Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 10
V
ào tối thứ Ba, phần lớn những điều tôi nghĩ mình đã hiểu về bản thân hóa ra đều sai cả. Đến tối Chủ nhật, bố tôi và tôi đã dự kiến sẽ thu xếp hành lý về nhà. Tôi chỉ còn vài ngày để quyết định xem nên làm gì. Ở lại hay ra đi - chẳng lựa chọn nào có vẻ tốt. Làm sao tôi có thể ở lại đây và bỏ sau lưng mọi thứ tôi đã biết? Nhưng sau tất cả những gì đã tìm hiểu được, làm sao tôi có thể về nhà đây?
Tệ hơn thế, chẳng có ai tôi có thể tâm sự về việc đó. Kể với bố thì không được rồi. Emma thường xuyên đưa ra những lý lẽ tha thiết để thuyết phục tôi ở lại, song chẳng có lời nào trong đó nhắc đến cuộc sống tôi sẽ phải từ bỏ (cho dù nó có tầm thường đến đâu đi nữa), hay sự biến mất đột ngột không thể lý giải nổi của đứa con duy nhất có thể tác động thế nào tới bố mẹ tôi, hay cảm giác tù túng ngột ngạt mà chính Emma đã thú nhận cô cảm thấy khi ở trong vòng thời gian. Cô hẳn sẽ chỉ nói, “Sẽ tốt hơn khi có cậu ở đây.”
Bà Peregrine còn chẳng giúp được bằng chừng đó. Câu trả lời duy nhất của bà là bà không thể đưa ra một quyết định như thế cho tôi dù tôi chỉ muốn nói đến cùng cho rõ. Dẫu vậy, rõ ràng bà muốn tôi ở lại ngoài sự an toàn của bản thân tôi, sự hiện diện của tôi trong vòng thời gian sẽ làm cho những người khác an toàn hơn. Nhưng tôi không có hứng thú với ý tưởng dành cả cuộc đời mình làm lính canh cho họ. (Tôi bắt đầu ngờ rằng ông tôi đã có cảm giác tương tự, và đó là một phần lý do ông từ chối quay lại sau chiến tranh.)
Gia nhập cùng đám trẻ đặc biệt cũng sẽ có nghĩa là tôi không thể học xong trung học hay vào đại học, hoặc làm bất cứ việc gì trong số những điều bình thường người ta vẫn làm khi trưởng thành. Đến đây, tôi lại phải nhắc nhở bản thân liên tục là tôi không phải người bình thường, và chừng nào các hồn rỗng còn tiếp tục săn đuổi tôi, bất cứ cuộc sống nào bên ngoài vòng cũng sẽ gần như chắc chắn rất ngắn ngủi. Tôi sẽ phải dành phần đời còn lại của mình sống trong sợ hãi, luôn phải nhìn trước ngó sau, bị những cơn ác mộng giày vò, chờ đợi khoảnh khắc khi cuối cùng chúng cũng tới và tiễn tôi sang thế giới bên kia. Đoạn kết này nghe còn ngán ngẩm hơn nhiều so với chuyện bỏ lỡ đại học.
Sau đó tôi nghĩ: chẳng lẽ không có lựa chọn thứ ba sao? Chẳng lẽ tôi không thể như ông nội Portman, trong năm mươi năm đã sống thoải mái và đánh bại đám hồn rỗng ở bên ngoài vòng thời gian sao? Đến đây, giọng nói tự ti trong đầu tôi lại chen vào.
Ông đã được huấn luyện trong quân ngũ, đồ ngốc. Ông là một tay cứng cựa có cái đầu lạnh. Ông chẳng khác gì một kho vũ khí di động đầy ắp súng gắn đạn ghém nòng ngắn. Đem so với cậu thì ông đúng là Rambo đấy.
Tôi có thể đăng ký một lớp học bắn súng, phần lạc quan trong tôi liền nghĩ. Học Karate. Rèn luyện thể lực.
Đùa đấy à, anh bạn? Cậu thậm chí còn chẳng thể bảo vệ nổi bản thân ở trường trung học! Cậu phải mua chuộc thằng nhóc lỗ mãng kia làm vệ sĩ cho mình. Và chỉ cần chĩa một khẩu súng thật vào ai đó thôi là cậu đã tè cả ra quần rồi.
Không, tôi sẽ không như thế.
Cậu là một kẻ yếu đuối. Cậu là một kẻ thua cuộc. Đó là lí do vì sao ông nội không bao giờ nói cho cậu biết cậu thực sự là ai. Ông biết cậu sẽ không thể gánh vác nổi điều đó.
Im đi. Im đi.
Suốt nhiều ngày tôi cứ nghiêng đi ngả lại giữa hai dòng nước như thế. Ở lại hay ra đi. Tôi bị ám ảnh triền miên mà không tìm ra nổi một giải pháp nào. Trong khi đó, bố đã hoàn toàn cạn hứng với cuốn sách của mình. Ông càng làm việc ít đi thì càng trở nên thoái chí nhiều hơn, và càng thoái chí thì ông lại càng dành nhiều thời gian hơn ở quầy bar. Tôi chưa bao giờ thấy ông uống kiểu đó trước đây - sáu bảy chai bia một tối - và tôi không muốn ở gần bố khi ông như vậy. Tâm trạng ông rất tệ, và những lúc không lầm lì im lặng, ông sẽ nói với tôi những điều tôi thực sự không muốn biết.
“Thể nào cũng có ngày mẹ con bỏ bố”, ông nói vào một buổi tối. “Nếu bố không làm ra được gì đó thật sớm, bố thực sự nghĩ mẹ sẽ làm thế.”
Tôi bắt đầu tránh ông. Tôi không chắc thậm chí ông nhận ra điều đó. Việc nói dối lúc đi về với tôi trở nên dễ dàng đến phát nản.
Trong lúc đó, tại trại trẻ đặc biệt, bà Peregrine áp đặt tình trạng gần như khóa trái cửa. Cứ như thể tình trạng thiết quân luật vừa được ban bố: những đứa trẻ ít tuổi hơn không được phép đi đâu mà không có người đi cùng, những đứa trẻ lớn hơn cần đi theo cặp, và bà Peregrine phải biết tất cả mọi người đang ở đâu vào bất cứ lúc nào. Chỉ nguyên việc xin được ra ngoài cũng đã khổ công lắm rồi.
Những người trực gác được cắt cử luân phiên để quan sát đằng trước và đằng sau trại trẻ. Vào bất cứ lúc nào, cả ban ngày và phần lớn buổi đêm, bạn cũng có thể thấy những khuôn mặt buồn chán đang ngó ra qua các cửa sổ. Nếu trông thấy ai đó lại gần, họ sẽ giật một sợi dây kéo làm rung một cái chuông trong phòng bà Peregrine, nghĩa là bất cứ khi nào tôi tới nơi, bà cũng đang đợi bên trong cửa để thẩm vấn tôi. Tình hình bên ngoài vòng thế nào? Tôi có thấy gì lạ không? Tôi có chắc mình không bị bám theo không?
Không mấy ngạc nhiên, đám trẻ bắt đầu trở nên bứt rứt. Những đứa bé trở nên cáu bẩn trong khi những đứa lớn hơn rầu rĩ, phàn nàn về những quy định mới với giọng vừa đủ lớn để người khác nghe thấy. Những tiếng thở dài ngao ngán chợt vang lên trong không khí thường là manh mối duy nhất cho biết Millard vừa lang thang vào một căn phòng. Bầy ong của Hugh bay khắp nơi và đốt mọi người cho tới khi chúng bị cấm cửa bên ngoài nhà, sau đó Hugh dành toàn bộ thời gian ngồi bên khung kính cửa sổ, trong khi bầy ong của cậu ta bu đầy bên kia mặt kính.
Olive, tuyên bố cô đã để thất lạc mất đôi giày trọng lực của mình, thường xuyên bò qua bò lại trên trần nhà như một con ruồi, rắc những hạt gạo xuống đầu người khác cho tới khi họ ngẩng đầu lên và nhận ra cô, lúc đó cô mới phá lên cười hết cỡ, tới mức khả năng bay của cô không còn được duy trì, và cô phải bám vào một chùm đèn hay một thanh treo rèm để khỏi bị rơi xuống. Lạ lùng hơn cả là Enoch, cậu này biến mất xuống phòng thí nghiệm dưới tầng hầm để thực hiện các thí nghiệm giải phẫu có thể khiến Tiến sĩ Frankenstein phải cúi đầu ngưỡng mộ trên đám lính đất sét của mình: cắt cụt chân hai chú lính để biến chú lính thứ ba thành một thứ người nhện quái gở, hay nhét bốn quả tim gà vào một lồng ngực duy nhất trong nỗ lực nhằm tạo nên một siêu nhân đất sét không bao giờ cạn năng lượng. Lần lượt, những thân thể bé nhỏ màu xám của chúng đều gục ngã dưới thử thách, và tầng hầm thành ra giống một quân y viện dã chiến thời Nội chiến.
Về phần mình, bà Peregrine cứ luôn tay luôn chân, hút hết tẩu thuốc này đến tẩu thuốc khác trong khi tập tễnh đi từ phòng này sang phòng khác để kiểm tra đám trẻ như thể chỉ rời khỏi tầm mắt bà là chúng có thể biến mất ngay lập tức. Bà Avocet ở lại, thỉnh thoảng lại thức tỉnh khỏi cơn mê mệt để lang thang theo các hành lang, khổ sở gọi tên những đứa trẻ tội nghiệp bị bỏ rơi của bà trước khi ngã quỵ trên tay ai đó để rồi được đưa trở lại giường. Tiếp theo là vô vàn phỏng đoán hoang tưởng về tai họa bi thảm của bà Avocet cùng lý do tại sao các hồn rỗng lại muốn bắt cóc các Chủ Vòng Thời Gian, với đủ giả thuyết từ kỳ quái (như để tạo ra vòng thời gian lớn nhất trong lịch sử, đủ để bao trùm cả hành tinh) đến lạc quan một cách lố bịch (như để làm bạn chơi với các hồn rỗng, một quái vật khủng khiếp chuyên ăn các linh hồn cũng có thể trở nên vô cùng cô đơn).
Cuối cùng, một sự im lặng nặng nề đè nặng lên trại trẻ. Hai ngày giam hãm đã làm tất cả mọi người bơ phờ. Tin rằng hoạt động thường nhật là cách tốt nhất chống lại trầm uất, bà Peregrine cố gắng thu hút sự quan tâm của mọi người bằng việc chuẩn bị các bữa ăn mỗi ngày, và bằng cách giữ cho ngôi nhà ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng bất cứ khi nào không nhận lệnh trực tiếp là phải làm gì đó, đám trẻ lại nặng nề ngồi ủ rũ xuống những chiếc ghế tựa, mắt nhìn chăm chăm vô hồn qua các khung cửa sổ khóa trái, lần giở những cuốn sách quăn mép chúng đã đọc qua cả trăm lần trước đó hay ngủ.
Tôi chưa bao giờ tận mắt thấy năng lực đặc biệt của Horace cho đến một buổi tối cậu ta bắt đầu la hét. Đám chúng tôi hối hả lao lên cầu thang tới chỗ tầng áp mái, nơi cậu ta đang làm nhiệm vụ cảnh giới và bắt gặp cậu ta cứng đờ trên một chiếc ghế, hai bàn tay chới với quờ quạng trong không khí đầy kinh hãi, như thể đang cố bấu víu lấy thứ gì đó trong cơn ác mộng. Thoạt đầu, cậu ta chỉ la ầm ĩ, nhưng sau đó bắt đầu lắp bắp, gào thét về cái gì mà mặt biển sôi sùng sục và tro trút xuống như mưa từ trên bầu trời và một thảm khói vô tận phủ kín mặt đất. Sau vài phút không ngừng lảm nhảm những lời tiên đoán như về tận thế này, có vẻ đã kiệt sức, cậu ta chìm vào giấc ngủ chập chờn.
Những người khác đã chứng kiến chuyện này xảy ra trước đây - thường xuyên đến mức có cả ảnh chụp những lần lên đồng của cậu ta trong cuốn album của bà Peregrine và họ biết phải làm gì. Theo chỉ dẫn của cô phụ trách, đám trẻ khiêng cậu ta về giường, và khi tỉnh lại vài giờ sau đó cậu ta khẳng định không nhớ gì về giấc mơ, mà những giấc mơ cậu ta không thể nhớ được thì hiếm khi trở thành sự thật. Những người khác chấp nhận điều này vì họ còn có quá nhiều điều khác để lo lắng. Tôi cảm thấy cậu ta đang giấu chuyện gì đó.
Khi ai đó mất tích ở một thị trấn nhỏ bé như Cairnholm, người ta sẽ nhận ra ngay. Chính vì vậy, vào thứ Tư, khi ông Martin không mở cửa bảo tàng như thường lệ hay rẽ vào Priest Hole làm một chầu rượu tối theo thói quen, người ta bắt đầu băn khoăn liệu có phải ông ta bị ốm hay không, và khi vợ Kev đến nhà ông ta kiểm tra, bà ta thấy cửa trước để mở, ví và kính của ông Martin để trên quầy bếp nhưng không có ai trong nhà, người ta bắt đầu bàn tán liệu có phải ông ta đã chết. Khi thấy ông ta vẫn không xuất hiện vào ngày hôm sau, một đám đàn ông được phái đi mở cửa tất cả các chuồng gia súc, tìm bên dưới những chiếc thuyền lật úp, tìm kiếm ở mọi nơi xem biết đâu người đàn ông độc thân mê whisky này say quá mà ngủ quên mất. Nhưng họ chỉ mới bắt đầu thì có một cuộc gọi qua radio sóng ngắn cho biết: thi thể ông Martin đã được kéo lên ngoài biển.
Khi người ngư dân đã tìm thấy ông ta đi vào quán rượu thì tôi đang ở đó cùng bố. Lúc đó mới tầm giữa trưa, nhưng ông này vẫn được đưa cho một chai bia theo đúng nguyên tắc phục vụ, và chỉ trong vòng vài phút, người đàn ông đã thuật lại câu chuyện của mình.
“Lúc đó tôi đang ở trên chỗ mũi Gannet để kéo lưới”, ông ta bắt đầu. “Lưới nặng kinh khủng, một chuyện thật lạ vì bình thường ở đó tôi chỉ kéo được rất ít, gần như chẳng có gì, vài con tôm vớ vẩn, thế thôi. Nghĩ rằng mình đã kéo phải một lồng bẫy cua, tôi liền vớ lấy cây lao có mấu và quờ quạng bên dưới thuyền cho tới khi nó móc vào thứ gì đó.” Tất cả chúng tôi cùng nhích người lui lại trên ghế của mình, như thể đang trong giờ kể chuyện tại một trường mẫu giáo quái gở nào đó. “Đó chính là Martin. Có vẻ như ông ta đã rơi từ trên một vách đá xuống và bị đám cá mập rỉa. Có Chúa mới biết ông ta lang thang làm gì ngoài chỗ vách đá giữa đêm khuya trong khi chỉ choàng độc cái áo và đi dép.”
“Ông ta không mặc đồ à?” Kev hỏi.
“Có lẽ đồ để ngủ thôi”, người ngư dân nói. “Không phải để ra ngoài trời mưa.”
Người ta cầu nguyện vài lời ngắn ngủi cho linh hồn ông Martin, đoạn bắt đầu trao đổi các giả thiết. Chỉ trong vòng vài phút, quán rượu trở thành nơi họp bàn mịt mờ khói thuốc của các Sherlock Holmes chếnh choáng hơi men.
“Có thể ông ta say”, một người đoán liều.
“Mà nếu ông ta lang thang ra chỗ vách đá, có thể ông ta chính là kẻ giết cừu và lúc đó đang bị săn đuổi”, một người khác nói.
“Thế còn cái gã mới tới trông như con sóc ấy thì sao?” ông ngư dân kia nói. “Cái tay vẫn cắm trại ấy.”
Bố tôi thẳng người dậy trên cái ghế đẩu chân cao đang ngồi. “Tôi đã bắt gặp anh ta”, ông nói. “Tối hôm kia.”
Tôi ngạc nhiên quay sang bố. “Sao bố chẳng kể gì với con?”
“Tôi cố đến nhà thuốc trước khi đóng cửa, còn anh chàng này đi theo hướng ngược lại, ra khỏi thị trấn. Có vẻ rất vội. Tôi đụng vào vai anh ta khi anh ta đi ngang qua và làm anh ta bực mình. Anh ta dừng lại nhìn chằm chằm vào tôi. Cố dọa nạt. Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, bảo là tôi muốn biết anh ta đang làm gì ở đây, đang có mục đích gì. Ở đây ai cũng nói về mình cả, tôi nói vậy.”
Kev cúi người qua quầy bar. “Và?”
“Trông anh ta như sắp sửa đấm tôi một cú, nhưng rồi chỉ bỏ đi.”
Rất nhiều người thắc mắc - một nhà điểu cầm học thì làm gì, tại sao tay kia lại cắm trại, và nhiều điều khác tôi vốn đã biết. Tôi chỉ có một câu đang nóng lòng muốn hỏi. “Bố có để ý thấy điều gì lạ về ông ta không? Khuôn mặt ấy?”
Bố tôi nghĩ trong giây lát. “À, thực ra thì có. Anh ta đeo kính râm.”
“Vào buổi tối sao?”
“Nghe thật kỳ cục.”
Cảm giác buồn nôn cuộn lên trong tôi, và tôi tự hỏi bố tôi đã cận kề một chuyện còn tồi tệ hơn một cuộc so nắm đấm đến mức nào. Tôi biết mình cần phải kể cho bà Peregrine biết chuyện này - và thật sớm.
“À, khỉ thật”, Kev nói. “Đã hàng trăm năm nay không có vụ giết người nào ở Cairnholm. Tại sao lại có ai đó muốn giết ông già Martin chứ? Nghe chẳng có lý gì cả. Tôi dám cược một chầu cho tất cả các vị là kết quả giải phẫu tử thi được trả về sẽ cho thấy ông ta đã xỉn quắc cần câu.”
“Có thể phải mất khá lâu trước khi có kết quả đấy”, ông ngư dân nói. “Cơn bão đang tràn đến, người dự báo thời tiết nói nó sẽ rất dữ dội. Trận bão tệ nhất chúng ta phải chịu trong cả năm nay.”
“Người dự báo thời tiết nói”, Kev dè bỉu. “Tôi sẽ không tin gã khốn ngớ ngẩn ấy biết liệu bây giờ trời có đang mưa hay không.”
o O o
Người dân trên đảo thường đưa ra những dự báo ảm đạm về những gì Mẹ Thiên nhiên định dành cho Cairnholm - nói gì thì nói, họ cũng nằm dưới sự khống chế của các yếu tố thiên nhiên, và bản chất vốn đã bi quan nhưng lần này những lo ngại tồi tệ nhất của họ đã được xác nhận. Gió và mưa vốn trút xuống hòn đảo suốt cả tuần đến tối hôm ấy bỗng mạnh lên thành một cơn bão tồi tệ ập tới tối sầm trời đất và làm mặt biển cuộn sóng ngầu bọt. Giữa những tin đồn về việc ông Martin đã bị sát hại và thời tiết thị trấn cũng rơi vào cảnh cửa đóng then cài chẳng kém gì trại trẻ. Mọi người ở tịt trong nhà. Các cánh cửa chớp đóng chặt, cửa ra vào được cài chốt chặt. Ngoài bến đậu, các con thuyền va đập vào nhau trong cơn sóng mạnh nhưng không chiếc nào rời bến ra khơi trong một cơn cuồng phong như vậy chẳng khác gì tự sát. Và bởi vì cảnh sát trong đất liền không thể ra nhận thi thể ông Martin cho tới khi biển lặng, cư dân thị trấn buộc phải giải quyết câu hỏi phiền toái về chuyện cần làm gì với cái xác. Cuối cùng, người ta quyết định rằng ông chủ hàng cá, người tích trữ nhiều nước đá nhất trên đảo, sẽ giữ lạnh nạn nhân đằng sau cửa hàng của mình, giữa những con cá hồi, cá tuyết và các thứ hải sản khác. Những thứ cũng giống như ông Martin, đã được vớt lên từ biển.
Tôi phải nghe theo yêu cầu nghiêm khắc của bố là không được rời Priest Hole, nhưng tôi cũng bị ràng buộc bởi yêu cầu của bà Peregrine phải báo lại bất cứ sự lạ nào xảy ra - và nếu một cái chết đáng ngờ không phải là sự lạ thì chẳng còn gì đáng gọi như vậy nữa. Thế là tối đó tôi giả bộ bị cúm và khóa trái mình lại trong phòng, sau đó trèo qua cửa sổ rồi tụt xuống đất theo ống thoát nước. Không còn ai ngớ ngẩn đến mức mò ra ngoài, vì thế tôi chạy một mạch theo đường cái mà không sợ bị phát hiện, mũ trùm áo khoác đập phành phạch dưới cơn mưa như roi quất.
Khi tôi tới trại trẻ, bà Peregrine đưa mắt nhìn tôi một cái là biết ngay có chuyện gì đó không ổn. “Có chuyện gì xảy ra vậy?” bà hỏi, đôi mắt nổi đầy tia máu nhìn khắp người tôi dò hỏi.
Tôi kể lại tất cả với bà, mọi chi tiết vụn vặt và những tin đồn tôi hóng được, mặt bà liền tái nhợt. Bà hối hả kéo tôi vào trong phòng khách, trong cơn hốt hoảng, bà đã tập hợp tất cả những đứa trẻ có thể tìm thấy lại đó rồi vội vã tập tễnh bước ra tìm số ít còn lại đã tảng lờ tiếng gọi của bà. Số còn lại bị để đứng đó, lo lắng và bối rối.
