C
òn chưa tới tháng sáu, vậy mà trong điện Thanh Lương đã phải dùng băng rồi. Hồi còn mùa đông, mấy nghìn phu chuyên khuân vác đã lên tận núi Vân Ca đục một tảng băng khổng lồ, vận chuyển về bảo quản tại hầm băng của Đông Hoa kinh mấy tháng liền. Đợi cho đến lúc này lôi ra, từ một tảng băng thô mà điêu khắc kỳ công, cuối cùng đã thành một đài băng trên có lầu các cùng bao cảnh núi non sông nước sinh động như thật, cố định trong cái chậu vàng đặt ngay giữa Thanh Lương điện. Thanh Lương điện được xây dựng trên mặt nước, bốn bề trống không, có hành lang bao bọc, mành trúc buông rủ, bên trong điện cực kỳ yên tĩnh mà mát rượi, phía trước, đài băng đặt trên đế vàng đang chậm rãi tỏa hơi lạnh, thấy từng đường nét điêu khắc dần tan chảy trở nên nhạt nhòa, từng giọt nước lắt nhắt chảy xuống, rơi vào giữa chậu đánh “tách” một tiếng nghe thật trong trẻo. Như Sương từ trong cơn mộng tỉnh lại, trống ngực đánh thình thịch, trên trán nàng nhễ nhại mồ hôi, ướt đẫm mái tóc, vài lọn tóc mai dính bết bên thái dương. Ngoài mành ve ngân, tiếng râm ran không dứt truyền vào tận trong điện, lại càng làm nổi lên cái tĩnh mịch, nàng hé nửa con mắt, rồi lại thiêm thiếp mê man... Đó là một ngày khi còn đang ở nhà, bên ngoài Tú lâu, cây chuối tây vừa xòe tàu lá mới xanh nõn nà, bóng nắng vàng dịu chiếu qua tấm mành, rơi xuống sàn nhà trơn phẳng nhẵn bóng như mặt gương. Trên tấm vóc xanh nhạt đang căng trên chiếc khung mây, thêu hình một chú chim anh vũ quả nho, sắc lông mao anh vũ vô cùng sặc sỡ nhiều màu, dùng đủ hơn ba mươi loại tơ sợi, đường thêu cũng vô cùng rắc rối kỳ công. Vô tình ngẩng đầu lên, chợt trông thấy ngoài mành hoa lựu nở đỏ rực, màu đỏ như ngọn lửa đập vào mắt khiến mắt chỉ muốn nhắm lại, thế mà hình ảnh ngọn lửa hồng sống động nhảy múa vẫn còn như đang hiển hiện mãi. Một ngày dài vắng vẻ như vậy, dáng hoa im lìm, trong khuê phòng chỉ đượm một nỗi muộn phiền duy nhất, đó là làm sao để phối hợp màu sắc thật hài hòa cho chú vẹt trên khung thêu này... Có bước chân cực nhẹ, đi tới trước giường thì chậm rãi đứng lại, cúi nửa người xuống toan nhặt chiếc quạt lụa trắng ngần rơi trên mặt đất. Nàng thình lình mở con mắt, làm cho Hoàng Đế giật nảy mình, sau mỉm cười nói: “Đã tỉnh?” Giọng điệu thương tiếc: “Xem cái trán ngủ mà đầy mồ hôi kìa, ta đã sợ nóng, mà nàng còn sợ nóng hơn cả ta nữa.” Như Sương ngồi dậy vuốt vuốt mái tóc, ống tay áo mỏng manh tuột xuống, để lộ cánh tay trắng như tuyết, trên cổ tay còn đeo một chuỗi ngọc, lại càng làm tôn lên vẻ nõn nà của màu da. Nàng lại nằm xuống quay mặt vào bên trong giường, làm như vẫn còn đang muốn ngủ tiếp. Hoàng Đế nói: “Vẫn nên