Hà Thần epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 12: Trạm Điện Đàm Ngầm Dưới Sông
rước khi bắt đầu nói đến câu chuyện “Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương” này, phải nhắc đến khoảng thời gian từ tháng một Thiên Tân được giải phóng đến tháng mười nước Trung Quốc mới được thành lập của năm một chín bốn chín, người dân bắt buộc phải thay đổi phong tục, không được tiếp tục khiêng quan tài diễu khắp phố tổ chức tang lễ rầm rộ, cũng không cho hoá vàng mã hình nhân, sự việc liên quan đến “Thần sông” cũng không ai còn nhắc đến. Đến lúc bấy giờ, kể cả tên hòa thượng giả danh để ăn uống miễn phí Lý Đại Lăng lẫn ông thầy xem phong thủy kèm tướng số cho người Trương Bán Tiên, đều đã không còn đường kiếm ăn; Nếu không phải đi khiêng bưu kiện ở bưu cục thì cũng đi làm phu khuân vác ở nhà ga, mệt mỏi rã rời nai lưng ra mà kiếm sống.
Lúc bấy giờ, cửa hàng làm hàng mã của Quách sư phụ cũng bị đóng cửa, nghĩa trang miếu Hà Long với mái điện sụp đổ cũng bị dỡ bỏ. Phòng ở đã mất, ông ta đành phải chuyển đến cư trú ở một căn nhà cấp bốn bé tẹo ở bên trên Thiên Tân vệ, tại sao lại nói là bên trên? Xét về tổng thể, địa thế Hải Hà bắc cao nam thấp. Ngày xưa, ông cha ta có cách nói như thế này “Thượng Kinh hạ Vệ”, đó là muốn nói ở Bắc Kinh là ở trên cao, ở Thiên Tân là ở dưới thấp. Mọi người nên biết, thành Bắc Kinh bắc quý nam bần, theo bố cục bắc cao nam thấp. Nếu sống ở nam thành phố, chẳng khác gì ở ngay dưới chân Tử Cấm Thành, hoàng quyền chèn ép, thiên uy đè đầu, cả ngày thở cũng không dám thở mạnh. Trong thời kỳ trước kia, đa phần những người sống ở phía nam thành phố Bắc Kinh là người nghèo. Thiên Tân vệ thì trái ngược hẳn lại, ở nơi này thấp mới là quý, bởi vì toàn bộ khu phía nam đều là đất cho thuê. Những người sống ở vùng đó không ít kẻ không chỉ có có tiền, mà còn có cả thân thế. Nhưng nếu ở khu vực bên trên, tất cả cư dân của khu vực này đều có xuất thân từ tầng lớp lao động tay chân như cửu vạn hay ngư dân. Thời gian trước giải phóng, nhà nào khá khẩm lắm thì cũng chỉ đến mức hàng ngày kiếm được đồng nào là tiêu sạch đồng đó, còn đại đa số các gia đình khác thì ăn hết bữa nay lo bữa mai, rất hiếm có ngày nào không có người nghèo chết vì đói, đâm ra túng quá hóa liều, biến thành ổ gái điếm và trộm cắp. Phòng ở thì trống trên hở dưới, thấp bé đơn sơ. Vào thập niên năm mươi, chính phủ bắt đầu sửa đổi cách quản lý khu vực này, đã nâng cấp cơ sở hạ tầng lên dần từng chút một. Mặc dù vậy, vẫn không có ai tình nguyện định cư ở chỗ này, người nào cũng kêu phong thuỷ không tốt, bởi vì vào đời nhà Thanh, các gia đình ở đây nuôi tằm, trồng dâu bạt ngàn. Người dân Thiên Tân vệ ngày trước kiêng kị nhất việc này. Tục ngữ có câu “Tang lê đỗ du hòe, bất tiến âm dương trạch”, ý muốn nói, cây dâu cây lê cây đỗ du cây hòe, không nên có mặt trong khu vực nhà ở và nghĩa địa. Chữ dâu phát âm giống như chữ tang, chủ nhà sẽ có tang; Chữ lê phát âm giống như xa cách, chủ nhà tan đàn xẻ nghé; Đỗ mang ý nghĩa diệt tận gốc, chủ nhà sẽ không con nối dõi, dù nghe người khác nói hay mình tự nhắc đến đều vô cùng xui rủi. Cây hòe là nơi ma quỷ trú ngụ, nếu quỷ tiến vào chỗ ở, còn hơn cả chẳng lành. Về phần cây du, du đồng nghĩa với trộm cắp, đồ vật trong nhà dễ mất trộm. Hơn nữa, cây du lại có lắm côn trùng sinh sống, thực sự không nên trồng trong khu vực nhà cửa và mồ mả. Ở cửa ngõ thành phố bạt ngàn cây du và cây dâu, lại còn là một khu ổ chuột nghèo đói, là cái nôi của lưu manh vô lại, bởi vậy không một ai muốn ở. Ví dụ thế này, trong lần gặp mặt đầu tiên giữa hai người, nếu như biết được người này sống ở phía nam, người kia sẽ nhìn đối phương với con mắt khác, cảm thấy có thể kết giao bằng hữu. Nhưng nếu nghe nói đối phương sống ở vùng cửa ngõ thì mặc dù miệng nói thực sự khách khí, nhưng trong lòng lại thầm cảnh giác, khu ổ chuột cùng quẫn chỉ sinh ra những kẻ gian xảo, không dám nhiệt tình lôi kéo làm quen.
Nơi Quách sư phụ dọn đến được gọi là ngõ miếu Đấu Mỗ, lúc bấy giờ ông ta đã lấy vợ. Cho dù là một người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, cũng không dám đảm bảo vợ mình không hiền thục con không hiếu thảo. Bất kể có cách đối nhân xử thế cao thượng đáng kính đến thế nào, một người đàn ông cũng không dám chắc sẽ dạy được vợ hiền con hiếu thuận, vô phúc vớ phải Mẫu Dạ Xoa ngày nào cũng náo loạn gia đình không yên. Những việc như thế này chỉ có thể dựa vào số mệnh, mệnh nào cũng có, cưỡng cầu cũng vô dụng. Quách sư phụ lấy được người vợ không tệ lắm, tự mình cảm thấy vô cùng vừa ý. Người vợ họ Lưu, tên là Phương Tỷ, tính tình rất hiền lành, nhưng sức khỏe không được tốt lắm, thường chỉ ngồi trong nhà dán hộp giấy. Hai vợ chồng sống trong một gian nhà cấp bốn bé tẹo. Sở dĩ được gọi là ngõ miếu Đấu Mỗ, chỉ vì nơi đây đã từng có một ngôi miếu cổ.