Emma và Millard dồn tôi vào góc. “Tại sao cô lại cuống lên thế?” Millard hỏi.
Tôi khẽ kể cho họ biết về ông Martin. Millard tặc lưỡi còn Emma khoanh tay lại, trông có vẻ lo lắng.
“Có thực là nghiêm trọng đến thế không?” tôi hỏi.
“Ý tớ là, chuyện đó không thể do các hồn rỗng gây ra. Chúng chỉ săn đuổi người đặc biệt thôi, phải không?”
Emma rên lên. “Cậu muốn nói cho cậu ấy biết, hay tớ sẽ nói đây?”
“Hồn rỗng ưa thích người đặc biệt hơn nhiều so với người thường”, Millard giải thích, “nhưng chúng có thể ăn thịt bất cứ cái gì để sống, miễn đó là cơ thể sống và có máu thịt.”
“Đó là một trong những cách để cậu biết có thể có một hồn rỗng lẩn khuất xung quanh”, Emma nói. “Xác chết sẽ liên tục xuất hiện. Đó là lý do vì sao chúng chủ yếu du cư. Nếu chúng không thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác, người ta sẽ rất dễ lần ra chúng.”
“Thường xuyên đến mức nào?” tôi hỏi, một cơn ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. “Ý tớ là chúng có cần ăn không?”
“À, rất thường xuyên”, Millard nói. “Xoay xở bữa ăn cho đám hồn rỗng là việc đám xác sống dành phần lớn thời gian của chúng để làm. Chúng tìm kiếm những người đặc biệt khi có thể, nhưng một phần đáng kể công sức và nỗ lực của chúng là dành cho việc lùng tìm những nạn nhân bình thường, cả thú vật lẫn người, cho bọn hồn rỗng, sau đó xóa dấu vết.” Cậu ta nói đầy vẻ uyên bác, như thể đang bàn luận về thói quen sinh sản của một loài gặm nhấm tương đối thú vị nào đó.
“Nhưng đám xác sống không bị bắt sao?” tôi nói. “Ý tớ là chúng tiếp tay cho việc giết người, các cậu có nghĩ...”
“Một số bị bắt”, Emma nói. “Tớ cược là cậu đã nghe thấy không ít, nếu cậu theo dõi tin tức. Có một gã bị người ta tìm thấy cùng những cái đầu người để trong thùng lạnh và một cái nồi to đựng đầy phủ tạng băm nhỏ đang đun sôi lăn tăn, cứ như thể hắn đang chuẩn bị bữa tối Giáng sinh vậy. Tính theo thời đại của cậu thì chuyện này xảy ra cũng chưa lâu lắm.”
Tôi nhớ - chỉ lờ mờ - về một chương trình ti vi đặc biệt giật gân phát lúc tối muộn về một kẻ giết người hàng loạt và ăn thịt người ở Milwaukee, hắn đã bị bắt trong hoàn cảnh ghê rợn tương tự.
“Ý cậu là... Jeffrey Dahmer?”
“Tớ tin rằng đó là tên của quý ông nọ, phải”, Millard nói. “Một vụ đáng kinh ngạc. Dường như hắn chưa bao giờ mất đi sự thèm muốn thịt sống, cho dù hắn đã không còn là hồn rỗng trong nhiều năm.”
“Tớ cứ nghĩ các cậu đáng lẽ không biết gì về tương lai cơ đấy”, tôi nói.
Emma mỉm cười dè dặt. “Chim chỉ giữ lại những điều tốt ở tương lai cho riêng cô ấy, nhưng cậu có thể cược là bọn tớ được nghe tất cả những chuyện khiến người ta bĩnh ra quần.”
Sau đó, bà Peregrine quay lại, nắm tay áo Enoch và Horace lôi theo sau. Tất cả mọi người đều đứng nghiêm.
“Chúng ta vừa được biết tin về một mối đe dọa mới”, bà nói, rồi dành cho tôi một cái gật đầu tán thưởng. “Một người đàn ông bên ngoài vòng của chúng ta đã chết một cách đáng ngờ. Chúng ta không thể biết chắc nguyên nhân cái chết hay liệu điều đó có báo hiệu một mối đe dọa cho sự an toàn của chúng ta hay không, nhưng chúng ta cần xử sự như thể là có. Cho tới khi có thêm thông báo, không ai được phép ra khỏi nhà, thậm chí là để hái rau hay mua một con ngỗng về cho bữa tối.”
Tất cả cùng rên lên, đáp lại, bà Peregrine cao giọng, “Mấy ngày vừa rồi đúng là thử thách với tất cả chúng ta. Cô mong các em hãy tiếp tục kiên nhẫn.”
Những bàn tay giơ lên quanh phòng, nhưng bà dứt khoát từ chối mọi câu hỏi và đi ra ngoài để khóa các cửa ra vào. Tôi hốt hoảng chạy theo bà. Nếu thực sự có thứ gì đó nguy hiểm trên đảo, nó có thể giết tôi ngay khi tôi bước chân ra bên ngoài vòng. Nhưng nếu ở lại đây, tôi sẽ bỏ mặc bố tôi không được bảo vệ, đó là chưa kể tới việc ông sẽ lo điên lên vì tôi. Điều đó có vẻ còn tồi tệ hơn.
“Cháu cần đi”, tôi nói khi bắt kịp bà Peregrine.
Bà kéo tôi vào trong một căn phòng trống rồi đóng cửa lại. “Cậu phải hạ giọng xuống”, bà ra lệnh, “và cậu phải tôn trọng quy định của ta. Những gì ta đã nói áp dụng cho cả cậu nữa. Không ai rời khỏi trại trẻ này hết.”
“Nhưng...”
“Cho tới giờ ta đã cho cậu quyền tự chủ chưa hề có tiền lệ trong việc đến và đi như cậu muốn, xuất phát từ việc tôn trọng vị thế đặc biệt của cậu. Nhưng có thể cậu đã bị bám theo tới đây, và việc đó đẩy tính mạng những đứa trẻ ta quản lý vào cảnh rủi ro. Ta sẽ không cho phép cậu gây nguy hiểm cho chúng - hay cho chính cậu - thêm nữa.”
“Bà không hiểu sao?” tôi bực bội nói. “Thuyền không thể ra khơi được. Những người dân trong thị trấn đang mắc kẹt. Bố cháu cũng mắc kẹt. Nếu thực sự có một xác sống, và hắn chính là kẻ cháu đã nghĩ, thì thiếu chút nữa hắn và bố cháu đã đánh nhau rồi. Nếu hắn vừa đem một người hoàn toàn xa lạ ra làm mồi cho một con hồn rỗng thì bà nghĩ xem hắn sẽ tìm đến ai tiếp theo?”
Khuôn mặt bà vẫn như tạc bằng đá. “An nguy của cư dân thị trấn không phải là trách nhiệm của ta”, bà nói. “Ta sẽ không đẩy đám trẻ ta phụ trách vào cảnh nguy hiểm. Dù vì bất kì ai.”
“Đó không chỉ là cư dân thị trấn. Còn là bố cháu nữa. Bà thực sự nghĩ vài cánh cửa khóa trái có thể ngăn cản cháu ra đi sao?”
“Có thể là không. Nhưng nếu cậu khăng khăng muốn rời khỏi đây, ta kiên quyết yêu cầu cậu không bao giờ quay lại nữa.”
Tôi bị sốc đến mức phải bật cười. “Nhưng bà cần cháu”, tôi nói.
“Phải, chúng ta cần cậu”, bà đáp. “Rất cần.”
o O o
Tôi đùng đùng lao lên lầu tới phòng Emma. Bên trong là một cảnh tuyệt vọng dường như bước ra từ một bức tranh của Norman Rockwell, nếu Norman Rockwell từng vẽ những người trải qua thời gian khổ sở trong tù. Bronwyn nhìn chằm chằm vô hồn ra ngoài cửa sổ. Enoch ngồi dưới sàn, chuốt gọt một khối đất sét cứng. Emma đang ngồi bên mép giường, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, xé những tờ giấy ra từ một cuốn sổ tay rồi đốt cháy chúng giữa các ngón tay mình.
“Cậu đây rồi!” cô thốt lên khi tôi bước vào.
“Tớ đã đi đâu”, tôi đáp. “Bà Peregrine không cho tớ đi.” Mọi người lắng nghe trong khi tôi giải thích cảnh tiến thoái lưỡng nan của mình. “Tớ sẽ bị cấm trở lại nếu cố rời đi.”
Cả cuốn sổ tay của Emma đã cháy hết. “Cô ấy không thể làm thế!” cô kêu lên, không hề để ý đến ngọn lửa đang liếm vào bàn tay mình.
“Cô ấy có thể làm những gì cô ấy thích”, Bronwyn nói. “Cô ấy là Chim.”
Emma ném cuốn sổ của cô xuống và dập tắt lửa.
“Tớ tới chỉ để nói cho cậu biết tớ sẽ đi, dù bà ấy có muốn hay không. Tớ sẽ không để bị cầm tù, và tớ sẽ không rúc đầu tìm chỗ trốn trong khi chính bố tớ đang gặp nguy hiểm thực sự.”
“Vậy tớ sẽ đi với cậu”, Emma nói.
“Cậu đùa à”, Bronwyn lên tiếng.
“Tớ nghiêm túc đấy.”
“Điều cậu đang nói thật ngớ ngẩn”, Enoch nói. “Cậu sẽ biến thành một quả mận héo nhăn nheo, và vì cái gì chứ? Cậu ta à?”
“Tớ sẽ không bị”, Emma nói. “Cậu phải ra ngoài vòng nhiều giờ đồng hồ liền thì thời gian mới bắt kịp cậu, và chuyện này sẽ không mất nhiều thời gian đến thế, phải không nào, Jacob?”
“Đó là một ý tưởng tồi”, tôi nói.
“Ý tưởng tồi là sao?” Enoch nói. “Bạn ấy thậm chí còn chẳng biết mình đang mạo hiểm tính mạng để làm gì.”
“Cô phụ trách sẽ không thích chuyện này đâu”, Bronwyn nói, chỉ ra chuyện đương nhiên. “Cô sẽ giết bọn tớ mất. Em.”
Emma đứng dậy và đóng cửa. “Cô ấy sẽ không giết chúng ta”, cô nói, “những con quái vật kia thì có. Và dù chúng không làm thế, thì sống như thế này có khi còn tồi tệ hơn cả chết. Chim kèm chúng ta chặt đến mức chúng ta hầu như không thở nổi nữa, và tất cả chỉ vì cô ấy không có đủ can đảm để đối đầu với những thứ ở ngoài kia!”
“Hoặc không có ở ngoài kia”, Millard nói, tôi đã không nhận ra cậu ta vẫn ở trong phòng cùng chúng tôi.
“Nhưng cô ấy sẽ không thích điều đó”, Bronwyn nhắc lại.
Emma dấn một bước về phía bạn mình thách thức, “Cậu có thể nấp sau váy cô ấy bao lâu đây?”
“Cậu đã quên chuyện gì đã xảy ra với cô Avocet rồi sao?” Millard nói. “Chỉ khi những đứa trẻ cô ấy phụ trách rời khỏi vòng thì chúng mới bị giết và cô Bunting bị bắt cóc. Nếu chúng cứ ở yên trong vòng, hẳn đã không có gì xấu xảy ra.”
“Không gì xấu ư?” Emma nói đầy nghi ngờ. “Phải, đúng là các hồn rỗng không thể đi qua các vòng. Nhưng xác sống có thể, và cũng chính theo cách đó đám trẻ bị lừa rời khỏi vòng. Chẳng lẽ chúng ta cứ ngồi im đợi chúng tìm tới tận cửa nhà mình sao? Sẽ thế nào nếu thay vì những lốt ngụy trang khôn ngoan, lần này chúng mang súng tới?”
“Đó là điều tớ sẽ làm”, Enoch nói. “Đợi cho tới khi tất cả đã ngủ say, tớ sẽ chui xuống ống khói như ông già Noel và ĐOÀNG!” Cậu ta làm bộ bắn một khẩu súng lục tưởng tượng vào cái gối của Emma. “Óc bắn đầy tường.”
“Cảm ơn cậu vì mấy câu vừa rồi”, Millard thở dài nói.
“Chúng ta cần tấn công chúng trước khi chúng biết là chúng ta biết chúng ở đó”, Emma nói, “trong khi chúng ta vẫn còn yếu tố bất ngờ.”
“Nhưng chúng ta không biết chúng ở đâu!” Millard nói.
“Chúng ta sẽ tìm ra.”
“Và cậu định sẽ làm việc đó như thế nào? Lang thang khắp nơi cho tới khi cậu thấy một hồn rỗng à? Khi đó thì sao? ‘Thứ lỗi cho tôi, chúng tôi đang tự hỏi ngài dự định ăn thịt chúng tôi thế nào’ chắc?”
“Chúng ta có Jacob”, Bronwyn nói. “Cậu ấy có thể nhìn thấy chúng.”
Tôi cảm thấy họng mình thắt lại, ý thức được rằng nếu đội săn lùng này hình thành, về mặt nào đó tôi sẽ là người chịu trách nhiệm an nguy của mọi người.
“Tớ mới chỉ nhìn thấy một con thôi”, tôi cảnh báo họ. “Vì thế tớ không thể gọi bản thân là một chuyên gia thực sự được.”
“Và nếu cậu ấy không tình cờ thấy được con nào thì sao?” Millard nói. “Điều đó có thể nghĩa là chẳng có con quái vật nào hoặc chúng đang lẩn trốn. Cậu vẫn sẽ chẳng có manh mối nào, cũng như chắc chắn lúc này đang không có.”
Khắp xung quanh là những cặp lông mày cau lại. Millard có lý.
“À, có vẻ là lý trí lại thắng cuộc rồi”, cậu ta nói. “Tớ đi xuống lấy ít cháo để ăn tối đây, có ai trong mấy nhân vật muốn nổi loạn các cậu thích đi cùng không?”
Lò xo giường kêu cót két khi cậu ta đứng dậy đi ra cửa. Nhưng cậu ta chưa kịp ra khỏi phòng, Enoch đã đứng bật dậy và reo lên, “Tớ nghĩ ra rồi!”
Millard dừng lại. “Nghĩ ra cái gì?”
Enoch quay sang tôi. “Người đàn ông có thể đã bị một hồn rỗng ăn thịt mà cũng có thể là không đó - cậu có biết người ta giữ xác ông ta ở đâu không?”
“Ở chỗ hàng cá.”
Cậu ta xoa xoa hai bàn tay vào nhau. “Vậy thì tớ biết chúng ta có thể xác minh bằng cách nào rồi.”
“Bằng cách nào đây?” Millard hỏi.
“Chúng ta sẽ hỏi ông ta.”
o O o
Một đội thám thính được thành lập. Đi cùng tôi sẽ có Emma, cô thẳng thừng từ chối để tôi đi một mình, Bronwyn, người rất không thích chọc giận bà Peregrine nhưng khăng khăng quả quyết chúng tôi cần sự bảo vệ của cô, và Enoch, người nghĩ ra kế hoạch chúng tôi định thực hiện. Millard, thì dù khả năng tàng hình của cậu ta có thể rất hữu ích nhưng cậu ta không muốn dính dáng vào chuyện này, và chúng tôi đã phải mua chuộc để cậu ta khỏi ton hót về chúng tôi.
“Nếu tất cả chúng ta đi”, Emma lý luận, “Chim sẽ không thể trục xuất Jacob. Cô sẽ phải trục xuất cả bốn chúng ta.”
“Nhưng tớ không muốn bị trục xuất!” Bronwyn nói.
“Cô sẽ không bao giờ làm thế, Wyn. Đó chính là điểm quan trọng. Và nếu chúng ta có thể quay về trước giờ tắt đèn, có khi cô còn chẳng biết chúng ta đã đi.”
Tôi lấy làm ngờ về chuyện đó, nhưng tất cả chúng tôi đều đồng ý là đáng thử một phen.
Chuyến đi diễn ra như một cuộc vượt ngục. Sau bữa tối, khi trại trẻ ở vào thời điểm hỗn độn nhất và bà Peregrine bị phân tâm nhất, Emma giả bộ tới phòng khách, còn tôi tới phòng học. Chúng tôi gặp nhau vài phút sau đó ở cuối hành lang trên lầu, tại đó một cái nắp hình chữ nhật trên trần được kéo xuống để lộ một chiếc thang. Emma leo lên, tôi theo sau, đóng kín nắp trở lại sau lưng, thế là hai chúng tôi ở trên một khoang áp mái chật chội, tối tăm. Ở cuối khoang áp mái ấy có một ống thông hơi có thể dễ dàng vặn ốc tháo ra, dẫn tới một phần mái phẳng.
Chúng tôi bước ra ngoài trời đêm và gặp những người khác đã đợi sẵn. Bronwyn dành cho mỗi chúng tôi một cái ôm tưởng muốn sụn lưng rồi phân phát những chiếc áo mưa màu đen cô đã xoáy được, tôi đã đề nghị cả bọn mặc vào để ít nhiều chống đỡ với cơn bão đang hoành hành phía bên ngoài vòng. Tôi đang định hỏi chúng tôi định làm thế nào để xuống đất thì thấy Olive lơ lửng xuất hiện trong tầm nhìn, bay qua rìa mái nhà.
“Có ai thích chơi nhảy dù không?” cô hỏi, miệng cười hết cỡ. Cô đang chân trần và mang một sợi dây buộc lại quanh eo. Tò mò muốn biết cô được buộc vào cái gì, tôi ngó qua rìa mái xuống thì thấy Fiona, cầm dây trên tay, ló đầu qua một khung cửa sổ và vẫy tay chào tôi. Có vẻ như chúng tôi còn có tòng phạm.
“Cậu đầu tiên”, Enoch nói.
“Tớ?” tôi hỏi lại, ngần ngại lùi lại khỏi rìa mái nhà.
“Ôm lấy Olive và nhảy xuống”, Emma nói.
“Tớ không nhớ kế hoạch này có bao gồm chuyện tớ phải đập vỡ xương chậu mình.”
“Cậu sẽ không sao đâu, đồ ngốc, nếu cậu ôm chặt lấy Olive. Sẽ rất nhộn. Chúng tớ đã làm thế vô số lần rồi.” Cô ngẫm nghĩ giây lát. “Thôi được, một lần.”
Có vẻ như không còn lựa chọn nào khác, tôi bèn trấn tĩnh lại bước tới bên rìa mái nhà. “Đừng sợ!” Olive nói.
“Cậu thì dễ rồi”, tôi đáp. “Cậu làm sao rơi được!”
Cô chìa hai cánh tay ra và ôm vòng quanh người tôi, tôi cũng ôm vòng ra sau lưng cô, và cô thì thầm, “Rồi, đi nào.” Tôi nhắm mắt lại rồi bước chân ra ngoài khoảng không. Thay vì cú rơi tôi đã sợ, chúng tôi từ từ hạ xuống mặt đất như một quả khí cầu bị xì dần helium.
“Thật nhộn”, Olive nói. “Bây giờ cậu buông tay ra đi!”
Tôi làm theo, và cô lại bay vọt lên mái, vừa bay vừa nói “Viiiu!” suốt dọc đường. Những đứa trẻ khác suỵt bảo cô im lặng, rồi lần lượt từng người một, họ ôm lấy Olive và hạ xuống bên cạnh tôi. Khi đã tập hợp đầy đủ, chúng tôi bắt đầu âm thầm đi về phía khu rừng dưới mặt trăng đang lên, còn Fiona và Olive vẫy tay chào đằng sau chúng tôi. Có thể chỉ là tôi tưởng tượng, nhưng dường như cả những sinh vật được tỉa thành từ các tán cây có gió thổi qua dường như cũng đang vẫy chào chúng tôi, trong số đó Adam đang nghiêm nghị gật đầu từ biệt.
o O o
Khi chúng tôi dừng lại ở rìa đầm lầy để nghỉ lấy hơi, Enoch thò tay vào trong chiếc áo khoác căng phồng của cậu ta và lấy ra những cái bọc gói trong vải thưa. “Cầm lấy những cái này”, cậu ta nói, “Một mình tớ không mang hết được.”
“Cái gì thế này?” Bronwyn hỏi, mở lớp vải ra để lộ một tảng thịt màu nâu sẫm với những cái ống nhỏ thò từ trong ra. “Eo ôi, tanh quá”, cô kêu lên, đưa nó ra xa khỏi mình.
“Bình tĩnh nào, chỉ là một quả tim cừu thôi”, Enoch nói, dúi thứ gì đó ghê ghê có cùng kích cỡ vào tay tôi. Thứ này sặc mùi formal, và cho dù đã bọc trong vải, nó vẫn có vẻ nhớp nhớp thật khó chịu.
“Tớ sẽ ói mất nếu phải mang cái này”, Bronwyn nói.
“Tớ sẽ rất thích được thấy cảnh đó”, Enoch cằn nhằn, có vẻ mếch lòng. “Nhét nó vào trong áo mưa của cậu và cố mà quen với nó đi.”
Chúng tôi lần theo dải đất cứng ẩn kín để vượt qua đầm lầy. Đến giờ tôi đã đi qua nơi này nhiều lần tới mức gần như quên mất nó có thể nguy hiểm tới mức nào và đã nuốt chửng bao nhiêu sinh mạng qua các thế kỷ. Bước chân lên gò mộ đá, tôi bảo tất cả mọi người cài kín khuy áo khoác của mình lại.
“Nếu chúng ta thấy ai đó thì sao?” Enoch hỏi.
“Cứ tỏ ra bình thường”, tôi nói. “Tớ sẽ nói với họ các cậu là bạn tớ từ Mỹ tới.”
