang quảng cáo xà phòng ở khuỷu tay mình.) “Tối qua tôi đã nói với thanh tra rồi, tôi đã nói với tất cả bọn họ tới vài lần, rằng họ đang tiếp cận vụ này không đúng hướng, rằng họ đã KHÔNG HỀ cân nhắc đến yếu tố quan trọng duy nhất ở đây. Ý tôi, dĩ nhiên, là động cơ gây án.” Khuôn mặt ông đỏ lên, có vẻ như đang tập trung. “Tôi không cần thảo luận về chuyện đó lúc này. Nhưng tôi cần phải nói một điều. Ông đã nghe vê động cơ giết người, một trong những động cơ có tác động mạnh nhất với tâm lí học tội phạm, thứ đại khái có thể gọi là ham muốn quyền lực chưa?”
“Ôi trời,” tiến sĩ Fell nói.
“Xin lỗi ông?”
“Không, là tôi xin lỗi,” tiến sĩ Fell nói một cách nghiêm túc và có phần có lỗi. “Chỉ là tôi hầu như không hề mong đợi mọi chuyện lại lao vào tôi sớm như vậy thôi.”
“Ông phản đối nó sao? Hãy nói tôi biết: ông có tin rằng, vụ đầu độc tại cửa hàng của bà Terry và vụ đầu độc tối qua được thực hiện bởi hai thủ phạm khác nhau không?”
Tiến sĩ Fell cáu kỉnh đáp. “Không. Ngược lại, tôi gần như chắc chắn rằng chúng được thực hiện bởi cùng một người.”
“Tốt. Vậy thì đâu là mối liên kết khả thi giữa hai vụ đó? Và một động cơ gây án khả thi khác đang nằm ở đâu?”
Chiếc máy đếm tiền kêu lên một cách sắc lạnh. Giáo sư Ingram, đưa tay nhận về một gói hàng, quay lại một chút và nhìn nó như thể gói hàng đã khiến ông nảy ra một ý tưởng mới. “Tôi chỉ có thể nói lại lần nữa: chỉ có một động cơ duy nhất cho cả hai vụ án mạng. Kẻ giết người chẳng đạt được gì từ việc giết Frankie Dale đáng thương và gần như giết những đứa trẻ nhà Anderson. Hắn ta cũng chẳng được gì từ việc giết Marcus Chesney. Ý tôi là về mặt vật chất. Cả Marjorie và Joe Chesney, như tất cả chúng ta đều biết, sẽ được thừa kế một khối lượng tài sản lớn. Nhưng tên giết người,” nói đến đây ông mở mắt ra, “lại chẳng thu được gì. Chà, tôi không nên đứng đây nói chuyện và làm mất thời gian làm việc của các anh. Chào ông, tiến sĩ Fell. Chào anh, anh Stevenson. Chào anh.”
Ông ấy không đóng cửa hoàn toàn khi bước ra ngoài. Có cảm giác lớp kiếng rung nhẹ khi một chiếc xe tải chạy qua Đại Lộ gây ra tiếng động ầm ầm như sấm. Mùi không khí ẩm lạnh và mùi ẩm mát của những cái cây tràn vào, khuấy động mùi hóa chất trong cửa hiệu lên. Tiến sĩ Fell đang huýt sáo thầm bản “Auprès de Ma Blonde”. Elliot, người biết những dấu hiệu này, tỏ ra do dự.
Sau đó tiến sĩ nhấc chiếc gậy chống cầm tay của mình lên và chỉ về hướng cánh cửa.
“Tôi đảm bảo với anh tôi không phải một người nghi ngờ thái quá,” ông nói. “Nhưng quý ông đó có chứng cứ ngoại phạm đúng không?”