Sau giải phóng, với vai trò là đơn vị trực thuộc cục công an, cảnh sát đường thủy năm sông vẫn tiếp tục đảm nhiệm công việc khổ sai vớt xác trôi sông như cũ. Bất kể là thời đại có biến đổi như thế nào, công việc của đội vớt xác cũng không thể nào không có người thực thi. Chỉ có một điều khác biệt duy nhất so với chế độ cũ, đó là đội tuần sông đã được nhận lương cố định. Không còn kiếm được phụ thu từ công việc dán giấy tường hay lo liệu tang lễ, lại còn đã có vợ, Quách sư phụ không thể nào thanh nhàn bằng lúc còn một mình như trước kia. Thời gian trôi đi rất nhanh, mặc dù tình trạng chung của cả đất nước từ nam chí bắc đều là nghèo, càng nghèo càng quang vinh, không thể đếm xuể có bao nhiêu khó khăn, nhưng cuộc sống của rất nhiều hàng xóm láng giềng còn không bằng nhà vợ chồng họ. Ít ra ông ta vẫn có công việc khổ sai kia, vẫn có thể kiếm đủ cơm cho cả nhà lấp đầy bụng, nhìn lên mình chẳng bằng ai, nhìn xuống thấy còn khối người không bằng mình.
Về phần vụ án đuổi bắt yêu sông Liên Hóa Thanh mấy năm trước, Quách sư phụ rất hiếm khi nhắc tới, đồng thời cũng không cho mấy người Đinh Mão đề cập tới, bởi ông ta sợ người của cục công an phán xét mình có tư tưởng mê tín, mang danh hiệu Thần sông là điều khó ai mà chấp nhận nổi. Trước giải phóng còn có thể bắt yêu, nếu như không phải công việc vớt xác trôi sông không có ai tình nguyện làm, vậy thì ngay cả bát cơm ông ta cũng không kiếm nổi mà ăn.
Nhưng vào năm 1953, ở Hải Hà đã liên tiếp xảy ra vài vụ án vô cùng ma quái, khiến cho điều tra viên của ngành công an cảm thấy bó tay hết cách, bắt buộc phải nhờ tới Quách sư phụ của đội vớt xác hỗ trợ.
Năm này qua năm khác, thời gian trôi qua rất nhanh, chớp mắt một cái đã đến tháng tám năm 1953. Tiếng súng trên chiến trường kháng Mỹ viện Triều vẫn còn chưa ngừng hẳn, tất cả các tiết mục phát thanh trên radio đều liên quan đến vấn đề này. Đinh Mão vẫn còn trẻ nhưng lại khôn như chấy. Gã ở cách nhà Quách sư phụ không xa, ngày nào cũng ăn cùng mâm với nhà họ Quách, quần áo cũng do chị dâu giặt hộ. Vào một buổi tối, Quách sư phụ và Đinh Mão ngồi hóng mát trong ngõ hẻm. Nhờ ánh sáng của ngọn đèn đường, hai người vừa nói chuyện vừa dán hộp giấy.
Đám trẻ con trong ngõ hẻm quấn lấy Quách sư phụ đòi kể chuyện ngày xưa. Đừng thấy Quách sư phụ không được học hành tử tế mà coi thường, trước kia ông ta lúc nào cũng thích xem kịch vui nghe Bình thư, mắt thấu càn khôn tường hận cũ, một bụng cổ kim man mác buồn, nhưng vào thời buổi xã hội mới lại đi kể lại chuyện xưa là không hợp thời. Suy đi tính lại, ông ta còn chưa tìm được chuyện gì hay để kể, Đinh Mão đã kể chuyện khoác lác cho bọn trẻ con nghe. Gã kể: “Hôm kia, chú đã ăn một cái bánh bao nhân thịt to ơi là to. Để làm ra cái bánh bao đó, người ta phải dùng một trăm cân bột mì, tám mươi cân thịt, hai mươi cân rau củ. Sau khi hấp chín, phải dùng tám cái bàn lớn mới tạm đủ diện tích để đặt nó. Hai mươi người bọn chú ngồi thành vòng tròn cùng nhau ăn, ăn cả một ngày một đêm mà chưa hết một nửa. Đang lúc ăn uống tưng bừng, bọn chú phát hiện ra có hai người biến đâu mất, tìm kiếm khắp nơi mà không thấy, chợt nghe thấy bên trong nhân bánh có người đang nói chuyện. Sau khi xé rách bánh ra xem sao thì thấy hai người kia đang đào nhân bánh ở bên trong để ăn. Mọi người thử nói xem, cái bánh bao thịt này có to hay không?”
Quách sư phụ nói, cái bánh bao nhân thịt đó của sư đệ cậu vẫn chưa được coi là to. Năm xưa vi huynh đã từng ăn một cái bánh bao, hơn mười người ăn ròng rã ba ngày ba đêm mà chưa tới nhân thịt ở bên trong, trong lúc đang cắm đầu cắm cổ vào ăn thì gặp một tấm bia đá, trên tấm bia đá đó có khắc một hàng chữ: “Nơi này còn cách nhân bánh ba dặm nữa.”
Bình thường, bọn trẻ con trong ngõ thích nghe Quách sư phụ kể những câu chuyện ngắn. Một sự việc rất bình thường, qua lời kể của ông ta lại hấp dẫn đến mức rớt cả quai hàm, khiến cho người nghe không bao giờ thấy chán, đó gọi là biết ăn biết nói thì dở cũng thành hay — dù là chuyện tự biên tự diễn, khoe khoang khoác lác cũng vẫn hay. Lần đó, họ tụ tập kể chuyện tới hơn chín giờ tối mới giải tán.
Trong ngõ hẻm chỉ còn lại Quách sư phụ và Đinh Mão. Vào ban đêm, nhiều mây làm mờ ánh trăng. Mặc dù vẫn còn le lói, nhưng ánh trăng vô cùng mờ mịt, thời tiết lại oi bức giống như đang ở trong lồng hấp. Nhìn thấy còn cả một đống hộp giấy chưa dán xong, Quách sư phụ bèn bảo Đinh Mão: “Không còn sớm nữa, cậu về ngủ trước đi. Anh sẽ nhanh tay thêm một chút, dán nốt chỗ hộp giấy này rồi cũng vào nhà ngủ. Đến mai đưa cho chị dâu cậu đi giao cho hàng xén, buổi tối chúng ta làm một bữa cải thiện...”