“Nếu chúng ta thấy một xác sống thì sao”, Bronwyn hỏi.
“Chạy.”
“Nếu Jacob nhìn thấy một hồn rỗng thì sao?”
“Trong trường hợp đó”, Emma nói, “hãy chạy như quỷ sứ đang đuổi theo cậu.”
Lần lượt từng người một, chúng tôi chui vào trong mộ đá, biến mất khỏi buổi tối mùa hè bình lặng đó. Tất cả đều yên lặng cho tới khi chúng tôi tới cuối căn phòng trong cùng, rồi sau đó áp suất không khí tụt xuống, nhiệt độ giảm và bão tố gầm rít như một thực thể đang rống lên hết cỡ. Chúng tôi quay về phía âm thanh, hồi hộp, và trong một khoảnh khắc chỉ đứng đó lắng nghe trong khi nó gào rống ở phía miệng đường hầm. Nghe giống như một con thú bị nhốt vừa được cho thấy bữa tối của nó. Chẳng thể làm gì ngoài tự mình dấn thân bước vào nó.
Chúng tôi quỳ gối xuống, bò vào nơi trông giống như một cái hố đen, các vì sao đã biến mất sau những đám mây tích mưa sừng sững như những ngọn núi, làn mưa rát rạt và cơn gió lạnh cóng đâm xuyên qua áo khoác chúng tôi, những tia chớp làm chúng tôi sáng lóa lên rồi khiến bóng đêm tiếp sau chúng dường như càng tối tăm hơn. Emma cố thắp một ngọn lửa, nhưng trông cô giống như một cái bật lửa hỏng, tia lửa nào lóe lên khi cô phẩy cổ tay cũng tắt phụt trước khi kịp bùng cháy, vì thế chúng tôi đành kéo áo khoác thu sát vào người, cúi gập xuống chạy dưới cơn mưa trút xối xả vượt qua đầm lầy đang dềnh rộng lên bíu chặt lấy chân chúng tôi, định hướng nhờ vào trí nhớ cũng nhiều như vào đôi mắt.
Trong thị trấn, mưa trút xuống đập rầm rầm như đánh trống vào mọi cánh cửa ra vào và cửa sổ, nhưng tất cả mọi người đều ở tịt trong nhà cửa đóng then cài, chúng tôi chạy qua các đường phố ngập nước mà chẳng ai phát hiện ra, ngang qua một con cừu đơn độc bị mưa làm tối mắt đang lạc bầy kêu rống lên, qua một cái nhà vệ sinh đang tuôn những thứ nó chứa ra ngoài đường, để tới cửa hàng cá. Cửa ra vào bị khóa, nhưng bằng hai cú đá huỳnh huỵch Bronwyn đã hất nó mở tung vào trong. Lau khô hai bàn tay ở bên trong áo khoác, Emma cuối cùng cũng có thể thắp lửa. Trong khi những con cá tầm nhìn trừng trừng từ trong các bể thủy tinh, tôi dẫn cả toán vào trong cửa hàng, đi vòng qua cái quầy Dylan đã đứng cả ngày vừa lầm bầm rủa sả vừa chặt cá thành khúc, qua một cánh cửa gỉ lỗ chỗ. Ở bên kia là một căn phòng bảo quản lạnh nhỏ, chỉ là một chái nhà sàn đất lợp tôn, tường làm bằng những tấm ván gỗ được cưa cắt thô kệch, mưa hắt vào qua những nơi các tấm ván đã co lại tách rời nhau như những chiếc răng xấu xí. Chen chúc trong phòng là một tá những chiếc bồn hình chữ nhật kê trên các bệ đỡ bốn chân, bên trong đựng đầy đá.
“Ông ta đang ở trong cái nào?” Enoch hỏi.
“Tớ không biết”, tôi nói.
Emma đưa ngọn lửa của cô chiếu sáng xung quanh trong khi chúng tôi đi giữa những cái bồn, cố đoán xem cái nào có thể chứa bên trong thứ gì khác ngoài cá - nhưng tất cả chúng trông đều giống nhau, như những chiếc quan tài không nắp đầy đá. Chúng tôi có thể sẽ phải tìm từng bồn một cho tới khi thấy ông ta.
“Miễn cho tớ nhé”, Bronwyn nói, “tớ không muốn trông thấy ông ta. Tớ không thích những thứ chết chóc.”
“Cả tớ cũng thế, nhưng chúng ta phải làm”, Emma nói. “Chúng ta cùng hội cùng thuyền mà.”
Mỗi chúng tôi chọn một cái bồn rồi vục tay vào trong như một con chó đang bới một luống hoa quý giá, hai lòng bàn tay khum lại của chúng tôi bốc từng vốc đá ném xuống sàn. Tôi đã vét vơi được nửa một cái bồn và đang mất dần hết cảm giác từ các ngón tay thì nghe thấy Bronwyn kêu thét lên. Tôi quay sang và thấy cô loạng choạng lùi ra khỏi một cái bồn, hai bàn tay đưa lên bịt miệng.
Chúng tôi xúm quanh để xem cô đã bới ra cái gì. Thò lên khỏi đống đá là một bàn tay cứng đờ cong queo đầy lông. “Dám cược là cậu đã tìm thấy người chúng ta muốn tìm”, Enoch nói, và qua kẽ các ngón tay đưa lên che mắt, chúng tôi quan sát trong khi cậu ta gạt bỏ thêm nước đá, từ từ làm lộ ra một cánh tay, rồi thân trên, và cuối cùng là toàn bộ thân thể te tua của ông Martin.
Đó là một cảnh tượng ghê rợn. Chân tay ông ta bị bẻ vặn vẹo theo những góc độ không thể tưởng tượng nổi. Bụng và ngực ông ta đã bị dùng kéo mở phanh và moi hết nội tạng ra, băng đá được nhồi đầy vào thế chỗ của chúng. Khi khuôn mặt ông ta lộ ra, tất cả chúng tôi nhất loạt hít mạnh vào. Nửa khuôn mặt là một mớ giập nát đỏ bầm rách ra thành từng dải như một tấm mặt nạ bị xé. Nửa kia chỉ còn đủ lành lặn để nhận ra ông Martin qua: một mảng hàm lấm tấm râu, một phần má và lông mày như bị cưa rời ra, và một con mắt màu xanh lục, bị phủ một lớp băng mỏng và mở trừng trừng trống rỗng. Trên người ông ta chỉ mặc có quần lót và những mảnh rách tướp của cái áo choàng ngủ bằng vải bông. Không thể có chuyện ông Martin mặc như thế tự mình đi bộ ra chỗ các vách đá giữa đêm khuya. Ai đó - hoặc thứ gì đó - đã lôi ông ta ra đấy.
“Ông ta nát quá rồi”, Enoch vừa nói vừa ngắm nghía ông Martin như một bác sĩ giải phẫu đánh giá một bệnh nhân vô phương cứu chữa. “Tớ phải nói trước với các cậu là cách này có thể sẽ không ăn thua.”
“Chúng ta cứ phải thử đã”, Bronwyn nói, mạnh dạn bước tới chỗ cái bốn cùng Emma và tôi. “Chúng ta đã đi đến tận đây, vì thế ít nhất cũng phải thử.”
Enoch mở áo mưa của cậu ta và lấy từ túi áo trong ra một quả tim được gói ghém. Trông nó giống như một cái găng của cầu thủ bắt bóng chày tự gập lại. “Nếu ông ta thức dậy”, Enoch nói, “ông ta sẽ không vui vẻ lắm đâu. Vậy hãy lùi lại và đừng có nói là tớ đã không báo trước với các cậu.”
Tất cả chúng tôi đều lùi lại một bước thật dài ngoại trừ Enoch, cậu ta cúi gập người vào trong bồn, vục tay vào trong đám đá nhét đầy trong lồng ngực ông Martin, đảo qua đảo lại như thể đang khoắng tìm một lon xô đa trong thùng lạnh. Sau một lát, cậu ta có vẻ cầm được thứ gì đó, và dùng bàn tay còn lại giơ quả tim cừu lên quá đầu.
Một cơn rùng mình chạy dọc cơ thể Enoch và quả tim cừu bắt đầu đập, phun ra một luồng những hạt dung dịch ngâm pha lẫn máu nhỏ mịn như sương. Enoch thở từng nhịp nhanh, nhẹ. Cậu ta dường như đang truyền thứ gì đó. Tôi quan sát thi thể ông Martin xem có dấu hiệu cử động nào không, nhưng ông ta vẫn nằm im.
Dần dần, quả tim trên tay Enoch bắt đầu đập chậm lại và co quắp màu chuyển dần sang xám đen, giống như thịt để quá lâu trong tủ đá. Enoch ném nó xuống đất và chìa bàn tay không của cậu ta về phía tôi. Tôi lấy ra quả tim vẫn giữ trong túi và đưa nó cho cậu ta. Cậu ta lặp lại quá trình như lúc trước, quả tim co bóp, phun phì phì một lúc rồi co quắp lại như quả trước. Sau đó, cậu ta lặp lại lần thứ ba, sử dụng quả tim đã đưa cho Emma.
Chỉ còn lại quả tim Bronwyn đang giữ - cơ hội cuối cùng của Enoch. Khuôn mặt cậu ta trở nên căng thẳng hơn hẳn khi cậu ta giơ nó bên trên cỗ quan tài thô kệch của Martin, bóp chặt quả tim như thể muốn bấm xuyên các ngón tay vào nó. Khi quả tim bắt đầu lắc lư run rẩy như một chiếc mô tơ quá tải, Enoch hét lên, “Dậy đi, người chết. Dậy đi!”
Tôi nhìn thấy một cử động thoáng qua. Có thứ gì đó đã nhúc nhích dưới lớp đá. Tôi lấy hết can đảm cúi xuống, tìm kiếm xem có dấu hiệu nào của sự sống không. Suốt một hồi lâu không có động tĩnh gì, nhưng sau đó thi thể co giật đột ngột và dữ dội tới mức như thể đã bị sốc điện bằng điện thế cả nghìn vôn. Emma kêu thét lên, và tất cả chúng tôi cùng bật lùi lại. Khi tôi bỏ tay xuống để nhìn trở lại đầu ông Martin đã quay về phía tôi, một con mắt đục lờ đảo loạn lên rồi dường như dán vào tôi.
“Ông ta nhìn thấy cậu rồi!” Enoch reo lên.
Tôi cúi người vào. Người chết bốc mùi của đất mới xới lật lên, cùng mùi nước biển và thứ gì đó còn tệ hơn. Đá rơi khỏi bàn tay ông ta trong khi nó giơ lên run rẩy trong không khí giây lát, đau đớn và xanh rớt, rồi đặt lên cánh tay tôi. Tôi cố tranh đấu với nỗi thôi thúc muốn hất nó ra.
Đôi môi ông tách ra và miệng ông ta há ra. Tôi cúi xuống lắng nghe xem ông ta nói gì, nhưng chẳng có gì để nghe cả. Tất nhiên là không thể có, tôi thầm nghĩ, vì phổi ông ấy đã vỡ nát - nhưng sau đó một âm thanh rất khẽ thoát ra, tôi liền cúi xuống gần hơn, tai tôi gần như chạm vào đôi môi đông cứng của ông ta. Thật lạ, tôi chợt nghĩ tới máng thoát nước mưa ở cạnh nhà tôi, ở đó nếu cúi đầu xuống chỗ các thanh song chắn và đợi đến khi dòng xe cộ tạm lắng, bạn có thể nghe thấy tiếng thì thầm của một dòng suối chảy ngầm dưới lòng đất, nó bị vùi dưới nền móng xây lên thị trấn nhưng vẫn tiếp tục chảy, bị cầm tù trong thế giới của bóng đêm thường trực.
Những người khác đang xúm quanh, nhưng tôi là người duy nhất có thể nghe thấy người chết nói gì. Từ đầu tiên ông ta nói là tên tôi.
“Jacob.”
Cảm giác sợ hãi lần khắp người tôi. “Vâng.”
“Tôi chết rồi.” Từng từ được phát ra chậm chạp như một thứ chất lỏng đang ri rỉ nhỏ giọt. Ông ta chỉnh lại. “Tôi là người chết.”
“Hãy nói cho cháu biết chuyện gì đã xảy ra”, tôi nói. “Ông có thể nhớ lại không?”
Tiếp theo là một khoảng ngừng bặt. Gió rít qua các khe hở trên tường. Ông Martin nói gì đó nhưng tôi không nghe được.
“Ông nói lại đi. Làm ơn nào, Martin.”
“Ông ta đã giết tôi”, người chết thì thầm.
“Ai cơ?”
“Ông lão của tôi.”
“Ý ông là cụ Oggie sao? Là chú của ông sao?”
“Ông lão của tôi”, ông nhắc lại. “Ông ta to ra. Và khỏe, khỏe lắm.”
“Ai đã giết ông, ông Martin?”
Con mắt ông ta nhắm lại, và tôi sợ ông ta đã lịm hẳn. Tôi nhìn sang Enoch. Cậu ta gật đầu. Quả tim trên bàn tay cậu ta vẫn đập.
Mi mắt ông Martin lại động dậy. Ông ta lại bắt đầu nói, chậm chạp, đều đều, như thể đang thuật lại điều gì đó. “Ông ta đã ngủ yên qua cả trăm thế hệ, cuộn mình lại như một bào thai trong lòng đất bí hiểm, bị rễ cây tiêu hóa, đã phân hủy trong bóng tối, như hoa quả mùa hè đóng hộp bị lãng quên trong chạn thức ăn cho tới khi lưỡi mai của một người nông dân moi ông ta ra, một bà đỡ thô vụng cho một vụ thu hoạch lạ lùng.”
Ông Martin ngừng lời, đôi môi run rẩy, và trong khoảng im lặng ngắn ngủi Emma nhìn tôi thì thầm, “Ông ấy đang nói gì thế?”
“Tớ không biết”, tôi nói. “Nhưng nghe như một bài thơ vậy.”
Ông ta nói tiếp, giọng lạc đi nhưng lúc này đã đủ lớn để tất cả mọi người có thể nghe thấy - “Ông ta nằm an nghỉ, đen nhánh, khuôn mặt hiền hòa mang màu bồ hóng, tứ chi héo tàn như những vỉa than, đôi bàn chân như những súc gỗ trồi bám đầy những chùm nho héo quắt” - và cuối cùng tôi cũng nhận ra bài thơ. Đó là bài thơ ông ta viết về cậu bé đầm lầy.
“Ôi, Jacob, tôi đã chăm lo cho ông ta cẩn thận biết bao!” ông Martin nói. “Lau bụi trên kính, thay đất và làm cho ông ta một ngôi nhà - như chăm đứa con đã lớn bị bầm giập của chính mình. Tôi chăm lo cẩn thận biết bao, vậy mà...” Ông ta bắt đầu run rẩy, và một giọt nước mắt chảy xuống gò má ông ta rồi đóng băng ở đó. “Vậy mà ông ta đã giết tôi.”
“Ý ông là cậu bé đầm lầy sao? Là Ông Lão sao?”
“Đưa tôi trở lại đi”, ông ta cầu xin. “Đau quá.” Bàn tay lạnh giá của ông ta nắm lấy vai tôi, giọng nói của ông ta lại tắt dần.
Tôi đưa mắt nhìn Enoch cầu cứu. Cậu ta siết chặt các ngón tay cầm quả tim và lắc đầu. “Giờ hãy nhanh lên, anh bạn”, cậu ta nói.
Thế rồi tôi hiểu ra một điều. Cho dù ông Martin đã mô tả về cậu bé đầm lầy, nhưng không phải cậu bé đầm lầy đã giết ông ta. Chúng chỉ trở nên hữu hình với những người còn lại, với chúng ta, khi chúng đang ăn, bà Peregrine đã nói với tôi như thế, có nghĩa là khi đã quá muộn. Ông Martin đã nhìn thấy một hồn rỗng - vào ban đêm, trong mưa, trong khi nó xé ông ta thành từng mảnh - và tưởng nhầm đó là hiện vật trung bày quý giá nhất của mình.
Cảm giác sợ hãi cố hữu lại sống dậy, làm cả người tôi nóng bừng. Tôi quay sang những người khác. “Một hồn rỗng đã gây ra chuyện này với ông ấy”, tôi nói. “Nó đang ở đâu đó trên đảo.”
“Hãy hỏi ông ấy xem ở đâu”, Enoch nói.
“Ông Martin, ở đâu, cháu cần biết ông đã thấy nó ở đâu?”
“Làm ơn. Đau quá.”
“Ông đã thấy nó ở đâu?”
“Ông ta tới cửa nhà tôi.”
“Ông Lão sao?”
Hơi thở Martin bỗng nín bặt lạ lùng. Thật kinh khủng khi phải nhìn vào ông nhưng tôi buộc mình làm thế, dõi theo ánh mắt ông trong khi nó di chuyển rồi tập trung nhìn vào thứ gì đó sau lưng tôi.
“Không”, ông ta nói. “Là hắn.”
Thế rồi một luồng sáng quét qua trên người chúng tôi và một giọng quát to, “Ai ở đằng kia đấy!”
Emma nắm tay lại, và ngọn lửa tắt phụt, tất cả chúng tôi cùng quay ngoắt lại thì thấy một người đàn ông đang đứng trên ngưỡng cửa, một bàn tay cầm đèn pin, trên bàn tay kia là một khẩu súng ngắn.
Enoch rút cánh tay ra khỏi cái bồn đá trong khi Emma và Bronwyn đứng sát lại quanh cái bồn để che Martin khỏi tầm nhìn. “Chúng cháu không hề có ý đột nhập”, Bronwyn nói. “Chúng cháu đang định rời đi đây, thật đấy ạ!”
“Đứng yên tại chỗ của chúng mày!” người đàn ông quát. Giọng ông ta trầm trầm, không rõ khẩu âm vùng nào. Tôi không thể nhìn thấy được khuôn mặt ông ta đằng sau luồng sáng, nhưng những cái áo khoác được mặc chồng lên nhau lập tức cho biết danh tính chủ nhân. Đó chính là người quan sát chim nọ.
“Thưa ông, chúng cháu chưa có gì ăn suốt cả ngày hôm nay rồi”, Enoch rên rỉ, và một lần hiếm hoi nghe đúng như một cậu nhóc mười hai tuổi. “Chúng cháu chỉ đến đây tìm một hai con cá thôi, cháu xin thề đấy ạ!”
“Vậy sao?” người đàn ông nói. “Có vẻ chúng mày đã moi một con ra rồi. Để xem là loại nào nào.” Người đàn ông đưa qua đưa lại cây đèn pin như thể muốn dùng luồng sáng tách chúng tôi ra. “Dẹp sang bên!”
Chúng tôi làm theo, và ông ta quét luồng sáng lên người ông Martin, một cảnh tượng bệnh hoạn đến rùng rợn. “Chúa ơi, quả là một con cá kỳ lạ, phải không nào?” ông ta nói, hoàn toàn dửng dưng. “Chắc phải là cá tươi. Nó vẫn còn đang quẫy!” Luồng sáng dừng lại trên khuôn mặt ông Martin. Con mắt ông ta đảo đảo, đôi môi ông ta mấp máy không thành tiếng, chỉ là chút hồi quang phản chiếu trong khi sự sống Enoch truyền cho ông ta cạn dần.
“Ông là ai?” Bronwyn hỏi.
“Điều đó còn phụ thuộc vào việc mày muốn hỏi về ai”, người đàn ông đáp, “và điều đó còn xa mới quan trọng bằng việc tao biết chúng mày là ai.” Ông ta chiếu đèn pin vào mỗi chúng tôi và nói như thể đang dẫn ra một hồ sơ mật. “Emma Bloom, một người phát lửa, bị bỏ rơi tại một gánh xiếc khi bố mẹ cô ta không bán được con mình cho gánh xiếc nào. Bronwyn Bruntley, sở hữu thần lực, chiến binh hung hãn, không hề biết đến sức mạnh của chính mình cho tới buổi tối cô ta thộp cổ gã bố dượng thối tha. Enoch O’Connor, có năng lực hồi sinh, ra đời trong một gia đình làm nghề mai táng không thể hiểu nổi tại sao các khách hàng của họ cứ liên tục bỏ đi.” Tôi thấy từng người thu mình lại tránh xa khỏi ông ta. Rồi ông ta chiếu đèn vào tôi. “Và Jacob. Những ngày vừa rồi cậu qua lại với những người đặc biệt thật nhỉ.”
“Làm sao ông biết tên tôi?”
Người đàn ông hắng giọng, và khi lên tiếng trở lại, giọng ông ta đã thay đổi hẳn. “Cậu quên tôi nhanh vậy sao?” ông ta nói với khẩu âm New England. “Nhưng khi đó tôi chỉ là ông già lái xe buýt tầm thường, vì thế tôi đoán là cậu không nhớ nổi.”
Chuyện này nghe thật vô lý, nhưng bằng cách nào đó người đàn ông này đã làm tôi nhớ ngay tới ông lái xe buýt ở trường cấp hai của tôi, ông Barron. Một người chẳng mấy ai ưa, tính khí khó chịu, cứng nhắc như người máy tới mức vào ngày cuối cùng của năm lớp tám chúng tôi đã dùng ghim dập kín lên khuôn mặt ông ta trên bức ảnh trong cuốn niên giám trường, làm nó trông như một hình nộm đang ngồi sau tay lái vậy. Tôi vừa kịp nhớ ra những gì ông ta thường nói khi tôi bước xuống xe buýt vào mỗi buổi chiều thì người đàn ông trước mặt tôi nhắc lại nó:
“Hết tuyến, Portman!”
“Ông Barron?” tôi hoài nghi hỏi lại, cố tìm cách nhìn ra khuôn mặt ông ta đằng sau luồng sáng đèn pin.
