Dành Hết Cho Em epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 12
ường xe chạy dừng lại ở một ngôi nhà nhỏ náu mình giữa một vạt sồi cổ thụ. Ngôi nhà dãi dầu sương gió, lớp sơn bong tróc và các cánh cửa chớp đã bắt đầu ngả đen ở mép, phía trước nhà là hàng hiên nhỏ, bao quanh là những cây cột trắng của thời gian, một cây cột đã bị phủ kín những hàng dây leo đang vươn lên mái. Một cái ghế sắt được đặt sát mép hiên, và ở một góc hiên, để bổ sung màu sắc cho thế giới màu xanh lục này, là một bồn phong lữ đứng ra hoa.
Nhưng đôi mắt của họ không thể không bị hút đến những bông hoa dại. Hàng nghìn bông hoa, cả một cánh đồng pháo hoa trải dài tới sát thềm nhà, một biển màu đỏ, cam, tía, xanh lơ, vàng mọc cam tới gần thắt lưng, rung rinh trong gió nhẹ. Hàng trăm con bướm dập dờn bay trên đồng hoa, những con sóng triều màu sắc gợn sóng nhấp nhô dưới ánh mặt trời. Sát cánh đồng là một hàng rào nhỏ ghép bằng những thanh gỗ mỏng, gần như biến mất tăm dưới những cây loa kèn và lay ơn.
Amanda kinh ngạc nhìn Dawson không chớp mắt, rồi lại nhìn cánh đồng hoa. Nó chẳng khác gì một hình ảnh trong mơ, một thiên đường trong trí tưởng tượng của mọi người. Cô thầm hỏi không biết Tuck đã bắt tay vào trồng nó từ bao giờ và như thế nào, nhưng ngay trong giây phút đó, cô vẫn biết ông trồng cánh đồng hoa dại này là để cho bà Clara. Ông trồng chúng để thể hiện rằng bà có ý nghĩa với ông như thế nào.
“Thật không thể tin được,” cô thốt lên.
“Em có biết về chuyện này không?” Giọng anh như phản chiếu đúng cảm giác kinh ngạc trong lòng cô.
“Không,” cô trả lời. “Đây là thứ chỉ dành riêng cho hai bác ấy.”
Khi nói lên những lời này, trong cô hiện lên rõ ràng hình ảnh bà Clara đang ngồi trên mái hiên trong lúc ông Tuck tựa vào một cây cột, đắm chìm trong vẻ đẹp choáng ngợp của vườn hoa dại. Cuối cùng Dawson cũng thả chân ra khỏi phanh và chiếc xe lăn bánh về phía ngôi nhà, màu sắc nhạt nhờ, như thể những giọt sơn đang tan chảy dưới ánh mặt trời.
Sau khi đỗ xe gần ngôi nhà, họ ra khỏi xe, ánh mắt vẫn tiếp tục thâu trọn cảnh tượng xung quanh. Một con đường mòn nhỏ ngoằn ngoèo lộ ra giữa vạt hoa.
Mê mẩn, họ lạc bước vào giữa biển màu sắc dưới bầu trời lởn vởn mây. Vầng mặt trời lại ló ra từ sau một đám mây, và Amanda có thể cảm nhận được hơi ấm của nó đang phát tán mùi hương thơm ngát bao quanh cô. Mọi giác quan của cô dường như đều được khuếch đại, như thể ngày hôm nay đặc biệt được sinh ra để dành cho cô. Cô cảm nhận được Dawson, lúc này đang đi bộ bên cạnh cô, với tay ra tìm tay cô. Cô để cho anh nắm tay mình, thầm nghĩ chuyện này có vẻ tự nhiên biết bao nhiêu, và cô cảm thấy như mình có thể lần theo dấu vết của bao nhiêu tháng năm lao động đã khắc thành những vết chai trên tay anh. Những vết thương nhỏ xíu đã hằn thành sẹo trên lòng bàn tay anh, nhưng chạm vào lại có cảm giác dịu dàng đến mức không thực, và cô biết, biết chắc chắn đến ngỡ ngàng, rằng Dawson hẳn cũng sẽ tạo ra một khu vườn thế này cho cô nếu anh biết cô muốn thế.
Mãi mãi. Anh đã khắc từ này lên cái bàn thợ của Tuck. Một lời hứa thuở choai choai, thuần túy chỉ có thế, dẫu vậy anh vẫn giữ lời. Giờ đây, cô có thể cảm nhận được sức mạnh của lời hứa đó đang lấp đầy khoảng cách giữa họ khi họ xuyên qua thảm hoa. Từ đâu đó xa xa, cô nghe thấy tiếng sấm ầm ì và trong cô dậy lên một cảm giác kỳ lạ rằng nó đang réo gọi cô, hối thúc cô lắng nghe.