Trong lúc hai anh em đang nói chuyện, có một người đạp xe đi vào trong ngõ. Hai người họ vừa liếc mắt đã nhận ra, người này là lão Lương, trưởng phòng điều tra của cục công an, khoảng bốn mươi tuổi, người Sơn Đông, chuyên đi một chiếc xe đạp nam, đã từng là một quân nhân cầm súng đánh giặc thời chiến.
Quách sư phụ và Đinh Mão cùng lên tiếng chào hỏi: “Trưởng phòng Lương, ngọn gió nào đã thổi ông tới đây?” Lão Lương nói: “Buổi tối hôm nay tôi tới chỗ hai người là để tìm hiểu một chút tình hình.” Nói xong, ông dựng xe đạp gọn vào một chỗ, đi vào trong ngõ ngồi xuống, rồi nói tiếp: “Lão Quách, Đinh Mão, vừa may cả hai người các vị đều ở đây. Tôi có cái gì thì sẽ nói cái đó, năm tháng các vị phụ trách công việc ở đội cảnh sát đường thủy năm sông cũng không ít nhỉ?”
Quách sư phụ đáp: “Đồng chí Lương, anh đừng có lầm tưởng đội vớt xác chúng tôi là lũ nha dịch trong nha môn thời phong kiến, chỉ biết bóc lột dân chúng. Vớt xác trôi sông trên dòng Hải Hà chỉ đơn thuần là công việc khổ sai kiếm sống qua ngày, căn bản không có tí chất béo nào cả. Anh cũng đừng có thấy chúng tôi ở nội thành mà nhầm. Thật ra, ở đây còn không rộng rãi bằng những người ở nông thôn như các vị. Nhà ở nơi này của chúng tôi được gọi là hố sâu ba cấp. Ba cấp là những gì? Đường cái cao hơn sân, sân cao hơn nền phòng ở, chẳng phải là hố sâu ba cấp hay sao? Chỉ cần mưa nhỏ, nước mưa đã ngập lưng phòng ở, còn sân đã biến thành sông rồi. Tôi biết bơi lội hoàn toàn là nhờ vào quá trình luyện tập tại nhà. Ở nơi này, không biết bơi sẽ bị chết đuối ngay. Ngay trước khi giải phóng ba ngày, trời mưa to, người ở ngõ miếu Đấu Mỗ đã bị chết đuối mất hơn trăm.”
Đinh Mão tiếp lời: “Ai dám nói không phải, nếu như trong nhà có chút của ăn của để, thì làm sao còn phải dựa vào công việc vớt ngưởi chết đuối dưới sông kiếm cơm ăn đây? Công việc khổ sai này của đội tuần sông thật sự giống như là người đàn bà dâm đãng cùng nhi — đề không bên trên biễu diễn. Nếu nói đến khổ, có thể nói tôi khổ hơn nhị ca của mình nhiều. Nhà của chúng tôi chỉ là một gian phòng bé toen hoẻn, ngay cả giường màn chăn gối cũng không có đủ tiền mà mua. Vào tháng chạp lạnh giá rét mướt, cả nhà già trẻ cùng đắp một tấm ga giường để ngủ. Ông thử nói xem, liệu còn có ai có hoàn cảnh khó khăn hơn gia đình chúng tôi không?”
Lão Lương không tin. Thường nghe người ta nói “Kinh già đời, Vệ già mồm, Kinh già đời nói như khướu, Vệ già mồm cãi như phá, anh có nói cái gì, người ta cũng sẽ vặn lại được”. Những người như Quách Đắc Hữu và Đinh Mão đã lăn lộn trong xã hội không chỉ một hai ngày, thường ngày miệng lưỡi trơn tru, nói chuyện cùng với họ thật sự thú vị, nhưng nếu không để ý sẽ rơi ngay vào bẫy của họ. Bởi vậy, ông không dám tiếp tục kéo dài chủ đề này, bèn nói: “Hai người các vị muốn đi đâu? Tôi cảm thấy các vị đã ăn chén cơm này đã được nhiều năm, quen thuộc từng chân tơ kẽ tóc các đường sông, cho nên tôi có chuyện muốn nhờ hai người hỗ trợ.”
Đến bấy giờ, Quách sư phụ và Đinh Mão mới hiểu được ý định của lão Lương, hai người nói: “Chỉ cần trưởng phòng Lương ông tin tưởng chúng tôi, sau này hễ có chỗ nào hai anh em chúng tôi giúp được thì chỉ cần nói một tiếng. Đến lúc đó, ông sẽ biết chúng tôi có đủ bản lĩnh hay không, nhất định là ‘mòn đũng quần ngồi ghế đẩu — nhịp ra nhịp, phách ra phách’*.”
*Cách nói của người Tứ Xuyên, ảnh hưởng từ Xuyên kịch và kinh kịch, ý muốn nói làm việc có bài có bản, đâu ra đấy.
Nghe thấy thế, Lão Lương hết sức phấn khởi, gật đầu đáp: “Có những lời này của các vị là được rồi.” Kế tiếp, lão Lương kể rõ đầu đuôi nguyên nhân, tại sao lại phải tìm đến Quách sư phụ nhờ hỗ trợ. Kể ra cũng có phần rợn người, bởi vì trong khoảng thời gian gần đây, dưới dòng Hải Hà chợt xuất hiện ma chết đuối.
Hải Hà là dòng sông lớn nhất chảy qua nội thành Thiên Tân. Dọc theo dòng sông, tổng cộng có không dưới vài chục cây cầu, trong số đó bao gồm cả câu cầy đường sắt dành cho tàu hỏa. Thời kỳ chiến tranh kháng Mỹ viện Triều, nhằm trợ giúp cho quân tình nguyện chiến đấu ngoài tiền tuyến, toàn quốc tổng động viên hậu phương. Ngay sát cầu đường sắt có một nhà máy quân nhu chế tạo chăn bông và dép cao su. Để mở rộng sản xuất, nhà máy đã tuyển dụng rất nhiều công nhân từ nông thôn, chẳng quản giờ giấc, tăng ca làm việc liên tục không ngơi nghỉ suốt ngày đêm. Chiến tranh Triều Tiên kéo dài đến tháng bảy năm 1953, cuối cùng hai bên đã ký kết hiệp định đình chiến, nhiệm vụ của nhà máy đột ngột cắt giảm, dây chuyền sản xuất bị ngừng mất vài cái, nhưng vẫn có một số công nhân tạm thời ở lại nhà tập thể chờ phân công. Sự việc hai người công nhân gặp ma chết đuối tại bờ sông đã phát sinh đúng vào thời điểm này.