“Một chứng cứ cứng như gang đúc. Đó là rắc rối. Những chứng cứ ngoại phạm ở đây không phải cái kiểu một ai đó, bằng cách dùng thủ thuật với tàu lửa hoặc xe ô tô, có thể thực hiện một bước nhảy ma thuật từ nơi này đến nơi khác. Các chứng cứ ngoại phạm lần này hầu hết đều là việc xác nhận sự hiện diện của một người qua những người khác. Ngoài ra thì có một trường hợp khác, thì bằng chứng ngoại phạm là thông qua một chiếc đồng hồ không thể bị can thiệp. Không thể có thắc mắc gì…”
Elliot kìm bản thân lại, anh bất ngờ nhận ra rằng mình đang nói chuyện trước một người ngoài như Hobart Stevenson. Anh cũng có thể thề rằng khuôn mặt của Stevenson đã xuất hiện một tia sáng thực sự thích thú khi nghe vài điểm trong những lời nhận xét vừa rồi của anh. Người bán dược phẩm, người đã trở nên nghiêm trang chuyên nghiệp trở lại, đang cố gắng để kìm lại một bí mật cực lớn.
Vậy nên Elliot sắc bén nói. “Anh đang dở chuyện với chúng tôi một phút trước, đúng không anh Stevenson?”
“Thành thật mà nói, thanh tra, tôi mong anh tự mình thấy chuyện đó. Nếu anh tin tưởng…”
“Ê!” tiến sĩ Fell nói.
Tiến sĩ đã lê thân và đẩy mình vòng đến phòng thuốc phía sau quầy thanh toán. Stevenson, rõ ràng đã bị mê hoặc bởi vị khách to lớn này, lập tức theo sau ông. Tiến sĩ Fell hào hứng nhìn chăm chú xung quanh.
“Anh cách li những chất độc ở đây thế nào?” ông hỏi, như kiểu hỏi thăm cách thoát nước thế nào.
“Theo từng nhóm thường dùng, thưa ông.”
“Có axit xyanhydric hay kali xyanua không?”
Lần đầu tiên từ khi đến đây, Stevenson mới tỏ vẻ hơi căng thẳng. Anh ta vuốt tóc ngược ra sau với cả hai tay, hắng giọng, và chuẩn bị đâu ra đấy.
“Không, không có axit xyanhydric. Tôi có một hay hai chế phẩm của kali xyanua. Nhưng, như tôi đã nói với ông Bostwick sáng nay…”
“Chúng bán chạy không?”
“Tôi không bán được đơn hàng nào trong mười tám tháng. Này, tôi nghĩ nói với ông cũng không sao chứ?” Anh ta nhìn Elliot, người đã tham gia cùng họ trong một lối đi chật chội và mờ tối giữa những cái chai, một cách đầy nghi ngờ. “Như đã nói, sáng nay tôi đã trả lời những câu hỏi của sĩ quan rồi. Và nếu anh đang nghĩ (tôi nói chỉ giữa chúng ta thôi đấy) nếu anh đang nghĩ có bất cứ ai ở Bellegarde từng mua KCN từ bất cứ đâu, bất cứ người nào, để sử dụng trên cây ăn trái… Chà, tôi cho rằng, chuyện đó khó mà xảy ra được. Mức nhiệt độ trong những nhà kính đó quanh năm được giữ từ năm mươi đến tám mươi độ F, nên phun KCN vào bên trong sẽ đơn thuần giống như tự sát vậy.”
Việc này thực sự không khiến Elliot ngạc nhiên lắm.
“Tôi có thể cho anh xem bản đăng kí của tôi, nếu anh muốn,” Stevenson thêm vào.
“Không, không. Thành thật mà nói,” tiến sĩ Fell lên tiếng. “Tôi có hứng thú với nhiếp ảnh hơn. Đây dường như là một căn nhà của nghệ thuật nhiếp ảnh.” Ông nhìn thoáng qua xung quanh. “Nói tôi nghe coi. Anh có bán những bóng đèn dùng để chụp ảnh chứ?”
“Những bóng đèn dùng để chụp ảnh? Chắc chắn rồi.”
“Giờ, hãy cho tôi biết,” tiến sĩ Fell nói. “Giả sử tôi đã lắp một trong những cái bóng đèn đó vào đui, và bật nó lên, và giữ nó sáng đều. Nó có thể sáng được bao lâu trước khi không cháy được nữa?”
Stevenson nhìn thoáng qua ông.
“Nhưng ông không thể làm như vậy,” anh chỉ ra với vẻ khôn ngoan. “Ông chỉ ‘giữ nó sáng’ trong khi…”
“Đúng, đúng, tôi biết. Nhưng giả sử tôi là một kẻ lập dị. Giả như tôi lắp nó vào đui và cứ để đó. Nó sẽ sáng trong bao lâu?”