Vai cô quệt qua vai anh, làm mạch đập của cô dồn dập hơn. “Không biết liệu những cây hoa này có mọc lại không nhỉ, hay năm nào bác ấy cũng phải gieo trồng lại,” anh trầm ngâm.
Giọng anh kéo cô rời khỏi cơn mơ màng. “Cả hai,” cô trả lời, chính cô cũng cảm thấy giọng mình nghe là lạ. “Em nhận ra một ít trong số này.”
“Vậy trong năm nay bác ấy đã từng đến đây? Để gieo thêm hạt?”
“Hẳn phải thế. Em thấy một ít hoa tổ chim. Mẹ em cũng trồng hoa này ở nhà và đến mùa đông cây sẽ chết.”
Họ tiếp tục lang thang dọc con đường thêm vài phút nữa, và cô chỉ ra những loài hoa thường niên cô biết: hoa mắt nai, cúc phất trần, bìm bìm, cúc họa mi, xen lẫn những loại hoa lâu năm như lưu ly, hoa nón, anh túc. Có vẻ như khu vườn chẳng theo một cách sắp đặt chỉn chu nào, cứ như thể Chúa và tự nhiên đã tùy hứng làm theo ý mình, bất kể các kế hoạch của Tuck có như thế nào đi chăng nữa. Tuy nhiên, như bằng một cách nào đó, sự hoang dại chỉ càng khiến cho vẻ đẹp của khu vườn thêm sắc nét, và khi họ rảo bước xuyên qua biển màu sắc hỗn độn, cô chỉ có độc một suy nghĩ rằng cô rất mừng vì có Dawson ở bên để họ có thể cùng nhau chia sẻ điều này.
Gió thổi nhẹ, giúp bầu không khí thêm mát mẻ và xua mây cuộn lên nhiều hơn. Cô nhìn anh ngước mắt lên bầu trời. “Sắp bão đấy,” anh nhận xét. “Có lẽ anh nên đóng mui xe lại.”
Amanda gật đầu nhưng vẫn không thả tay anh ra. Một phần trong cô sợ rằng anh có thể sẽ không nắm tay cô lần nữa, rằng có thể sẽ không có cơ hội đó.
Nhưng anh nói đúng; mây càng lúc càng sầm sì.
“Anh sẽ gặp em trong nhà nhé,” anh nói, nghe có vẻ miễn cưỡng, và mãi mới bỏ tay cô ra.
“Theo anh thì cửa có mở không?”
“Anh dám cá là có đấy.” Anh mỉm cười. “Nhoáng cái là anh sẽ có mặt ở đó thôi.”
“Lúc ra đến đó anh lấy hộ cái túi cho em nhé?”
Anh gật đầu, và khi nhìn anh bước đi, cô nhớ lại trước đây cô đã từng yêu anh, từng mê đắm anh như thế nào. Lúc đầu, nó giống như cơn say nắng thời thiếu nữ, thứ tình cảm khiến cô nguệch ngoạc tên anh lên vở trong lúc lẽ ra cô phải làm bài tập về nhà. Không ai, thậm chí là Dawson, biết rằng chẳng phải tình cờ mà họ lại được ghép thành cặp trong giờ hóa học. Khi giáo viên yêu cầu học sinh ghép cặp, cô đã xin phép vào nhà vệ sinh, và đến lúc cô quay trở lại thì, như thường lệ, Dawson là người duy nhất còn lẻ loi. Các bạn cô liếc nhìn cô đầy thương hại, nhưng cô thầm phấn khích khi được ở cùng với chàng trai lặng lẽ, bí ẩn có phần khôn ngoan trước tuổi.
Giờ đây, khi anh tiến lại gần chiếc xe, lịch sử dường như đang tái diễn, và cô lại cảm nhận được niềm phấn khích y hệt như xưa. Ở anh có một điều gì đó chỉ tiết lộ cho riêng cô, một sự kết nối mà cô vẫn nhớ nhung suốt bao nhiêu năm họ xa cách. Và cô biết rõ rằng, ở một chừng mực nào đó, cô vẫn đang chờ đợi anh, y như anh vẫn đang chờ đợi cô.