Khi ấy, việc quản lý trong xưởng tương đối lỏng lẻo, lãnh đạo chỉ dặn dò không nên xuống sông bơi lặn. Ngay sau nhà máy là dòng Hải Hà, mặt nước của khúc sông đó rộng mênh mông, nước lại sâu, đáy sông còn có nhiều bùn, xuống sông bơi lội rất dễ gặp phải nguy hiểm. Nhưng vào giữa Tam phục thiên, thời tiết vô cùng oi bức. Vào buổi tối, có mấy công nhân trẻ nóng nực đến mức không chịu nổi nữa, thừa dịp đêm khuya vắng người, chuồn ra ngoài xuống sông tắm cho mát mẻ. Thời điểm họ đi ra ngoài đại khái là tầm hơn một giờ, vẫn chưa tới mười hai giờ đêm.
Hai người công nhân này là anh em ruột, tên đặc chất nông thôn, một người tên là Kim Hỉ một người tên là Ngân Hỉ, bình thường luôn an phận thủ thường, chỉ quanh quẩn ở trong xưởng cắm đầu vào làm, không bao giờ gây rắc rối hay làm phiền đến ai. Đêm hôm đó, khí trời ngột ngạt, nằm trên giường còn khó thở, sau lưng mọc rôm, toàn thân đổ mồ hôi đầm đìa, tinh thần khó chịu đến mức nào thì khỏi cần phải bàn. Lăn qua lăn lại không ngủ, hai người không hẹn mà đều có cùng một suy nghĩ, lúc này nếu như có thể xuống sông bơi đôi ba vòng thì mát mẻ đến cỡ nào? Bởi vậy, hai người vùng dậy, ra khỏi nhà tập thể, leo tường ra ngoài bờ sông. Đưa mắt nhìn lên, một vầng trăng sáng vành vạnh, mặc dù lúc này là đêm khuya, nhưng không cần đèn pin chiếu sáng vẫn có thể nhìn thấy rõ từng cành cây ngọn cỏ.
Thật ra, lúc ấy trời nóng ngột ngạt báo hiệu sắp có một trận mưa lớn, bầu trời u ám đầy mây, vầng trăng sáng cũng chỉ vừa mới ló ra khỏi tầng mây, trong không khí không có lấy một cơn gió thoảng qua, bờ sông dưới gầm cầu đường sắt um tùm cỏ dại, khung cảnh hết sức tĩnh lặng, thỉnh thoảng vang lên vài tiếng ếch kêu. Đến bây giờ, nơi đó đã san sát nhà cửa, người chen chúc nhau mà sống. Nhưng vào đầu thập kỷ năm mươi, nơi đây vẫn còn thưa thớt vắng tanh người ở, ngay cả đèn đường ven sông cũng không có.
Ỷ vào lúc ở quê nhà thường xuyên xuống sông bơi lội, có thể coi là một nửa dân sông nước, Kim Hỉ và Ngân Hỉ tự cho rằng kỹ năng bơi lội của mình không kém. Khi thấy dòng sông nước chảy hiền hòa, hai người hoàn toàn yên tâm, nếu cần phải kiêng dè chắc cũng chỉ có quỷ mà thôi, thầm nghĩ phải mau chóng nhảy xuống sông cho mát. Hai người chạy vào trong bụi cỏ rậm rạp bắt đầu cởi quần áo. Thực ra, vào những ngày giữa hè, trên người họ chỉ mặc độc một chiếc quần đùi rộng thùng thình và một cái áo sát nách. Bơi lội vào lúc bầu trời tối đen, quanh đó lại không có một bóng người, không phải lo lắng có ai bắt gặp. Họ quyết định trút sạch quần áo trước khi nhảy xuống nước. Dù sao trong nhà máy cũng có quy định không cho đám công nhân bọn họ xuống sông bơi lội, hai người lén lút trốn đi, đương nhiên không dám gây ra tiếng động. Trong khi đang rón ra rón rén cởi quần áo trong đám cỏ, Kim Hỉ vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy bên bờ sông có một người toàn thân ướt sũng đang đứng.
Hai anh em khẽ giật mình, sợ đó là ông lão trực ca ba trong xưởng đi tuần tra ban đêm, bèn trốn vào trong đám cỏ dại lặng lẽ quan sát. Nhưng lúc bình thường, ông lão tuần tra ban đêm chỉ đi lại quanh quẩn trong nhà máy, rất hiếm khi đi tuần tra bên ngoài, đêm hôm khuya khoắt đến bờ sông làm cái gì? Nếu như không phải ông lão tuần tra ban đêm, làm gì có ai rỗi hơi tới một nơi vắng vẻ như thế này?
Ánh trăng soi sáng thân hình của người đứng bên bờ sông, từ chân đến đầu đen thui, không thấy rõ mặt mũi ra sao, hình dáng giống như con người, đứng im không nhúc nhích. Lúc bấy giờ, hai anh em Kim Hỉ và Ngân Hỉ cảm thấy có điểm gì đó là lạ, nhưng hai người này đều còn trẻ bạo gan, cũng chẳng tin vào những lời đồn đại về ma quỷ, thậm chí còn chưa bao giờ từng có ý nghĩ về điều đó. Khi thấy ở phía đằng xa có người đứng bất động nhìn chằm chằm xuống dòng sông, họ nhận định đối phương có ý định nhảy sông tự vẫn. Họ vừa mới định lên tiếng khuyên can, người kia đã im hơi lặng tiếng lội ra chỗ nước ngập đến đùi. Nào có ai ngờ bờ sông dốc đứng, chỉ trong chớp mắt nước sông đã mấp mé đến cổ người nọ.