Người đàn ông phá lên cười rồi hắng giọng, khẩu âm ông ta lại thay đổi: “Hoặc ông ta hoặc người làm vườn”, ông ta nói bằng giọng Florida trầm trầm lè nhè. “Cây nhà ôôông bààà cần được cắt tỉa. Tôi sẽ tính giá phải chăng cho ôôông bààà!” Đó chính xác là giọng nói của người đàn ông trong nhiều năm đã chăm lo bãi cỏ của gia đình tôi và dọn sạch bể bơi cho chúng tôi.
“Làm sao ông làm được thế”, tôi hỏi. “Làm thế nào ông biết những người đó?”
“Vì tôi chính là những người đó”, người đàn ông nói, khẩu âm lại trầm xuống. Ông ta bật cười, làm bùng lên nỗi kinh hoàng trong tôi.
Tôi chợt nghĩ tới một điều. Đã bao giờ tôi thấy đôi mắt của ông Barron chưa nhỉ? Thực sự thì chưa. Ông ta luôn đeo cặp kính mát to tướng che kín mặt. Người làm vườn cũng đeo kính mát, và đội một cái mũ rộng vành. Tôi đã bao giờ quan sát thật kỹ bất cứ ai trong số họ chưa? Kẻ muôn mặt này còn từng đóng bao nhiêu vai nữa trong cuộc đời tôi đây?
“Có chuyện gì xảy ra thế?” Emma hỏi. “Người này là ai?”
“Im mồm!” gã đàn ông gắt lên. “Rồi sẽ đến lượt mày.”
“Ông đã theo dõi tôi”, tôi nói. “Ông đã giết những con cừu đó. Ông đã giết ông Martin.”
“Ai, tôi ư?” hắn nói, giọng vẻ như vô tội. “Tôi chẳng giết ai cả.”
“Nhưng ông là một xác sống, đúng chứ?”
“Đó là cách gọi của chúng”, hắn nói.
Tôi không hiểu nữa. Tôi đã không còn gặp người làm vườn kể từ khi mẹ tôi thay ông ta bằng người khác ba năm trước, và ông Barron cũng đã biến mất khỏi cuộc đời tôi sau năm lớp tám. Liệu có thật là họ - gã này - đã theo dõi tôi không?
“Làm thế nào ông biết phải tìm tôi ở đâu?”
“Sao chứ, Jacob”, hắn nói, giọng lại thay đổi thêm lần nữa, “chính cậu đã cho tôi biết. Một cách bí mật, tất nhiên rồi.” Giờ lại là khẩu âm miền Trung nước Mỹ, nhẹ nhàng, có học thức. Hắn chĩa cây đèn pin lên trên để quầng sáng của nó chiếu vào mặt mình.
Bộ râu tôi thấy hắn mang hôm trước đã biến mất. Giờ đây thì không thể nhầm lẫn được nữa.
“Bác sĩ Golan”, tôi thốt lên, giọng nói lào thào của tôi bị chìm nghỉm trong tiếng mưa trút xuống rầm rầm.
Tôi nhớ lại cuộc nói chuyện điện thoại giữa chúng tôi mấy ngày trước. Tiếng ồn phía đầu dây bên kia - hắn nói đang ở sân bay. Nhưng không phải hắn đang đi đón em gái. Hắn đang tới tìm tôi.
Tôi tựa lưng vào cái bồn ông Martin nằm, choáng váng, cả người mụ mị. “Người hàng xóm”, tôi nói. “Ông già đang tưới nước bãi cỏ vào đêm ông nội tôi chết. Đó cũng là ông.”
Gã đàn ông mỉm cười.
“Nhưng còn đôi mắt của ông”, tôi nói.
“Kính áp tròng”, hắn trả lời. Hắn dùng ngón cái lấy một bên kính áp tròng ra, để lộ một con mắt trắng đục. “Ngày nay người ta có thể làm giả những thứ thật đáng kinh ngạc. Và nếu tôi có thể dự đoán thêm vài câu hỏi nữa của cậu thì, phải, tôi là một bác sĩ tâm lý có bằng cấp - đầu óc của những người bình thường đã từ lâu hấp dẫn tôi - và không, bất chấp việc những buổi trị liệu của chúng ta dựa trên sự dối trá, tôi không nghĩ chúng hoàn toàn lãng phí thời gian. Kỳ thực, tôi có thể tiếp tục giúp đỡ cậu - hay đúng hơn là chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau.”
“Làm ơn, Jacob”, Emma nói, “đừng nghe hắn ta.”
“Đừng lo”, tôi nói. “Tớ đã một lần tin tưởng hắn. Tớ sẽ không mắc lại sai lầm đó đâu.”
Golan tiếp tục nói như thể không nghe thấy lời tôi. “Tôi có thể trao cho cậu sự an toàn, tiền bạc. Tôi có thể trả lại cho cậu cuộc sống của cậu, Jacob. Tất cả những gì cậu phải làm là làm việc cùng chúng tôi.”
“Chúng tôi?”
“Malthus và tôi”, hắn nói, quay người ra sau gọi, “Hãy tới chào hỏi đi nào, Malthus.”
Một cái bóng xuất hiện trên ngưỡng cửa đằng sau ông ta, và giây lát sau tất cả chúng tôi đều nghẹt thở bởi một thứ mùi tanh tưởi nồng nặc xộc lên. Bronwyn đưa tay bịt miệng và lùi lại một bước, còn tôi thấy hai nắm tay Emma siết lại, như thể cô đang định tấn công nó. Tôi đặt bàn tay lên cánh tay cô và mấp máy miệng nhắc, Đợi đã.
“Đây là toàn bộ đề nghị của tôi”, Golan tiếp tục, cố làm ra vẻ chừng mực. “Giúp chúng tôi tìm ra thêm những người như cậu. Đổi lại, cậu sẽ không có gì phải sợ từ Malthus hay các đồng loại của ông ấy. Cậu có thể sống ở nhà. Những lúc rỗi rãi cậu sẽ đi cùng tôi và tìm hiểu thế giới, và chúng tôi sẽ trả cậu hậu hĩnh. Chúng ta sẽ nói với bố mẹ cậu rằng cậu là trợ lý nghiên cứu của tôi.”
“Nếu tôi đồng ý”, tôi nói, “chuyện gì sẽ xảy ra với các bạn tôi?”
Gã đàn ông làm một cử chỉ đe dọa bằng khẩu súng của mình. “Bọn họ đã có lựa chọn cho mình từ lâu rồi. Điều quan trọng là có một kế hoạch lớn lao đang diễn ra, Jacob, và cậu sẽ là một phần trong đó.”
Tôi có cân nhắc tới điều đó không ư? Tôi đoán hẳn là có, cho dù chỉ trong một khoảnh khắc. Bác sĩ Golan đã đề nghị tôi đúng thứ tôi đang tìm kiếm: lựa chọn thứ ba. Một tương lai không phải là ở đây vĩnh viễn hay rời đi và chết. Nhưng chỉ cần một cái đưa mắt nhìn qua các bạn tôi, những khuôn mặt căng thẳng tột độ vì lo âu của họ, là đủ để xua tan mọi cám dỗ.
“Thế nào?” Golan hỏi. “Câu trả lời của cậu là gì?”
“Tôi thà chết còn hơn làm bất cứ điều gì để giúp ông.”
“Thế à”, hắn nói, “nhưng cậu vốn đã giúp tôi rồi.” Hắn bắt đầu lùi ra phía cửa. “Thật tiếc là chúng ta sẽ không có thêm buổi trị liệu nào cùng nhau nữa, Jacob. Cho dù tôi nghĩ đây không hoàn toàn là một mất mát vô ích. Bốn người các cậu có thể đủ để cuối cùng cũng giúp ông bạn Malthus trút bỏ được hình thù thấp kém ông ấy đã mắc kẹt quá lâu này.”
“Ôi không”, Enoch khóc nấc lên, “tớ không muốn bị ăn thịt!”
“Đừng khóc, mất mặt quá đấy”, Bronwyn gắt. “Chúng ta phải giết chúng, có thế thôi.”
“Uớc gì tôi có thể ở lại quan sát”, Golan nói trên ngưỡng cửa. “Tôi thực sự thích chứng kiến!”
Sau đó hắn bỏ đi, chỉ còn lại chúng tôi và nó. Tôi có thể nghe thấy con quái vật kia thở trong bóng tối, tiếng thở rin rít như đường ống hỏng bị rò. Tất cả chúng tôi đều lùi lại một bước, rồi một bước nữa, cho tới khi lưng chúng tôi chạm tường, và chúng tôi đứng sát vào nhau như những tội nhân bị kết án trước một đội xử bắn.
“Tớ cần ánh sáng”, tôi thì thầm với Emma, cô đang rơi vào trạng thái bị sốc đến mức dường như quên mất năng lực của mình.
Bàn tay cô như bốc cháy, và giữa những cái bóng chập chờn tôi nhìn thấy nó, đang ẩn nấp giữa mấy cái bồn. Cơn ác mộng của tôi. Nó cúi rạp xuống đó, trần trụi, nhẵn thín, lớp da xám đen lốm đốm rũ xuống ngoài bộ xương thành những nếp gấp chừng, đôi mắt nó nằm giữa thứ chất nhầy tanh thối chảy nhỏ giọt viền quanh, chân vòng kiềng, bàn chân thô kệch và các bàn tay xương xẩu biến dạng thành các móng vuốt vô dụng - từng phần cơ thể trông đều nhăn nheo tàn tạ như thân hình của một người già không đếm nổi số tuổi, trừ một thứ. Bộ hàm ngoại cỡ của nó là đặc trưng nổi bật, bên trong là bộ răng dài và sắc như những con dao lóc thịt nhỏ, cồng kềnh đến mức phần lợi không tài nào chứa đựng nổi, vì thế đôi môi của nó luôn co lại thành một nụ cười quái gở.
Thế rồi những cái răng khủng khiếp đó bắt đầu há ra, miệng con quái vật mở rộng để ba cái lưỡi ngoằn ngoèo thò ra vươn lên trong không khí, mỗi cái to bằng cỡ cổ tay tôi. Chúng duỗi dài ra tới nửa chiều dài căn phòng, phải đến ba mét hoặc hơn, rồi lơ lửng ở đó, uốn éo, con quái vật thở phì phò qua hai cái lỗ như bị hủi trên khuôn mặt, tựa hồ đang ngửi mùi chúng tôi và ngẫm nghĩ xem nên ngấu nghiến chúng tôi thế nào là hay nhất. Lý do duy nhất khiến chúng tôi chưa chết là vì chúng tôi quá dễ bị giết như một kẻ sành ăn đang chiêm ngưỡng một bữa thịnh soạn, nó chẳng có lý do nào để nóng vội.
Những người khác không thể nhìn thấy con quái vật như tôi nhưng nhận ra cái bóng của nó cùng những cái lưỡi như dây thừng hắt trên tường. Emma vẫy cánh tay, và ngọn lửa của cô cháy mạnh hơn. “Nó đang làm gì?” cô thì thầm. “Tại sao nó không xông vào chúng ta?”
“Nó đang đùa bỡn với chúng ta”, tôi nói. “Nó biết chúng ta đã như cá nằm trên thớt.”
“Chúng ta không phải thế”, Bronwyn thì thầm. “Chỉ cần tớ nhìn được rõ thẳng mặt nó. Tớ sẽ tống bộ răng kinh tởm đó tụt hết vào trong mồm nó.”
“Tớ sẽ không lại gần bộ răng đó đâu nếu tớ là cậu”, tôi nói.
Con hồn rỗng ì ạch bước thêm vài bước tương ứng với những bước chúng tôi lùi lại, những cái lưỡi của nó rời nhau hơn rồi tách hẳn khỏi nhau, một cái hướng về phía tôi, cái thứ hai về phía Enoch và cái thứ ba về phía Emma.
“Để bọn tao yên!” Emma hét lên, vung bàn tay rừng rực như một ngọn đuốc đánh ra. Cái lưỡi ngoặt đi tránh khỏi ngọn lửa của cô, sau đó rụt lại như một con rắn chuẩn bị tấn công.
“Chúng ta cần tới chỗ cánh cửa!” tôi hô lớn. “Con hồn rỗng đang ở chỗ cái bồn thứ ba từ trái sang, vì vậy hãy đi sang bên phải!”
“Chúng ta sẽ không bao giờ tới được đó!” Enoch kêu to. Một cái lưỡi chạm vào má cậu ta, cậu ta liền hét toáng lên.
“Chúng ta sẽ chạy khi đếm đến ba!” Emma hô lớn. “Một...”
Thế rồi Bronwyn lao mình về phía con quái vật, hét lớn như một nữ thần báo tử. Con quái vật rít lên và đứng thẳng người dậy trên hai chân, mớ da bùng nhùng của nó căng lên. Đúng lúc nó định lao ba cái lưỡi về phía cô, cô bèn đâm sầm cả người vào cái bồn đá có Martin, đưa hai cánh tay luồn xuống đáy cái bồn khi nó lật nghiêng rồi nhấc bổng nó lên, và cả cái bồn to tướng đó, đầy ắp đá cá và thi thể của Martin, bay bổng trong không trung và rơi ập xuống con hồn rỗng với một tiếng rầm khủng khiếp.
Bronwyn quay ngoắt lại lao về phía chúng tôi. “TRÁNH RA!” cô hét lên, tôi vừa kịp tránh sang bên thì cô lao rầm vào bức tường ngay cạnh tôi, phá tung thành một cái lỗ qua những tấm ván nát mục. Enoch, người bé nhỏ nhất trong chúng tôi, lao qua đầu tiên, theo sau là Emma và tôi còn chưa kịp phản đối thì Bronwyn đã chộp lấy hai vai lẳng vai tôi vào màn đêm ướt sũng. Tôi tiếp đất đập ngực xuống một vũng nước mưa. Cái lạnh làm tôi rùng mình, nhưng miễn đã cảm nhận được bất cứ cái gì ngoài cái lưỡi con quái vật hồn rỗng siết lại quanh cổ mình, tôi đã mừng lắm rồi.
Emma và Enoch kéo tôi đứng dậy, và chúng tôi bắt đầu chạy. Một lát sau, Emma lớn tiếng gọi tên Bronwyn rồi dừng lại. Chúng tôi ngoái lại sau và nhận ra Bronwyn không đi cùng chúng tôi.
Chúng tôi gọi cô và căng mắt tìm kiếm trong bóng tối không đủ can đảm để chạy trở lại, rồi sau đó Enoch reo lên, “Đằng kia!” và chúng tôi thấy Bronwyn đang dựa người vào một góc cái kho lạnh.
“Bạn ấy đang làm gì thế!” Emma kêu lên. “BRONWYN CHẠY ĐI!”
Có vẻ như cô gái đang bám lấy cái nhà kho. Sau đó, cô lùi lại chạy lấy đà rồi thúc vai vào góc chịu lực của căn nhà, và như một công trình xếp bằng que diêm, cả nhà kho đổ sập xuống, một đám mưa đá vụn và mảnh dăm gỗ văng ra tung tóe và bị một cơn gió thổi cuốn theo xuống con đường.
Tất cả chúng tôi cùng reo hò và hoan hô trong khi Bronwyn chạy hết tốc lực về phía chúng tôi với một nụ cười hể hả trên khuôn mặt, rồi đứng dưới cơn mưa xối xả, chúng tôi ôm hôn cô và cười phá lên. Song chẳng mấy chốc, tâm trạng chúng tôi lại chùng xuống vì cú sốc từ những gì vừa xảy ra dần đè nặng xuống, rồi sau đó Emma quay sang tôi hỏi một câu chắc hẳn đang nằm trong đầu cả ba người.
“Jacob, làm sao gã xác sống kia lại biết nhiều về cậu thế? Và cả bọn tớ nữa?”
“Cậu gọi hắn là bác sĩ”, Enoch nói.
“Hắn là bác sĩ tâm lý của tớ.”
“Bác sĩ tâm lý!” Enoch thốt lên. “Tuyệt làm sao! Không chỉ đem kể tuốt về chúng ta với một gã xác sống, cậu ta còn bị điên nữa!”
“Nói lại ngay!” Emma hét lên, đẩy cậu ta thật mạnh. Cậu ta định đẩy lại thì tôi chen vào giữa.
“Dừng lại!” tôi nói, tách hai người khỏi nhau. Tôi nhìn thẳng vào Enoch. “Cậu nhầm rồi. Tớ không điên. Hắn làm cho tớ nghĩ như thế, mặc dù chắc chắn hắn đã biết tớ là người đặc biệt ngay từ đầu rồi. Nhưng cậu đã đúng về một điều. Tớ đã để lộ về các cậu. Tớ đã kể những câu chuyện của ông nội với một người xa lạ.”
“Đó không phải lỗi của cậu”, Emma nói. “Cậu đâu biết là chúng tớ có thật.”
“Tất nhiên là có chứ!” Enoch hét lên. “Abe kể cho cậu ta mọi thứ. Thậm chí còn cho cậu ta xem cả những bức ảnh chết tiệt chụp chúng ta!”
“Golan biết mọi thứ ngoài việc làm thế nào để tìm ra các cậu”, tôi nói. “Và tớ đã dẫn hắn tới thẳng đây.”
“Nhưng hắn đã lừa cậu”, Bronwyn nói.
“Tớ chỉ muốn các cậu biết tớ rất xin lỗi.”
Emma ôm lấy tôi. “Ổn rồi. Chúng ta còn sống.”
“Trong lúc này”, Enoch nói. “Nhưng gã điên đó vẫn ở ngoài kia, và từ chuyện hắn sẵn sàng cho con thú cưng hồn rỗng của mình chén chúng ta, tớ dám cược hắn đã biết được cách để tự mình đi vào vòng.”
“Ôi Chúa ơi, cậu có lý”, Emma nói.
“Nếu vậy”, tôi nói, “tốt hơn chúng ta nên quay về đó trước hắn.”
“Và trước khi nó chui ra”, Bronwyn nói thêm. Chúng tôi quay lại và thấy cô đang chỉ vào kho lạnh vừa đổ sập, những mảnh vỡ đã bắt đầu nhúc nhích trong đống đổ nát. “Tớ đoán nó sẽ lao thẳng tới chỗ chúng ta, và vừa khéo tớ chẳng còn cái nhà nào để đẩy sập xuống đầu nó nữa.”
Ai đó hô lớn, Chạy! nhưng chúng tôi vốn đã chạy rồi, lao xuống con đường về nơi duy nhất hồn rỗng không thể bắt kịp chúng tôi - trong vòng. Chúng tôi hối hả chạy khỏi thị trấn trong bóng tối đặc quánh, những đường viền xanh mờ mờ của các trại trẻ nhường chỗ cho những cánh đồng dốc thoai thoải, rồi đến lượt chạy lên triền dốc, từng dòng nước chảy xiết ngang qua chân chúng tôi, làm lối mòn trở nên đầy bất trắc.
Enoch trượt chân ngã nhào. Chúng tôi nâng cậu ta dậy và chạy tiếp. Khi chúng tôi sắp leo lên đỉnh đồi, hai bàn chân Bronwyn cũng trượt đi, và cô gái trượt dài xuống dốc đến sáu mét rồi mới dừng lại được. Emma và tôi chạy trở lại giúp đỡ, và trong khi hai chúng tôi nắm lấy tay cô, tôi quay lại nhìn phía sau chúng tôi, hy vọng trông thấy bóng dáng con quái vật kia. Nhưng chỉ có màn mưa xối xả, tối đen như mực. Khả năng phát hiện ra các hồn rỗng của tôi chẳng còn mấy giá trị khi không có ánh sáng để nhìn thấy chúng. Nhưng sau đó, khi chúng tôi leo ngược trở lên đỉnh đồi, lồng ngực phập phồng hổn hển, một tia chớp chạy dài lóe lên thắp sáng màn đêm, tôi liền quay lại thì thấy nó. Nó ở cách phía sau chúng tôi một quãng nhưng đang leo lên rất nhanh, những cái lưỡi chắc nịch cắm xuống bùn và kéo nó lên sườn dốc dần dần như một con nhện.
“Chạy!” tôi hét lên, và tất cả chúng tôi cùng lao xuống triền dốc bên kia, cả bốn cùng ngồi bệt xuống trượt đi cho tới khi xuống tới đất bằng và có thể chạy tiếp.
Lại một tia chớp nữa lóe lên. Con quái vật đã ở gần hơn lúc trước. Với tốc độ này, chúng tôi khó lòng chạy thoát khỏi nó. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là bày mưu đánh lừa nó.
“Nếu nó bắt kịp chúng ta, nó sẽ giết hết chúng ta”, tôi nói lớn tiếng, “nhưng nếu chúng ta tách ra, nó sẽ phải lựa chọn. Tớ sẽ dẫn nó đi vòng vèo theo đường dài và cố làm nó bị lạc trong đầm. Các cậu hãy tới chỗ vòng nhanh nhất có thể!”
“Cậu điên rồi!” Emma kêu lên. “Nếu có ai đó cần ở lại đằng sau, người đó phải là tớ! Tớ có thể dùng lửa chiến đấu với nó!”
“Trong mưa thì không được đâu”, tôi nói, “với lại cậu cũng đâu có nhìn thấy nó!”
“Tớ sẽ không để cậu tự sát như thế đâu!” cô hét lên.
Không còn thời gian tranh luận nữa, Bronwyn cùng Enoch chạy tiếp về phía trước trong khi Emma và tôi rẽ khỏi lối mòn, hy vọng con quái vật sẽ đuổi theo, và nó làm thế thật. Lúc này nó đã đuổi gần tới mức không cần tia chớp nào lóe lên tôi cũng biết nó đang ở đâu; chỉ cần cảm giác cuộn thắt lại trong bụng là đủ để tôi xác định nó.
