Những Thứ Nảy Tưng Tưng
au khi bình phục, Sal bắt đầu chơi bóng rổ trong con hẻm phía sau tòa nhà của chúng tôi. Cửa sổ phòng khách nhà tôi quay về hướng đó, tôi nghe tiếng cậu ấy đập bóng mỗi ngày từ ba giờ rưỡi đến năm giờ chiều. Có một cái vòng kim loại rỉ sét và không có lưới. Mỗi lần Sal đập bóng vào, nó lại kêu rền vang.
Căn hộ của Sal và bác Louisa gần như giống hệt căn hộ của chúng tôi. Hai nhà cùng có các phòng ngủ hình chữ nhật, cùng loại đèn trong hành lang, cùng thiết kế phòng bếp và cùng những cái lò hay bị tắt lửa. Căn hộ của Sal ngay bên dưới căn hộ của chúng tôi.
Nhưng cũng có vài chỗ khác biệt. Sàn bếp nhà Sal trải vải lót sàn màu vàng và cam, còn sàn bếp nhà tôi màu trắng với những bông tuyết vàng. Giường của tôi kê ở bên này tường còn giường của Sal thì kê sát tường bên kia. Nhưng chúng tôi có cùng loại gạch phòng tắm - gạch màu trắng hình lục giác. Nếu nhìn chúng một lúc, tôi có thể tưởng tượng ra đủ thứ hình thù: những đường kẻ, mũi tên, thậm chí cả những bông hoa. Chúng dường như luôn luôn sẵn sàng biến hóa thành những bức tranh khác nhau. Thật khó giải thích những điều đó với một người khác, nhưng có một lần, khi chúng tôi còn nhỏ, tôi kể với Sal về chúng, và chúng tôi cùng nhau vào phòng tắm nhà cậu ấy rồi cùng đứng nhìn chằm chằm xuống sàn gạch. Sal và Miranda, Miranda và Sal.
Càng ngày Sal chơi bóng rổ càng nhiều và nói chuyện với tôi càng ít. Tôi hỏi cậu ấy bốn trăm lần xem cậu ấy có ổn không, có chuyện gì xảy ra không, có giận tôi không... và ba trăm chín mươi chín lần, cậu đều trả lời “Không có gì cả.” Thế rồi, lần cuối cùng tôi hỏi, khi đứng ở tiền sảnh tòa nhà, Sal nhìn xuống đất, bảo tôi rằng cậu không muốn ăn trưa và không muốn đi bộ về cùng với tôi nữa.
“Thế cậu có muốn chúng ta làm bạn nữa không nào?” tôi hỏi.
Vẫn nhìn xuống đất, Sal trả lời “Không.” Có lẽ cậu ấy không còn muốn làm bạn với tôi cũng lâu rồi.
Tôi nghĩ thật may mắn khi đó cũng là tuần mà Julia quyết định trừng phạt Annemarie vì lý do gì đó.
Hai cô bạn này thường xuyên hành hạ nhau cả năm trời trước khi Sal nghỉ chơi với tôi. Nhưng mãi đến gần đây tôi mới thật sự chú ý đến họ. Tôi từng thấy họ gắn bó với nhau như những người bạn thân thiết nhất, rồi họ bắt đầu chiến tranh, khóc lóc, trả lại quà tặng, làm hòa và rồi lại khoác tay nhau với vẻ hào hứng giả tạo. Tôi từng thấy họ hùa nhau tra tấn Alice Evans. Dù chúng tôi đã lên lớp sáu nhưng Alice vẫn đợi rất lâu mới chịu đi vệ sinh và không bao giờ dám nói ra rằng mình muốn đi vệ sinh cả. Thế nên Julia và Annemarie thường đợi đến khi Alice đã nhịn khá lâu rồi mới bắt đầu nháy nhau cùng hỏi chuyện một lúc, chẳng hạn như “Alice, bạn làm bài tập toán hôm nay chưa? Cái chỗ ‘nhân hai số’ ấy? Chỗ đó làm như thế nào?” Thế là Alice tuyệt vọng vừa cố nhịn tiểu vừa chỉ bài cho họ.Tôi biết bọn con gái bắt cặp với nhau như thế nào. Julia và Annemarie đã chơi với nhau khá lâu. Tôi ghét Julia và chưa bao giờ nghĩ nhiều đến Annemarie.