Hai người thấy tình huống khẩn cấp, vội vàng chạy tới cứu người, người trước kẻ sau nhảy xuống sông. Bơi tới gần, Kim Hỉ mới thoáng nhìn thấy người đang lội xuống sông nọ có gương mặt trắng bệch, đang thè cái lưỡi dài hơn nửa xích (~15 cm) ra. Lúc bấy giờ, trời chợt nổi lên một trận gió lớn. Chỉ trong thoáng chốc, mây đen đã bắt đầu vần vũ, che mất mặt trăng, cơn mưa nặng hạt to như hạt đậu nành đổ ập xuống. Trong lúc mưa to gió lớn, không thể nhìn thấy cái gì, Kim Hỉ sợ tới mức chết đi sống lại. Hắn cuống quít lần mò quay trở lại bờ sông, sau khi lên bờ mới cất tiếng gọi người em. Thế nhưng, hắn gào rách cả cuống họng mà cũng không nghe thấy bất cứ câu trả lời nào.
Kim Hỉ có dự cảm không hay, bất chấp không mảnh vải che thân, đội mưa chạy về khu tập thể tìm người giúp đỡ. Khi nhìn thấy cảnh tượng Kim Hỉ cởi chuồng, cả người ướt sũng, chân không kịp đeo giầy, thở hồng hộc, sắc mặt tái xanh chạy vào trong phòng, tất cả đám công nhân trong khu tập thể sợ hết hồn. May mắn là trong khu tập thể không có nữ công nhân. Đã quá nửa đêm hắn còn lần mò đi đâu vậy, chắc là lẻn ra ngoài ăn trộm bị người ta phát hiện nên chạy về đây hay sao? Trong nhất thời, mọi người mồm năm miệng mười bàn tán hỏi han không ngớt. Đến lúc hiểu rõ nguyên do, mọi người vội vàng khoác áo mưa cầm đèn pin, cùng nhau đi ra chỗ bờ sông tìm kiếm cả đêm, nhưng không những không tìm thấy xác người đã nhảy sông tự tử, ngay cả Ngân Hỉ nhảy xuống sông cứu người cũng không tìm ra. Kết quả, sống không tìm được người chết không tìm thấy xác.
Đến sáng sớm, khi trời đã tạnh mưa mới có người phát hiện ra một xác chết đàn ông trần như nhộng ở dưới hạ lưu. Nhận được tin tức, công an viên chạy đến, xuống sông mò xác chết lên. Sau khi nhận dạng, xác chết đó chính là Ngân Hỉ. Hai mắt xác chết mở trừng trừng, đến lúc chết vẫn không chịu nhắm lại. Kim Hỉ đấm ngực dậm chân phủ phục lên xác chết khóc rống lên. Cuối cùng, sau khi hắn kể lại cho công an viên nghe những gì đã xảy ra, mọi người không kìm được đưa mắt nhìn nhau khó hiểu. Tình trạng này giống như đúc câu chuyện đồn đại ma chết đuối tìm thế thân ngày trước. Dòng sông dưới cầu đường sắt thực sự có ma chết đuối hay sao? Trong lúc nhất thời, mọi người huyên náo cảm thấy bất an không một ai là ngoại lệ. Lời đồn nổi lên khắp nơi, bảo là quỷ cũng có, nói là quái cũng có.
Cục công an khám nghiệm xác Ngân Hỉ, xác nhận trên thân thể có vài vết thương tụ máu, giống như là bị chết sặc do người khác tóm chặt kéo xuống đáy nước. Kẻ nào có thể dìm chết một thanh niên cường tráng biết bơi ở dưới sông đây? Đầu tiên, không thể định tính đây là một vụ chết đuối ngoài ý muốn bình thường, mà là một vụ án mạng. Nếu như không phải do ma dưới sông làm ra, vậy thì phải truy bắt hung thủ đã hại chết Ngân Hỉ. Về phần Kim Hỉ, mặc dù có dấu hiệu tình nghi, nhưng người trong cục công an đâu phải là những kẻ bất tài. Sau khi đối mặt thẩm tra đối chiếu để lấy khẩu cung, có thể suy đoán ra không phải Kim Hỉ đã nhẫn tâm ra tay. Bởi vậy, nhiệm vụ phá án đã rơi vào tay những điều tra viên của cục công an.
Lời phê công an viên phá án chỉ gói gọn trong tám chữ “Cần tìm hiểu thêm, chờ manh mối mới”. Lúc bấy giờ, điều tra viên của cục công an, phần lớn là bộ đội phục viên và chuyển nghề, khi tiếp nhận vụ án này thực sự cảm thấy không biết đâu mà lần, bởi vì hoàn toàn không có manh mối. Nếu như phải bắt một con ma chết đuối, chúng ta tới chỗ nào mà bắt? Hơn nữa, dưới dòng Hải Hà thực sự có ma chết đuối hay sao?
Toàn bộ điều tra viên bó tay hết cách, suy đi tính lại mà vẫn không tìm ra biện pháp, không thể không tìm đến công an đường thủy nhờ hỗ trợ. Vào thập niên năm mươi, người ta không còn gọi là đội cảnh sát đường thủy năm sông mà đổi tên thành công an đường thủy. Trên thực tế, công an đường thủy nơi Quách sư phụ công tác hoàn toàn giống như đội tìm kiếm xác chết thời nhà Thanh hơn trăm năm trước. Chỉ có điều, sau giải phóng họ không còn quản lý nghĩa trang nữa, nhưng người địa phương vẫn gọi bọn họ là đội vớt xác theo thói quen. Họ chỉ phụ trách vớt xác chết trôi và tìm hung khí dưới sông, chưa bao giờ tham gia phá án, việc xảy ra trên bờ không đến lượt bọn họ nhúng tay vào. Nhưng trước giải phóng, Quách sư phụ dựa vào công việc đó mà kiếm cơm ăn, người bình thường không thể nào có được kinh nghiệm phong phú như vậy. Lần này, chỉ vì muốn phá vụ án quỷ nước hoành hành dưới sông, liên quan đến những điều quái lạ mà đến trong mơ cũng chưa từng thấy nên họ mới tìm tới ông ta.
Tháng tám năm 1953, quỷ nước dưới dòng Hải Hà còn chưa thấy đâu, gần cầu đường sắt lại xảy ra tai nạn chết người. Vào năm đó, nội thành Thiên Tân đã xảy ra vài vụ án khiến người ta nghe thấy mà kinh sợ, đầu tiên là trạm điện đài ngầm dưới sông, hai là bom người, tôi sẽ lần lượt nói đến từng vụ một.