Người bán thuốc cân nhắc điều này.
“Tôi nghĩ là nó sẽ dùng tốt trong khoảng hơn một tiếng.”
“Anh có chắc chắn về điều đó không?”
“Vâng, thưa ông, khá chắc. Theo tôi được biết thì những thứ đó mang lại lợi nhuận tốt nhất mà.”
“Hmm. Ra thế. Có ai ở Bellegarde mua bóng đèn chụp ảnh từ cửa hàng của anh vào sáng hôm qua không?”
Stevenson tỏ vẻ quan trọng. “Sáng hôm qua? Để tôi nghĩ đã.” (Anh ta không thật sự cần nghĩ về điều đó, Elliot quan sát.) “Có, cô Wills đã mua. Cô ấy đến cửa hàng vào khoảng mười giờ sáng và mua một cái. Nhưng, nếu ông không bận tâm tôi hi vọng ông không định trích dẫn hết mọi điều tôi nói. Tôi không muốn nghe bất cứ điều gì về bất cứ ai ở Bellegarde hết.”
“Cô Wills có thường mua chúng không?”
“Không thường, nhưng cũng thỉnh thoảng.”
“Mua cho chính cô ấy dùng à?”
‘‘Không, không, không. Mua cho ông Chesney. Thỉnh thoảng họ có chụp ảnh trong nhà tại các nhà kính. Những quả đào, anh biết đấy, mẫu vật, và quảng cáo, những thứ tương tự. Hôm qua ông ấy đã bảo cô ấy mua một cái bóng đèn.”
Tiến sĩ Fell nhìn Elliot. “Thanh tra, anh có ghi lại rằng, cô Wills nói cái bóng đèn được sử dụng tối qua là một cái bóng mới do cô ấy tự mua.” Ông quay lại với Stevenson lần nữa. “Vậy là, bản thân cô Wills không học đòi trong nhiếp ảnh, đúng không?”
“Không, không, không hề. Cô ấy chưa bao giờ mua bất cứ thứ gì ở đây để sử dụng trong nhiếp ảnh cả.”
Andrew Elliot nhìn lên, bị kí ức đâm nhói. Và trong vài giây, như một bánh xe quay ngược, anh đã nhìn thấy Marjorie Wills nhìn mình trong tấm gương.
Tất cả bọn họ không hề nghe được tiếng ping nào từ cái chuông phía trên cánh cửa. Cánh cửa vẫn khép hờ, di chuyển và kêu cót két một chút. Họ cũng không hề nghe được tiếng bước chân. Những gì họ nghe được, khi Elliot ngước lên và thấy bản thân mình đang nhìn chăm chú vào khuôn mặt đầy đủ trong chiếc gương cách chưa đến năm feet, là một giọng nói rõ ràng, mềm nhẹ, phát âm từng từ chậm rãi của người dược sĩ.
Sự phản chiếu xuất hiện đột ngột như thể trượt ra từ phía sau khung cảnh nào đó. Đôi môi cô ấy hơi mở ra, và cô ấy đang đội cùng một chiếc mũ mềm màu xám. Một bàn tay đeo găng của cô đang giơ lên một nửa, như chỉ vào thứ gì đó. Nhìn thẳng vào đôi mắt cô trong tấm gương mờ, Elliot đã thấy, ký ức về một gương mặt đang dần trở lại trong đôi mắt ấy.
Cô ấy đã nhớ.
Marjorie Wills đặt ngón tay lên miệng, như một đứa trẻ.
Và ngay lúc đó cửa trước xảy ra vụ vỡ kính, tiếng loảng xoảng của những mảnh kính vỡ rơi xuống và cuối cùng là một tiếng leng keng chậm rãi lan ra trong không gian tĩnh mịch, khi có ai đó từ đường phố bên ngoài ném một viên đá vào Marjorie Wills.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Vụ Án Viên Nhộng Xanh
John Dickson Carr
Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr
https://isach.info/story.php?story=vu_an_vien_nhong_xanh__john_dickson_carr