đứng dậy đi thôi, ngủ từ bữa trưa đến tận bây giờ, cẩn thận bị đầy bụng khó tiêu.” Nói đoạn tiện tay cầm chiếc quạt lụa, phe phẩy quạt cho nàng. Như Sương thình lình ngồi bật dậy, chẳng nói chẳng rằng giật phắt chiếc quạt đi, “cạch” một tiếng đã ném trên mặt đất. Một lần bất ngờ như vậy, đến cả Triệu Hữu Trí cũng bị dọa cho nhảy dựng. Hoàng Đế giận lắm, đứng dậy phẩy áo mà đi, tức tối đi được mấy bước, bỗng dừng lại, kêu: “Người đâu!” Hai gã nội quan nghe gọi mò vào, khom người chờ lệnh, Hoàng Đế quay lại chỉ vào Như Sương, trên trán còn hằn nổi gân xanh: “Trẫm muốn cho cô ta...” Mới nói được vài chữ, lại thấy nàng vẫn thản nhiên vô sự, vẫn cứ quay lưng ra ngoài, khuôn mặt trông nghiêng tuyệt đẹp, hàng mi dài đen rợp chẳng khác nào đôi cánh bướm chấp chới, rất dày, cách một tấm màn hoa lay động, đập vào mắt chàng. Hốt nhiên, ký ức lần cuối chàng đến Cảnh Tú cung bất ngờ dội về, cung nữ bước ra tiếp kiến, vui vẻ tâu: “Vạn Tuế gia, Hoàng quý phi đang ngủ.” Chàng khẽ “à” một tiếng, bước nhẹ qua tấm bình phong, xa xa từ ngoài song cửa sổ, vừa vặn trông thấy nàng đang ngủ, khóe miệng mỉm cười lơ đãng, làm người ta nghĩ rằng hẳn đang trong giấc mộng ngọt ngào. Nàng vĩnh viễn sẽ không biết được, chàng chỉ vừa mới ban chiếu dụ ấy xong. Ví bằng thời gian lúc đó sẽ ngưng lại mãi, ví bằng năm tháng khoảnh khắc rồi già đi, ví bằng chỉ trong nháy mắt đầy đầu đã bạc. Chàng đứng nơi đó, chẳng qua chỉ là cách vài bước chân, thế nhưng gang tấc dưới chân bỗng chốc biến thành ngàn dặm xa vắng, cả cuộc đời này, vĩnh viễn sẽ không bao giờ vượt qua nổi. Đó là kiếp này một lần cuối cùng còn được nhìn thấy nàng. Cuối thu trời xanh phẳng lặng, ánh nắng xuyên thấu qua song vải thưa, vờn trên khuôn mặt nàng, một tia sáng ấm áp nhỏ nhoi, nhạt như lông tơ trên cánh bướm, không có cách nào chạm được đến. Gió chập chờn thổi qua tấm màn hoa, dung nhan trước mắt mơ hồ tựa như trong giấc mộng, tất cả những hình ảnh và ánh sáng mê ly này đây, cũng chỉ thoáng qua trong chớp mắt, rồi sẽ trôi đi trong im lặng. Lòng Hoàng Đế mềm nhũn, thấy hai gã nội quan vẫn đang khúm na khúm núm đứng một góc đó, chỉ đành đổi giọng sai bảo: “Đem lại đây cho Thục phi mâm nho Thổ Nhĩ Lỗ vừa cống.” Còn chưa đến tháng sáu, nho tươi hiếm như kỳ trân dị bảo, Thổ Nhĩ Lỗ chẳng qua chỉ cống được hai cái thúng nhỏ, bỏ đi những quả còn xanh, dọc đường đi lại bị thối rữa, phần còn lại cũng chẳng còn bao. Triệu Hữu Trí thầm tức cười trong bụng, đợi nho mang tới, tự mình bưng qua, còn dặn nội quan đưa nho: “Trở về đi, tiện thể nói cho bên ngoài, hôm nay Hoàng Thượng sẽ không ra.” Buổi chiều thường lệ có một lần nghị triều, bởi