Trật Tự Đen epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 10 - Camelot - Lâu Đài Đen Trong Mộng
giờ 32 phút sáng
Tại Wewelsburg, Đức
— Đội quân SS khởi đầu là đội vệ sĩ riêng cho giáo sư nói bằng tiếng Pháp, dẫn dắt những khách đần độn xuyên qua tâm nhà bảo tàng Wewelsburg. Thật ra, thuật ngữ SS xuất phát từ tiếng Đức, Schutzstaffel, nghĩa là “cảnh vệ độc lập”. Chỉ về sau chúng mới trở thành là Đội Trật tự Đen của Himmler.
Gray bước sang một bên khi nhóm khách du lịch đi qua. Trong khi đợi giám đốc nhà bảo tàng, anh đã nghe lén những người trong đoàn đủ nắm được căn bản của lịch sử tòa lâu đài. Himmler đã thuê lâu đài cho duy nhất Reichsmark, rồi tiêu một phần tư tỉ xây dựng lại lâu đài thành một tòa lâu đài Camelot riêng cho mình, một cái giá nhỏ so với giá của xương máu và nỗi đau con người.
Gray đứng bên cạnh một lồng trưng bày bộ đồng phục sọc nhà tù từ trại tập trung Niederhagen.
Tiếng sấm ầm ầm từ phía sau những bức tường làm những cánh cửa sổ cũ kêu lách cách.
Khi nhóm du khách cuốn đi, giọng giáo sư dịu dần, thay vào đó là tiếng bi bô khác của vài khách thăm quan, tất cả đều đang tìm kiếm chỗ trú cơn bão.
Monk đứng với Fiona. Ryan đã đi tìm người giám đốc. Monk tựa xuống xem xét một trong số những vòng đai Toten Kopf khét tiếng trên bàn trưng bày, một băng dải bạc cấp cho những sĩ quan SS. Nó được khắc với những chữ Run, cùng với một đầu lâu xương chéo. Một tác phẩm nghệ thuật ghê rợn, chín muồi của chủ nghĩa biểu trưng và quyền lực.
Những vật trưng bày khác được bày ngang qua sảnh nhỏ: những mô hình thu nhỏ, những ảnh chụp cuộc sống hàng ngày, đồ dùng cá nhân của quân SS, thậm chí một ấm trà bé tí đến lạ mà đã từng thuộc về sở hữu của Himmler. Một,dãy chữ Run tạo dáng mặt trời trang trí cái ấm trà.
— Ông giám đốc đến đây rồi, - Monk nói, bước đến gần hơn. Anh gật đầu về hướng một người quý phái lùn, mập bước ra từ một cái cửa riêng. Ryan đi cạnh người đó.
Giám đốc nhà bảo tàng có vẻ ở độ cuối tuổi năm mươi, tóc muối tiêu, bộ comlê đen nhàu nhĩ. Khi ông ta đi đến, ông gỡ bỏ cặp kính và chìa tay về phía Gray.
— Tôi là tiến sĩ Dieter Ulmstrom, - người đàn ông nói. - Giám đốc Nhà bảo tàng Historisches của Hochstiíts Paderborn. Wilkommen.
Cái nhìn bực bội phản lại lời chào.
Anh ta tiếp tục nói:
— Cậu Ryan này vừa giải thích rằng các vị đến để điều tra một số chữ Run tìm thấy trong một cuốn sách cổ. Hứng thú đây.
Lại lần nữa, người này tỏ ra khó chịu nhiều hơn là hứng thú.
— Chúng tôi sẽ không giữ ngài lâu đâu. - Gray nói. - Chúng tôi tự hỏi liệu ngài có thể giúp đỡ chúng tôi xác định một chữ Run đặc biệt cùng ý nghĩa của nó.
— Chắc chắn rồi. Nếu có thứ gì mà một giám đốc bảo tàng tại Wewelsburg thông thạo thì đó là kiến thức về chữ Run.
Gray vẫy tay cho Fiona lấy cuốn Kinh thánh Darwin. Cô bé đã lôi sách ra rồi.
Lật bìa sách, Gray chìa cuốn sách ra.
Mím đôi môi, tiến sĩ Ulmstrom thay kính và nhìn sát hơn. Ồng đọc kỹ chữ Run do Hugo Hirszfeld viết bằng mực trên bìa giấy bồi sau.
— Tôi có thể xem cả cuốn sách được không, chút thôi? Sau một thoáng ngập ngừng, Gray bằng lòng.
Giám đốc lật qua những trang sách, dừng lại để xem một vài chỗ như vết chân gà đánh dấu trong sách.
— Một cuốn Kinh thánh… lạ nhỉ.
— Chính ký hiệu ở bìa sau ấy, - Gray giục.
— Tất nhiên. Đó là chữ Run Mensch.
— Mensch, - Gray nói. - Như trong tiếng Đức nghĩa là “người” à.
— Vâng. Chú ý hình này mà xem. Như một cái cành que bị bấm ngọn. - Vị giám đốc lướt nhanh tối những trang trước. - Cụ cố của Ryan có vẻ rất lưu luyến với những ký hiệu liên quan đến Tất cả - Cha.
— Ý ngài nói là gì? - Gray hỏi.
Ulmstrom trỏ vào một trong những vết xây xát trên những trang trong cuốn Kinh thánh.
— Chữ Run đây là chữ K, - giám đốc nói, - cũng gọi là Ken trong tiếng Anglo - Saxon. Nó là một chữ Run cổ hơn cho người, chỉ có hai cánh tay giơ lên trên, một chân dung thô thiển hơn. Và trên trang khác này là phép ánh xạ gương của chữ Run đó.
Ông lật tiếp một vài trang và chỉ tay vào một dấu khác.
— Hai ký hiệu đại loại như hai mặt của cùng một đồng tiền. Âm và Dương. Giống cái và giống đực. Bóng tối và ánh sáng.
Gray gật đầu. Nó gợi lại cho anh nhớ tới những lối thảo luận của Ang Gelu khi anh học với các nhà sư đạo Phật, tất cả các xã hội có vẻ được xuyên suốt bằng hai mặt đối lập này. Thoáng mông lung này làm anh sực quan tâm đến Painter Crowe. Tới giờ vẫn không có tin tức gì từ Nê - pan.
Monk nắn lại chủ đề câu chuyện.
— Những chữ Run này? Chúng có liên quan gì đến ông cố Tất cả - Cha?
— Tất cả ba chữ này đều liên quan. Có tính tượng trưng. Chữ Run lớn, chữ Run Mensch, thường được coi là đại diện Thần Thor Bắc Âu, người mang lại cuộc đời, một trạng thái cao hơn của hiện thân. Chúng ta đều đang phấn đấu để trở thành như thế.
Tâm trí của Gray cố tìm lồi giải qua câu trả lời, vẽ nó trong đầu mình.
— Và hai chữ Run này, chữ K này, chúng hình thành hai nửa của chữ Run Mensch.
— Hử? - Monk kêu lên.
— Như thế này. - Fiona nói, ra chừng hiểu biết, sử dụng ngón tay mình, cô bé vẽ lên lớp bụi phủ trên một tủ kính trưng bày. - Bạn đẩy hai chữ Run có hai cánh tay vào cùng nhau hình thành chữ Run Mensch. Giống trò chơi ghép hình ý.
— Tốt. - Vị giám đốc nói. ông ta vỗ vào hai chữ Run đầu.
Những chữ này thể hiện con người nói chung, trong tất cả tính hai mặt, khớp vào nhau cùng nhau đế hình thành Tất cả - Cha, một hiện thân tối cao. - Ulmstrom trao cuốn thánh trả lại cho Gray và lắc đầu. - Những chữ Run này chắc chắn ám ảnh cụ cố của Ryan.
Gray nhìn chằm chằm vào ký hiệu trên bìa sau.
— Ryan này, Hugo là một nhà sinh vật học, đúng không?
Ryan động đậy. Cu cậu có vẻ phiền lòng vì tất cả chuyện này.
— Vâng. Cũng như bà cô của tôi, Tola.
Gray gật đầu chậm chạp. Quân Quốc xã luôn quan tâm đến siêu nhân thần thoại, Tất cả - Gha, chủng tộc Aryan đã sinh ra từ cội nguồn đó. Tất cả những chữ nguệch ngoạc này, có phải đó chỉ là tuyên bố của Hugo về niềm tin vào giáo điều Quốc xã? Gray không nghĩ như vậy. Anh nhớ Ryan mô tả những ghi chép của ông cố, vỡ mộng của các nhà khoa học - và rồi ghi chú bí hiểm cho em gái, một gợi ý cho một bí mật, một cái gì đó quá đẹp không thể chết được và quá quái dị không thể để mọi người tự do biết được.
Từ nhà sinh vật học này sang nhà sinh học khác.
Anh cảm thấy chính mọi thứ ràng buộc với nhau: những chữ Rune, Tất cả - Cha, một nghiên cứu nào đó đã bị hủy bỏ từ lâu. Bất kể đó là bí mật nào, dường như cũng đáng hủy đi.
Ulmstrom tiếp tục nói:
— Chữ Run Mensch cũng có được bọn Quốc xã quan tâm đặc biệt. Chúng thậm chí đổi tên thành chữ Leben - Run.
— Chữ Run cuộc sống à? - Gray hỏi, chú trọng lại đến trọng tâm vấn đề.
— Vâng. Chúng thậm chí sử dụng nó để đại diện cho chương trình Lebensborn.
— Cái đó là cái gì? - Monk hỏi.
Gray trả lời.
— Một chương trình sinh sản Quốc xã. Canh tác để sản sinh nhiều hơn bọn trẻ con tóc vàng hoe, mắt xanh.
Giám đốc gật đầu.
— Nhưng giống như tính hai mặt của chữ Run K, Leben - Run cũng có phép ánh xạ gương của nó. - Ông ra hiệu cho Gray lật úp cuốn Kinh thánh xuống, che lấp ký hiệu đi. - Khi lộn lại, Leben - Run trở thành phần đối xứng với nó. Toten - Run.
Monk chau mày nhìn Gray.
Anh dịch.
— Chữ Run của cái chết.
***
• 0 giờ 37 phút chiều
Himalayas
Thần Chết đếm tích tắc từng giây.
0 giờ 55 phút
Painter đứng với thiết bị hẹn giờ đeo cổ tay mụ thích khách đã chết.
— Không đủ thời gian để chạy bộ ra khỏi đây. Không bao giờ thoát khỏi vùng nổ.
— Rồi cái gì…? - Mụ Anna hỏi.