Kể chuyện phải có đầu có cuối, trước tiên sẽ nói về trạm điện đài ngầm dưới sông. Nằm cách cầu đường sắt không xa là nhà ga Lão Long Đầu, còn được gọi là nhà ga phía đông, được khởi công xây dựng vào đời nhà Thanh, cùng một lúc với ba nhà ga tây nam bắc. Trong số đó, nhà ga phía đông là lớn nhất, là đầu mối giao thông quan trọng vận chuyển hàng hóa và hành khách. Nhà ga này có vài tuyến đường ray, một trong số đó chạy qua cầu đường sắt bắc qua dòng Hải Hà; Phía đông là kho hàng bị bỏ hoang của nhà ga cũ, phía tây là khu vực sau nhà máy quân nhu mà người công nhân trẻ đã chết đuối. Dưới gầm hai bên vai cầu cỏ hoang mọc um tùm, mùa hè rất lắm muỗi, khu vực quanh đó không có người ở, cứ đến đêm là hầu như không còn ai đến nơi này.
Vai cầu là cách người địa phương gọi chỗ hai đầu cầu tiếp giáp với bờ sông. Trước kia, cây cầu đường sắt do người Bỉ chịu trách nhiệm thiết kế và thi công, đến khi quân Nhật chiếm giữ đã từng gia cố bằng xi-măng cốt thép, vô cùng chắc chắn. Nước sông dưới chân cầu rất sâu. Có một công nhân đường sắt trực ca đêm, người nhà đã sai đứa con mang cơm cho anh ta. Sau khi đưa cơm cho bố xong, đứa trẻ choai choai mười một mười hai tuổi đã tới khu đất trống đằng sau cái xưởng hàng bỏ hoang để bắt cóc chơi, nhưng nó có đi mà không có về. Ngày hôm sau, người đi đường phát hiện ra nó đã biến thành xác chết trôi sông, có lẽ là đêm hôm qua nó đã xuống sông tắm và chết đuối. Người nhà than trời trách đất kêu khóc, đứa nhỏ này không biết bơi, lại sợ nước, trời có nóng đến mấy cũng không có khả năng xuống sông bơi lội, vô duyên vô cớ tại làm sao lại chết đuối dưới sông?
Bởi vì cách đó vài ngày, cũng ngay tại chỗ đó đã có một công nhân nhà máy quân nhu bị chết đuối, cho nên đã rộ lên đủ các loại lời đồn, tất cả đều bảo rằng dưới con sông này có ma chết đuối bắt người thế thân, muôn hình vạn trạng đủ mọi cách nói. Cái hôm vớt thi thể lên, Quách sư phụ cũng có mặt ở đó. Lão Lương hỏi ông ta nhìn nhận thế nào. Quách sư phụ nói, đứa nhỏ này rõ ràng vẫn còn mặc quần áo trên người. Vào đêm hôm khuya khoắt, những thằng nhóc choai choai như nó xuống sông bơi lội thì đứa nào cũng sẽ cởi chuồng. Nếu còn mặc nguyên quần áo, vậy thì rõ ràng nó không có ý định xuống nước, chắc là khi nó vừa đến bên bờ thì đã bị thứ gì đó kéo xuống sông mà chết đuối.
Tối hôm đó, Quách sư phụ dẫn Đinh Mão bắt đầu ở bắt đầu ngồi lì ở dưới gầm vai cầu đường sắt để canh chừng. Ban đêm, họ trốn trong đám cỏ hoang um tùm mặc cho muỗi đốt, quả thực là cực hình mà không phải ai cũng chịu đựng được. Nhưng đến khi trời đã tối đen, ngay cả một bóng ma cũng không thấy, mà chỉ có muôn ngàn vì sao và ánh trăng phản chiếu lấp lóa trên dòng nước mênh mông, bốn phía yên lặng như tờ. Ban ngày hai người họ còn phải làm việc, khi đêm đến lại ngồi lì trong đám cỏ hoang rậm rạp. Khu đất hoang bao giờ cũng có nhiều muỗi, nhất là loại muỗi biển có độc. Chữ “Biển” ở đây cũng là thổ ngữ của người địa phương, mang hàm ý chín bỏ làm mười, muỗi biển chỉ có nghĩa là loại muỗi to ở những khu đất hoang mà thôi. Thân hình chúng có vằn đen trắng, cánh đỏ như nhuốm máu đào, cứ gặp người là đốt đến lúc chết mới thôi. Bị chúng cắn một phát, sưng vài ngày không tan, họ đành phải mặc nhiều quần áo, che kín mặt mũi. Cũng còn may là khu đất hoang cạnh bờ sông cứ đến nửa đêm là rất mát mẻ, miễn cưỡng có thể kiên trì, đau khổ đợi đến hừng đông. Trên mặt sông vẫn luôn vắng lặng, không có bất cứ thứ gì xuất hiện. Nếu đổi lại là người khác, một ngày có lẽ cũng không chịu nổi, nhưng hai người Quách sư phụ vẫn cứ phải cắn răng tiếp tục. Sau khi kiên trì đến nửa đêm ngày thứ ba, họ đã thấy thứ gì đó từ dưới sông nổi lên.
Ngày hôm đó trời mưa, hạt mưa rơi với mật độ rất dày. Sau khi tan ca, Quách sư phụ và Đinh Mão đợi đến lúc trời bắt đầu tối mới tiếp tục đến kho hàng ở cầu đường sắt để ngồi im như tượng canh chừng. Họ dựng ngược xe đạp lại, mặc thêm áo mưa ngồi lì trong đám cỏ hoang rậm rạp. Trời mưa nên không phải chịu khổ vì muỗi đốt, nhưng vào tam phục thiên lại còn trùm áo mưa vừa kín vừa dày hết sức bí bách, da toàn thân nổi mẩn, ngứa không tài nào chịu nổi, nhưng không dám gãi vì sợ lộ. Họ vừa phải trốn trong đám cỏ ngải mọc um tùm ướt sũng nước, lại vừa phải căng mắt ra mà nhìn chằm chằm vào mặt sông. Nếu có ánh trăng thì không nói làm gì, không may trời âm u, trong đêm khuya chỉ cách có một đoạn đã không còn nhìn thấy gì. Đã thế lại còn không dám hút thuốc cho đỡ buồn ngủ, họ cứ như vậy mà chịu đựng giống như chim ưng rình mồi.