vì thời tiết nóng, triều đình lại dụng binh hai nơi, sự tình lôi thôi rắc rối cũng nhiều, cho nên việc lâm triều mỗi ngày là khỏi phải nói, buổi nghị triều hôm nay cũng có rất nhiều việc. Nội quan chư tướng đều tề tựu đông đủ, đang chờ trong phòng đợi hầu chiếu như thường ngày. Có tốp năm tốp ba thì bàn chuyện rì rầm, có người dùng trà, có người nhắm mắt dưỡng thần, lại có người còn đang xem xét bản sớ tấu. Dự Thân Vương vốn tính tình cực kỳ trầm lặng, ngồi xếp bằng ở trên sạp, đang chậm rãi lật xem một tập sổ sách thật dày. Đại học sĩ Trình Phổ chính là một bậc nguyên lão già cả đã qua ba đời vua Thiên Hữu, đối với chuyện triều chính đều đã từng trải, cũng chính là vị có tuổi tác cao nhất. Lúc này chắp tay thong thả đi lại vài vòng, chợt bắt gặp chiếc đồng hồ bằng nước trong phòng, thấy đã không còn mấy thời gian, ngừng bước chân, đăm chiêu nói: “Hôm nay phỏng chừng là Hoàng Thượng sẽ không ra mất thôi.” Nói còn chưa xong, đã thấy mành được xốc lên, một tên nội quan tiến vào, đúng là thái giám trông coi lao dịch của điện Thanh Lương, tên gọi Tiểu Đông Tử, vòng tay làm lễ: “Bẩm chư vị Vương gia, các đại nhân, Hoàng Đế hôm nay sẽ không tiếp triều.” Thoáng chốc, mọi người trong phòng nhìn nhau, chợt có một tiếng “hừ” rất nhỏ, Trình Phổ thấy Tiểu Đông Tử thi lễ toan thối lui, vội gọi giật gã lại, hỏi: “Khoan đã, Hoàng Thượng có đích thân ra thánh chỉ hay không?” Tiểu Đông Tử thoáng ngập ngừng, như là không biết trả lời ra làm sao, Trình Phổ nói: “Hôm qua đại triều, truyền miễn, hôm nay lâm triều, lại truyền miễn, tới lúc này, hội nghị triều đình, lại cũng truyền miễn, Hoàng Thượng nếu không muốn lâm triều, thì cũng phải có một cái cớ chứ?” Lão vốn là thái phó (thầy dạy) cho thái tử, là bề tôi được chính Hưng Tông Hoàng Đế trước lúc lâm chung chỉ định làm cố mệnh đại thần(tức đại thần phò tá thái tử lên ngôi). Ai ngờ Mục Tông đoản mệnh, một thái phó như lão lại không thể đền đáp được dù chỉ một phần vạn long ân của Hoàng Đế, thâm tâm luôn tự trách, hối hận không chịu nổi. Mãi đến lúc đương kim Hoàng Đế lên ngôi, lão lấy cương vị một bậc đại học sĩ mà dẫn dắt triều chính, một lòng cúc cung tận tụy hòng báo đáp thánh ân, cho nên mới đốc thúc Hoàng Đế không chút nhân nhượng như thế. Tháng trước, Hoàng Đế vì việc phong phi cho Như Sương mà nổi lên tranh chấp cùng các đại thần, quan lại thì theo tổ chế, khăng khăng rằng con gái tội thần không được sắc phong, trong khi Hoàng Đế thì vẫn khư khư cố chấp, gạt ngang các nội thần mà trực tiếp truyền mệnh bên dưới làm lễ nghi ban chiếu công bố toàn thiên hạ. Trình Phổ tức giận đến nỗi mấy ngày cáo ốm không vào triều, chờ lão “khỏi bệnh”, Hoàng Đế lại cho khởi triều như thường, nào biết mới buổi đầu tiên, đã đòi miễn lâm triều. Hôm đó cho gọi Triệu Hữu Trí tới hỏi, lão đáp: “Long thể Vạn Tuế gia xưa nay ngại nóng, chư vị đại nhân đều biết cả, mỗi ngày phải đợi đến qua giờ tý, ban đêm yên tĩnh, mát mẻ một chút mới ngủ được, cho nên buổi sáng không tránh khỏi thức dậy hơi muộn.” Trình Phổ không thể công nhiên chỉ trích Hoàng Đế, chỉ “hừ” một tiếng miễn cưỡng chấp nhận. Ai ngờ Hoàng Đế càng ngày càng chây lười, đã nhiều ngày qua mà nhóm các vị đại thần muốn gặp mặt cũng đành bó tay. Trình Phổ bấy giờ càng nghĩ càng giận, chỉ muốn phát tác, Tiểu Đông Tử thấy lão sôi máu, sợ tới mức lắp ba lắp bắp: “Trình... Trình đại nhân... Nô tì chỉ là một tên sai vặt hèn hạ, nội tình bên trong, nô tì thực sự không biết.” Trình Phổ nghe lại càng tức, quay đầu nhìn Dự Thân Vương, chẳng nói thêm lời nào, Dự Thân Vương cũng đã hiểu ý lão. Thế nhưng việc cũng chẳng còn nằm trong tầm tay chàng, chàng chỉ biết thở dài một hơi, tình thế đột nhiên lật ngược như vậy, quả thực là ngoài dự kiến. Thời điểm đưa Như Sương tới hành cung, vụ thích khách Hoàng Để bỏ qua một bên chẳng hỏi tới, cũng không nói sẽ xử trí Hoa phi như thế nào, trong lòng chàng vẫn có chút hy vọng. Ai ngờ vừa đến Đông Hoa kinh, Hoàng Đế lập tức muốn sắc phong cho Như Sương làm phi tần, bỏ ngoài tai mọi phản đối của quần thần, ngay cả chàng đứng ra khuyên ngăn cũng không được, chỉ có thể trơ mắt nhìn chiếu thư sắc phong ban hành khắp thiên hạ. Chàng vẫy tay gọi Tiểu Đông Tử, nói với gã: “Ngươi nói một tiếng với Triệu tổng quản, thỉnh lão tâu lại với Hoàng Thượng, ta hôm nay có chuyện quan trọng nhất định phải gặp Hoàng Thượng. Thỉnh lão vô luận là thế nào, cũng phải nghĩ một biện pháp.” Tiểu Đông Tử vâng dạ, hành lễ cáo lui, vừa đi tới cửa, Dự Thân Vương lại gọi gã lại, nghĩ ngợi một lúc, cuối cùng chỉ phất tay: “Đi đi.” Tiểu Đông Tử chạy một mạch trở về Thanh Lương điện, đã thấy ngoài điện yên ắng tĩnh mịch, bọn nội quan đều lui cả vào dưới tán hoa dưới bậc thềm, chỉ có mình Triệu Hữu Trí ngồi trên bậc, ôm phất trần mà gục mặt xuống gối, hình như còn đang gật gà gật gù theo làn gió mát. Tiểu Đông Tử một mặt thì không dám quấy rầy, một mặt lại nghĩ đến lời của Dự Thân Vương, chần chừ mãi, rốt cuộc vẫn dè dặt tiến lên. Triệu Hữu Trí tưởng như đang lơ mơ ngái ngủ, đột nhiên mở mắt ngay tức khắc. Tiểu Đông Tử bẩm báo lại toàn bộ lời nói của Dự Thân Vương, Triệu Hữu Trí khẽ cau mày, che mặt ngáp cái, nhìn sắc trời trong xanh, lẩm bẩm nói: “Ngươi cứ đi đi.” Trong điện râm mát như nước, chỉ nghe thấy mỗi tiếng băng tan lâu lâu “tách” một