— Máy bay trực thăng, - Painter nói và chỉ tay về phía cửa sổ. Một chiếc máy bay trực thăng Ngôi sao A mà dùng để nhảy cóc ở đây vẫn còn đậu bên ngoài lâu đài, động cơ vẫn ấm.
— Những người kia. - Anna hướng về phía điện thoại, sẵn sàng báo động.
— Không có thời gian. - Gunther sủa nhặng lên, chặn mụ lại.
Y gõ khẩu súng trường ra, khẩu súng Nga kiểu A - 91 Bullpup. Tay kia, y giật mạnh một ống lựu đạn từ dây nịt ra và nhét nó vào khẩu súng trường phóng lựu 40 ly.
— Đây cơ! - Y lao những bước dài tới những chiếc bàn rộng chỗ Anna. - Nhanh lên!
Y trở khẩu súng trường cầm dọc tay y về phía cửa sổ chấn song kẽm gai của căn phòng
Painter chụp lấy tay Lisa và chạy tìm chỗ nấp. Anna chạy bám gót họ. Gunther đợi cho đến khi họ đến sát đủ gần và bắn. Một luồng lửa phụt ra từ khẩu súng chắc như đá.
Tất cả nhảy nấp sau cái bàn.
Gunther ôm lấy cô em gái của y quanh thắt lưng và lăn đè mình lên trên người mụ. Quả lựu đạn nổ chói tai. Painter cảm thấy tai mình như bật ra. Lisa bịt chặt tay vào tai. Sức ép đẩy cái bàn lùi hẳn nửa mét. Những mẫu đá và kính đâm vào mặt bàn. Bụi đá và khói sặc sụa.
Gunther lôi Anna đứng dậy. Họ không lãng phí một lời. Ngang qua thư viện, một lỗ rách nham nhỏ bị thổi tung suốt ra ngoài. Những cuốn sách - bị xé vụn và bắt lửa - vương vãi trên sàn nhà và đã bị thổi hắt vào trong cái sân.
Họ chạy tìm lối thoát ra.
Chiếc máy bay trực thăng đậu bên ngoài trên chỗ núi nhô ra. Cách đó khoảng bốn mươi bộ. Nhảy qua đám hỗn độn khu vực nổ, họ chạy nước rút tối chiếc máy bay trực thăng.
Painter vẫn còn nắm chặt trong tay thiết bị hẹn giờ treo cổ tay. Anh không xem nó cho đến khi họ tới chỗ máy bay. Gunther đến chỗ chiếc trực thăng trước hết và mở toang cánh cửa sau. Painter giúp Anna và Lisa vào, và nhồi mình vào sau họ.
Gunther đã ngồi trong ghế phi công. Những khóa dây đai an toàn bật tanh tách vào chốt. Painter liếc nhìn tới thiết bị hẹn giờ. Không phải là để xem nó có được việc gì hay không. Hoặc là họ thoát khỏi vùng nổ hoặc là không thoát.
Anh nhìn chằm chằm vào con số. Mạch máu trong đầu đập thình thình, chọc căng mắt anh rất đau. Anh vừa đủ sức đọc được số.
• 0 giờ 9 phút
Không còn thời gian nữa.
Gunther khỏi động máy. Painter liếc nhìn lên trên. Những rô - to đã bắt đầu quay… chầm chậm, quá chậm. Anh liếc nhìn ra ngoài cửa sổ bên. Chiếc cào cào này đậu chênh vênh trên đỉnh núi dốc đầy tuyết, gờ dày thêm từ cơn bão tuyết đêm trước. Bầu trời phía xa lốt phớt những đám mây, và sương băng còn treo trên vách đá và những thung lũng.
Ngồi trên ghế trước, Gunther phì phò nguyền rủa. Con chim sắt từ chối leo vào làn không khí mỏng manh, nếu không đạt tốc độ rô - to tột đỉnh.
• 0 giờ 3 phút
Họ có lẽ không bao giờ làm được.
Painter nắm lấy bàn tay Lisa.
Anh bóp chặt - rồi thình lình thế giới nâng lên và lại sập xuống. Một tiếng bùm trống rỗng vang lên phía xa. Tất cả bọn họ nín thở, sẵn sàng bị thổi tung khỏi núi. Nhưng không có gì khác xảy ra. Rốt cuộc, sự thể không quá tồi tệ như vậy.
Nhưng rồi gờ đua ra, ở trên đó họ đang đậu chênh vênh, vỡ ra. Chiếc máy bay Ngôi sao - A nghiêng chúi mũi xuống trước. Rô - to cánh quạt khuấy vô ích ở trên đầu. Toàn bộ dốc tuyết trượt xuống một mảng, rã rời khỏi núi, kéo theo chiếc máy bay trực thăng.
Họ lao thẳng hướng vào cạnh vách đá. Tảng tuyết đập qua mỏm vách đá lộn tùng phèo.
Nền xóc bập lần nữa… lại một tiếng nổ khác.
Chiếc cán gáo rơi tự do, nhưng không chịu bay.
Gunther đánh vật với những núm điều khiển, kéo le.
Dốc vách đá lao vun vút về phía họ. Có thể nghe thấy tiếng tuyết đổ lẫn trong tiếng gầm của chiếc máy bay trực thăng, đổ rầm rầm như lũ cấp 5
Lisa ép vào sườn Painter, bàn tay cô trắng bệch đan vào những ngón tay anh. Bên sườn kia, Anna ngồi thẳng đơ như que củi, mặt bệch, mắt dán về phía trước.
Phía trước, Gunther im re như chết, khi họ bị bốc qua dốc đứng.
Bị đẩy tách khỏi vách, máy bay rơi nghiêng, tuyết rơi bên dưới họ, đằng sau họ. Rơi nhanh chiếc máy bay hốt hoảng, chệch tới chệch lui. Những vách đá dốc đứng thấy mọc lên vun vút tứ phía.
Không ai nói một lời. Tiếng rô - to cánh quạt ré lên thay cho tất cả bọn họ.
Rồi đúng như vậy, chiếc máy bay tìm thấy bầu trời. Không còn bị xóc nữa, như thang máy chạy đến một điểm dừng, chiếc máy bay Ngôi sao - A vững vàng bay. Gunther càu nhàu sau bục điều khiển… chậm chạp, chậm chạp, chuyển động theo hình xoắn ốc chiếc máy bay khéo léo hướng lên.
Phía trước, mảng băng lở cuối cùng rơi võ tan tành trên mặt vách đá.
Chiếc trực thăng leo lên đủ độ cao khảo sát tình hình thiệt hại của lâu đài. Khói bị nghẹt ở tất cả các khung cửa sổ. Những cánh cửa ra vào của lâu đài đã bị thổi bay di. Qua sườn ngọn núi, một cột khói đen dày mọc lên trong bầu trời, đến từ bãi đậu máy bay phía xa.
Anna ngồi sụp xuống, bàn tay đặt trên cửa sổ bên cạnh.
— Gần một trăm năm mươi người đàn ông và phụ nữ.
— Có thể vài người thoát chết. - Lisa nói dớ dẩn, mắt không chớp.
Chẳng thấy vật gì cử động phía dưới.
Chỉ có khói.
Anna chỉ tay về phía lâu đài, - Đúng ra chúng ta phải tìm.
Nhưng không có ai tìm kiếm, không có ai cứu giúp.
Chưa từng.
Một luồng trắng chói mắt lóe sáng, như một ánh chớp, cháy phụt bùng ra từ tất cả các cửa sổ. Bên sườn núi, một bình minh hồ quang natri. Không có tiếng ồn nào. Như tia chớp nhiệt hạch. Nó cháy vào võng mạc, đóng sập tất cả tầm nhìn.
Mù, Painter cảm thấy chiếc trực thăng lắc lơ lên trên khi Gunther giật mạnh trên cần lái. Một tiếng ồn ập vào, tiếng ầm ầm vang động của đá tảng vỡ tan tành. Chói tai. Không chỉ là đất lở. Nó nghe như kiến tạo học, những mảng lục địa xếp nếp nghiến vào nhau.
Chiếc trực thăng run rẩy trong không trung, như một con ruồi bị lắc trong hộp.
Cảnh vật đau đớn quay trở lại..
Painter dán mặt vào cửa sổ và nhìn xuống bên dưới.
— Lạy Chúa. - Anh kinh hãi thốt lên lời.
Bụi đá làm mờ tối hầu hết cảnh quan, nhưng không thể che giấu phạm vi phá hủy. Toàn bộ sườn núi oằn cong hõm vào. Vách đứng bằng đá hoa cương phía trên lâu đài đã đổ sụp, cứ như tất cả những gì dưới mảng vách đá đó - tòa lâu đài và một phần của quả núi - đơn giản đã biến mất tăm.
— Không thể thế được. - Anna lầm bầm, sững sờ.
— Cái gì?
— Hủy diệt đến như vậy… nó phải là một quả bom ZPE.
Đôi mắt mụ lấp lánh.
Painter đợi mụ giải thích.
Mụ giải thích sau một hơi thở run run.
— ZPE. Năng lượng điểm không. Những công thức của Einstein dẫn tới quả bom hạt nhân đầu tiên, giải phóng những năng lượng của một vài nguyên tử Uranium. Nhưng cái đó không là gì khi so sánh với sức mạnh tiềm tàng ẩn giấu bên trong những lý thuyết lượng tử của Planck. Những quả bom như vậy giải phóng chính thứ năng lượng có cội nguồn từ vụ nổ vũ trụ.
Yên lặng trong cabin.
Anna lắc đầu.
— Thử nghiệm nguồn nhiên liệu cho Cái chuông - Xerum 525 - được gợi ý có thể sử dụng năng lượng điểm không như một vũ khí. Nhưng chúng ta không bao giờ theo đường lớn đó với bất kỳ chủ ý thực sự nào.
— Nhưng có kẻ khác đã làm, - Painter nói. Anh hình dung mụ thích khách tóc vàng hoe ánh băng đã chết.
Anna quay sang phía Painter, mặt mụ hằn lên rùng rợn và bật nói lời gay gắt:
— Chúng ta phải chặn chúng lại.
— Nhưng là ai? Ai là chúng?
Lisa khuấy lên.
— Tôi nghĩ chúng ta có thể tìm ra. - Mụ chỉ tay qua mạn máy bay.
Qua gờ của một đỉnh núi lân cận, một bộ ba máy bay trực thăng xuất hiện, ngụy trang màu trắng trên nền những đỉnh núi trắng băng hà. Chúng dãn đội hình bay và lướt về phía chiếc Ngôi sao - A cô đơn.
Painter đủ thạo không chiến để nhận biết thế dàn trận.
Đội hình chuẩn bị tấn công.
***
• 9 giờ 32 phút sáng
Wewelsburg, Đức
— Tháp Bắc là đường này. - Tiến sĩ Ulmstrom nói.
Giám đốc nhà bảo tàng dẫn Gray, Monk, và Fiona ra phía sau phòng lớn chính. Ryan trước đó đã đi một lát với người phụ nữ mảnh mai mặc đồ vải tuýt, một chuyên viên lưu trữ của nhà bảo tàng, để sao chụp bức thư và vài tài liệu khác của Hugo Hirszfeld có nội dung nghiên cứu của cụ cố của cậu. Gray cảm thấy anh sắp được sáng tỏ vài câu trả lời, nhưng anh cần nhiều thông tin hơn.
Để đạt tới kết quả đó, anh đồng ý đích thân giám đốc dẫn thăm lâu đài của Himmler. Chính nơi đây là nơi Hugo đã bắt đầu kết nối với bọn Đức quốc xã. Gray cảm thấy cần phải dấn lên khi anh cần càng nhiều thông tin nền tảng càng tốt - và còn ai giỏi cung cấp thông tin đó hơn người phụ trách bảo tàng?
— Để thực sự hiểu đúng bọn Quốc xã, - Ulmstrom đi trước dẫn đường nói - bạn đừng coi chúng như một chính đảng. Chúng tự gọi là Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei - Đảng Chủ nghĩa xã hội Quốc gia Công nhân Đức - nhưng trong thực tế, chúng thật sự là sùng bái.
— Một sự sùng bái? - Gray hỏi.
— Chúng bày ra tất cả những trò bẫy lừa, vâng? Một lãnh tụ tinh thần mà không ai có thể chất vấn, những môn đệ mặc quần áo vừa khít, những nghi thức và trích máu ăn thề được thực hiện bí mật, và quan trọng nhất trên tất cả là tạo ra một vật tổ đầy uy lực để tôn thờ. Dòng Hakenkreutz. Chữ thập gãy khúc, cũng còn được gọi là chữ thập ngoặc - chữ vạn. Một ký hiệu để hất cẳng tượng đức thánh giá và ngôi sao của David.
— Hari Krishnas trên nền sinh chất Xteroid. - Monk nói lầm bầm.
— Đừng đùa. Bọn Quốc xã hiểu sức mạnh cố hữu của những ý tưởng. Một sức mạnh lớn hơn bất kỳ súng đạn nào hoặc tên lửa nào. Chúng sử dụng nó để nô dịch hóa và tẩy não toàn bộ một dân tộc.
Chớp lóe, làm sáng bừng căn phòng lớn phía sau. Tiếng sấm rền theo bám gót, bùng nổ, cảm thấy rung trong ruột. Những ánh sáng bập bùng.
Tất cả đoàn người dừng lại trong phòng lớn.
— Một còn dơi rúc rích kìa. - Monk thì thầm. - Thậm chí là một con nhỏ.
Ánh sáng lóe lên sáng rực hơn, rồi ổn định. Họ tiếp tục tiến về phía trước. Căn phòng ngắn kết thúc tại một cánh cửa kính sọc. Một phòng lớn hơn nằm phía sau.
— Phòng Obergruppenfỹhrersaal. - Ulmstrom kéo ra một xâu chìa khóa nặng và mở khóa cửa. - Chốn linh thiêng nội điện. Chỗ này hạn chế những khách thăm quan bình thường, nhưng tôi nghĩ rằng các vị là người có thể biết đánh giá.
Ông giữ cánh cửa cho họ vào.
Họ nối đuôi nhau vào trong. Mưa đập rào rào lên những cánh cửa sổ quanh căn phòng hình tròn.
— Himmler xây dựng phòng này đế noi gương nhà vua Arthur trong tòa lâu đài Camelot. Ông thậm chí có cả một chiếc bàn tròn bằng gỗ sồi rất to đặt giữa phòng và tụ tập mười hai sĩ quan lãnh đạo của Đội Trật tự Đen cho những cuộc họp hành và lễ nghi ở đây.
— Đội Trật tự Đen này là gì? - Monk hỏi.
— Nó là tên khác gọi đội quân S.S của Himmler. Nhưng chính xác hơn, dòng Schwarze Auftrag - Đội Trật tự Đen - là một cái tên gọi nhóm đầu não của Himmler, một phe đảng bí mật có gốc gác từ thời Hội Thule bí ẩn.
Gray tập trung chú ý. Lại Hội Thule rồi. Himmler là một thành viên của nhóm, như vậy là cụ cố của Ryan. Anh ngẫm nghĩ về mối dây dòng họ này. Một phe đảng nội bộ của những nhà huyền bí và những nhà khoa học, họ tin rằng đã có lần một chủng tộc ông chủ cai trị thế giói - và sẽ trở lại lần nữa.
Giám đốc tiếp tục dẫn khách thăm quan.
Himmler đã tin rằng phòng này và cái tháp của nó sẽ là trung tâm địa lý và tinh thần của thế giới Aryan mới.
— Tại sao lại là ở đây? - Gray hỏi.
Ulmstrom nhún vai và bước tới giữa phòng.
— Vùng này là nơi những người Teuton đánh bại quân La Mã, một trận đánh cốt yếu trong lịch sử Đức.
Gray đã nghe một câu chuyện tương tự từ cha của Ryan.
— Nhưng những lý do có thể rất nhiều. Thần thoại kết trái chín nơi đây. Gần khu vực này có bộ Đài đá nguyên khối như Stonehenge ở Anh, được gọi là Externsteine. Một số người tuyên bố rằng gốc rễ của cây Thế giới Bắc Âu, Yggdrasil, nằm ở dưới nó. Và sau đó, tất nhiên, có cả những mụ phù thủy.
— Những kẻ đã bị giết ở đây, - Gray nói.
— Himmler tin, và có lẽ đúng như vậy, rằng những người phụ nữ bị tàn sát vì họ là người ngoại đạo, thực hành những lễ nghi và nghi thức Bắc Âu. Trong mắt hắn, thực tế máu họ đã vương tại lâu đài này chỉ thành công trong việc hiến dâng tế thần những đất này.
— Như vậy giống như những nhân viên bất động sản thường nói, - Monk nói lầm bầm. - Tất cả là vì vị trí đẹp, vị trí đẹp, vị trí đẹp.
Ulmstrom nhăn mặt nhưng vẫn tiếp tục.
— Bất kể lý do là gì, đây là mục đích tối thượng của Wewelsburg. Ông chỉ tay xuống sàn nhà.
Trong bóng tối lờ mò, một hoa văn đã được làm trên ngói xanh lục tối màu nổi bật nền trắng. Nó trông như một mặt trời, phóng ra mười hai tia chớp.
— Schwarze Sonne. Mặt trời Đen. - Ulmstrom đi oai vệ Xung quanh đường tròn. - Ký hiệu này cũng có những nguồn gốc trong nhiều thần thoại. Nhưng tới thời Quốc xã nó đại diện cho đất đai, từ đó Tất cả - Cha đã sinh ra. Một mảnh đất đã qua nhiều cái tên. Thule, Hyperborea, Agartha. Trên hết, ký hiệu này đại diện cho mặt trời dưới đó chủng tộc Aryan sẽ được tái sinh.
— Quay trở lại về Tất cả - Cha, - Gray nói, hình dung ra chữ Run Mensch.
— Cái đó là mục đích cuối cùng của bọn Quốc xã… hoặc chí ít thì là của Himmler và Đội Trật tự Đen của hắn. Để đẩy dân tộc Đức trở về trạng thái làm chúa trời của họ. Đây là lý do tại sao Himmter chọn ký hiệu này đại diện cho Đội Trật tự Đen của hắn.
Gray bắt đầu cảm thấy loại hình nghiên cứu mà Hugo có thể đã dính líu vào. Một nhà sinh vật học với những gốc gác ở Wewelsburg. ông ta có thể đã bị lôi kéo vào dạng méo mó của dự án Lebensborn, một kiểu chương trình ưu sinh chăng? Nhưng vì sao người ta lại giết nhau tranh giành một chương trình như vậy? Thứ mà Hugo khám phá ra làm ông cảm thấy cần giữ thật bí mật, cần chôn vùi chúng vào mật mã trong những cuốn sách của gia đình ông sao?
Gray nhớ lại phần đọc của Ryan trích từ bức thư của cụ cố gửi em gái cụ, không lâu trước khi cụ mất. Cụ có nhắc đến một bí mật quá đẹp không thể chết được và quá quái dị không thể để mọi người tự do biết được. Ông ta đã phát hiện ra cái gì nhỉ? ông muốn người ta giữ bí mật cái gì khỏi những người Quốc xã cấp trên của ông nhỉ?
Ánh chớp nhoàng lần nữa, rực sáng xuyên qua tất cả các cửa sổ. Ký hiệu Mặt. trời Đen nổi lên rực rỡ. Những ánh đèn điện run rẩy khi tiếng sấm dội suốt lâu đài trên đỉnh đồi. Không phải là nơi tốt nhất để tránh một cơn bão điện.
Xác nhận điều này, các bóng đèn lóe lên lần nữa - rồi tối mò.
Mất điện.
Vẫn còn có đủ ánh sáng lò mò xuyên qua những cửa sổ để nhìn thấy.
Những tiếng hét phía xa xa.
Một tiếng chuông reo ngay sát đó.
Mọi con mắt đều quay nhìn.
Cái cửa vào buồng đóng sầm lại. Gray với tay tìm báng súng của anh, súng nhét dưới áo may ô.
— Đóng cửa an toàn. - Ulmstrom nói để họ vững tâm. - Không việc gì phải sợ. Những máy phát điện dự phòng chắc là…
Những bóng đèn lập lòe, rồi sáng trỏ lại.
Ulmstrom gật đầu.
— À, chúng ta đi thôi. Tôi rất lấy làm tiếc. - ông giám đốc xin lỗi. - Đường này.
Ông dẫn họ xuyên qua cái cửa an toàn, nhưng thay vì đi về phía phòng lớn chính, ông nhắm vào hướng cầu thang bên cạnh. Rõ ràng là chuyến du lịch chưa xong.
Tôi nghĩ các vị có thể thấy phòng tiếp theo đây đặc biệt thú vị khi các vị thấy chữ Run Mensch trong Kinh thánh được miêu tả ở đó.
Những bước chân đi xuống căn phòng bước đi nhanh.