Chúng tôi cầm tay nhau chạy, băng qua một cánh đồng đầy luống cày và rãnh, vấp ngã và níu lấy nhau trong cuộc chạy trốn thục mạng. Tôi đang đưa mắt nhìn quanh tìm những hòn đá để dùng làm vũ khí thì trong màn đêm phía trước xuất hiện một cái nhà - một cái lán nhỏ xiêu vẹo, cửa sổ vỡ kính còn cửa ra vào thì đâu mất, lúc trước vì quá hoảng hốt nên tôi đã không nhìn thấy nó.
“Chúng mình phải trốn đi thôi!” tôi nói giữa hai nhịp thở.
Cầu trời cho con quái vật này ngu ngốc, tôi thầm cầu nguyện trong khi chúng tôi rẽ về phía cái lán, cầu trời, cầu trời cho nó ngu ngốc. Chúng tôi đi thành một vòng cung rộng, hy vọng vào được trong lán mà không bị phát hiện ra.
“Đợi đã!” Emma kêu lên khi chúng tôi chạy vòng ra đằng sau lán. Cô lấy một miếng vải thưa của Enoch từ trong áo khoác ra và cuống cuồng quấn nó quanh một hòn đá nhặt dưới đất, làm thành một thứ kiểu như dây lăng đá. Cô bưng nó giữa hai bàn tay cho tới khi nó bắt lửa rồi lăng nó ra xa khỏi chúng tôi. Nó rơi xuống đám bùn lầy ngoài xa, sáng lên yếu ớt trong bóng tối.
“Để đánh lạc hướng”, cô giải thích, rồi chúng tôi quay lại chui vào ẩn mình trong căn lán u ám.
o O o
Chúng tôi lách qua một cánh cửa đã bung khỏi bản lề rồi đặt chân vào một bãi phân chuồng tối đen rộng mênh mông nồng nặc mùi. Khi bàn chân chúng tôi lún xuống trong tiếng òm ọp lộn mửa, tôi mới nhận ra chúng tôi đang ở đâu.
“Cái gì thế này?” Emma thì thầm, rồi đột ngột có tiếng con vật gì đó thở hắt ra làm cả hai chúng tôi giật nẩy mình. Căn lán đầy nghịt những con cừu tìm chỗ trú ẩn khỏi màn đêm bất trắc, hệt như chúng tôi. Khi thị lực đã dần dần thích ứng được, chúng tôi bắt gặp những ánh mắt lờ mờ của chúng đang nhìn chằm chằm vào mình - có đến hàng chục, hàng chục con.
“Đây đúng là thứ tớ nghĩ phải không”, Emma vừa nói vừa rón rén nhấc một bàn chân lên.
“Đừng nghĩ về nó”, tôi đáp. “Lại đây nào, chúng ta cần tránh xa khỏi cái cửa này.”
Tôi cầm lấy tay cô và hai chúng tôi tiến sâu vào trong lán, lách giữa một bầy những con vật nhút nhát co rúm lại khi chúng tôi chạm phải. Chúng tôi đi qua hành lang hẹp vào một căn phòng có cái cửa sổ cao và cửa ra vào vẫn nằm nguyên trên bản lề, tách biệt khỏi màn đêm bên ngoài, còn những căn phòng khác chẳng biết có được vậy hay không. Lách vào tận góc trong cùng, chúng tôi quỳ gối xuống chờ đợi và lắng nghe, nấp sau một bầy cừu sợ sệt.
Chúng tôi cố ngồi không quá sát xuống lớp phân nhưng thực sự không thể nào tránh nổi chuyện này. Sau một phút nhìn chăm chăm mờ mịt vào bóng tối, tôi bắt đầu nhận ra những hình dáng trong phòng. Trong một góc có những chiếc thùng và hộp xếp chất đống, dọc theo bức tường sau lưng chúng tôi treo những món dụng cụ han gỉ. Tôi tìm kiếm xem có thứ gì đó đủ sắc để dùng làm vũ khí. Nhìn thấy một vật trong giống cái kéo khổng lồ, tôi đứng dậy cầm lấy.
“Định xén lông vài con cừu à?” Emma hỏi.
“Còn hơn không có gì.”
Đúng lúc tôi gỡ cái kéo xén lông cừu từ trên tường xuống, có tiếng gì đó vang lên bên ngoài cửa sổ. Lũ cừu be be hoảng hốt, rồi sau đó một cái lưỡi dài đen sì chui vào qua khung cửa sổ mất kính. Tôi ngồi trở lại xuống sàn nhẹ nhàng hết mức có thể. Emma đưa bàn tay lên che miệng để giấu hơi thở của mình.
Cái lưỡi sục sạo quanh phòng như một cái kính tiềm vọng, dường như đang xem xét không gian này. May thay, chúng tôi đã ẩn trốn trong căn phòng nặng mùi nhất trên cả hòn đảo. Mùi của từng ấy con cừu hẳn đã át hết mùi hai chúng tôi, vì sau một phút có vẻ như con quái vật đã bỏ cuộc và thu lưỡi ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân nó đi xa dần.
Emma đưa bàn tay che miệng xuống và thở hắt ra. “Tớ nghĩ nó bị lừa rồi”, cô thì thầm.
“Tớ muốn cậu biết một điều”, tôi nói. “Nếu chúng ta thoát được lần này, tớ sẽ ở lại.”
Emma nắm lấy bàn tay tôi. “Cậu định thế thật chứ?”
“Tớ không về nhà được. Không thể, sau những gì đã xảy ra. Dù thế nào đi nữa, dù không biết tớ có giúp được không, tớ cũng nợ các cậu điều đó và còn nợ nhiều hơn nữa. Tất cả các cậu từng an toàn tuyệt đối cho tới khi tớ đến đây.”
“Nếu chúng ta qua được lần này”, cô vừa nói vừa tựa vào tôi, tớ sẽ không nuối tiếc gì nữa.”
Rồi, dường như một thứ nam châm kỳ lạ nào đó khiến đầu chúng tôi cứ thế xáp lại gần nhau, nhưng đúng lúc môi chúng tôi sắp chạm nhau, sự yên tĩnh bị những tiếng be be kinh hoàng vọng lại từ căn phòng bên cạnh phá vỡ. Chúng tôi rời nhau ra trong khi âm thanh kinh khủng kia làm lũ cừu xung quanh chúng tôi cuồng lên nhốn nháo, nhảy chồm lên nhau và đẩy chúng tôi áp vào tường.
Con quái vật không ngu ngốc như tôi đã hy vọng.
Rồi sau đó tôi có thể ngửi thấy mùi nó, thậm chí còn nồng nặc hơn những thứ mùi xú uế khác trong căn lán, và tôi có thể cảm thấy nó đang ở ngưỡng cửa căn phòng. Toàn bộ lũ cừu lập tức dạt ra xa cửa, xúm xít vào nhau như một đàn cá, thành ra chúng tôi bị lèn chặt vào tường đến mức không khí bị ép hết ra khỏi phổi. Hai chúng tôi bám chặt vào nhau nhưng không dám phát ra âm thanh nào, và trong một khoảnh khắc căng thẳng tột độ, chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng be be của lũ cừu và tiếng những cái móng chân loạng choạng đang khua lộc cộc. Sau đó, một tiếng kêu kinh hoàng vang lên, đột ngột và tuyệt vọng rồi im bặt cũng đột ngột như thế, bị cắt ngang bởi tiếng gặm xương răng rắc rởn tóc gáy. Không cần nhìn tôi cũng biết một con cừu vừa bị xé toạc ra.
Cảnh hỗn loạn nổ ra. Những con vật hoảng loạn nhảy chồm chồm lên va vào nhau, hất chúng tôi đập vào tường nhiều lần đến mức tôi xây xẩm mặt mày. Con hồn rỗng rít lên một tiếng chói tai rồi bắt đầu tóm lũ cừu đưa lên hai hàm răng ròng ròng nước dãi của nó, hết con này tới con khác, ngoạm mỗi con một nhát làm máu phun ra tung tóe rồi ném sang bên như một ông vua phàm ăn đang ngốn ngấu một bữa tiệc thời Trung cổ. Nó lặp đi lặp lại hành động đó - giết dần lũ cừu để mở đường về phía chúng tôi. Tôi cứng đờ người vì sợ hãi. Đó là lý do vì sao tôi hoàn toàn không lý giải được điều diễn ra sau đó.
Tất cả bản năng của tôi đều lớn tiếng thúc giục tôi hãy ẩn kín, hãy rúc sâu nữa xuống đống phân, nhưng rồi một ý nghĩ rõ ràng lóe lên xuyên qua cơn tê liệt - mình sẽ không để hai đứa chết trong cái lán đầy phân này - và tôi kéo Emma ra đằng sau con cừu to nhất tôi có thể thấy rồi lao tới chỗ cửa ra vào.
Cánh cửa đang đóng và cách đó ba mét, đồng thời có rất nhiều cừu đứng chen giữa nó và tôi, nhưng tôi mở một đường lách qua chúng như một cầu thủ tiền vệ. Tôi thúc vai vào cánh cửa và nó mở tung ra.
Tôi nhào ra cơn mưa bên ngoài và hét lên, “Lại đây bắt tao đi, đồ khốn kiếp xấu xí!” Tôi biết mình đã thu hút được sự chú ý của nó vì nó rống lên một tiếng thật ghê rợn và những con cừu bay ra khỏi cửa qua trước mặt tôi. Tôi loạng choạng đứng lên, và khi đã chắc con quái vật đang đuổi theo tôi chứ không phải Emma, tôi chạy về phía đầm lầy.
Tôi có thể cảm thấy nó đằng sau mình. Tôi đã có thể chạy nhanh hơn, nhưng tôi vẫn cầm theo cái kéo xén lông cừu - dường như tôi không thể buộc mình bỏ nó đi được - và rồi mặt đất mềm ra dưới chân tôi, và tôi biết mình đã tới đầm lầy.
Hai lần con hồn rỗng đã tới đủ gần để lưỡi của nó quệt được lên lưng tôi, và cả hai lần, đúng lúc tôi tin chắc một cái lưỡi sắp sửa quấn quanh cổ tôi và siết lại đến khi đầu tôi vỡ tung, nó lại vấp ngã và tụt lại. Lý do duy nhất khiến tôi đến được chỗ mộ đá với cái đầu vẫn còn nguyên vẹn gắn vào người là vì tôi biết chính xác phải đặt chân lên chỗ nào; nhờ Emma, tôi có thể chạy gấp qua chặng đường đó vào một đêm không trăng giữa cơn bão tố.
Leo lên gò đất của mộ đá, tôi chạy vòng quanh tới lối vào kè đá và chui vào. Bên trong đen kịt như hắc ín, nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng - chỉ cần tới được căn phòng trong cùng là tôi sẽ an toàn. Tôi bò tới bằng hai bàn tay và đầu gối, vì thậm chí đứng thôi cũng sẽ làm mất thêm thời gian mà tôi thì không có thời gian để lãng phí, và khi đã bò được nửa đường tới đích, đồng thời cảm thấy một chút lạc quan dè dặt về cơ may sống sót của mình, thì đột nhiên tôi không thể bò đi thêm được nữa. Một trong những cái lưỡi đã quấn lấy cổ chân tôi.
Con hồn rỗng đã quấn hai cái lưỡi của nó quanh những tảng đá bên ngoài cửa đường hầm như để giữ cho nó khỏi trượt đi trên bùn, rồi phủ kín lối vào bằng thân hình của nó như một cái nắp úp lên miệng bình. Cái lưỡi thứ ba đang lôi tôi về phía nó, tôi đã trở thành một con cá mắc câu.
Tôi cào xuống đất, nhưng phía dưới toàn là sỏi và các ngón tay tôi lập tức trượt đi. Tôi lật ngửa người ra và dùng bàn tay còn tự do bấu vào các tảng đá, nhưng tôi đang trôi đi quá nhanh. Tôi cố dùng cái kéo xén lông cừu của mình đăm vào cái lưỡi, nhưng nó quá gân guốc và chắc chắn, như cái dây chão tạo thành từ những bó cơ đang uốn lượn, trong khi lưỡi kéo của tôi quá cùn. Vậy là tôi nhắm chặt mắt lại, vì tôi không muốn hai hàm răng đang há hoác của nó là thứ cuối cùng tôi nhìn thấy, và nắm chặt cái kéo xén lông cừu chĩa ra phía trước bằng cả hai bàn tay. Thời gian dường như bị kéo căng ra, người ta bảo đó là tình trạng thường thấy trong những vụ đâm xe, tai nạn tàu hỏa hay những cú rơi tự do từ trên máy bay xuống, và điều tiếp theo tôi cảm thấy là một cú va đập làm cả người tôi nẩy lên khi tôi đâm sầm vào con hồn rỗng.
Tất cả không khí trong lồng ngực tôi bị ép hết ra ngoài, và tôi nghe thấy nó rống lên. Tôi và nó cùng nhào ra khỏi đường hầm rồi lăn từ trên gò mộ xuống đầm lầy, và khi mở được mắt ra, tôi thấy cái kéo xén lông cừu của mình đâm lút cán vào hai hốc mắt của con quái vật. Nó rống lên như mười con lợn cùng bị thiến một lúc, lăn lộn và quẫy đạp trong lớp bùn đang dềnh lên vì mưa, tuôn ra cả một dòng chất lỏng đen ngòm của chính nó, thứ chất lỏng sền sệt phun lên tay cầm han gỉ của cái kéo.
Tôi có thể cảm thấy nó đang chết dần, sự sống bị tháo cạn dần khỏi nó, lưỡi nó lỏng ra quanh cổ chân tôi. Tôi có thể cảm thấy cả sự khác biệt ở mình, cơn hoảng loạn khiến dạ dày tôi quặn thắt đã dần dần biến mất. Cuối cùng, con quái vật cứng đờ ra và chìm nghỉm, trước mắt tôi, lớp chất lỏng nhớt quánh khép lại trên đầu nó, một đám máu đen thẫm là dấu hiệu duy nhất cho hay nó từng ở đó.
Tôi có thể cảm thấy đầm lầy đang nuốt tôi xuống cùng con quái vật. Tôi càng vùng vẫy, nó dường như càng muốn tôi hơn. Tôi thầm nghĩ hẳn sẽ kỳ lạ lắm nếu một nghìn năm sau người ta tìm thấy tôi và con vật kia cùng được bảo quản trong than bùn dưới đầm lầy.
Tôi cố quẫy đạp tiến về phía đất cứng nhưng chỉ càng làm mình lún xuống sâu hơn. Bùn lầy dường như đang leo lên tôi, dâng lên theo cánh tay tôi, lên ngực tôi, bao quanh cổ tôi như một nút thòng lọng.
Tôi la lên kêu cứu - và thật kỳ diệu, cứu viện đến thật dưới dạng mà ban đầu tôi nghĩ là một con đom đóm đang nhấp nháy bay về phía tôi. Sau đó nghe thấy tiếng Emma gọi, tôi liền đáp lại.
Một cành cây đáp xuống nước. Tôi chộp lấy nó rồi Emma kéo, và cuối cùng khi đã ra được khỏi đầm lầy, tôi run rẩy đến mức không thể đứng nổi. Emma ngồi xuống bên cạnh tôi, và tôi đổ ập vào vòng tay cô.
Mình đã giết nó, tôi nghĩ. Mình giết được nó thật rồi. Trong suốt khoảng thời gian sống trong sợ hãi, tôi chưa bao giờ mơ mình có thể thực sự giết được một con quái vật!
Điều đó làm tôi cảm thấy mạnh mẽ. Giờ đây tôi có thể tự bảo vệ bản thân. Tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể mạnh mẽ như ông nội, nhưng tôi cũng không phải là một kẻ yếu đuối hèn nhát. Tôi có thể giết chúng.
Tôi dè dặt cất lời. “Nó chết rồi. Tớ đã giết nó.”
Tôi bật cười. Emma ôm lấy tôi, áp má cô vào má tôi. “Tớ biết anh ấy hẳn sẽ rất tự hào về cậu”, cô nói.
Chúng tôi hôn nhau, cảm giác thật êm ái dễ chịu, mưa nhỏ xuống từ mũi chúng tôi và chạy vào trong khuôn miệng vừa hé mở của chúng tôi thật ấm. Emma lùi ra ngay và thì thầm, “Điều lúc trước cậu đã nói ấy, cậu có ý đó thật chứ?”
“Tớ sẽ ở lại”, tôi nói. “Nếu bà Peregrine cho phép.”
“Cô sẽ cho phép. Tớ sẽ đảm bảo chắc chắn điều đó.”
“Trước khi lo lắng về chuyện ấy, tốt hơn chúng ta cần tìm ra tay bác sĩ tâm lý của tớ và đoạt lấy súng của hắn.”
“Đúng thế”, cô nói, nét mặt đanh lại. “Vậy đừng lãng phí thời gian nữa.”
o O o
Chúng tôi bỏ lại cơn mưa sau lưng và chui ra giữa một khung cảnh mờ mịt khói và tiếng động. Vòng thời gian vẫn chưa được khởi động lại, đầm lầy chi chít hố bom, bầu trời ầm ì tiếng động cơ máy bay, từng bức tường lửa màu cam lần về phía hàng cây ngoài xa. Tôi đang định đề xuất là chúng tôi hãy đợi đến khi hôm nay trở thành hôm qua và tất cả những thứ này biến mất rồi hãy cố gắng tìm đến trại trẻ thì hai cánh tay rắn rỏi bỗng ôm chầm lấy tôi.
“Cậu còn sống!” Bronwyn reo lên. Enoch và Hugh đang ở cùng cô, và khi cô lùi ra hai cậu con trai tiến lại bắt tay tôi và ngắm nghía tôi từ đầu đến chân.
“Tớ xin lỗi đã gọi cậu là một kẻ phản bội”, Enoch nói. “Tớ rất vui là cậu không chết.”
“Cả tớ cũng thế”, tôi đáp.
“Tất cả vẫn lành lặn chứ?” Hugh vừa hỏi vừa ngắm nghía tôi.
“Còn đủ hai tay hai chân”, tôi nói, vung chân đá lên để chứng tỏ chúng còn nguyên lành. “Và các cậu không phải lo về con hồn rỗng đó nữa. Chúng tớ giết nó rồi.”
“Ồ, khiêm tốn làm gì!” Emma nói đầy tự hào. “Cậu đã giết nó.”
“Xuất sắc”, Hugh nói, nhưng cả cậu ta lẫn hai người kia đều không hề mỉm cười.
“Có chuyện gì vậy?”, tôi hỏi. “Đợi đã. Tại sao ba cậu không ở trại trẻ? Bà Peregrine đâu?”
“Cô ấy đi rồi”, Bronwyn nói, môi run rẩy. “Cả cô Avocet nữa. Hắn bắt họ đi.”
“Ôi Chúa ơi”, Emma thốt lên. Chúng tôi đã quá muộn.
“Hắn đến mang theo súng”, Hugh nói, mắt nhìn chằm chặp xuống đất. “Định bắt Claire làm con tin, nhưng bạn ấy cắn hắn bằng cái miệng sau gáy, thế là hắn tóm tớ. Tớ cố chống lại, nhưng hắn dùng súng nện vào đầu tớ.” Cậu ta sờ tay vào sau tai và khi bỏ ra, các ngón tay cậu ta dính máu. “Hắn nhốt tất cả mọi người dưới hầm và nói nếu cô phụ trách và cô Avocet không biến thành chim, hắn sẽ khoan thêm một cái lỗ nữa lên đầu tớ. Họ đành làm theo, và hắn nhét cả hai vào trong một cái lồng.”
“Hắn có một cái lồng sao?” Emma hỏi.
Hugh gật đầu. “Một cái lồng nhỏ, để họ không có chỗ mà làm gì hết, như biến hình đổi dạng hay bay đi.”
“Tớ cứ nghĩ chắc mình sẽ bị bắn, nhưng sau đó hắn tống tớ xuống hầm cùng những người khác rồi mang hai con chim bỏ chạy.”
“Và bọn tớ tìm thấy họ như thế khi quay về”, Enoch cay cú nói. “Trốn tránh như một đám hèn nhát.”
“Bọn tớ không phải đang trốn!” Hugh gắt lên. “Hắn nhốt bọn tớ lại! Suýt nữa thì hắn đã bắn bọn tớ!”
“Quên chuyện đó đi”, Emma quát. “Hắn chạy đi đâu rồi? Tại sao các cậu không đuổi theo hắn?!”
“Bọn tớ không biết hắn đi đâu”, Bronwyn nói. “Bọn tớ đã hy vọng các cậu thấy hắn.”
“Không, bọn tớ không thấy hắn!” Emma nói, bực bội đá vào một tảng đá.
Hugh lấy thứ gì đó trong túi áo sơ mi ra. Đó là một bức ảnh nhỏ. “Hắn nhét cái này vào túi áo tớ trước khi bỏ đi. Nói nếu chúng tớ tìm cách bám theo hắn, đây là điều sẽ xảy ra.”
Bronwyn giật bức ảnh trên tay Hugh. “Ôi”, cô thảng thốt. “Có phải đó là cô Raven không?”
“Tớ nghĩ đó là cô Crow”, Hugh nói, đưa hai bàn tay lên xoa mặt.
“Có nghĩa là họ coi như đã chết”, Enoch rên rỉ. “Tớ biết ngày này thế nào cũng tới mà!”
“Đáng lẽ chúng ta không bao giờ nên rời khỏi nhà”, Emma khổ sở nói. “Millard đã đúng.”
Ở rìa phía xa của đầm lầy, một quả bom rơi xuống, sau tiếng nổ nghẹt lại dưới bùn của nó là một trận mưa bùn đất bị hất tung lên ngoài xa.