cái, như là đồng hồ nước rỉ giọt, chỉ là không được đều đặn như thế mà thôi. Như Sương thì như chẳng nhìn chẳng thấy, xoay người muốn ngủ, Hoàng Đế nói: “Hôm qua ta đi gặp Hoa phi, là vì hoàng trưởng tử bị bệnh, cho nên muốn cô ấy chăm sóc. Có điều chỉ nói có vài câu, ngay cả chén trà nhỏ trong điện của cô ta cũng chưa nhấp ngụm nào, đã lập tức quay về. Nàng lại còn cáu kỉnh với ta như vậy, cũng thật quá không hiểu chuyện.” Như Sương vẫn nằm đó chẳng nhúc nhích, chỉ nói: “Chàng hiện giờ còn phải đi xem xét người ở nơi ấy, còn chưa xong đâu.” Hoàng Đế bèn đánh trống lảng, nói: “Đừng ngủ, ngồi dậy ăn nho đi.” Thấy Như Sương mãi chẳng đáp, Hoàng Đế tự tay nhón lấy một quả, bóc lớp vỏ mỏng, bỏ vào miệng: “Chà, ngọt ghê, nàng không muốn nếm thử sao?” Như Sương nghiêng mắt liếc chàng một cái, đột nhiên ghé mặt lại, Hoàng Đế chỉ cảm thấy hương hoa lan ngào ngạt xông thẳng vào chóp mũi, đôi tay mềm mại của nàng đã choàng sau gáy mình, làn môi thơm ấm mềm đã dán chặt lấy môi mình. Hoàng Đế tưởng chừng hô hấp như trì trệ, cảm nhận cánh môi anh đào trơn mềm dịu dàng của nàng làm cho cả thân mình muốn tan chảy, không thể cưỡng càng không thể rời. Tuy nhiên, chỉ trong nháy mắt như ánh chớp vừa qua, nàng đã buông tay, xỏ chân vào đôi hài dưới giường, đi đến trước gương, chải từng lọn tóc tơ, thản nhiên như chẳng có việc gì mà quay đầu lại cười, nói: “Đúng là ngọt thật đấy.” Nàng cầm chiếc lược ngà, từng chút từng chút một chải mái tóc, khóe môi ẩn hiện một nét cười. Mà cánh tay cầm chiếc lược chải đầu kia, cũng trắng ngần trong trẻo chẳng khác nào ngà voi, càng làm tôn lên suối tóc đen tuyền, soi rõ cả bóng người. Hoàng Đế chỉ cảm thấy xinh đẹp mê ly làm cho người ta không mở nổi con mắt. Như Sương đột nhiên dừng tay chải, khe khẽ thở dài, cúi mặt xuống. Khuôn mặt trông nghiêng của nàng tuyệt đẹp, dạo gần đây dung nhan cũng bớt tiều tụy hẳn, cái vẻ lãnh đạm khó gần cũng nhạt đi đôi phần, song theo đó lại sinh ra một vẻ yêu kiều thanh khiết đến lạ. Hoàng Đế nhớ lại ngày Mộ phi mới xuất giá, ngày đầu tiên đứng xem nàng trang điểm, nàng thẹn thùng xấu hổ quay mặt đi, dung nhan kia chẳng khác nào bông thược dược vừa chớm nở... Chàng đột nhiên đứng bật dậy, bước vài bước lên trước ôm chầm lấy Như Sương, xoay một cái ném nàng lên giường. Như Sương kêu nhỏ một tiếng, âm thanh cuối cùng đã chôn vùi trong nụ hôn của Hoàng Đế. Sức lực của chàng thật lớn, giống như chỉ muốn rút cạn toàn bộ không khí trong lồng ngực nàng, kia chẳng phải là hôn, mà phải nói là nhay nghiến một cách thô bạo mới đúng. Như Sương nhắm đôi mắt, cũng hung hăng cắn lại, cả hai người đều như đang phát tiết toàn