Gray tỉnh ra, thấy tay mình vẫn còn đặt trên báng súng. Nhưng không cần phải rút ra. Ryan vội vàng đi về phía họ, một phong bì dày kẹp trong tay anh.
Cậu ta nhập vào nhóm hơi có vẻ hổn hển. Đôi mắt cậu có vẻ sắc sảo hơn một chút, có vẻ hoảng vì sự cố mất điện lúc nãy.
— Tôi cho rằng, - cậu đằng hắng, - tôi có tất cả mọi thứ giấy tờ rồi, cả bức thư gửi tới bà cô của tôi, Tola.
Monk cầm lấy phong bì. - Bây giờ chúng ta có thể rút bìa sách ra ở đây.
Có lẽ họ nên làm thế. Gray liếc nhìn tiến sĩ Ulmstrom. Ông ta đang đứng ở đầu cầu thang dẫn xuống dưới.
Người phụ trách bảo tàng bước về phía họ.
— Nếu các vị vội…
— Không mà, chút thôi. Ngài đang nói về Run Mensch a?
Thật ngốc nếu bỏ đi mà không tìm hiểu đầy đủ chuyện này.
Ulmstrom giơ cả cánh tay và chỉ hướng về phía những bậc thang.
— Bên dưới kia là phòng duy nhất trong toàn bộ lâu đài nơi ta có thể tìm thấy Run Mensch. Tất nhiên, sự xuất hiện của chữ Run hiện nay chỉ có ý nghĩa khi xét đến…
— Xét đến cái gì ạ?
Ulmstrom thở dài, xem đồng hồ.
— Đi thôi nào. Đằng nào tôi cũng phải làm nốt việc này cho mau. - Ông quay lại đi nhanh tới cầu thang và đầu cúi xuống.
Gray vẫy Fiona và Ryan để đi theo. Monk trợn mắt nhìn Gray lúc anh đi qua.
— Lâu đài có ma… đến lúc đi thôi…
Gray hiểu Monk ngứa ngáy muốn đi rồi. Anh cũng cảm thấy thế. Đầu tiên là báo động nhầm với chiếc Mercedes, rồi mất điện. Nhưng quay lại mà ngẫm thì chưa có gì xảy ra. Và Gray không thích bỏ qua một cơ hội để biết thêm về chữ Run của Kinh thánh và lịch sử của nó ở đây.
Giọng nói của Ulmstrom lôi cuốn Gray. Những người khác đã đến chỗ chiếu nghỉ phía dưới. - Phòng này nằm ngay dưới phòng Obergruppeniủlrersaal.
Gray nhập vào nhóm người khi viên phụ trách bảo tàng mở khóa một cái cửa khít với cái ở trên, cũng có song sắt và kính dày. Ông giữ cửa mở cho họ rồi bước vào sau lưng họ.
Phía sau đó là một phòng tròn khác. Cái này không có cửa sổ, một vài cái đèn móc vào tường chiếu lờ mờ. Mười hai cột đá hoa cương bao quanh không gian, gắn với một mái vòm, ở giữa trần nhà là một hình vẽ ký hiệu chữ vạn xoắn.
— Đây là hầm mộ của lâu đài, - Ulmstrom nói. - Các vị hãy để ý cái giếng giữa phòng. Nó là nơi phù hiệu của những sĩ quan SS hy sinh được đốt theo nghi thức.
Gray đã phát hiện cái giếng đá tốt, đối thẳng ngay dưới chữ vạn trên trần.
— Nếu các vị đứng gần giếng, và nhìn vào những bức tường, các vị sẽ nhìn thấy những chữ Run Mensch mô tả ở đây.
Gray bước đến gần hơn và theo chỉ dẫn của ông ta. Tại điểm chỉ hướng bốn phương, những chữ Run được khắc vào tường đá. Gray bây giờ mới hiểu nhận xét của Ulmstrom. Sự xuất hiện của chữ Run chỉ có ý nghĩa khi xem xét đến…
Tất cả những chữ Run Mensch đều viết lộn ngược.
Những chữ Run Toten.
Những chữ Run thần Chết.
Một tiếng choang to, âm lượng ngang bằng tiếng kêu lúc nãy dội lên ngang qua căn phòng. Chỉ có khác là lúc này không mất điện. Gray văng mình một vòng, hiểu ra sai lầm của mình. Tò mò đã làm anh kém cảnh giác. Tiến sĩ Ulmstrom đã không bao giờ rời xa cửa ra vào.
Tên phụ trách bây giờ đứng bên ngoài phòng, lách cách khóa cánh cửa lại.
Hắn gọi với qua lớp kính dày chống đạn:
— Bây giờ các vị sẽ hiểu ý nghĩa thật sự của chữ Run Toten.
Một tiếng kêu bốp tiếp theo. Tất cả đèn tắt phụt. Không có cửa sổ, căn phòng chìm hẳn trong bóng đen tối mù.
Trong sự yên lặng bất ngờ này, một âm thanh mới nhập vào: một tiếng xì xì mạnh.
Nhưng âm thanh này đến không phải của rắn hay của trăn.
Gray nếm được mùi vị của nó trên lưỡi.
Khí ga.
***
• 1 giờ 49 phút chiều
Himalayas
Bộ ba chiếc máy bay trực thăng xoè ra theo đội hình cánh quạt chuẩn bị trận không kích.
Painter quan sát bằng ống nhòm mấy chiếc cán gáo đang tiếp cận. Anh đã cởi thắt lưng an toàn và trườn vào ghế phi công phụ lái. Anh đã nhận ra những chiếc máy bay của kẻ thù: trực thăng Con hố trời Eurocopter, trọng lượng trung bình, trang bị pháo và tên lửa không đối không.
— Anh có vũ khí nào trang bị trên trực thăng không? - Painter hỏi Gunther.
Y lắc đầu. - Không.
Gunther đạp bàn lái để đưa họ đi quanh, lượn thoát khỏi những kẻ đối địch. Cài số chiếc trực thăng về phía trước, hắn tăng tốc lực bỏ chạy. Đó là biện pháp đối phó thực tế duy nhất của họ: tốc độ.
Chiếc trực thăng Ngôi sao - A nhẹ hơn, không phải chở vũ khí nên bay nhanh hơn và có thể dễ lượn hơn. Nhưng thậm chí lợi thế đó cũng chỉ có những sự giới hạn của nó.
Painter biết hướng mà Gunther đang bay đến, buộc phải thế. Painter đã nghiên cứu kỹ bản đồ địa thế khu vực này. Biên giới Trung Hoa chỉ cách đó ba mươi dặm.
Nếu bọn cán gáo tấn công kia không khử họ, thì việc xâm phạm không phận Trung Hoa cũng khử họ. Và với tình hình căng thẳng hiện thời giữa chính phủ Nê - pan và quân phiến loạn, biên giới hiện đang được canh giữ chặt chẽ. Họ đang ở cái thế trên đe dưới búa.
Anna hét lên từ ghế sau, đầu nghển quan sát phía sau.
— Chúng phóng tên lửa đấy!
Thậm chí mụ chưa nói hết câu cảnh báo, một vệt khói lửa rít qua mạn sườn máy bay của họ, chỉ cách vài mét. Quả tên lửa đâm sầm vào vách bằng đá phía trước. Lửa và đá văng lên cao. Một khúc quanh lớn của dốc vách đá vỡ ra và trượt đi như một sông băng bị xẻ nửa.
Gunther nghiêng chiếc trực thăng sang bên, tăng tốc tránh đám mưa mảnh vỡ.
Y lao chiếc máy bay vụt xuống như tên bắn và bay như đua giữa hai dãy vách núi đá. Họ tạm thời thoát ra khỏi tầm hỏa lực trực tiếp.
— Nếu chúng ta hạ cánh, - Anna nói. - Thật nhanh. Rồi chạy bộ trốn nấp.
Painter lắc đầu, hét ầm lên để át tiếng động cơ
— Tôi biết những trực thăng Con hổ này. Chúng có thiết hồng ngoại. Những dấu thân nhiệt của chúng ta sẽ loại chúng ta. Rồi không thoát khỏi những họng súng hoặc những tên lửa của chúng đâu.
— Thế chúng ta làm cái gì?
Đầu óc Painter vẫn ong ong, rối tung hoa cà hoa cải.
Thị lực bị thắt lại tới cỡ một tiêu cự laze.
Lisa trả lời, dướn người lên từ ghế sau, đôi mắt của cô dán trên la bàn.
— Đỉnh Everest. - Cô nói.
— Cái gì?
Cô gật đầu hướng vào la bàn.
— Chúng ta hiện đang bay thẳng hướng đỉnh Everest.
Nếu chúng ta hạ cánh ở tít trên kia, lẫn lộn với đám người leo núi.
Painter cân nhắc kế hoạch của cô. Lẩn trốn ngay trước mắt.
— Cơn bão đã quét qua núi, - cô tiếp tục nói ầm ĩ. - Khoảng hai trăm người đang đợi để leo núi khi tôi ra khỏi chỗ đó. Trong đám có cả lính Nê - pan. Có thể còn đông hơn sau khi thiền viện bị đốt trụi.
Lisa liếc mắt qua mụ Anna. Painter đọc được cách diễn đạt của cô. Họ đang đấu tranh cho cuộc sống của họ cùng với kẻ thù, chính chúng đã đốt cháy tu viện. Nhưng một kẻ địch lớn hơn đang đe dọa tất cả bọn họ. Trong khi Anna có những cách lựa chọn tàn bạo và không thể tha thứ, phe khác này đã khơi mào cho hành động của mụ, làm chuyển động chuỗi mắt xích những sự kiện mà đã đưa tất cả bọn họ đến đây.
Và Painter biết rằng chuyện không dừng ở đây. Mới chỉ là bắt đầu, một sự giả đò để đánh lạc hướng. Ngay đó có điều gì đấy quái dị. Những lời của mụ Anna vọng lại trong đầu đau nhức của anh.
Chúng ta phải chặn chúng lại.
Lisa đã kết thúc,
— Với nhiều cú điện thoại và phát hình video qua vệ tinh như vậy từ Trại Căn cứ, chúng không dám tấn công.
— Hoặc như thế, chúng ta hy vọng, - Painter nói. - Nếu chúng không lùi lại, chúng ta sẽ gây nguy hiểm cho nhiều mạng người.
Lisa tựa người lại phía sau, thấm nhuần những lời của anh. Painter biết rằng em trai của cô ở giữa những người tại Trại Căn cứ. Cô bắt gặp đôi mắt anh.