“Đợi một phút đã”, tôi nói. “Thứ nhất, chúng ta không biết đây là bà Crow hay Raven. Cũng hoàn toàn có thể chỉ là ảnh chụp một con quạ bình thường. Và nếu Golan định giết bà Peregrine và bà Avocet, tại sao hắn lại phải khổ công đến thế để bắt cóc họ? Nếu hắn muốn họ phải chết, họ đã chết rồi.” Tôi quay sang Emma. “Mà nếu chúng ta không ra ngoài, chúng ta cũng đã bị nhốt lại dưới tầng hầm như mọi người khác, và bây giờ vẫn còn một hồn rỗng đang lảng vảng ngoài kia!”
“Đừng cố vỗ về tớ làm gì!” cô nói. “Tất cả chuyện này xảy ra là lỗi của cậu!”
“Mười phút trước cậu còn nói là cậu rất mừng!”
“Mười phút trước cô Peregrine còn chưa bị bắt cóc!”
“Các cậu thôi đi nào!” Hugh nói. “Điều quan trọng bây giờ là Chim bị bắt đi rồi và chúng ta cần cứu cô về!”
“Được”, tôi nói, “vậy chúng ta hãy cùng nghĩ xem. Nếu các cậu là một xác sống, các cậu sẽ mang hai Chủ Vòng Thời Gian bị bắt cóc đi đâu?”
“Còn tùy vào việc cần làm gì với họ”, Enoch nói. “Mà điều đó thì chúng ta không biết.”
“Trước hết cậu sẽ phải đưa họ rời khỏi đảo đã”, Emma nói. “Vì thế cậu cần một cái thuyền.”
“Nhưng là hòn đảo nào?” Hugh hỏi. “Ở trong hay ở ngoài vòng thời gian?”
“Hòn đảo ở ngoài đang bị một cơn bão tàn phá tanh bành”, tôi nói. “Không ai có thể đi xa được với một cái thuyền ngoài đó cả.”
“Vậy thì hắn chắc phải ở bên này”, Emma nói, bắt đầu có vẻ hy vọng. “Vậy thì chúng ta còn nấn ná ở đây làm gì? Tới chỗ bến tàu thôi!”
“Có thể hắn đang ở bến tàu”, Enoch nói. “Đấy là nếu hắn chưa rời đi. Cho dù hắn không có ở đó và chúng ta tìm được cách lần ra hắn giữa đêm hôm tối tăm thế này mà không bị các mảnh trái phá xuyên thủng ruột trên đường, vẫn còn phải nghĩ tới khẩu súng của hắn nữa. Các cậu điên hết rồi sao? Các cậu muốn Chim bị bắt cóc hay bị bắn ngay trước mắt chúng ta hơn?”
“Hay lắm.” Hugh hét lên. “Thế thì chúng ta chỉ cần bỏ cuộc và quay về nhà thôi, nhỉ? Ai thích một cốc trà nóng dễ chịu trước khi lên giường nào? Khỉ thật, đằng nào Chim cũng không có nhà, cứ thay hẳn bằng một cốc rượu toddy đi!” Cậu ta khóc trong giận dữ, đưa tay lên chùi mắt. “Làm sao đến thử mà cậu cũng không dám, sau tất cả những gì cô đã làm cho chúng ta chứ hả?”
Enoch còn chưa kịp trả lời, chúng tôi đã nghe thấy tiếng ai đó gọi từ phía con đường mòn. Hugh bước tới, nheo mắt, và sau giây lát khuôn mặt cậu ta trở nên thật lạ. “Đó là Fiona”, cậu ta nói. Trước lúc đó tôi chưa bao giờ nghe thấy Fiona thốt ra dù chỉ một tiếng lí nhí. Không thể luận ra nổi cô đang nói gì trong tiếng động cơ máy bay và những tiếng nổ đằng xa, vậy là chúng tôi cùng chạy băng qua đầm lầy.
Khi tới chỗ con đường mòn, chúng tôi đều đã thở hổn hển còn Fiona đã khàn đặc giọng vì la hét, đôi mắt cô cũng hoang dại chẳng kém gì mái tóc. Ngay lập tức, cô bắt đầu lôi kéo, đẩy chúng tôi theo lối mòn về phía thị trấn, cuồng loạn la hét bằng thứ khẩu âm Ireland nặng trịch mà không ai trong chúng tôi hiểu nổi. Hugh nắm lấy hai vai cô và bảo cô hãy trấn tĩnh lại.
Fiona hít một hơi thật sâu, người run rẩy như một chiếc lá, đoạn chỉ về phía đằng sau mình. “Millard bám theo hắn!” cô nói. “Cậu ấy đã trốn khi hắn nhốt tất cả chúng ta xuống tầng hầm, và khi hắn chuồn ra ngoài cậu ấy liền bám theo!”
“Tới đâu?” tôi hỏi.
“Hắn có một cái thuyền.”
“Thấy chưa!” Emma reo lên. “Bến tàu!”
“Không”, Fiona nói, “đó là cái thuyền của cậu, Emma. Cái thuyền cậu nghĩ không ai biết đến, mà cậu vẫn buộc ở chỗ cái bãi cạn bé xíu ấy. Hắn đã leo lên thuyền cùng cái lồng và chỉ đi vòng vòng, nhưng sau đó thủy triều lên quá mạnh, vì thế hắn ghé thuyền vào chỗ gò đá có ngọn hải đăng, và hắn vẫn đang ở đó.”
Chúng tôi hối hả lấy hết sức chạy tới chỗ ngọn hải đăng. Khi tới chỗ vách đá nhìn xuống nó, chúng tôi tìm thấy những đứa trẻ còn lại trong một bãi cói túi rậm rạp gần rìa đá.
“Nằm xuống!” Millard khẽ suỵt.
Chúng tôi quỳ gối xuống và bò tới chỗ họ. Đám trẻ đang nằm phục xuống thành một đám rải rác đằng sau đám cói túi, thay nhau nhìn về phía hải đăng. Trông họ như bị sốc vì sức ép trái phá - nhất là những đứa bé nhất - tựa như chưa hoàn toàn tiếp nhận được cơn ác mộng đang diễn ra. Việc chúng tôi mới vừa sống sót qua khỏi một cơn ác mộng của riêng mình hầu như không được để tâm tới.
Tôi bò giữa đám cói túi tới rìa vách đá và nhìn ra. Xa hơn chỗ con tàu đắm nằm chìm dưới nước, tôi có thể thấy chiếc xuồng của Emma được buộc vào các tảng đá. Không thấy Golan và hai Chủ Vòng Thời Gian đâu.
“Hắn đang làm gì dưới kia vậy?” tôi hỏi.
“Ai biết được”, Millard đáp. “Chờ ai đó tới đón, hoặc chờ con nước đứng để hắn có thể chèo ra.”
“Trong cái xuồng bé xíu của tớ sao?” Emma hỏi có vẻ hoài nghi.
“Như tớ nói rồi đấy, bọn tớ không biết.”
Ba tiếng nổ đinh tai vang lên liền nhau, và tất cả chúng tôi đều nằm phục xuống trong khi bầu trời lóe sáng màu cam.
“Có quả bom nào rơi xuống quanh đây không, Millard?” Emma hỏi.
“Nghiên cứu của tớ chỉ liên quan tới hành vi của con người và động vật thôi”, cậu ta đáp. “Chứ không phải bom.”
“Quả là hữu ích vô cùng cho bọn mình lúc này”, Enoch nói.
“Cậu còn chiếc thuyền nào giấu quanh đây không?” tôi hỏi Emma.
“Tớ e là không”, cô nói. “Chúng ta đành phải bơi qua đó thôi.”
“Bơi qua đó rồi sao?” Millard hỏi. “Để bị bắn nát bét ra à?”
“Chúng ta sẽ nghĩ ra cách”, Emma trả lời.
Millard thở dài. “Ồ, đáng yêu quá. Tự sát ngẫu hứng.”
“Thế nào?” Emma nhìn từng người trong chúng tôi. “Ai có ý tưởng nào hay hơn không?”
“Nếu tớ có đám lính của tớ...” Enoch lên tiếng.
“Chúng sẽ mủn ra từng mảnh trong nước”, Millard nói.
Enoch gục đầu xuống. Những người khác im lặng.
“Vậy là quyết định rồi nhé”, Emma nói. “Ai tham gia nào?”
Tôi giơ tay lên. Bronwyn cũng vậy. “Các cậu sẽ cần tới ai đó mà gã xác sống không thể trông thấy”, Millard nói. “Để tớ đi cùng, nếu các cậu nhất định phải đi.”
“Bốn là đủ rồi”, Emma nói. “Hy vọng tất cả các cậu đều bơi tốt.”
Không còn thời gian để nghĩ lại hay nói những lời tạm biệt dài dòng. Những người còn lại chúc chúng tôi may mắn, và chúng tôi lên đường.
Chúng tôi cởi những chiếc áo khoác đi mưa màu đen của mình ra rồi lách qua đám cói túi, lom khom cúi gập người xuống như lính biệt kích đến khi tới chỗ lối mòn dẫn xuống bãi biển. Chúng tôi ngồi bệt trượt xuống, một dòng cát nhỏ chảy xuống quanh hai bàn chân và dọc theo hai ống quần chúng tôi.
Đột nhiên, một tiếng ồn vang lên như có năm mươi chiếc cưa máy cùng hoạt động trên đầu chúng tôi, chúng tôi vừa nằm bẹp xuống thì một chiếc máy bay ầm ầm lao qua, luồng gió thổi bạt tóc chúng tôi và làm tung lên một cơn lốc cát. Tôi nghiến chặt hai hàm răng, chờ đợi một quả bom nổ tung xé banh chúng tôi thành từng mảnh. Không có quả bom nào tới.
Chúng tôi tiếp tục đi. Khi tới bãi biển, Emma tập hợp chúng tôi sát lại nhau.
“Có một xác tàu đắm nằm giữa chỗ này và hải đăng”, cô nói. “Theo tớ ra chỗ nó. Ngâm mình dưới nước. Đừng để hắn thấy các cậu. Khi tới chỗ xác tàu đắm, chúng ta sẽ tìm kiếm hắn và quyết định xem tiếp theo làm gì.”
“Hãy mang các Chủ Vòng Thời Gian của chúng ta về”, Bronwyn nói.
Chúng tôi bò trườn xuống những con sóng và úp sấp bụng lao vào làn nước lạnh. Thoạt đầu việc bơi ra tương đối dễ dàng, nhưng chúng tôi càng bơi xa bờ, dòng nước càng có xu hướng đẩy chúng tôi trở lại. Thêm một chiếc máy bay nữa lao vụt qua trên đầu, làm bắn vọt lên một đám hạt nước rát rạt.
Tới chỗ xác tàu đắm thì chúng tôi đều thở dốc. Bám vào thân tàu han gỉ, chỉ nhô đầu lên khỏi mặt nước, chúng tôi nhìn chăm chú về phía hải đăng và hòn cù lao nhỏ trơ trọi nó được xây trên, nhưng không thấy tung tích gì của tay bác sĩ tâm lý khó lường. Trăng tròn là là trên bầu trời, thỉnh thoảng lại hiện ra qua màn khói bom, sáng lên như ngọn hải đăng thứ hai chập chờn ma quái.
Chúng tôi lần tiến lên hết dọc thân con tàu đắm, chỉ còn phải bơi gần năm trăm mét qua biển là tới chỗ ngọn hải đăng.
“Tớ đề nghị chúng ta nên làm như sau”, Emma nói. “Hắn đã chứng kiến Wyn khỏe như thế nào, vì thế bạn ấy là người gặp nhiều nguy hiểm nhất. Jacob và tớ sẽ tìm Golan và thu hút sự chú ý của hắn trong khi Wyn lén tiếp cận từ phía sau và nện cho hắn một cú ra trò vào đầu. Cùng lúc, Millard đoạt ngay lấy lồng chim. Có ai phản đối gì không?”
Như thể để trả lời, một phát súng vang lên. Thoạt đầu chúng tôi không nhận ra nó là gì - nghe không giống như những phát súng lớn mà chúng tôi từng nghe thấy, xa xa và dữ dội. Đây là tiếng nổ của một khẩu súng cỡ nhỏ một tiếng bọp thay vì đoàng - và chỉ đến khi nghe thấy phát súng thứ hai, kèm theo tiếng nước bắn lên ngay gần, chúng tôi mới biết đó là Golan.
“Lùi lại!” Emma hét lên, chúng tôi liền leo lên khỏi mặt nước và cắm đầu chạy băng băng trên thân tàu cho tới khi nó tụt sâu vào lòng nước dưới chân chúng tôi, rồi nhào xuống nước phía đằng sau thân tàu. Một lát sau, tất cả chúng tôi cùng tập trung lại, hổn hển thở lấy hơi.
“Thế này mà đòi tập kích hắn cơ đấy!” Millard nói.
Golan đã ngừng bắn, nhưng chúng tôi có thể thấy hắn đứng canh chừng cạnh cửa vào hải đăng, tay lăm lăm súng.
“Hắn có thể là một gã khốn đê tiện, nhưng hắn không ngu”, Bronwyn nói. “Hắn biết chúng ta bám theo.”
“Bây giờ thì không được rồi, chúng ta không thể!” Emma vừa nói vừa đập tay xuống nước. “Hắn sẽ bắn nát bét chúng ta!”
Millard bước lên trên xác tàu. “Hắn không thể bắn được thứ hắn không nhìn thấy. Để tớ đi.”
“Dưới biển cậu có còn vô hình nữa đâu, đồ ngốc”, Emma nói, và đúng là thế - chỗ cậu ta đứng trong nước, có một khoảng trống hình thân người nhấp nhô.
“Còn hơn các cậu”, cậu ta nói. “Dù thế nào đi nữa, tớ đã bám theo hắn suốt quãng đường trên đảo mà hắn không hề biết gì. Tớ nghĩ tớ có thể xoay xở thêm vài trăm mét nữa.”
Thật khó tranh luận, vì lựa chọn duy nhất còn lại của chúng tôi là bỏ cuộc hoặc lao vào một làn đạn.
“Được”, Emma nói. “Nếu cậu thực sự nghĩ cậu có thể làm được.”
“Ai đó cần phải làm anh hùng”, cậu ta đáp, và bước đi ngang qua thân tàu.
“Lời trăng trối trứ danh”, tôi thì thầm.
Ngoài xa, giữa làn khói, tôi nhìn thấy Golan quỳ gối xuống trên ngưỡng cửa ngọn hải đăng và ngắm bắn, gác tay súng qua một hàng lan can.
“Cẩn thận!” tôi hét lên, nhưng đã quá muộn. Một phát súng vang lên. Millard kêu thét.
Tất cả chúng tôi cùng leo lên trên xác tàu và hối hả chạy tới chỗ cậu ta. Tôi cảm thấy chắc như bắp là mình sắp bị bắn, và trong khoảnh khắc tôi nghĩ tiếng bàn chân chúng tôi bì bõm trong nước chính là những viên đạn đang trút như mưa xuống chúng tôi. Nhưng sau đó tiếng súng ngừng lại - phải nạp đạn, tôi thầm nghĩ - và chúng tôi có một quãng nghỉ ngắn để hành động.
Millard đang quỳ gối trong nước, đờ đẫn, máu đang trào ra chảy dọc thân người cậu ta. Lần đầu tiên tôi có thể nhìn thấy hình dáng thực của cơ thể cậu ta, nhuộm trong màu đỏ.
Emma cầm lấy cánh tay cậu ta. “Millard! Cậu không sao chứ? Nói gì đi!”
“Tớ xin lỗi”, cậu ta nói. “Có vẻ tớ đã bị lộ và làm mình dính đạn.”
“Chúng ta cần phải cầm máu!” Emma nói. “Chúng ta phải mang cậu ấy trở vào bờ.”
“Vớ vẩn”, Millard nói. “Gã đó sẽ không bao giờ để các cậu lại gần hắn lần nữa đâu. Bây giờ mà quay lại là chúng ta chắc chắn sẽ để mất cô Peregrine.”
Thêm nhiều phát súng vang lên. Tôi cảm thấy một viên đạn bay vèo sượt qua tai mình.
“Đằng này!” Emma hô lớn. “Lặn xuống!”
Thoạt đầu tôi không biết ý cô là gì - chúng tôi còn cách đuôi cái tàu đắm đến ba mươi mét - nhưng rồi tôi nhìn thấy chỗ cô đang chạy tới. Đó là cái lỗ đen ngòm trên boong tàu, cửa dẫn xuống khoang chứa hàng.
Bronwyn và tôi nâng Millard lên và chạy theo cô. Những đầu đạn kim loại đập choang choang vào thân tàu xung quanh chúng tôi. Nghe như ai đó đá vào một cái thùng rác.
“Nín thở”, tôi bảo Millard, rồi chúng tôi nhảy xuống khoang tàu và lặn.
Chúng tôi kéo mình xuống theo cái thang, xuống sâu vài thanh ngang và bám lại ở đó. Tôi cố giữ mắt mở nhưng nước mặn xót quá. Tôi có thể nếm thấy vị máu của Millard trong nước.
Emma đưa cho tôi ống thở, và chúng tôi lần lượt truyền nó cho nhau. Tôi đã hết cả hơi sau cuộc chạy, và vài giây mới được thở một hơi trong cái ống không đủ cho tôi. Hai buồng phổi tôi đau rát, và tôi bắt đầu cảm thấy choáng váng.
Ai đó giật áo sơ mi của tôi. Ngoi lên. Tôi chầm chậm kéo mình lên theo thang, rồi sau đó Bronwyn, Emma và tôi ngoi lên mặt nước vừa đủ để thở và nói, trong khi Millard ở lại chỗ an toàn dưới đó mấy mét, một mình dùng hẳn cái ống thở.
Chúng tôi khẽ thì thầm, không rời mắt khỏi ngọn hải đăng.
“Chúng ta không thể ở lại đây”, Emma nói. “Millard sẽ mất máu đến chết.”
“Đưa cậu ấy vào bờ phải mất hai mươi phút”, tôi nói. “Nguy cơ cậu ấy chết dọc đường cũng chẳng kém.”
“Tớ không biết phải làm gì khác nữa!”
“Hải đăng rất gần đây”, Bronwyn nói. “Chúng ta sẽ đưa cậu ấy tới đó.”
“Nếu thế Golan sẽ khiến tất cả chúng ta mất máu đến chết!” tôi nói.
“Không đâu”, Bronwyn đáp.
“Sao lại không? Cậu chống được đạn à?”
“Có thể”, Bronwyn đáp đầy bí hiểm, rồi hít một hơi và biến mất xuống dưới thang.
“Cô ấy nói gì thế?” tôi hỏi.
Emma có vẻ lo lắng. “Tớ cũng chịu. Nhưng dù là gì đi nữa, tốt hơn bạn ấy nên khẩn trương lên.” Tôi cúi xuống để xem Bronwyn đang làm gì, nhưng thay vì thế lại loáng thoáng thấy Millard ở chỗ cái thang phía dưới chúng tôi, xúm quanh là những con cá đèn tò mò. Sau đó, tôi cảm thấy rung động của thân tàu truyền vào bàn chân mình, và giây lát sau, Bronwyn ngoi lên, cầm theo một tấm kim loại hình chữ nhật dài mét tám rộng mét hai, phía trên là một cái lỗ tròn được đóng đinh tán xung quanh. Cô đã giật rời cánh cửa khoang chứa hàng ra khỏi bản lề của nó.
“Cậu định làm gì với cái đó vậy?” Emma hỏi.
“Tới chỗ ngọn hải đăng”, Bronwyn đáp. Sau đó cô đứng dậy, giơ cánh cửa ra che phía trước mình.
“Wyn, hắn sẽ bắn cậu mất!” Emma kêu lên, rồi một phát súng nổ - nó trúng vào cánh cửa và nẩy đi.
“Thật kinh ngạc!” tôi thốt lên. “Nó là một cái khiên!”
Emma bật cười. “Wyn, cậu đúng là thiên tài!”
“Tớ có thể cõng Millard trên lưng”, cô nói. “Còn các cậu, nấp ra đằng sau.”
Emma kéo Millard lên khỏi mặt nước và quàng hai cánh tay cậu ta quanh cổ Bronwyn. “Dưới đó thật tuyệt diệu”, cậu ta nói. “Emma, tại sao cậu chẳng bao giờ kể cho tớ biết về những thiên thần đó?”
“Thiên thần nào cơ?”
“Những thiên thần màu xanh lục đáng yêu sống ngay dưới kia.” Cậu ta đang run rẩy, giọng mơ màng. “Họ đã đề nghị đưa tớ lên thiên đường, thật tử tế.”
“Không ai sắp được lên thiên đàng hết”, Emma nói, trông cô có vẻ lo lắng. “Cậu bám chắc lấy Bronwyn, được chứ?”
“Tốt thôi”, cậu ta đờ đẫn nói.
Emma, đứng đằng sau Millard, đẩy cậu ta áp vào lưng Bronwyn để cậu ta không bị tuột xuống. Tôi đứng đằng sau Emma, làm đoạn hậu cho đoàn rồng rắn ngắn ngủn lạ lùng này, rồi chúng tôi bắt đầu chật vật lê bước đi qua boong tàu về phía ngọn hải đăng.
Chúng tôi là một cái bia lớn, và ngay lập tức Golan bắt đầu nã đạn về phía chúng tôi. Tiếng những viên đạn của hắn đập vào cánh cửa nẩy đi vang lên đinh tai - nhưng đồng thời lại có gì đó làm người ta yên tâm - song sau chừng hơn chục phát súng, hắn ngừng lại. Có điều tôi không lạc quan tới mức nghĩ hắn đã hết đạn.