Cô không thể tưởng tượng nổi sẽ ra sao nếu không bao giờ còn được gặp lại anh nữa, cô không thể để Dawson đơn thuần trở thành một ký ức. Định mệnh - dưới hình dạng Tuck - đã can thiệp, và khi dợm bước tiến về phía ngôi nhà, cô đã biết chuyện này vốn có nguyên do cả. Tất cả chuyện này phải mang một ý nghĩa nào đó. Xét cho cùng, quá khứ đã qua rồi, và tương lai và thứ duy nhất còn lại với họ.
• • •
Đúng như Dawson dự đoán, cửa ra vào không khóa. Khi bước vào trong ngôi nhà nhỏ, suy nghĩ đầu tiên của Amanda chính là đây hẳn từng là nơi trú ẩn của bà Clara. Dẫu rằng nó có cùng cái sàn nhà bằng gỗ thông trầy xước, những bức tường gỗ tuyết tùng và cách bài trí y như ngôi nhà ở Oriental, nhưng ở đây có những cái gối sáng màu trên đi văng và những bức ảnh đen trắng được xếp đặt một cách nghệ thuật trên tường. Sàn gỗ tuyết tùng được đánh nhẵn thín và sơn màu xanh nhạt, những ô cửa sổ rộng đổ ánh sáng tự nhiên tràn ngập căn phòng. Có hai giá sách chìm màu trắng, chất đầy sách và rải rác những bức tượng sứ nhỏ, rõ ràng đã được bà Clara sưu tập suốt bao nhiêu năm qua. Một cái chăn thủ công cầu kỳ nằm vắt trên lưng một cái ghế dựa, và không hề có một vết bụi nào trên những cái đôn kiểu nông thôn. Đèn đứng được đặt ở bốn vách nhà, và một bức ảnh kỷ niệm khổ nhỏ hơn được treo gần cái radio trong góc.
Từ sau lưng, cô có thể nghe thấy tiếng Dawson bước vào ngôi nhà. Anh đứng lặng yên nơi ngưỡng cửa, trên tay cầm áo khoác của anh cùng chiếc túi của cô, dường như không nói nổi nên lời. Cô không thể giấu nổi sự kinh ngạc. “Thật ấn tượng, đúng không?”
Dawson từ từ bước vào phòng. “Anh đang băn khoăn không biết có phải anh đã dẫn chúng ta đến nhầm nhà rồi không.”
“Đừng lo,” cô nói, chỉ về phía bức ảnh. “Đúng chỗ rồi đấy. Nhưng hiển nhiên đây là chỗ của bác Clara chứ không phải của bác ấy. Và bác ấy chưa bao giờ thay đổi gì trong này cả.”
Dawson vắt áo khoác lên lưng ghế, đặt cái túi của Amanda ở bên cạnh nó. “Anh không nhớ là ngôi nhà của bác Tuck đã có khi nào sạch sẽ đến mức này. Chắc hẳn Tanner đã thuê ai đó sửa soạn sẵn nơi này cho chúng ta.”
Tất nhiên ông ấy đã làm thế, Amanda nghĩ. Cô nhớ lại Tanner đã nói ông có kế hoạch đến đây, và ông còn chỉ dẫn rằng phải đợi đến sau hôm họ gặp nhau thì mới tiến hành chuyến đi này. Cánh cửa không khóa chỉ càng khẳng định các mối nghi ngờ của cô.
“Em đã đi xem hết nơi này chưa?” anh hỏi.
“Vẫn chưa. Em vẫn đang mải đoán xem bác Clara để bác Tuck ngồi ở đâu. Rõ là bác ấy không bao giờ để bác Tuck hút thuốc ở đây rồi.”
Anh giơ ngón cái chỉ ra sau vai, về hướng cánh cửa mở. “Chuyện đó lý giải cho việc chiếc ghế được đặt ngoài hiên đấy. Có lẽ bác Clara đã bắt bác Tuck ngồi ở đó.”
“Thậm chí sau khi bác Clara đã qua đời ư?”
“Có lẽ bác Tuck sợ rằng hồn ma của bác Clara sẽ hiện lên trách mắng bác ấy vì tội hút thuốc trong nhà.”