— Quan trọng quá, - cô nói, cùng đi đến kết luận của anh một lát trước đây. - Chúng ta phải mạo hiểm. Ai phải có lời đi chứ!
Painter liếc nhìn quanh cabin.
Anna nói:
— Đường bay sẽ ngắn hơn đi qua sườn Everest để tới phía bên kia, thay vì bay đường dài hơn vòng quanh. - Cô trỏ vào bức tường núi chắn phía trước họ.
— Như vậy là chúng ta hướng về phía Trại Căn cứ à? - Painter nói.
Tất cả bọn họ đều đồng ý.
Những người khác thì không.
Một máy bay trực thăng gào qua sống núi, lạng đuôi máy bay xoay văng trực tiếp qua cánh quạt. Kẻ đột nhập này có vẻ giật mình bay ngang qua. Chiếc máy bay Con hổ xoắn mình lại và leo lên xoay tròn như múa ba - lê đến ngạc nhiên.
Nhưng họ bị phát hiện.
Painter cầu nguyện rằng những chiếc máy bay kia tản ra tìm kiếm rộng - rồi lại lần nữa, một Con hổ là quá đủ.
Chiếc trực thăng Ngôi sao - A không trang bị vũ khí tự vệ của họ phóng qua rãnh núi hình máng bay vào một hẻm núi rộng hơn, một khe núi hình cái bát đầy tuyết và băng đá. Không có chỗ trốn nấp nào. Tên phi công của chiếc Con hổ kia phản ứng mau lẹ, bổ nhào về phía họ.
Gunther nháy ga tăng tốc động cơ lên và tăng vòng quay cánh quạt, cố gắng đợt chạy nước rút hết tốc độ. Họ có thể chạy thoát khỏi chiếc Con hổ nặng nề hơn kia, nhưng không phải thoát được những quả tên lửa của nó.
Để chấm hết, chiếc trực thăng Con hổ bổ nhào bắn bằng rọ pháo của nó, khạc lửa, và nghiến ngấu xuyên qua tuyết.
— Quên chuyện đòi đuổi kịp tao đi nhé, đồ con hoang! - Painter ré lên và bật mạnh ngón tay cái của anh lên. - Cứ đua như thế mới cừ.
Gunther liếc nhìn anh, lông mày rậm nhíu lại.
— Hắn nặng hơn, - Painter giải thích, lấy tay làm điệu bộ.
Chúng ta có thể vươn tới độ cao cao hơn. Nơi hắn không thể bám theo được.
Gunther gật đầu và kéo bộ tổ hợp lái, vặn núm cho chế độ bay lên thẳng đứng. Như cưỡi một thang máy tốc hành, chiếc trực thăng lao bắn lên.
Chiếc Con hổ kia bị lùi lại vì thay đổi hướng bất ngờ, cố một lát bám theo, vòng xoắn ốc lên phía sau họ.
Painter quan sát máy đo độ cao. Đạt kỷ lục thế giới về độ cao của máy bay trực thăng Ngôi sao - A. Nó đã hạ cánh trên thượng đỉnh Everest. Họ không cần leo cao đến thế. Chiếc Con hổ vũ trang nặng nhọc đang đuối dần khi chúng ớ trên mốc hai mươi hai nghìn feet, rô - to cánh quạt của nó khuấy vô ích trong không khí loãng phèo, làm cho nó khó chống chọi với trượt và lộn, làm tiêu tan thế tấn công bằng tên lửa.
Bây giờ, chiếc trực thăng của họ tiếp tục thong dong bay lên vào vùng an toàn.
Nhưng họ không thể cứ ở mãi trên đó.
Cái gì đi lên cuối cùng cũng phải đi xuống.
Và giống như một chú cá mập đang lượn vòng, chiếc máy bay trực thăng tấn công lởn vởn đợi phía dưới. Tất cả những gì chúng phải làm là theo dõi bám theo họ. Painter phát hiện hai chiếc Con hổ khác đang bay về hướng họ, chắc được chiếc kia gọi đến tham gia cuộc đi săn, kết thúc dứt điểm con mồi đã bị thương.
— Cứ đứng trên chiếc cán gáo. - Painter nói, lấy bàn tay này để phía trên bàn tay kia làm điệu bộ.
Gunther vẫn cau mày y nguyên, nhưng y tuân theo.
Painter xoay mình qua phía Anna và Lisa.
Cả hai người, nhìn qua cửa sổ sườn. Báo cho tôi ngay khi nào chiếc Con hổ kia ở vị trí trực tiếp phía dưới chúng ta.
Mấy cái gật đầu trả lời anh.
Painter quay sang chú ý đến cần lái ngay phía trước anh.
— Trên rồi kìa. - Lisa gọi từ phía cô.
— Bây giờ đó! - Anna một giây sau nói ngay.
Painter giật mạnh cần gạt. Cần này điều khiển bộ quay tời trong khoang dưới của chiếc cán gáo. Đây là dây thừng và bộ yên trước đó đã hạ Painter xuống lúc anh truy sát mụ thích khách. Nhưng anh không phải đang hạ bộ yên bây giờ. Cần gạt cho trường hợp khẩn cấp mà anh đang nắm chặt trong tay dùng để vứt bỏ bộ tời nếu bị kẹt. Anh quay tay cho nó lùi lại hết cỡ và cảm thấy tiếng póp nhả bộ quay tời ra.
Painter gí mặt vào cửa sổ.
Gunther lượn quanh, dướn lên để dễ nhìn hơn.
Bộ quay tời lộn tùng phèo rơi xuống, cứ thế nhả dây văng bộ yên ra, dây dợ xoắn lộn rối tung.
Nó rơi trúng chiếc Con hổ phía dưới, đập mạnh vào trục rô - to của nó. Hiệu ứng có sức phá hủy như bất kỳ vũ khí nào. Lá cánh quạt bị xé toạc ra, bay tứ tung. Chiếc cán gáo xoay tít như con cù, lập bập lệch sang và rơi xuống.
Không phí chút thì giờ, Painter chỉ tay về phía vật hàng xóm duy nhất của họ ở độ cao này. Đỉnh Everest trắng muốt vươn lên trước mặt, khoác mình trong những đám mây.
Chúng phải đến Trại Căn cứ ở sườn dưới - nhưng dưới kia, bầu trời không an toàn.
Hai máy bay trực thăng nữa, giận dữ như ong bắp cày, lao về phía họ.
Còn Painter thì hết ổ tời rồi.
***
Lisa quan sát những chiếc trực thăng kia lao nhào lên về phía họ, to dần lên từ cỡ con muỗi nhỏ đến cỡ chim ưng. Bây giờ là một cuộc đua.
Lao chiếc cán gáo chúi dốc, Gunther cho máy bay nhào vào thinh không. Y nhắm vào khoảng trông giữa đỉnh Everest và đỉnh chị em với nó, đỉnh Lhotse. Một sống núi kề vai - đèo núi phía nam nổi tiếng - nối Lhotse với Everest. Họ cần vượt qua mép của núi và để sao cho núi này ngăn giữa họ và những chiếc máy bay kia. Phía xa xa, Trại Căn cứ nằm dưới chân đèo.
Nếu họ có thể đến được đó…
Cô hình dung em trai mình, nụ cười hiền khô của cậu, nhúm tóc trái đào chổng dựng sau đầu của cậu mà cậu vẫn cô làm nó xẹp xuống. Họ đang nghĩ gì, mang cuộc chiến này đến Trại Căn cứ, đến chỗ cậu em trai của cô ư?
Phía trước cô, Painter cúi xuống với Gunther. Tiếng gào của động cơ nuốt chửng những lời nói của họ. Cô phải đặt niềm tin vào Painter thôi. Anh ta không gây nguy hiểm cho bất cứ ai mà không cần thiết.
Đèo qua hiện lên về phía họ. Thế giới mở rộng ra khi họ lao vào hướng đèo qua núi. Đỉnh Everest choán kín phía mặt bên chiếc máy bay, một dải tuyết mỏng được gió thổi bay từ đỉnh núi. Lhotse, đỉnh cao nhất thứ tư trên thế giới, đứng như một bức tường phía trái máy bay.
Gunther tăng góc bổ nhào. Lisa nắm bám chặt cứng lấy cái ghế. Cô cảm thấy cứ như sắp lộn phộc ngã nhoài qua tấm kính chắn gió trước mặt. Thế giới phía trước mặt trở thành một tấm khăn trải giường bằng băng đá và tuyết.
Một tiếng rít xuyên qua tiếng gầm của máy bay.
— Tên lửa đấy! - Anna hét lên.
Gunther giật mạnh cần lái. Mũi chiếc cán gáo ngửng lên và chệch sang bên phải. Quả tên lửa lướt đi dưới càng và lao thành vệt vào vách đèo phía đông. Lửa bùng lên. Gunther nghiêng máy bay tránh luồng hỏa lực, chúi mũi máy bay xuống lần nữa.
Áp má vào cửa sổ bên, Lisa liếc nhìn phía sau. Hai chiếc cán gáo kia đã giảm khoảng cách, nghiêng nghiêng bay về phía họ. Rồi một bức tường băng đá cắt đứt tầm nhìn.
— Chúng ta vượt được qua đường gờ sống núi rồi! - Painter reo lên. - Bám cho chặt vào!
Lisa đu mình quay lại một vòng. Chiếc máy bay trực thăng nhào đến chóng mặt xuống dốc phía nam đèo núi. Tuyết và băng đá trông như chạy đua phía dưới họ. Phía trước mặt, một vết sẹo sẫm màu xuất hiện. Trại Căn cứ.
Họ nhằm vào hướng đó bay tới, cứ như thể dự định đâm đầu xuống thành phố lều trại.
Khu trại phình lên phía dưới họ, cứ mỗi giây lại to dấn lên, những lá cờ đuôi nheo lật phật, có thể trông thấy rõ từng lều.
— Chúng ta cứ thế này thì hạ cánh đập mình đấy! - Painter kêu lên.
Gunther không giảm tốc độ.
Lisa tìm một lời cầu nguyện trên môi hoặc có thể một câu khấn Phật.
— Ôi chao chúa trời… Ôi chao chúa trời… Ôi chao chúa trời…
Vào giây phút cuối, Gunther kéo giật cần lái, loay hoay với các núm điều khiển. Gió mạnh chống lại y. Chiếc trực thăng tiếp tục rơi, những rô - to rít lên.
Thế giới phía bên kia nghiêng - xoay tít.
Bị ném lên ném xuống, Lisa siết chặt thành ghế.