bộ thống hận cùng ai oán, cũng chẳng phát ra một âm thanh gì, chỉ có trầm mặc mà kịch liệt triền miên. Mái tóc dài của nàng cuốn lấy ngón tay trỏ chàng, lạnh mà trơn, như một con rắn nhỏ cứ nuốt vào nhả ra thứ hơi lạnh buốt đến rùng mình. Chàng nghe thấy hơi thở của chính mình nặng nề gấp gáp pha lẫn hơi thở mỏng manh hỗn loạn của nàng, cả người không thể khống chế được một nỗi tuyệt vọng dâng trào khôn kể. Lần đầu tiên cũng đã như thế, quả thực là nỗi bi thương tuyệt vọng không nói nên lời. Đó là ở Nhạc Xương hành cung, hừng đông đã hửng, Dự Thân Vương bất ngờ dẫn Như Sương tới, khiến chàng vô cùng bất ngờ. Khoác áo choàng bước dậy, Dự Thân Vương đứng cách một song cửa sổ mà bẩm tấu lại từng câu từng chữ. Ngọn ngành sự việc làm cho chàng phải nhíu mày. Như Sương bước vào điện, vừa thấy chàng, đã che mặt mà khóc. Hoàng Đế xưa nay chán ghét đàn bà con gái nỉ non, ai ngờ nàng lại đâm đầu ngã nhào vào trong lồng ngực mình, như một đứa trẻ mà khóc to thành tiếng, làm cho chàng luống cuống cả tay chân, mãi hồi lâu mới đưa tay xoa nhẹ lưng nàng. Như Sương khóc đã thấm mệt, cuộn mình nằm trong lòng hoàng đế, lâu lâu lại thút thít một tiếng. Hoàng Đế nghe nàng khóc mà phiền muộn trong lòng, chỉ đành dịu giọng dỗ dành nàng: “Được rồi, được rồi, trẫm biết là nàng đã phải chịu tủi thân rồi.” Như Sương ngẩng mặt, làn da mặt trắng ngần trong suốt, ẩn hiện những tơ máu đỏ bừng, nước mắt vòng quanh, càng thêm vẻ đáng thương động lòng người. Nàng tuy là gầy yếu, song sức lực thì không nhỏ, dùng sức thúc trước ngực Hoàng Đế một cái thật mạnh. Hoàng Đế đã sớm đoán được nàng sẽ làm vậy, tăng lực trên tay, đoạn nở nụ cười: “Được rồi, đều là ta không tốt, đã đỡ rồi?” Nàng chậm chạp cúi đầu, đường cong trên chiếc cằm xinh vẫn quen thuộc như vậy, chính bởi cái cúi đầu ấy, mà bản thân lại không nhịn được đặt nơi cần cổ một nụ hôn. Hơi thở của nàng nhẹ mà nông, mang theo làn hương thơm mát quen thuộc, tựa như có thể làm rung động đến tận nơi sâu thẳm nhất. Chàng không thể lại nghĩ cái gì, chỉ buông thả bản thân mà hôn nàng, trong thời khắc mê ly mà hoảng hốt này, chẳng sợ chỉ như một giấc mộng, chàng cũng không thể nào buông tay. Tất cả những khát vọng, toàn bộ những không cam lòng, toàn bộ những gì đã mất, ký ức này cũng đã khô cạn từ lâu, giờ đây vỡ tan thành những mảnh nhỏ, này đây mềm mại ấm áp đã vĩnh viễn chẳng còn. Trong sự quấn quít triền miên lúc bấy giờ, hốt nhiên cứ sống dậy từng tấc từng tấc một, đó là sự đau đớn mãnh liệt khảm tận xương cốt. Như tuyệt vọng mà giải khát bằng một ly rượu độc, chàng không thể nào chống đỡ, chỉ có thể bất lực mà rơi vào, điên cuồng mà cắn