Ấn tượng đầu tiên của tôi về Julia là vào năm lớp hai, khi chúng tôi học làm chân dung tự họa bằng cách xé giấy. Julia phàn nàn không có giấy màu “cà phê sữa” để làm da và không có giấy màu “chocolate pha 16% ca cao” để làm mắt cô ta. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã ngồi nhìn Julia chằm chằm và thầm nghĩ “Da bạn màu nâu nhạt, mắt bạn màu nâu sậm. Sao bạn không dùng giấy màu nâu hết đi, ngốc thật!”, Jay Stringer không kêu ca gì về chuyện giấy màu, và cũng không ai trong mười đứa trẻ còn lại dùng giấy màu nâu cả. Tôi cũng không than phiền gì về tờ giấy màu hồng chóe mà cô giáo đưa cho tôi. Bộ Julia tưởng da tôi màu hồng chóe thật sao?
Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng Julia không giống những người còn lại trong chúng tôi. Cô ấy được đi du lịch vòng quanh thế giới với ba mẹ. Cô ấy biến khỏi lớp học và hai tuần sau tái xuất hiện với những chiếc váy thắt nơ bóng, chiếc đầm nhung mới màu xanh đậm, hoặc đeo ba chiếc nhẫn vàng trên một ngón tay. Julia kể rằng cô biết về món chocolate pha 16% ca cao ở Thụy Sĩ, nơi ba mẹ mua cho cô rất nhiều “chocolate pha 16% ca cao” cùng một chiếc đồng hồ bạc nhỏ mà cô ta thường hay gí vào mặt người khác.
o O o
Tôi không biết Annemarie đã làm gì sai, nhưng giữa giờ đọc sách ngày thứ Ba, Julia tuyên bố rằng để trừng phạt Annemarie, cô ta sẽ không ăn trưa với Annemarie suốt “những ngày còn lại trong tuần.” Julia nói to đến mức tất cả mọi người đều nghe. Vì thế nên vào thứ Tư, tôi hỏi Annemarie xem cô ấy có muốn ra ngoài ăn trưa với tôi không, và Annemarie trả lời có.
Ở lớp sáu, những ai có tiền, dù chỉ một chút, cũng đều thích ra ngoài ăn trưa, trừ khi có chuyện gì xảy ra khiến chúng tôi không được phép ra ngoài, chẳng hạn như vào tuần lễ đầu tiên của năm học, có một người đàn ông không mặc quấn áo chạy trên đường Broadway khiến chúng tôi phải ăn trưa ở căn-tin trường trong khi cảnh sát tìm cách bắt giữ ông ta.
Hầu hết mọi người thường đến tiệm pizza hoặc McDonald. Nhưng tất cả mọi người đều ít nhất một lần đến tiệm Jimmy, một tiệm bánh sandwich có tên đàng hoàng nhưng chúng tôi thường gọi là tiệm Jimmy vì ở đó chỉ có duy nhất một anh phục vụ béo ú tên là Jimmy.
Pizza là món hời nhất - một đô-la rưỡi mua được hai miếng pizza, một lon soda, và một cây kẹo Blow Pop ở xô kẹo kế bên quầy tính tiền. Ngày đầu tiên đi ăn chung, tôi và Annemarie may mắn tìm được hai chiếc ghế cao kế nhau ở ngay quầy hàng, bên dưới lá cờ nước Ý.
Tôi cảm thấy hơi gớm ghiếc khi ăn pizza với Annemarie vì cô ấy lột lớp phó-mát khỏi miếng bánh như một cái vảy rồi cho nó vào miệng, còn tất cả những thứ khác thì bỏ lại trên đĩa. Nhưng Annemarie thì cười to với những truyện cười của tôi (hầu hết là do tôi “chôm” của chú Richard - chú kể chuyện không hay nhưng biết rất nhiều truyện cười). Annemarie vui đến nỗi mời tôi về nhà sau khi tan học. Tôi sẽ thoát khỏi một buổi chiều ngồi nghe tiếng banh của Sal. Còn ông-già-hay-cười thì có lẽ đã lăn ra ngủ bên dưới thùng thư vào lúc tôi trở về nhà rồi.
Người Bạn Bí Ẩn Người Bạn Bí Ẩn - Rebecca Stead Người Bạn Bí Ẩn