Càng máy bay đạp rầm vào nền, mũi máy bay từ từ chúi xuống, lẳng Lisa về phía trước. Dây đai yên ghế giữ cô lại. Cánh quạt khuấy tuyết lên mù mịt, nhưng chiếc cán gáo dập mạnh lên càng của nó, cân bằng và vững chắc.
— Mọi người ra ngoài hết đi! - Painter thét váng lên khi Gunther nháy giảm ga.
Cửa bật mở ra, và họ ngã lộn ra ngoài.
Painter xuất hiện bên cạnh Lisa, tay cầm tay cô. Anna và Gunther đi theo. Một đám đông người tụ tập về phía họ. Lisa liếc nhìn lên đỉnh núi. Khói bốc lên phía sau đèo chỗ quả tên lửa bắn vào. Mọi người ở trại chắc hẳn đã nghe thấy tiếng nổ, vì tất cả đều ra khỏi lều.
Những tiếng nói líu ríu bằng đủ các thứ tiếng ào ào tấn công họ.
Lisa, gần như điếc vì tiếng máy bay trực thăng, cảm thấy xa lạ với tất cả.
Rồi một giọng nói đến tai cô.
— Lisa!
Cô quay lại. Một dáng hình quen thuộc trong bộ đồ chông tuyết màu đen và một áo sơ mi nhiệt màu xám hối hả xuyên qua đám đông, hích cùi tay và xô đẩy.
— Josh!
Painter để cô tách khỏi nhóm theo hướng của anh. Rồi Lisa trong vòng tay của cậu em trai, ôm ghì chặt. Cậu phảng phất có mùi của những con bò Tây Tạng. Cô chưa từng cảm thấy thứ gì mang mùi khá hơn.
Gunther càu nhàu đằng sau họ.
— Qua rồi kìa!
Một lời cảnh báo.
Những tiếng kêu vang lên xung quanh họ. Người ta chuyển chú ý sang một hướng khác. Những cánh tay chỉ lên.
Lisa gỡ mình khỏi cậu em trai cô.
Một cặp trực thăng tấn công bay lượn trên đỉnh đèo, khuấy đám khói đang phun lên từ chỗ tên lửa bắn. Chúng treo lơ lửng tại chỗ, đầy vẻ vồ mồi, chết chóc.
Cút đi, Lisa cầu nguyện, thành tín bằng tất cả sức mạnh của cô. Chúng mày cút đi.
— Chúng là ai vậy? - Một giọng mới nói khàn khàn.
Lisa không cần quay lại cũng nhận ra Boston Bob, một lầm lỡ trong quá khứ của cô. Cái chất giọng hay than vãn lải nhà lải nhải cũng đủ rõ ràng nhận ra y. Luôn chõ mũi đòi hỏi, chắc hẳn y đã đeo bám Josh suốt. Cô lờ y đi.
Nhưng Josh chắc hẳn cảm thấy chị mình căng thẳng khi những chiếc trực thăng xuất hiện. - Lisa, sao thế?
Cô lắc đầu, đôi mắt dán vào bầu trời. Cô cần sự tập trung ý chí đẩy chúng đi.
Nhưng không hiệu nghiệm tí nào.
Phối hợp đồng bộ như một, cả hai chiếc trực thăng thôi quần đảo, bổ nhào xuống về phía họ. Mũi máy bay khạc lửa. Tuyết và băng đá bắn tứ tung lên thành những hàng song song của thần chết, nhai nuốt sườn dốc, nhắm thẳng vào Trại Căn cứ.
— Không được thế. - Lisa than.
Boston Bob kêu ré lên, chạy lùi lại:
— Họ làm cái quỷ quái gì thế này?
Đám đông, tỉnh người và lạnh người, bất thình lình ré lên, kêu hét và bỏ chạy tán loạn.
Painter chụp lấy cánh tay Lisa. Anh lôi cô đi, kéo theo cả Josh. Họ rút chạy, không có chỗ nấp.
— Một cái đài! - Painter hét lên hỏi Josh. - Cái đài ở đâu?
Người em trai của cô làm thinh cứ nhìn vào bầu trời.
Lisa lắc cánh tay cậu em trai, kéo đôi mắt của cậu ta xuống.
— Josh ơi, chúng ta cần một cái đài.
Cô hiểu sự chú tâm của Painter. Nếu không có chuyện gì khác, những lòi nói về những gì đã xảy ra phải đến được thế giới bến ngoài.
Cậu em ho một tiếng, chợt tỉnh lại, và chỉ tay.
— Đường này… họ đã thiết lập một mạng lưới thông tin cấp cứu sau khi phiến quân tấn công tu viện. - Anh vội chạy ra ngoài về phía một trại lớn màu đỏ.
Lisa để ý thấy Boston Bob bám sát họ, liếc kiểm tra qua vai, y cảm thấy uy quyền của Painter và Gunther. Hoặc có thể uy quyền đó là do khẩu súng trường Gunther mang trên người. Tay người Đức đã nạp một quả lựu đạn khác vào khẩu phóng lựu. Y đã sẵn sàng làm một trụ đứng cuối cùng, bảo vệ họ trong khi họ cố truyền tin đi bằng radio ra ngoài.
Nhưng trước khi họ đến được cái lều, Painter hét lên:
— Nằm xuống!
Anh giật mạnh cô nhào xuống đất. Mọi người làm theo anh, mặc dầu Josh phải kéo cẳng chân Boston Bob ra khỏi chân anh.
Một tiếng thét lạ tai thình lình vọng lại từ những vách núi.
Painter chằm chằm nhìn bầu trời tìm kiếm.
— Cái gì vậy -? Lisa hỏi.
— Đợi đã, - Painter cau mày khó hiểu.
Rồi qua gờ núi đỉnh Lhotse, hai chiếc máy bay phản lực quân đội lao vút vào tầm nhìn, khói đuôi thành vệt sinh đôi. Lửa loé ra dưới cánh.
Tên lửa.
Ôi chao, không!
Nhưng Trại Căn cứ không phải là mục tiêu bắn. Những chiếc phản lực bắn vượt qua trên đầu, thành vệt, bùm bụp nổ lúc bay qua và lướt thẳng lên vòm trời.
Cặp đôi trực thăng tấn công, đã bay ba phần tư quãng đường xuống dốc, nổ tung khi những quả tên lửa tầm nhiệt đâm vào chúng. Cục sắt nát bét va vào dốc, hất tung tuyết và lửa lên. Mảnh vỡ rơi như mưa, nhưng không có mảnh nào bay đến trại.
Painter gượng đứng dậy, rồi giúp Lisa đứng lên.
Những người khác làm theo.
Boston Bob vội vã về phía trước, bắt nạt Lisa ngay.
— Tất cả những chuyện đó là quái quỷ gì thế hả? Cô mang cứt đái gì đổ lên đầu chúng tôi đấy?
Lisa quay đi. Cái gì đã xui khiến cô trở về Seattle để ngủ với gã này cơ chứ? Cứ như thể đó là một người đàn bà khác.
— Đừng có mà quay lưng lại với tao, đồ chó cái!
Lisa lắc mình, những ngón tay siết chặt - Nhưng không cần thiết. Painter đã ở đó. Cánh tay anh thụi thẳng một quả vào mặt gã. Lisa có nghe người ta nói đến thuật từ “cú xỉa lạnh lùng”, nhưng chưa bao giờ được chứng kiến. Boston Bob ngã ngửa, người đổ cứng ngay đơ như một tấm bảng, va rầm xuống nền. Y không đứng lên, xoay nghiêng người, trào máu mũi.
Tay Painter giật giật, mặt nhăn nhó.
Josh há hốc mồm, rồi cười toe toét.
— Ôi chao, anh bạn, tôi muốn làm như thế suốt cả tuần qua.
Trước khi có nhiều ý kiến thêm vào, một người đàn ông mái tóc lấm tấm như cát bước ra từ lều thông tin liên lạc đỏ. Ông mặc một bộ đồng phục quân đội. Bộ đồng phục quân đội Hoa Kỳ. Ồng bước tới nhóm của họ, đôi mắt nhìn vào Painter.
— Có phải ngài Giám đốc Crowe không? - Ông hỏi bằng giọng lè nhè người bang George, rồi chìa cánh tay ra.
Painter chấp nhận bắt tay, nhăn mặt vì bị bóp vào những đốt ngón tay thâm tím.
— Logan Gregory gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới ngài. - Người đàn ông gật đầu về phía điểm nổ đang bốc khói bên sườn dốc.
— Muộn còn tốt hơn không bao giờ. - Painter nói.
— Chúng tôi luôn giữ liên lạc với anh ấy cho ngài. Nếu ngài theo tôi.
***
Painter cùng đi với viên sĩ quan không quân, Thiếu tá Brooks, vào trong lều liên lạc. Lisa cố đi theo Anna và Gunther. Thiếu tá Brooks chìa một tay ra, chặn họ lại.
— Tôi sẽ quay lại ngay, - Painter trấn an họ. - Nhanh thôi mà.
Anh chui tọt vào trong lều. Bên trong lều một dãy thiết bị đã sẵn sàng. Một sĩ quan liên lạc bước lùi ra từ một bàn liên lạc vệ tinh. Painter thế vào chỗ đó, nhấc ống nghe lên.
— Logan đấy à?
Tiếng truyền đi nghe rõ ràng.
— Thưa Giám đốc Crowe, thật tuyệt vời được biết là ngài khỏe.
— Tôi nghĩ rằng tôi phải cảm ơn cậu về việc đó.
— Chúng tôi đã nhận được tín hiệu cứu nạn của ngài.
Painter gật đầu. Như vậy tín hiệu đã phát đi được, dù được gửi đi từ bộ truyền tin bị nổ ở lâu đài. May mắn thay, tín hiệu GPS đã được phát đi trước khi máy khuếch đại bị nổ vì quá tải. Rõ ràng là máy đã đủ hiệu nghiệm để người ta lần rò theo.
— Phải chạy bộ nhanh để cảnh giới ngay và phối hợp với quân đội Hoàng gia Nê - pan, - Logan giải thích. - Vẫn còn, đã gần, quá sát.
Logan chắc hẳn đã phải theo dõi toàn bộ tình hình qua vệ tinh, có thể từ lúc họ chạy trốn khỏi lâu đài. Nhưng chi tiết thì có thể chưa rõ. Painter có nhiều chuyện quan tâm quan trọng hơn.
— Logan này, trước khi tôi báo cáp tình hình đầy đủ, tôi cần cậu khởi động tìm kiếm ngay. Tôi sẽ gửi qua fax cho cậu một ký hiệu, một hình xăm.