Theo ý kiến của Đinh Mão, không cần thiết cả hai người phải cùng có mặt để cùng chịu cực hình, có thể thay phiên nhau mỗi người canh chừng một ngày. Nếu cứ tiếp tục căng mắt nhìn chằm chằm cả đêm, phơi mình ngoài bờ sông chịu cực hình oi bức muỗi đốt ẩm ướt, ban ngày lại phải đi trực ban, cứ như vậy thì không ai có thể chịu đựng được. Quách sư phụ lại không nghĩ như vậy. Dưới chân cầu đường sắt xảy ra sự việc thủy quái bắt người, liên tiếp lấy đi tính mạng của hai con người, lại toàn xảy ra giữa đêm hôm khuya khoắt, đã chứng tỏ có điều quái gở. Ông ta lo lắng một mình Đinh Mão ngồi canh chừng không ổn. Hai người cùng có mặt nhìn không rời mắt, có thể thay ca cho nhau một lát, tránh bỏ sót bất cứ động tĩnh gì trên mặt sông. Không may có chuyện gì xảy ra, hai anh em cũng có thể giúp đỡ lẫn nhau. Đừng thấy khổ cực như vậy mà lầm tưởng, ngay cả nửa câu oán hận ông ta cũng không có. Không phải bản thân có giác ngộ rất cao, mà là vì khi đó ông ta chỉ đau đáu một ý nghĩ trong đầu, nếu như trên dòng Hải Hà xảy ra án mạng, công an đường thủy đương nhiên phải có trách nhiệm. Ăn chén cơm công việc nào phải chịu khổ sai của công việc đó, chẳng phải là điều thiên kinh địa nghĩa hay sao?
Đợi đến lúc nửa đêm, mưa đã tạnh, bầu trời bắt đầu lờ mờ ánh trăng. Ngay sau đó, lũ muỗi bắt đầu hoạt động. Bên bờ sông muỗi nhiều không kể xiết, bởi vì chúng đẻ trứng dưới nước, nếu như cầm đèn pin chiếu vào là có thể nhìn thấy vô số đám muỗi tụ thành từng đám mây đen lượn theo vòng tròn làm mờ cả ánh trăng. Toàn bộ đều là muỗi to sống trong vùng đất hoang, cắn vào người sẽ để lại một vết sưng tấy, chuyên truyền bệnh sốt rét và ký sinh trùng cho con người. Hai anh em đã có kinh nghiệm, một là che chắn kín mít, hai là mỗi người cầm theo một củ tỏi. Mỗi khi bị muỗi chích, lập tức dùng tỏi bôi lên chỗ ngứa, tuy chỉ phương thuốc dân gian nhưng lại có tác dụng cực tốt. Nhưng, dù đã làm như vậy họ vẫn không thoát khỏi cái vòi của lũ muỗi độc ác trong đám cỏ ven sông. Đến nửa đêm, thân thể Đinh Mão lạnh run từng cơn. Y bảo với Quách sư phụ là muốn đi ngoài. Lúc ấy, hai người họ đang trốn ở bờ sông chỗ vai cầu, từ trên cao nhìn chằm chằm xuống dòng Hải Hà. Nói xong, Đinh Mão vừa định đứng dậy thì nhìn thấy trên mặt sông có người. Kẻ đó chỉ lộ ra cái đầu, nhấp nhô trên mặt nước nguyên một chỗ, giống như là đang bơi lặn.
Thiên Tân vệ có bốn mùa rõ rệt, mùa đông lạnh chết cóng, mùa hè nóng chết bức. Tháng bảy tháng tám năm nào cũng có vô số người xuống dòng Hải Hà tắm sông, bất chấp những nơi bơi lội tương đối an toàn không nhiều lắm, bởi vì đoạn sông này đa phần là có hố ngầm dưới đáy, trong hố toàn là bùn nhão rong rêu quấn chân, lọt xuống đó là không ngoi lên nổi. Những khúc sông thực sự an toàn cho mọi người bơi lội thì chỉ có mấy chỗ mà thôi, bên dưới cầu đường sắt là nơi tuyệt đối không thích hợp. Nơi đây sông sâu nước xiết, rong rêu lại dày đặc, rất hiếm người đến chỗ này bơi lội, huống chi lại là nửa đêm khuya khoắt như thế này. Nhìn kỹ lại, người kia vẫn nhấp nhô theo sóng nước, nhưng thân thể vẫn ở nguyên một chỗ, không giống như đang bơi lội vào buổi tối, mà giống một xác chết trôi sông hơn.
Hai anh em đã làm bạn với xác chết trôi trên dòng Hải Hà hơn mười năm, từ lâu đã không còn giật mình khi nhìn thấy cảnh tượng đó nữa. Bụng Đinh Mão lập tức hết đau, gã và Quách sư phụ lao ra khỏi bụi cỏ, nhảy ùm xuống sông túm lấy cái xác chết trôi đó. Bầu trời tối đen không nhìn thấy rõ, họ vừa chạm vào đã cảm thấy không đúng, đó chỉ là một cái đầu người, không có thân thể, trọng lượng lại quá nhẹ. Sờ nắn lại lần nữa mới ngớ ra đó chỉ là nửa cái vỏ dưa hấu, trôi dạt trên sông giữa nửa đêm, mới nhìn qua thì thấy giống đầu người chết trôi. Đinh Mão buột miệng chửi không may, rồi tiện tay ném cái vỏ dưa hấu lên trên bờ sông. Hai anh em đang định bơi vào bờ thì nhìn thấy chỗ mặt nước ở sát chân cầu đột nhiên có một cái đầu to bự nổi lên, gương mặt hằn lên những vệt xanh đỏ, rõ ràng là một xác chết trôi đã phân hủy dưới sông.
Đang ở dưới sông, Quách sư phụ và Đinh Mão nhìn thấy một thứ như vậy, kinh hoảng không kêu được thành tiếng. Con ma chết đuối nổi lên mặt sông bất chợt thấy có người, cũng ngẩn ra như họ, rồi tức khắc lặn luôn xuống nước. Quách sư phụ và Đinh Mão thầm nhủ: “Mùa hè đúng là vừa hết mưa đã oi bức được ngay, cho nên con ma chết đuối dưới dòng Hải Hà mới ngoi lên mặt nước đổi gió, chờ đã vài ngày mới gặp được cái giống này, không thể để nó chạy thoát được.” Hai người ra hiệu với nhau, rồi đồng thời cũng lặn xuống sông đuổi theo. Họ mang theo đèn pin không thấm nước theo người, bật lên chiếu sáng dưới nước. Vừa bật đèn lên đã thấy cái giống kia đang lặn sâu xuống đáy chạy trốn, đồng thời giữa đám bùn đen đầy rong rêu đen xì dưới đáy sông hình như còn có một cái cửa động.