xé hết thảy, đến tận lúc tiếng kêu the thé mà nhức nhối vang lên, trong cơn thống hận không lối thoát của chính mình chàng mới cảm nhận một sự thỏa mãn không nói nên lời. Miễn là lòng này chẳng còn hiu quạnh, miễn là không còn cảm giác khó chịu như bị ai nạo vét, chỉ cần trong nháy mắt liền quên đi... Cho dù là độc dược, cũng tốt. Mỗi khi cuồng nhiệt qua đi, mất mát lại càng thêm sâu đậm, cả người mệt mỏi đến nỗi không mở nổi mắt. Chàng vốn chán ghét là vậy, nhưng chẳng thể nào dứt ra. Từ ngày Mộ phi ra đi, đêm dài đen tối như một hình phạt tàn khốc, dù nàng có bước vào giấc mộng, dù nàng chẳng bước vào giấc mộng, tỉnh dậy bên mình vĩnh viễn trống vắng, luôn luôn lạnh lẽo đến thấu xương. Chàng từng coi cái hậu cung như không còn tồn tại, thế nhưng, cuối cùng nàng đã trở lại, vẫn còn sống mà trở về. Ai hay, tỉnh giấc thì đã hóa thành hư vô, ban đêm vạn vật mông lung, mà ngày về tất cả đều tàn nhẫn khắc nghiệt đến rõ nét! Thật may, trời vừa sáng thì Như Sương đã không còn lưu lại, nàng luôn luôn dậy sớm trước chàng, lúc chàng còn đang mơ màng thì đã rời đi, chỉ còn lại trên giường phảng phất một làn hương, khiến lòng chàng thảng thốt như trong giấc mộng. Lại là lâm triều, dù sao giờ mão cũng còn phải thức dậy lâm triều, Triệu Hữu Trí đã mấy lần gọi chàng tỉnh lại, thấy chàng cáu kỉnh, lão liền thôi không dám làm phền. Chàng lười biếng nghĩ, kỳ thực không lên lâm triều cũng không phải chuyện gì to tát, quần thần rộ lên vài ngày, lại bắt đầu đệ trình lên một đống tấu chương khuyên ngăn này nọ, thấy chàng đều chẳng đếm xỉa tới, đành phải thỏa thiệp mỗi ngày sẽ lại có một lần nghị triều vào buổi chiều mà thôi. Mọi sự ở dưới bàn tay quyền lực của đế vương đều trở nên thật dễ dàng, nhưng vì sao muốn quên một người, lại chỉ có thể mãi mãi nương nhờ vào ký ức, nương nhờ vào trí nhớ tàn nhẫn mà vô vọng đến vậy! Hết thảy những gì tốt đẹp nhất đều chỉ nơi đầu ngón tay mà bị thời gian phong hóa thành cát bụi, từng hạt từng hạt gió thổi bay đi, vĩnh viễn chẳng thể tìm lại được nữa. Thể xác và tinh thần chàng đều đã quá mệt mỏi, đôi mắt lại nặng nề mà thiếp đi. Ngoài cửa sổ, bóng tà dương đã lẩn khuất về tây, cách một lớp mành lụa thưa, ánh lên những tia sáng ảm đạm giữa điện. Những bản tấu chương vẫn còn chất đống trên bàn, đặc biệt là tin quân cấp báo đặt cạnh chiếc bút lông trĩ, trên lông mao lấp loáng một tầng bảy sắc, tựa như màu men trên những đồ sứ vừa mới cống, nảy lên một luồng sáng lạnh lẽo trông dễ vỡ. Dự Thân Vương quay đầu lại nhìn chiếc đồng hồ cát bằng đồng, trong con ngươi cũng tản mát một thứ ánh sáng của hào quang giữa ngày, dần dần càng trở nên tối tăm.