Painter diễn điếu bộ viết viết trên một miếng giấy với thiếu tá Brooks. Người ta mang ngay giấy đến cho anh. Anh nhanh chóng vẽ ký hiệu mà anh nhìn thấy trên tay của mụ thích khách. Đó là tất cả những gì mà họ phải tiếp tục.
— Làm ngay lập tức, - Painter tiếp tục. - Xem cậu có thể tìm ra tổ chức khủng bố nào, chính đảng nào, tổ hợp ma túy nào, thậm chí cả đội hướng đạo sinh nào, có thể có liên quan đến ký hiệu này không.
— Tôi sẽ làm ngay đây.
Vẽ thô hình chiếc lá sồi xong, Painter chuyển cho viên sĩ quan liên lạc, ông này bước đến một chiếc máy Fax và nạp tờ giấy vào máy.
Trong lúc truyền tín hiệu, Painter phác họa sơ bộ bằng lời về những gì đã xảy ra. Anh biết ơn Logan vì không ngắt lời anh bằng quá nhiều câu hỏi.
— Fax đến đó chưa? - Painter hỏi sau một vài phút.
— Ngay trong bàn tôi đây rồi.
— Tuyệt. Vụ tìm kiếm này… đặt ưu tiên hàng đầu đấy nhé.
Sau đó thấy tạm ngưng hơi lâu. Nhiễu không khí sao. Painter nghĩ rằng có thể họ đã mất tín hiệu, rồi Logan nói, ngập ngừng, bôi rối: - Thưa ngài,…
— Cái gì vậy?
— Tôi biết ký hiệu này. Grayson Pierce gửi nó cho tôi tám giờ trước đây.
— Cái gì?
Logan giải thích về những sự kiện tại Copenhagen. Painter gắng gói trọn tâm trí của anh quanh nó. Với chất adrenaline tan ra từ cuộc săn đuổi, mạch máu đập thình thịch trong đầu của anh làm rối tung chú ý và khả năng tập trung của anh. Anh gắng gượng chống lại cái đầu đau nhức, xếp đặt những mẫu tin vào với nhau. Cùng kiểu thích khách đã săn đuổi Gray. Bọn Sonnekõnige được sản sinh ra từ một Cái chuông lạ. Nhưng chúng làm cái gì ở châu Âu? Cái gì quan trọng như vậy trong một mớ sách? Gray hiện đang ở Đức lần theo dấu vết, xem có thể phát hiện ra cái gì.
Painter nhắm mắt lại. Nó chỉ làm cho cơn nhức đầu nặng hơn. Những vụ tấn công ở châu Âu chỉ khẳng định nỗi lo sợ của anh về một chuyện xấu gì đó có tính chất toàn cầu đang đến chân. Cái gì đấy đang khuấy động, sắp sửa chín muồi.
Nhưng cái gì vậy?
Chỉ có mỗi một nơi để bắt đầu, một đầu mối duy nhất.
— Ký hiệu này chắc hẳn phải có ý nghĩa. Chúng ta phải tìm ra nó thuộc về ai.
Logan nói quả quyết:
— Tôi có thể có câu trả lời.
— Cái gì? Đã có rồi à?
— Tôi vừa có tám tiếng đồng hồ làm việc ấy.
Đúng rồi. Tất nhiên. Painter lắc đầu. Anh liếc nhìn xuống cái bút trong tay, rồi ghi chú cái gì đó kỳ cục. Anh lật bàn tay. Cái móng trên ngón tay thứ tư của anh biến mất từ lúc nào, bóc toạc đi, có lẽ từ lúc anh đấm cái thằng chết tiệt một lát trước đây. Không có máu chảy, chỉ nhợt nhạt, thịt khô, tê cứng và cóng.
Painter hiểu ý nghĩa của nó.
Thời gian đang còn rất ít.
Logan giải thích những gì cậu ấy phát hiện. Painter ngắt lời.
— Cậu đã chuyển tin này cho Gray chưa?
— Chưa, thưa ngài. Chúng tôi hiện trục trặc chưa liên lạc được với anh ấy.
Painter nhăn mặt, xua đi mối quan tâm đến sức khỏe của chính mình.
— Phải nói với anh ấy. - Anh nói chắc nịch. - Làm thế nào thì làm. Gray không biết cậu ta đang phải đương đầu với cái gì đâu.
***
• 9 giờ 50 phút sáng
Wewelsburg, Đức
Ánh sáng bừng lên trong hầm mộ khi Monk bấm đèn
Gray tìm thấy chiếc đèn pin và rút đèn từ ba lô ra. Anh bấm đèn và chĩa đèn lên trên. Những ven nhỏ xíu chạy dọc theo gò mép của mái vòm. Một làn khí ga hơi xanh xanh trào ra, đặc hơn khí thường, ứa thành dòng khói từ tất cả các lỗ.
Những lỗ đó ở quá cao và có quá nhiều không thể bít hết được.
Fiona sán đến gần anh hơn. Ryan đứng bên kia bức tường, cánh tay ôm quanh người, không thể tin vào mắt mình nữa.
Một cử động làm Gray chú ý tới Monk.
Anh đã rút ra khẩu Glock 9 ly và nhằm vào cửa kính.
— Không được! - Gray gọi váng lên.
Muộn quá mất rồi. Monk đã nổ súng.
Tiếng súng lục nổ vang dội lại, kèm theo một tiếng chiu sắc ngọt khi viên đạn ném thia lia vào tấm kính và đập vào những lỗ thông hơi bằng thép tóe ra tia lửa. ít ra thì không phải là khí bắt lửa. Tia lửa có thể giết chết tất cả bọn họ.
Monk có vẻ cũng vừa nhận ra điều đó.
— Kính chống đạn. - Anh nói chua chát.
Người phụ trách bảo tàng lúc nãy đã khẳng định điều này.
— Chúng tôi đã phải cài thêm thiết bị an ninh. Quá nhiều nhóm Quốc xã mới đang cố tìm cách đột nhập vào.
Ánh sáng phản xạ đèn của họ từ cửa kính đã giấu vị trí của anh.
— Đồ con hoang, - Monk lầm bầm.
Khí hơi bắt đầu tràn dần vào khoảng không gian bên dưới. Nó có mùi mốc, ngọt, nhưng có vị cay. ít ra thì cũng không phải là chất xyanua. Chất đó có mùi hạnh nhân đắng.
— Cứ đứng đó, - Gray nói. - Ngửa đầu cao lên. Vào chính giữa căn phòng, tránh xa những lỗ thông hơi kia.
Họ tụ lại vào khoang hầm làm lễ. Bàn tay của Fiona nắm lấy tay anh. Cô bé xiết chặt tay. Cô nâng tay kia lên.
— Em đã nẫng ví của anh ấy, như thế này có khác gì đâu.
Monk trông thấy thứ cô đang cầm.
— Hay đấy. Em không lấy được chùm chìa khóa của anh ấy đâu.
Ryan gọi to bằng tiếng Đức.
— Cha… cha tôi biết rằng chúng ta lên trên này! Ông cụ sẽ gọi cảnh sát!
Gray phải khen cậu chàng trai trẻ này. Cậu ta đang gắng hết sức mình.
Một giọng nói mới đáp lại, không trông thấy mặt đằng sau tấm kính phản xạ.
— Tôi e rằng cha cậu sẽ không gọi bất cứ ai… bao giờ lần nữa.
Những lòi nói này không có vẻ đe dọa, đơn thuần là một câu khẳng định.
Ryan bật lùi lại một bước, như bị đánh. Đôi mắt của anh nháy với Gray, rồi nhìn trở lại cánh cửa.
Gray nhận ra tiếng nói. Như Fiona cũng vậy. Những ngón tay của cô bé nắm chặt trong tay anh. Đó là giọng người khách có hình xăm ở nhà đấu giá.
— Sẽ không giở trò được lần này đâu. - Người đàn ông nói. - Hết đường thoát
Đầu óc Gray bắt đầu cảm thấy mụ mẫn. Thân mình thấy nhẹ bỗng khống trọng lượng. Anh lắc mạnh cái đầu để rũ cái mớ bòng, bong trong đầu. Người kia nói đúng. Hết đương thoát. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng họ không thể tự bảo vệ.
Tri thức là sức mạnh.
Gray quay sang Monk.
— Lấy cái bật lửa trong túi của cậu ra đây. - Anh ra lệnh.
Trong khi Mònk tuân theo, Gray thả ba - lô của mình xuống và giật mạnh sổ tay của anh ra. Anh ném nó vào trong cái hốc.
— Monk, xé ngay những bảo sao của Ryan đi. - Gray giơ ra bàn tay của anh. - Fiona, cho anh xin em cuốn Kinh thánh nào.
Cả hai đều tuân theo.
— Đốt sáng cái hố. - Gray nói.
Monk đánh nhẹ bật lửa và đốt cháy một trong những tờ vừa copy của Ryan. Anh thả nó vào trong hố. Vài giây sau, một bó khói và lửa bập bùng bừng lên, ngôn ngấu mọi thứ. Khói bốc lên thậm chí có vẻ còn đẩy lùi chất độc một lát…. hoặc như Gray hy vọng vậy. Đầu óc anh choáng như say.
Bên ngoài cánh cửa, những tiếng nói rì rầm, quá bé không thể nghe rõ là gì.
Gray giơ cuốn Kinh thánh của Darwin lên.
— Chúng tôi chỉ cần biết bí mật gì giấu trong cuốn Kinh thánh này! - Anh gọi to ra ngoài.
Tên thích khách tóc trắng - vàng, vẫn giấu mặt đằng sau tấm kính, trả lời, có chất giọng khoái trá mập mờ.
— Tiến sĩ Ulmstrom hiểu rõ mọi thứ mà chúng tôi cần biết. Chữ Run Mensch thôi mà. Cuốn Kinh thánh bây giờ đối với chúng tôi chẳng có giá trị gì nữa.
— Thế à? - Gray giơ cuốn sách lên, chiếu đèn pin lên sách. - Chúng tôi đã chỉ cho Ulmstrom thứ mà Hugo Hirszfeld viết trên mặt sau bìa cứng của cuốn Kinh thánh. Nhưng chưa nói cái gì viết nguệch ngoạc trên bìa trước!
Một lát im lặng, rồi những giọng nói lại hạ xuống mức rì rầm lén lút. Nghe thấy một giọng phụ nữ, Gray nghĩ có lẽ đó là người chị gái sinh đôi mặt nhợt nhạt của người đàn ông tóc vàng.