Đến đuôi xác tàu, Bronwyn cẩn thận dẫn chúng tôi xuống nước, luôn giữ cho cánh cửa to tướng che đằng trước chúng tôi. Đoàn rồng rắn của chúng tôi trở thành một chuỗi người bơi chó xúm lại đằng sau cô. Emma nói với Millard trong khi chúng tôi bơi, buộc cậu ta trả lời các câu hỏi để cậu ta không lịm đi.
“Millard! Ai đang là thủ tướng?”
“Winston Churchiil”, cậu ta nói. “Cậu bị mất trí à?”
“Thủ đô của Miến Điện là gì?”
“Chúa ơi, tớ không biết. Rangoon.”
“Tốt! Sinh nhật cậu là khi nào?”
“Cậu có thể thôi gào lên và để tớ được bình yên chảy máu không hả!”
Không mất mấy thời gian để băng qua khoảng cách ngắn ngủi giữa xác tàu đắm và ngọn hải đăng. Khi Bronwyn dùng vai đỡ tấm lá chắn của chúng tôi và leo lên các tảng đá, Golan bắn thêm vài phát nữa, và sức va chạm của những viên đạn làm cô mất thăng bằng. Trong khi chúng tôi co ro thu mình lại sau lưng Bronwyn, cô loạng choạng và thiếu chút nữa trượt chân ngã ra sau rơi khỏi bờ đá, nếu thế trọng lượng của cả cô và cánh cửa hẳn sẽ đè bẹp tất cả chúng tôi. Emma chống hai bàn tay vào lưng Bronwyn và đẩy, cuối cùng cả Bronwyn và cánh cửa cùng lảo đảo tiến lên chỗ đất khô. Ba chúng tôi xúm xít lại loạng choạng đi theo cô, run lẩy trong màn đêm lạnh giá.
Nơi rộng nhất khoảng năm mươi mét, mõm đá nơi ngọn hải đăng tọa lạc trên thực tế là một cù lao nhỏ. Ở dưới chân đế han gỉ của ngọn hải đăng có chừng một tá bậc đá dẫn lên một cánh cửa để mở, Golan đang đứng đó chĩa khẩu súng ngắn của hắn thẳng về hướng chúng tôi.
Tôi đánh bạo liếc một cái qua lỗ trên cánh cửa. Một bàn tay hắn cầm một cái lồng chim nhỏ, trong lồng là hai con chim đang vỗ cánh đứng chen sát nhau đến mức tôi không thể phân biệt nổi con nào với con nào.
Một phát đạn rít lên bay vèo qua và tôi vội thụp xuống.
“Lại gần thêm nữa là tao sẽ bắn cả hai mụ!” Golan hét lên, rung rung cái lồng.
“Hắn nói dối đấy”, tôi nói. “Hắn cần họ.”
“Cậu làm sao biết chắc được”, Emma nói. “Nói cho cùng, hắn là một gã điên.”
“Thế nhưng chúng ta không thể không làm gì cả.”
“Xông tới chỗ hắn!” Bronwyn nói. “Hắn sẽ không biết phải làm gì. Nhưng để thành công chúng ta cần xông tới NGAY!”
Và chúng tôi còn chưa kịp cân nhắc, Bronwyn đã chạy về phía hải đăng. Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài chạy theo - nói gì thì nói, cô đang mang lá chắn bảo vệ của chúng tôi - và một khoảnh khắc sau đạn đã liên hồi nện choang choang vào cánh cửa và trúng vào những tảng đá quanh chân chúng tôi.
Cảm giác lúc đó không khác gì bám trên nóc một đoàn tàu tốc hành. Bronwyn thật kinh khủng, cô hét lên như một chiến binh man rợ: các mạch máu trên cổ hằn lên, máu Millard dính bết trên khắp cánh tay và sau lưng cô. Vào khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy thật mừng là mình không ở phía bên kia cánh cửa.
Khi chúng tôi lại gần ngọn hải đăng, Bronwyn hô lớn, “Nấp vào sau tường!” Emma và tôi giữ lấy Millard và nhao sang trái nấp sau bức tường phía xa của hải đăng. Trong khi chúng tôi chạy đi, tôi thấy Bronwyn nhấc bổng cánh cửa lên quá đầu rồi ném nó về phía Golan.
Một tiếng rầm như sấm động vang lên, tiếp ngay sau là một tiếng thét, và vài giây sau Bronwyn gia nhập cùng chúng tôi đằng sau tường, mặt đỏ bừng, thở hổn hển.
“Tớ nghĩ tớ nện trúng hắn rồi!” cô nói đầy kích động.
“Còn về mấy con chim thì sao?” Emma nói. “Cậu có nghĩ đến họ không?”
“Hắn đánh rơi họ xuống. Họ ổn cả.”
“À, đáng lẽ cậu nên hỏi bọn tớ trước khi hăng máu lên và mạo hiểm tính mạng tất cả chúng ta!” Emma gắt lên.
“Yên nào”, tôi gắt khẽ. Chúng tôi nghe thấy tiếng kim loại nghiến ken két rất nhỏ. “Chuyện gì vậy?”
“Hắn đang leo lên cầu thang”, Emma đáp.
“Tốt hơn các cậu nên bám theo hắn”, Millard thều thào. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta. Cậu ta đang ngồi sụp xuống tựa vào tường.
“Bọn tớ lo xong cho cậu cái đã”, tôi nói. “Ai biết ga rô cầm máu không?”
Bronwyn cúi xuống và xé ống quần đang mặc ra. “Tớ biết”, cô nói. “Tớ sẽ cầm máu cho cậu ấy, hai cậu đi tóm gã xác sống đi. Tớ đã nện hắn một cú nặng, nhưng chưa đủ nặng. Đừng để hắn có cơ hội hồi sức.”
Tôi quay sang Emma. “Cậu đi chứ?”
“Nếu như thế có nghĩa là tớ cần đun chảy khuôn mặt gã xác sống đó ra”, cô nói, những vầng lửa nhỏ hình vòng cung bùng lên giữa hai bàn tay cô, “thì chắc chắn là có.”
o O o
Emma và tôi leo qua cánh cửa khoang tàu đang nằm méo mó trên các bậc thang nó tiếp đất, và đi vào trong hải đăng. Tòa tháp về cơ bản là một gian phòng hẹp và vươn lên hun hút theo phương thẳng đứng - đúng ra là một lồng cầu thang khổng lồ - trong đó chiếm phần lớn không gian là một cầu thang mỏng mảnh chạy xoắn ốc từ sàn lên tới một chiếu nghỉ bằng đá, cao tới hơn ba mươi mét. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân Golan khi hắn leo lên cầu thang, nhưng bên trong quá tối để có thể biết hắn còn cách đỉnh tháp bao xa.
“Cậu có thấy hắn không?” tôi hỏi, ngước mắt nhìn lên độ cao chóng mặt của lồng cầu thang.
Câu trả lời dành cho tôi là một phát đạn trúng vào bức tường gần đó nẩy ra, tiếp theo là một phát đạn nữa trúng vào cánh cửa dưới chân tôi. Tôi nhảy vụt ra sau, tim đập thình thịch.
“Ở trên kia!” Emma kêu lên. Cô nắm lấy cánh tay tôi và kéo tôi vào sâu hơn bên trong, tới một chỗ những phát súng của Golan không thể với tới - ngay bên dưới cầu thang.
Chúng tôi leo lên vài bậc, những bậc thang lúc này đã lắc lư như một con thuyền trong thời tiết xấu. “Mấy cái bậc thang này khiếp quá!” Emma kêu lên, các ngón tay cô trắng bệch ra trong khi bám lấy lan can. “Cho dù chúng ta lên được tới đỉnh mà không bị rơi, rồi hắn cũng sẽ bắn chúng ta mất!”
“Nếu không thể leo lên”, tôi nói, “có lẽ chúng ta có thể làm hắn rơi xuống.” Tôi bắt đằu nhún qua nhún lại chỗ đang đứng lắc mạnh thanh lan can và giậm chân, làm từng đợt rung chấn truyền lên phía trên. Emma nhìn tôi trong một giây như thể tôi là một gã khùng, nhưng sau đó hiểu ra; cô liền bắt đầu rung lắc, đạp chân cùng tôi. Không mấy chốc, cầu thang đã rung lên bần bật như hóa rồ.
“Nhỡ toàn bộ chỗ này sụp xuống thì sao?” Emma hét lên.
“Hãy hy vọng là không!”
Chúng tôi lắc mạnh hơn. Ốc vít, bu lông bắt đầu rơi xuống rào rào. Thanh lan can rung lên mạnh tới mức tôi gần như không nắm được nó nữa. Tôi nghe thấy Golan gào lên một tràng rủa rất ấn tượng, rồi sau đó có một vật rơi lạch cạch xuống cầu thang, rồi tiếp đất ngay gần đó.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là, Ôi Chúa ơi, nhỡ đó là cái lồng chim thì sao - và tôi lao vụt xuống cầu thang qua trước mặt Emma, chạy xuống đất để kiểm tra.
“Cậu làm gì thế?!” Emma kêu lên. “Hắn sẽ bắn cậu mất!”
“Không, hắn sẽ không bắn đâu!” tôi vừa nói vừa đắc thắng cầm khẩu súng ngắn của Golan giơ lên. Khẩu súng vẫn còn nóng do tất cả những phát đạn hắn đã bắn, giờ nằm nặng trĩu trên bàn tay tôi, và tôi không rõ liệu bên trong còn viên đạn nào không mà cũng chẳng biết làm cách nào để kiểm tra việc đó trong bóng tối gần như đen đặc. Tôi cố nhớ lại một cách vô vọng điều gì đó hữu ích từ vài bài học bắn súng bố mẹ đã để ông dạy tôi, nhưng cuối cùng tôi chỉ chạy trở lại theo các bậc thang lên chỗ Emma.
“Hắn mắc kẹt trên đỉnh rồi”, tôi nói. “Chúng ta cần phải từ tốn, cố gắng thương thuyết với hắn, nếu không ai mà biết được hắn sẽ làm gì với hai con chim.”
“Tớ sẽ thương thuyết với hắn ngay khi hắn lộn cổ xuống”, Emma nói qua hai hàm răng nghiến chặt.
Chúng tôi bắt đầu leo lên. Cầu thang rung lắc dữ dội và hẹp tới mức chúng tôi chỉ có thể nối nhau leo lên, cúi khom người xuống để không bị cộc đầu vào các bậc thang phía trên. Tôi thầm cầu nguyện rằng những món ốc vít bu lông chúng tôi đã lay cho rơi xuống không làm nhiệm vụ siết chặt lấy phần nào quan trọng.
Chúng tôi chậm lại khi lên gần tới đỉnh. Tôi không dám nhìn xuống, chỉ còn lại hai bàn chân tôi đặt trên các bậc thang, một tay tôi trượt theo thanh lan can đang run bần bật còn bàn tay kia cầm khẩu súng. Không còn thứ gì khác tồn tại.
Tôi chuẩn bị sẵn sàng đón nhận một cuộc tấn công bất ngờ, nhưng không có cuộc tấn công nào tới. Cuối cầu thang là một lối mở dẫn lên một chiếu nghỉ bằng đá trên đầu chúng tôi, qua nó tôi có thể cảm thấy cái lạnh se người của trời đêm và nghe thấy tiếng gió rít như huýt sáo. Tôi chĩa khẩu súng qua khoảng mở, rồi ló đầu lên. Cả người tôi căng ra, sẵn sàng giao chiến, nhưng tôi không thấy Golan. Một bên tôi là ngọn đèn đồ sộ đang quay, nằm sau lớp kính dày - ở gần thế này, ngọn đèn sáng đến chói lóa, tôi buộc phải nhắm tịt mắt lại khi nó quay qua - và bên kia là hàng lan can mảnh khảnh. Bên ngoài hàng lan can là khoảng không: mười tầng nhà trống hoác, dưới nữa là đá và mặt biển dậy sóng.
Tôi bước lên lối đi hẹp và quay lại chìa tay để kéo Emma lên. Chúng tôi đứng tựa lưng vào lớp kính nóng ấm bao ngoài ngọn đèn, mặt hướng ra làn gió lạnh căm. “Chim đang ở gần đây”, Emma thì thầm. “Tớ có thể cảm thấy cô.”
Cô vẫy cổ tay và một quả cầu lửa đỏ ối bùng lên dữ dội. Có điều gì đó trong màu sắc và cường độ của ngọn lửa cho thấy rõ lần này thứ cô tạo ra không chỉ là một nguồn sáng, mà còn là một vũ khí.
“Chúng ta cần tách ra”, tôi nói. “Cậu đi theo một hướng và tớ đi theo hướng khác. Như thế hắn không thể trốn thoát được chúng ta.”
“Tớ sợ lắm, Jacob.”
“Tớ cũng thế. Nhưng hắn bị thương rồi, chúng ta lại có súng của hắn.”
Cô gật đầu và chạm vào cánh tay tôi, sau đó quay đi.
Tôi chầm chậm đi vòng theo ngọn đèn, nắm chặt lấy khẩu súng có thể có đạn, và dần dà nhìn được phía bên kia.
Tôi thấy Golan đang ngồi xổm, đầu cúi gục xuống, lưng tựa vào lan can, cái lồng chim đặt giữa hai đầu gối hắn. Một vết rách trên sống mũi hắn đang chảy máu đầm đìa, những tia máu đỏ bầm chạy thành vệt trên mặt hắn như nước mắt.
Một cái đèn đỏ nhỏ được kẹp vào một trong các nan lồng. Cứ vài giây nó lại chớp nháy.
Tôi tiến thêm một bước, hắn liền ngẩng đầu lên nhìn tôi. Khuôn mặt hắn là một mảng máu bết cứng lại, một con mắt trắng dã của hắn vằn những tia đỏ ngầu, nước bọt sùi ra từ hai bên khóe miệng hắn.
Hắn loạng choạng đứng dậy, một bàn tay cầm cái lồng.
“Đặt nó xuống.”
Hắn cúi người xuống như thể để làm theo nhưng chỉ giả bộ nhằm lùi xa khỏi tôi và cố bỏ chạy. Tôi hét lớn và đuổi theo, nhưng ngay khi hắn vòng ra biến mất sau nhà đèn, tôi thấy quầng lửa của Emma phụt tới qua lớp bê tông. Golan rống lên, lùi lại phía tôi, mái tóc bốc khói nghi ngút, một cánh tay đưa lên che mặt.
“Dừng lại!” tôi quát hắn, và hắn nhận ra đã bị mắc kẹt. Hắn giơ cái lồng lên che chắn cho mình, và lắc cái lồng một cái đầy đe dọa. Hai con chim kêu rít lên và mổ vào bàn tay hắn qua nan lồng.
“Mày muốn cái này chứ gì?” Golan gào lên. “Tới đây, đốt tao đi! Lũ chim cũng sẽ bị đốt trụi! Bắn tao đi, tao sẽ ném cái lồng qua lan can!”
“Không đâu, nếu tôi bắn vào đầu ông!”
Hắn cười phá lên. “Có muốn thì mày cũng không bắn được súng. Mày quên rồi à, tao đã quá quen với cái tâm hồn mong manh bạc nhược của mày. Làm thế mày sẽ gặp ác mộng đấy.”
Tôi cố hình dung ra điều đó: vòng ngón tay tôi quanh lẫy cò và siết lại; cú giật và tiếng nổ đinh tai. Có gì nặng nề đến thế nhỉ? Tại sao chỉ nghĩ tới việc đó thôi bàn tay tôi đã run rẩy rồi? Ông tôi đã giết bao nhiêu xác sống? Hàng chục? Hay hàng trăm? Nếu ông ở đây thay vì tôi, Golan hẳn đã chết rồi, hắn sẽ bị bắn ngã thẳng cẳng trong khi đang đờ đẫn tựa lưng vào lan can. Đó là một cơ hội tôi đã bỏ phí mất, chỉ một phần nghìn giây không quyết đoán cũng có thể khiến hai Chủ Vòng Thời Gian mất mạng.
Ngọn đèn biển khổng lồ quay qua, làm chúng tôi tràn ngập trong ánh sáng, biến chúng tôi thành những hình khối trắng lóa. Golan, đang đứng quay mặt vào đèn, liền nhăn mặt quay đi chỗ khác. Lại thêm một cơ hội nữa bị lãng phí, tôi thầm nghĩ.
“Hãy để cái lồng xuống và đi cùng chúng tôi”, tôi nói. “Sẽ không ai bị thương nữa.”
“Tớ không biết đâu đấy”, Emma nói. “Nếu Millard không qua khỏi, có thể tớ sẽ cân nhắc lại chuyện đó.”
“Mày muốn giết tao à?” Golan nói. “Được lắm, làm cho xong đi. Nhưng chúng mày sẽ chỉ trì hoãn điều không tránh khỏi, chưa kể sẽ còn làm sự tình xấu hơn với chính chúng mày. Giờ đây bọn tao đã biết làm thế nào để tìm thấy chúng mày. Đồng bọn của tao đang tới, và tao có thể cam đoan những tổn thất họ gây ra sẽ khiến những gì tao đã làm với bạn chúng mày có vẻ vẫn là một hành động nhân từ.”
“Làm cho xong đi ấy à?” Emma nói, ngọn lửa của cô bắn một chùm tia nhỏ lên trời. “Ai nói chuyện đó sẽ nhanh nhỉ?”
“Tao đã nói với chúng mày rồi, tao sẽ giết bọn họ”, Golan nói, kéo cái lồng áp vào ngực.
Emma bước một bước về phía hắn. “Tao đã tám mươi tám tuổi”, cô nói. “Trông tao có giống như vẫn cần đến hai bà trông trẻ không?” Vẻ mặt cô lạnh lẽo, khôn dò. “Mày không biết đã bao lâu tao mong muốn được thoát khỏi đôi cánh người đàn bà đó. Tao xin thề là mày đang làm ơn cho chúng tao đấy.”
Golan quay đầu hết xuôi lại ngược, bối rối xem xét chúng tôi. Con bé này nói thật đấy à? Trong giây lát hắn dường như thực sự hoảng sợ, nhưng rồi hắn nói, “Chúng mày thật ngu ngốc.”
Emma xoa hai lòng bàn tay vào nhau rồi từ từ tách chúng ra, kéo ra một quầng lửa. “Để rồi xem.”
Tôi không chắc Emma sẽ đẩy chuyện này xa tới đâu, nhưng tôi cần phải can thiệp vào trước khi mấy con chim cháy thui hay bị ném qua lan can.
“Hãy nói cho chúng tôi biết ông muốn gì ở các Chủ Vòng Thời Gian này, và có thể cô ấy sẽ nhẹ tay với ông”, tôi nói.
“Chúng tao chỉ muốn kết thúc thứ chúng tao đã bắt đầu”, Golan nói. “Đó là tất cả những gì chúng tao muốn từ trước đến giờ.”
“Ý mày là cái thí nghiệm đó”, Emma nói. “Bọn mày đã thử nó một lần, và hãy xem điều gì đã xảy ra. Bọn mày đã biến chính mình thành quái vật!”
“Phải”, hắn nói, “nhưng cuộc đời sẽ chán ngắt đến thế nào nếu chúng ta luôn thành công ngay từ lần đầu tiên chứ.” Hắn mỉm cười. “Lần này chúng tao sẽ tập hợp năng lực của tất cả những người kiểm soát Thời gian xuất chúng nhất thế giới, như hai quý bà đây. Chúng tao sẽ không thất bại lần nữa. Chúng tao đã có cả trăm năm để tìm ra bước đi sai lầm. Kết luận là tất cả những gì chúng tao cần là một phản ứng lớn hơn!”
“Một phản ứng lớn hơn?” tôi nhắc lại. “Lần trước các người đã thổi tung một nửa Siberia!”
“Nếu ta phải thất bại”, hắn nói vẻ khoa trương, “hãy thất bại cho ngoạn mục!”
Tôi nhớ tới giấc mơ tiên tri của Horace và những đám mây tro cùng mặt đất cháy sém, và tôi hiểu ra cậu ta đã mơ thấy cái gì. Nếu đám xác sống và hồn rỗng lại thất bại, lần này chúng sẽ phá hủy nhiều lần hơn so với chỉ năm trăm dặm rừng không người ở. Còn nếu chúng thành công và biến mình thành những bán thần bất tử như chúng vẫn mơ tưởng trở thành... tôi rùng mình khi nghĩ tới điều đó. Riêng việc phải sống dưới quyền của chúng đã là một địa ngục.
Ánh đèn quay vòng tới và làm Golan chói mắt lần nữa - tôi căng người, sẵn sàng lao tới - nhưng khoảnh khắc đó kết thúc quá nhanh.
“Không quan trọng”, Emma nói. “Cứ bắt cóc tất cả Chủ Vòng Thời Gian bọn mày muốn. Họ sẽ không bao giờ giúp bọn mày.”
“Có, bọn họ sẽ giúp. Họ sẽ phải làm thế nếu không chúng tao sẽ giết bọn họ từng người một. Và nếu như thế không ăn thua, bọn tao sẽ giết từng đứa chúng mày và bắt họ chứng kiến.”
“Các người điên rồi”, tôi nói với hắn.
Hai con chim bắt đầu hoảng hốt kêu rít lên. Golan gào to át tiếng chúng.
“Không! Điều thực sự điên rồ là việc những người đặc biệt chúng mày trốn tránh khỏi thế giới trong khi chúng mày có thể thống trị nó - quy phục cái chết trong khi chúng mày có thể khống chế nó - và để những kẻ mang bộ gene người bình thường đẩy chúng mày xuống bùn, trong khi chúng mày có thể dễ dàng biến chúng thành nô lệ của mình, như chúng xứng đáng phải bị như thế.” Cứ nói hết một câu, hắn lại lắc mạnh cái lồng. “Đó mới là điên rồ!”