Kỹ năng bơi lặn của Quách sư phụ và Đinh Mão, đương thời không tìm đâu ra người thứ ba có thể sánh vai với họ. Không cho con ma chết đuối kịp chui vào trong cái động dưới đáy sông, họ bắt nó lại lôi lên bờ sông xem xét. Hóa ra là một gã đàn ông nhỏ bé gầy gò, mặc đồ lặn, đeo mặt nạ quỷ, đã sặc nước đến mức nửa sống nửa chết. Công an viên chạy đến, vụ án ma chết đuối dưới dòng Hải Hà coi như được tuyên cáo đã bị phá. Thì ra bên trong cái trụ xi măng chính giữa cầu đường sắt có một gian phòng bí mật. Cây cầu này, lúc ban đầu là do người Bỉ phụ trách thiết kế và xây dựng, bắc ngang qua dòng Hải Hà. Đến khi quân Nhật xâm lược, nó đã được cải tạo lại. Họ khoét rỗng trụ cầu, lưu lại lỗ châu mai, tương đương với một cái lô-cốt, đóng vai trò là một cái công sự phòng ngự. Trước khi đầu hàng vô điều kiện, người Nhật Bản đã bịt kín cửa vào và lỗ châu mai của cái lô cốt trong trụ cầu này. Sau giải phóng, có một tên gián điệp phá một cái cửa động dưới đáy sông, lợi dụng căn phòng bí mật trong trụ cầu để đặt điện đài, chất nổ và vũ khí. Căn phòng bí mật đó nằm bên dưới mặt nước, cửa vào cũng ở tận dưới đáy sông, chỉ vẹn vẹn có hai cái ống sắt ngầm để thông khí. Không một ai có thể nghĩ ra có người lẩn trốn bên trong cây trụ cầu xi măng.
Tên gián điệp lợi dụng truyền thuyết dưới dòng Hải Hà có ma chết đuối, đeo một cái mặt nạ quỷ Vô Thường mà các gánh hát rong hát biểu diễn lưu động khắp nơi hay dùng, cứ cách vài ngày lại lẩn vào trong trụ cầu để phát tin. Hai bên cầu đường sắt không có người ở, nếu chẳng may bị ai bắt gặp, hắn sẽ thè cái lưỡi dài nửa xích ra, quá nửa sẽ tưởng rằng hắn là ma chết đuối dưới dòng Hải Hà, nếu không sợ mất mật bỏ chạy thì cũng sẽ sợ tới mức mất đi năng lực phản ứng. Người công nhân trẻ xuống sông bơi lội vài ngày trước, kể cả đứa bé đưa cơm kia, bởi vì đã bắt gặp hắn lặn xuống sông phát tin, nên đã bị hắn kéo xuống sông dìm chết. Trong vòng vài ngày liên tiếp hại chết hai người, trong lòng hắn thừa hiểu, địa điểm này sẽ bị công an nhìn vào chằm chằm. Nhân lúc còn chưa có ai phát hiện ra căn phòng bí mật bên trong trụ cầu, hắn định tranh thủ gấp rút di chuyển điện đài và thuốc nổ đi nơi khác. Trời đổ mưa, hắn dự tính gần khu vực cầu đường sắt sẽ không có người, không ngờ không may mắn, vừa mới xuống sông thì đã bị công an đường thủy bắt được.
Vụ án điện đài ngầm dưới sông vừa bị phá, tin tức đã đến tai tất cả mọi người. Dân chúng còn nói, trước giải phóng Quách sư phụ đã là “Thần sông”, đến giờ vẫn còn lợi hại như vậy. Chỉ cần ông ta còn ở đây, không có án nào trên dòng Hải Hà là không phá được.
Nhưng Quách sư phụ lại không nghĩ như vậy. Ông ta đã nói với Đinh Mão: “Vị trí hai anh em ta ngồi canh chừng cũng không phải thuận lợi. Tên gián điệp xuống nước từ bên kia sông, phía dưới cây trụ cầu là góc chết, hoàn toàn không thể nhìn thấy hắn, chả hiểu sao lại đần như thế. May sao tình cờ có miếng vỏ dưa xuất hiện trên mặt sông mới khiến cho hai anh em ta lầm tưởng là xác chết trôi, vội vàng nhảy xuống sông vớt, vừa đúng lúc bắt gặp tên đặc vụ ló ra khỏi trụ cầu.”
Đinh Mão nói: “Nhị ca anh không nói thằng em cũng không nghĩ ra. Anh nói là thằng em hiểu ngay ra quả thực là đần, vặn lưng đánh rắm — đần thối cả người luôn.”
Quách sư phụ triết lý: “Nói tóm lại, trên đời này không có việc gì là may cũng không có việc gì là không may.”
Khi những lời này đến tai đồng chí lão Lương, ông này rất mất hứng, không hề nể nang nói thẳng vào mặt: “Lão Quách, hiện giờ đã là xã hội mới rồi, làm sao còn giữ cái tư tưởng thủ cựu nhân quả báo ứng như thế. Theo như anh nói, cái vỏ dưa hấu là do người chết oan hiện hồn, giúp anh bắt được hung thủ phá án hay sao?”
Quách sư phụ trả lời: “Lương đại nhân, tôi đâu có nhắc đến ma quỷ gì, chỉ nói có một câu không có việc gì là may cũng không có việc gì là không may thôi mà.”
Lão Lương không sao hiểu nổi: “Không có việc gì là may cũng không có việc gì là không may? Nói vậy nghĩa là sao? Rốt cuộc là may hay là không may?”
Quách sư phụ nói: “Anh đấy, cứ thử ngẫm lại kỹ những việc này mà xem, không có gì là may mắn, cũng không có cái gì là không may mắn. Nói cho cùng, tất cả đều do mệnh.” Vụ án trạm điện đài ngầm dưới sông cầu đường sắt vừa mới phá được vài ngày, còn chưa kịp kết án thì trên dòng Hải Hà lại xảy ra một vụ án khác — bom người.
Hà Thần Hà Thần - Thiên Hạ Bá Xướng Hà Thần