Chất sáng sủa xuất hiện trong giọng nói của Ulmstrom, đề phòng.
Fiona chúi ngã đến chỗ cạnh anh, đầu gối cô như lỏng ra. Monk kịp đỡ cô bé, giữ cái đầu cô bé cao hơn bể hơi độc đang đầy lên. Nhưng thậm chí anh cũng đang lảo đảo trên đôi chân mình.
Gray không thể đợi lâu hơn nữa.
Anh tắt đèn pin tạo tác động kịch tính và thả cuốn Kinh thánh vào hốc lửa. Anh vẫn là người Cơ đốc La Mã đủ cảm nhận thấy quặn đau về sai trái khi đốt một cuốn Kinh thánh. Những trang sách cũ bắt lửa ngay lập tức, bừng lửa cao tới đầu gối họ. Một cuộn khói mới phun lên.
Gray hít một hơi thở sâu, cố gắng làm ra chất giọng thuyết phục, rao bán.
— Nếu chúng tôi chết, bí mật của Kinh thánh Darwin cũng chết theo!
Anh đợi, cầu nguyện cho mưu mẹo của anh có tác dụng.
Một giây… hai giây…
Khí ga dềnh thêm lên. Mỗi hơi hít thở giờ là một lần ngáp ngáp.
Ryan thình lình sụp đổ xuống, cứ như thể người nào đó đã cát đứt sợi dây treo con rối. Monk với lấy cánh tay, nhưng cũng khụy mệt gối xuống, lại còn Fiona đè lên. Anh không đứng dậy được nữa. Anh sập xuống rất nhanh, vẫn đỡ Fiona.
Gray nhìn chăm chú vào cái cửa đen. Cái đèn pin của Monk xoay lộn từ những ngón tay tê dại của anh, quay tít. Có ai ở ngoài đó không cơ chứ? Có ai tin anh không cơ chứ? Anh sẽ không bao giờ biết.
Lúc thế giới ngập chìm biến khỏi tầm nhìn, Gray rơi vào bóng tối.
***
5 giờ 50 phút chiều
Khu bảo tồn Hluhluive - Umfolozi
Cách đó hàng nghìn dặm, một người đàn ông khác thức giấc.
Thế giới trở lại cùng cái đau và màu sắc chướng khí. Đôi mắt anh chớp chớp mở ra thấy cái gì đó lất phất qua mặt, đôi cánh của một chú chim. Tai anh đầy tiêng hát cầu kinh.
— Anh ấy tỉnh rồi. - Một giọng khác nói bằng tiếng Zulu.
— Khamisi… - Lần này là giọng một phụ nữ.
Phải mất một lát sau, người đàn ông đang tỉnh mới nối ghép lại tên của mình với chính mình. Chúng khớp lại với nhau cũng không dễ dàng gì. Một tiếng rên vào đến tai anh. Giọng nói của chính mình.
— Giúp anh ta ngồi dậy, - người phụ nữ nói. Bà cũng nói tiếng Zulu, nhưng chất giọng Anh, nghe quen lắm.
Khamisi cảm thấy được ai đó kéo lên lòng khòng yếu ớt, có những cái gối đỡ thêm. Tầm nhìn của anh ổn định. Căn phòng, một lều gạch đất bùn, tôi tăm, nhưng có những tia sáng xuyên qua những cửa sổ che vải và mép của một cái chăn lấp cửa ra vào của túp lều. Mái nhà được trang trí bằng những quả bầu sặc sỡ, xoắn xuýt những mảnh da và những dây chuỗi lông chim. Mùi trong phòng dư thừa mùi chua đắng. Có cái gì đó lật phật ngay trước mũi anh. Nó sực mùi amôniac và đẩy đầu anh bật lại.
Anh hơi giãy mình. Anh trông thấy cánh tay phải của mình kéo theo một dây truyền dịch IV, gắn vào một cái túi chứa dung dịch màu vàng nhạt treo phía trên. Những cánh tay của anh bị giữ chặt.
Ở bên cạnh anh, một pháp sư ngực trần đeo mũ miện lông chim giữ chắc vai anh. Ông này chính là người hát cầu kinh và ve vẩy một cái cánh chim ưng sấy khô qua đi qua lại mặt anh, để xua đuổi bọn kền kền của thần Chết.
Bên sườn kia, Tiến sĩ Paula Kane giữ cánh tay anh, đặt lên chiếc chăn. Anh đang trần truồng đắp chăn. Mồ hôi đã ngấm vào lốp vải sát da.
— Ở đâu đây? Cái gì vậy? - Tiếng nói của anh nghe ậm ọe.
— Nước, - Paula ra lệnh.
Người thứ ba trong phòng tuân lệnh, một người Zulu đã luống tuổi lưng còng. Ông ta trao cho một cái ca móp méo.
— Anh có thể cầm ca nước được không? - Paula hỏi.
Khamisi gật đầu, sức mạnh đang yếu ớt hồi phục lại.
Anh cầm cái ca và nhấp nháp thứ nước âm ấm, chép miệng giãn cái lưỡi sền sệt và trở lại kí ức. Người luống tuổi kia, người đã bưng ca nước điến cho anh… chính là người đã ở trong căn nhà của Khamisi.
Tim anh bỗng dồn dập nhanh hơn. Bàn tay kia của anh, lôi chiếc dây truyền dịch IV, sờ lên cổ. Có một dải băng ở chỗ đó. Anh nhớ ra tất cả. Mũi tên tẩm độc. Con rắn độc đen. Cuộc tấn công bằng rắn độc có bố trí.
— Chuyện gì đã xảy ra nhỉ?
Ông già lấp vào những khoảng không gian trống. Khamisi nhận ra người luống tuổi này là người đầu tiên báo cáo trông thấy một con ukufa trong công viên năm tháng trước đây. Sau rồi, những phát giác của ông bị gạt đi, thậm chí chính Khamisi cũng gạt đi.
— Tôi nghe người ta nói chuyện xảy ra với Tiến sĩ Missus. Ông gật đầu với Paula thông cảm và chia buồn. - Còn tôi đã nghe anh nói thứ anh nhìn thấy. Người ta cứ nói thôi. Tôi qua chỗ nhà anh để nói chuyện với anh. Nhưng anh không có ở nhà. Nên tôi đợi. Những người khác đến, nên tôi nấp. Họ chặt một con rắn. Rắn độc đen. Ma thuật xấu xa. Tôi cứ ở lại trốn.
Kaamisi nhắm mắt lại, cố nhớ lại. Anh đã về nhà rồi nhé, bị phi tiêu rồi này, bị bỏ đó cho chết đi này. Nhưng những người tấn công anh không biết, có người khác nấp sau nhà tôi đi ra, - người luống tuổi tiếp tục nói. - Tôi gọi những người khác. Bí mật, chúng tôi khiêng anh đi.
Paula Kane kết thúc câu chuyện.
— Chúng tôi mang anh đến đây. - Bà nói. - Chất độc gần như giết chết anh rồi, nhưng y học, cả hiện đại lẫn cổ xưa, đã cứu sống anh. Hút chết.
Khamisi liếc nhìn từ chai truyền dịch IV sang đến vị pháp sư.
— Cảm ơn.
Anh có cảm thấy đủ sức khỏe để đi bộ không? - Paula hỏi. - Anh nên cử động chân tay. Chất độc đánh vào hệ tuần hoàn như chất đống gạch.
Được pháp sư đỡ mình, Khamisi đứng dậy, khiêm tốn giữ cái chăn ẩm mồ hôi ngang thắt lưng. Anh được dìu tới cửa. Những bước đi đầu yếu ớt như một đứa bé con, nhưng rồi một sức mạnh mong manh nhanh chóng tràn vào chân tay anh.
Tấm thảm che cửa ra vào được kéo mở ra.
Ánh sáng và cái nóng của ngày tràn vào, chói mắt và rộp da.
Giữa chiều, anh đoán vậy. Mặt trời lặn ở phía tây.
Lấy tay che mắt, anh bước ra ngoài.
Anh nhận ra cái làng của dân Zulu nhỏ xíu. Nó nằm ở rìa khu bảo tồn Hluhluwe - Umfolozi. Không xa chỗ họ tìm thấy con tê giác, chỗ mà Tiến sĩ Fairfield đã bị tấn công.
Khamisi liếc nhìn Paula Kane. Bà đứng bắt chéo tay, khuôn mặt mệt mỏi rã rời.
— Chính là tên đội trưởng gác rừng; - Khamisi nói. Anh không còn nghi ngờ gì nữa. - Hắn muốn bịt mồm tôi.
— Về chuyện Marcia đã chết ra sao. về những gì anh đã nhìn thấy.
Anh gật đầu.
— Anh đã….?
Những lời nói của bà bị cắt ngang khi một chiếc trực thăng hai động cơ bay qua đầu, tầm thấp và ồn ào. Gió từ cánh quạt đập vào những bụi cây và cành cây. Những tấm thảm lật phật từ những cửa ra vào, cứ như thể cố xua đuổi người ta xía vô vào việc người khác.
Chiếc máy bay nặng nề lao đi, vượt qua vùng đồng cỏ hạ thấp xuống.
Khamisi theo dõi nó. Đó không phải là chuyến bay cho khách du lịch.
Bên cạnh anh, Paula nâng chiếc ống nhòm Bushnell, rà theo chiếc máy bay. Nó dạt hơn một quãng, rồi sững lại hạ cánh. Khamisi bước ra xa hơn để quan sát.
Paula trao cho anh ống nhòm.
— Luôn có các chuyến bay ra vào đó suốt ngày.
Khamisi nâng ống nhòm lên. Thế giới được phóng đại và chụm tiêu cự nhìn gần vào. Anh thấy chiếc máy bay hai động cơ thả xuống đằng sau nó một hàng rào màu đen cao mười feet. Nó đánh dấu ranh giới của khu đồn điền tư nhân nhà Waalenberg. Chiếc máy bay trực thăng biến mất đằng sau khu đó.
— Có chuyện gì đấy làm họ nháo hết cả lên. - Paula nói.
Đến những lông tơ sau gáy Khamisi cũng dựng lên run rẩy.
Anh xoay chỉnh tiêu cự, lấy nét hàng rào để nhìn. Những cửa chính cũ, hiếm khi được sử dụng, vẫn đóng kín bưng. Anh nhận ra gia huy cũ của dòng họ này, làm bằng đồ kim tuyến mạ bạc vắt ngang qua những cái cổng. Vương miện và Chữ thập nhà Waalenberg.
Trật Tự Đen Trật Tự Đen - James Rollins Trật Tự Đen