“Dừng lại!” Emma hét lên.
“Vậy ra mày có quan tâm!” Hắn lắc cái lồng mạnh hơn. Đột nhiên, cái đèn nhỏ màu đỏ gắn vào nan lồng bắt đầu sáng lên gấp đôi, và Golan quay ngoắt đầu lại tìm kiếm trong màn đêm đằng sau hắn. Sau đó, hắn quay lại nhìn Emma và nói, “Mày muốn bọn họ chứ gì? Đây!” đoạn hắn lùi lại và vung cái lồng quật vào mặt cô.
Emma kêu lên và cúi xuống tránh. Như một vận động viên ném đĩa, Golan tiếp tục vung tay cho tới khi cái lồng bay qua trên đầu cô, sau đó thả tay ra. Nó rơi khỏi tay hắn, bay qua lan can, lộn nhào trong không trung biến mất vào màn đêm.
Tôi bật rủa, còn Emma kêu thét lên và lao người tới với qua lan can, quơ quơ vào không khí trong lúc cái lồng rơi xuống biển. Trong khoảnh khắc hỗn loạn đó, Golan chồm tới quật tôi xuống sàn. Hắn đấm một cú vào bụng tôi, cú nữa nện vào cằm tôi.
Tôi quay cuồng chóng mặt và không thở nổi. Hắn chộp lấy khẩu súng, và tôi phải vận hết sức lực để giữ không cho hắn cướp mất nó. Vì hắn muốn đoạt lấy khẩu súng đến thế, tôi biết súng chắc chắn có đạn. Tôi đã định ném khẩu súng qua lan can, nhưng hắn thiếu chút nữa đã giật được nó và tôi không thể buông khẩu súng ra. Emma hét lên, Đê tiện, mày là đồ đê tiện, rồi hai bàn tay cô, với quầng lửa bao quanh như găng tay, lao tới từ phía sau và chộp lấy cổ hắn.
Tôi nghe thấy da thịt Golan kêu xèo xèo như miếng thịt bò lấy ra từ tủ lạnh đặt len một vỉ nướng nóng. Hắn gào lên, quay đi khỏi tôi, mái tóc thưa của hắn cháy bùng lên, sau đó hai bàn tay hắn thộp lấy cổ Emma, như thể miễn là bóp nghẹt được cô, hắn không bận tâm sẽ bị chết cháy. Tôi đứng bật dậy, giơ khẩu súng lên bằng cả hai bàn tay và ngắm bắn.
Tôi có được tầm bắn thoáng chỉ trong một khoảnh khắc. Tôi cố trấn tĩnh đầu óc mình và tập trung giữ vững cánh tay, tạo nên một đường thẳng tưởng tượng kéo dài từ vai tôi qua đầu ruồi tới mục tiêu - cái đầu của một người. Không, không phải người, mà là thứ rác rưởi của người. Một quái vật. Một thế lực đã dàn xếp sát hại ông nội tôi và làm tiêu tan tất cả những gì tôi từng khiêm nhường gọi là cuộc sống, cho dù có thể là một cuộc sống chẳng mấy thú vị và lôi tôi đến đây, tới nơi này và khoảnh khắc này, cũng gần như cái cách mà những thế lực ít xấu xa bạo lực hơn đã nhào nặn cuộc sống của tôi và quyết định thay phần tôi từ khi tôi đủ lớn để đưa ra nhưng quyết định. Thả lỏng hai bàn tay, hít vào, giữ súng thẳng. Nhưng giờ đây tôi đã có cơ hội để đẩy lùi thế lực đó, một cơ hội mong manh đến mức gần như không tồn tại mà tôi cảm thấy rõ ràng đang trôi đi mất.
Giờ siết cò nào.
Khẩu súng ngắn giật nẩy lên trong tay tôi, tiếng nó vang lên như vừa có một cơn địa chấn, dữ dội và đột ngột tới mức tôi nhắm tịt mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, mọi thứ dường như bị đóng băng lại một cách lạ lùng. Mặc dù Golan đang đứng sau lưng Emma, khóa quặt hai cánh tay cô lại, lôi cô ra phía lan can, nhưng trông như thể hai người được đúc bằng đồng vậy. Chẳng lẽ các Chủ Vòng Thời Gian đã trở lại thành người và đang phù phép lên chúng tôi? Nhưng rồi sau đó mọi thứ trở lại bình thường và Emma vùng được hai cánh tay ra, còn Golan bắt đầu loạng choạng lùi lại, sau đó hắn lảo đảo khổ sở ngồi tựa vào lan can.
Há hốc miệng kinh ngạc nhìn tôi, hắn định nói nhưng nhận ra mình không thể. Hắn áp hai bàn tay lên cái lỗ bằng cỡ đồng xu tôi đã khoan vào cổ hắn, máu trào ra giữa các ngón tay hắn, chảy xuống theo cánh tay, rồi sức lực tuôn chảy hết ra khỏi người, hắn ngã lộn ra sau và biến mất.
Ngay khoảnh khắc Golan biến mất khỏi tầm nhìn, chẳng ai buồn nhớ tới hắn nữa. Emma chỉ tay ra biển và kêu lên, “Kìa, nó kìa!” Theo hướng ngón tay cô và nheo mắt nhìn ra xa, tôi có thể lờ mờ nhìn thấy một ngọn đèn LED màu đỏ đang nhấp nháy trên các con sóng. Sau đó, chúng tôi hối hả chạy lại chỗ cửa xuống cầu thang rồi cuống cuồng chạy mãi, chạy mãi xuống cái cầu thang xoáy ốc, gần như không hy vọng tới kịp chỗ cái lồng trước khi nó chìm xuống nhưng vẫn điên cuồng cố gắng.
Chúng tôi lao ra ngoài, thấy Millard mang trên mình một dải băng ga rô và Bronwyn đứng bên cạnh cậu ta. Cậu ta la lớn lên gì đó tôi không nghe rõ, nhưng chừng đó là đủ để trấn an tôi rằng cậu ta còn sống. Tôi nắm lấy vai Emma và nói, “Cái xuồng!” đồng thời chỉ tới chỗ chiếc xuồng bị đánh cắp đã được buộc vào một tảng đá, nhưng nó ở quá xa, tận phía bên kia hải đăng, mà thời gian thì không còn nữa. Thay vì thế, Emma kéo tôi ra phía biển, chúng tôi liền chạy tới rồi lao mình xuống.
Tôi hầu như không cảm thấy lạnh. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là tới kịp chỗ cái lồng trước khi nó biến mất dưới các con sóng. Chúng tôi khỏa nước, nhổ phì phì và ho sặc trong khi từng cơn sóng cồn đen kịt vỗ vào mặt chúng tôi. Thật khó nói ngọn đèn báo hiệu kia ở cách bao xa, nó chỉ là một đốm sáng le lói giữa đại dương tối om cuộn sóng. Nó nhô lên rồi chìm xuống, xuất hiện rồi biến mất, đã hai lần chúng tôi mất dấu nó và phải dừng bơi, cuống cuồng tìm kiếm rồi mới lại trong thấy nó.
Dòng hải lưu mạnh đang cuốn cái lồng ra ngoài khơi, và cuốn theo cả chúng tôi. Nếu không nhanh tới được chỗ cái lồng, chúng tôi sẽ kiệt sức và chết đuối. Tôi giữ ý nghĩ bi quan này cho riêng mình chừng nào có thể, nhưng khi ngọn đèn biến mất lần thứ ba, và chúng tôi tìm kiếm nó lâu đến mức thậm chí không còn chắc nó đã biến mất từ phía nào trên mặt biển cuộn trào đen kịt, tôi bèn hét to, “Chúng ta phải quay lại thôi!”
Emma không buồn nghe. Cô bơi phía trước tôi, ra xa hơn ngoài khơi. Tôi chộp lấy bàn chân đang đạp nước của cô nhưng cô đá hất tôi ra.
“Nó biến mất rồi! Chúng ta sẽ không tìm thấy nó đâu!”
“Im đi, im đi!” cô hét lên, và từ hơi thở khó nhọc của cô, tôi có thể thấy cô cũng đã kiệt sức không kém gì tôi. “Im mồm lại và tìm đi!”
Tôi túm lấy cô, nhìn thẳng vào mặt cô và hét lên, còn cô đá tôi ra, đến khi thấy tôi vẫn không chịu buông tay, còn cô không thể buộc tôi làm thế, cô bắt đầu khóc, chỉ còn là những tiếng gào thét tuyệt vọng không thành lời.
Tôi cố kéo Emma về phía ngọn hải đăng, nhưng cô giống như một tảng đá dưới nước, lại kéo tôi xuống. “Cậu phải bơi!” tôi hét lên. “Bơi đi, nếu không chúng ta sẽ chết đuối!”
Thế rồi tôi nhìn thấy nó - một đốm sáng đỏ nhấp nháy rất mờ. Nó ở rất gần, ngay dưới mặt nước. Thoạt đầu tôi không nói gì, sợ rằng mình chỉ tưởng tượng ra, nhưng sau đó đốm sáng nhấp nháy lần thứ hai.
Emma vừa ho vừa reo lên. Có vẻ như cái lồng đã nằm lại trên một xác tàu đắm khác - nếu không làm thế nào nó có thể nằm nông dưới nước như thế? - và vì nó chỉ vừa mới chìm xuống, tôi tự nhủ rất có thể hai con chim vẫn còn sống.
Chúng tôi bơi tới, chuẩn bị lặn xuống vớt cái lồng, mặc dù tôi không biết phải lấy dưỡng khí từ đâu, chúng tôi gần như đã hết hơi. Thế rồi thật lạ lùng, cái lồng có vẻ như đang trồi lên về phía chúng tôi.
“Chuyện gì vậy?” tôi hét lên. “Có phải đó là một xác tàu đắm không?”
“Không thể nào. Không có cái nào ở đây hết!”
“Vậy thì đó là cái quái gì chứ?”
Trông nó giống như một con cá voi sắp sửa trồi lên mặt nước, dài, đồ sộ, và xám xịt, hoặc một con tàu ma đang trồi lên từ nấm mồ biển cả, và rồi một cơn sóng cồn đột ngột, dữ dội từ phía dưới dâng lên, đẩy chúng tôi ra xa. Chúng tôi có bơi ngược lại nhưng cũng chẳng có nhiều cơ may hơn một vật nổi lềnh bềnh bị cuốn vào một cơn thủy triều, rồi đợt sóng cồn ấy xô ập vào chân chúng tôi và cả chúng tôi cũng bị nâng lên, cưỡi lên con sóng.
Từ trong lòng nước bên dưới chúng tôi, thứ đó nổi lên, vừa rít lên vừa kêu lanh canh như một con quái vật kim khí khổng lồ. Chúng tôi bị mắc kẹt lại trong một làn sóng sủi bọt lần nhanh đi theo mọi hướng trên mặt nước, rồi bị hất mạnh lên một bề mặt làm bằng các tấm lưới kim loại. Chúng tôi móc các ngón tay vào các ô lưới để không bị lôi tuột xuống biển. Tôi nheo mắt lại nhìn qua làn nước mặn bắn tung tóe và thấy cái lồng đã nằm lại giữa thứ gì đó trong như hai cái vây nhô lên khỏi lưng con quái vật, một cái nhỏ hơn cái kia. Sau đó, tia sáng từ ngọn hải đăng quét qua, và trong vầng sáng của nó tôi nhận ra chúng không phải là những cái vây mà là một tháp chỉ huy và một khẩu pháo lớn bị gắn cố định xuống. Thứ chúng tôi đang nằm lên không phải là một con quái vật, một xác tàu đắm hay một con cá voi...
“Nó là một chiếc U-boat!” tôi hét lên. Không phải ngẫu nhiên mà chiếc tàu ngầm trồi lên từ bên dưới chúng tôi. Chắc hẳn đây là thứ Golan đã đợi.
Emma đã đứng dậy và chạy qua mặt boong tròng trành về phía cái lồng. Tôi loạng choạng đứng dậy theo. Đúng lúc tôi bắt đầu chạy, một con sóng ào qua boong hất cả hai chúng tôi nằm bẹp xuống.
Tôi nghe thấy một tiếng quát, bèn ngẩng đầu lên thì thấy một người đàn ông mặc quân phục xám nhô lên từ một cửa chui trên cái tháp chỉ huy và chĩa súng vào chúng tôi.
Đạn trút xuống như mưa, nện chan chát lên mặt boong. Cái lồng còn ở cách quá xa - chúng tôi sẽ bị bắn nát bươm trước khi kịp tới chỗ nó - nhưng tôi có thể thấy Emma vẫn định thử làm điều đó.
Tôi chạy tới, ngáng cô và cả hai chúng tôi lăn khỏi boong rơi xuống nước. Mặt biển đen ngòm khép lại bên trên chúng tôi. Đạn cày rào rào xuống nước, để lại đằng sau những đường vạch sủi bọt.
Khi chúng tôi trồi trở lại lên mặt nước, Emma túm lấy tôi và hét lên, “Tại sao cậu làm thế? Tớ gần cứu được họ rồi!”
“Hắn định giết cậu!” tôi vừa nói vừa vùng ra - và sau đó tôi chợt vỡ lẽ thậm chí có thể Emma còn không hề trông thấy hắn, vì cô đã quá tập trung vào cái lồng, vì thế tôi chỉ lên boong tàu, nơi gã xạ thủ đang sải bước tới chỗ cái lồng. Hắn cầm cái lồng lên lắc lắc. Cửa lồng mở tung, và tôi thấy hình như có gì cử động bên trong - một lý do để hy vọng - rồi sau đó luồng sáng từ hải đăng quét qua trùm lên tất cả. Tôi nhìn thấy khuôn mặt gã xạ thủ hiện lên trọn vẹn trong luồng sáng, miệng hắn nở nụ cười ma mãnh, đôi mắt trắng dã vô hồn. Hắn là một xác sống.
Hắn thò tay vào cái lồng và lấy ra một con chim ướt sũng, chỉ có một con trong đó. Từ trên tháp chỉ huy, một tên lính nữa huýt sáo với hắn, và hắn cầm theo con chim chạy về phía cửa chui.
Chiếc tàu ngầm bắt đầu kêu cành cạch và rít lên. Nước xung quanh chúng tôi sủi lên như đang sôi.
“Bơi, nếu không nó sẽ cuốn chúng ta chìm xuống theo nó mất!” tôi hét lên với Emma. Nhưng cô không nghe thấy tôi nói - đôi mắt cô đang hút về một chỗ khác, về phía một mảng nước tối đen gần đuôi tàu.
Cô bơi về phía nó. Tôi cố ngăn cô lại nhưng cô hất tôi ra. Sau đó, giữa tiếng ầm ĩ của chiếc tàu ngầm, tôi nghe thấy một tiếng kêu chói tai, cao vút. Bà Peregrine!
Chúng tôi tìm thấy bà đang dập dềnh trên các con sóng, vật lộn cố giữ cho đầu nhô lên khỏi mặt nước, một cánh đập đập, cánh kia có vẻ bị gãy. Emma vớt bà lên. Tôi hét to bảo chúng tôi cần phải đi.
Chúng tôi bơi đi bằng chút sức lực còn lại. Đằng sau chúng tôi, một xoáy nước đang mở ra, tất cả lượng nước bị chiếc tàu ngầm chiếm chỗ ào ạt cuộn trở lại lấp đầy khoảng trống khi nó lặn xuống. Biển đang nuốt lấy chính nó và cố nuốt chửng cả chúng tôi, nhưng giờ đây chúng tôi đã mang theo bên mình một biểu tượng chiến thắng có cánh đang kêu rít lên, hay ít nhất cũng là một nửa chiến thắng, và bà đem lại cho chúng tôi sức mạnh để chống lại dòng xoáy ghê gớm đó. Sau đó, chúng tôi nghe thấy Bronwyn đang lớn tiếng gọi, và cô bạn lực sĩ lao tới băng qua các con sóng kéo chúng tôi trở vào nơi an toàn.
o O o
Chúng tôi nằm trên bãi đá dưới bầu trời quang đãng, thở hổn hển lấy hơi, cả người run lẩy bẩy vì kiệt sức. Millard và Bronwyn có quá nhiều câu hỏi, nhưng chúng tôi chẳng còn hơi sức đâu để trả lời họ. Họ đã thấy Golan rơi xuống, rồi chiếc tàu ngầm nổi lên và lặn xuống cũng như bà Peregrine được đưa lên khỏi mặt nước, nhưng bà Avocet thì không; họ đã hiểu những gì cần hiểu. Hai người ôm lấy chúng tôi cho đến khi chúng tôi thôi không run rẩy nữa, và Bronwyn ấp bà phụ trách vào dưới áo mình để ủ ấm cho bà. Khi đã ít nhiều lấy lại được sức, chúng tôi tháo dây buộc chiếc xuống của Emma và chèo về phía bờ biển.
Khi chúng tôi tới đó, cả đám trẻ cùng lội ra chỗ nước nông để gặp chúng tôi.
“Bọn mình nghe thấy tiếng súng!”
“Cái tàu lạ đó là gì thế?”
“Cô Peregrine đâu?”
Chúng tôi leo ra khỏi xuồng, và Bronwyn vén áo lên để lộ con chim đang thu mình trong đó. Đám trẻ xúm lại xung quanh, bà Peregrine hơi há mỏ ra quàng quạc với bọn họ để chứng tỏ bà mệt mỏi nhưng ổn cả. Một tràng hoan hô vang lên.
“Các cậu làm được rồi!” Hugh reo lên.
Olive nhảy một điệu jig nho nhỏ và hát, “Chim, Chim, Chim! Emma và Jacob đã cứu Chim!”
Nhưng cuộc ăn mừng rất ngắn ngủi. Mọi người nhanh chóng nhận ra bà Avocet vắng mặt, cũng như tình trạng nguy kịch của Millard. Đoạn ga rô cho cậu ta được buộc chặt, nhưng cậu ta đã mất nhiều máu và đang yếu dần. Enoch đưa cho Millard áo khoác của mình, còn Fiona đưa cho cậu cái mũ len cô đội.
“Bọn tớ sẽ đưa cậu vào thị trấn tìm bác sĩ”, Emma nói với cậu ta.
“Vớ vẩn”, Millard đáp. “Ông ta chưa bao giờ trong thấy một cậu nhóc vô hình, và ông ta sẽ chẳng biết phải làm gì nếu có gặp đi nữa. Ông sẽ chữa nhầm bên chân hoặc hét tướng lên rồi bỏ chạy.”
“Ông ta có hét tướng lên rồi bỏ chạy hay không không quan trọng”, Emma nói. “Một khi vòng được khởi động lại, ông ta sẽ chẳng nhớ gì hết.”
“Hãy nhìn quanh cậu đi. Đáng ra vòng phải được khởi động lại từ một tiếng trước rồi.”
Millard nói đúng - bầu trời im ắng, trận không kích đã kết thúc, nhưng những cuộn khói bom vẫn đang hòa lẫn giữa các đám mây.
“Không hay chút nào”, Enoch nói, và mọi người đều thấy lo ngại.
“Dù thế nào đi nữa”, Millard nói tiếp, “tất cả những gì tớ cần đều ở trong nhà. Chỉ cần cho tớ một bát cồn thuốc phiện và rửa vết thương bằng rượu mạnh. Dù sao vết thương cũng chỉ vào phần mềm. Sau ba ngày tớ sẽ lại ngon lành như thường.”
“Nhưng vết thương vẫn còn chảy máu”, Bronwyn nói, chỉ ra những giọt nhỏ màu đỏ lấm chấm trên mặt cát phía dưới cậu ta.
“Vậy hãy buộc cái ga rô mắc dịch đó chặt hơn nữa!”
Cô làm theo, và Millard thở hắt ra mạnh đến nỗi khiến mọi người cùng co rúm lại, sau đó ngất xỉu trong vòng tay cô.
“Cậu ấy không sao chứ?” Claire hỏi.
“Chỉ ngất đi thôi”, Enoch nói. “Cậu ấy không hề khỏe như vẫn cố giả bộ.”
“Chúng ta làm gì bây giờ?”
“Hỏi cô Peregrine!” Olive nói.
“Phải. Đặt cô xuống để cô có thể biến hình trở lại”, Enoch nói. “Cô không thể cho chúng ta biết phải làm gì khi vẫn còn trong lốt chim đâu.”
Vậy là Bronwyn đặt bà xuống một đám cát khô, và tất cả chúng tôi lùi lại chờ đợi. Bà Peregrine nhảy chồm lên vài lần, đập bên cánh còn lành, sau đó quay cái đầu phủ đầy lông vũ nhìn quanh và chớp mắt với chúng tôi - nhưng chỉ có thế. Bà vẫn là một con chim.
“Có thể cô muốn một chút riêng tư”, Emma gợi ý. “Chúng mình hãy quay lưng lại.”
Và chúng tôi làm theo, tạo thành một vòng lớn quanh bà. “An toàn rồi, cô P”, Olive nói. “Không có ai nhìn đâu ạ!”
Sau một phút, Hugh ghé mắt nhìn và nói, “Không được, vẫn là chim.”
“Có thể cô quá mệt và lạnh!” Claire nói, và khá nhiều người tán thành rằng lý do này hợp lý, nên chúng tôi quyết định sẽ quay trở về trại trẻ, chữa vết thương cho Millard với những thứ chúng tôi có, và hy vọng sau một thời gian nghỉ ngơi, cả cô phụ trách lẫn vòng thời gian của bà sẽ trở lại bình thường.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine
Ransom Rigg
Trạitrẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine - Ransom Rigg
https://isach.info/story.php?story=traitre_dac_biet_cua_co_peregrine__ransom_rigg