Cô mỉm cười, và họ lên đường tham quan một vòng quanh nhà, quệt qua người nhau trong khi đi lướt qua phòng khách. Giống y như ngôi nhà ở Oriental, phòng bếp nằm ở sau nhà, trông ra dòng sông, nhưng ở đây, bếp cũng tràn ngập hình ảnh bà Clara, từ những ngăn tủ màu trắng và những hình cuộn trang trí phức tạp cho tới phần tường trên quầy bếp ốp gạch trắng xanh. Trên lò sưởi đặt một ấm trà, còn trên quầy bếp là một bình hoa dại, rõ ràng được hái từ khu vườn phía trước. Một cái bàn nép mình bên dưới cưa sổ; trên mặt bàn đặt hai chai vang, đỏ và trắng, cùng với hai cái ly long lanh.
“Giờ bác ấy bắt đầu trở nên dễ đoán hơn rồi,” Dawson bình luận, quét mắt về phía hai chai rượu.
Cô nhún vai. “Có những chuyện còn tệ hơn nhiều.”
Họ chiêm ngưỡng quang cảnh sông Bay bên ngoài cửa sổ, không ai nói thêm câu gì. Khi họ đứng cạnh nhau, Amanda đắm mình trong sự im lặng, cảm thấy dễ chịu trước sự quen thuộc này. Cô có thể cảm nhận được lòng ngực Dawson phập phồng theo hơi thở của anh, và cô phải cố lắm mới kìm nén được khao khát vươn tay ra nắm tay anh lần nữa. Không cần nói lời nào mà vẫn vô cùng ăn ý với nhau, họ quay người rời khỏi cửa sổ và tiếp tục chuyến tham quan.
Đối diện với căn bếp là một phòng ngủ, chính giữa phòng đặt một chiếc giường ấm áp có bốn trụ giường. Các tấm rèm đều là màu trắng, tủ com mốt không hề kêu kẽo kẹt hay xước xát như nội thất ở ngôi nhà Oriental. Có hai cây đèn pha lê đồng bộ, mỗi cây được đặt ở một bên bàn phấn, và một bức tranh phong cảnh theo trường phái ấn tượng treo trên bức tường đối diện tủ quần áo.
Nối liền với phòng ngủ là phòng tắm với một bồn tắm có chân, đúng kiểu Amanda vẫn luôn ưa thích. Một tấm gương cổ treo trên bồn rửa, và cô bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình đứng bên cạnh Dawson, lần đầu tiên cô nhìn thấy hình ảnh họ đang bên cạnh nhau kể từ khi quay trở lại Oriental. Cô bất chợt nhớ ra rằng suốt thời còn trẻ, cả hai người họ chưa lần nào chụp ảnh đôi cùng nhau. Họ từng nhiều lần bảo nhau đi chụp, nhưng chẳng bao giờ thực hiện được.
Giờ cô lấy làm nuối tiếc, nhưng nếu cô có một bức ảnh để mà giữ làm kỷ niệm thì sao chứ? Có khi nào cô sẽ nhét nó vào trong một ngăn kéo rồi quên bẵng đi mất, để rồi cứ vài năm lại tình cờ tìm thấy nó một lần. Hay cô sẽ cất giữ nó ở một nơi nào đó đặc biệt, một nơi chỉ mình cô biết. Cô cũng không biết nữa, nhưng khi nhìn gương mặt Dawson kề sát gương mặt cô trong tấm gương phòng tắm ấy, cảm giác thân mật quặn lên rõ rệt. Đã lâu lắm rồi chẳng có ai khiến cô có cảm giác mình là người hấp dẫn, nhưng giờ đây cô đang cảm nhận được điều đó. Cô biết mình rất có sức hút với Dawson. Cô nhận ra điều đó từ ánh mắt đăm đắm của anh lả lướt khắp người cô, từ sự thoải mái duyên dáng của cơ thể anh; cô ý thức một cách sâu sắc sự thấu hiểu trọn vẹn giữa hai người họ. Mặc dù mới chỉ có mấy ngày, nhưng theo bản năng, cô tin tưởng anh, và cô biết cô có thể nói với anh bất cứ chuyện gì. Phải, trong đêm đầu tiên ấy họ đã tranh cãi với nhau về bữa tối và rồi lại tranh cãi về chuyện nhà Bonner, nhưng trong những lời nói của họ còn có cả một sự chân thành không chút màu mè tô vẽ. Họ không giấu ý này giếm ý nọ, không ngấm ngầm cố gắng phớt lờ sự phán xét; những mâu thuẫn giữa họ cũng trôi qua nhanh chóng y như khi nó được khuấy lên.
Amanda tiếp tục quan sát Dawson trong gương. Anh xoay người và bắt gặp ánh mắt chăm chú của cô trong gương. Không rời ánh mắt, anh dịu dàng vươn tay, nhẹ nhàng gạt ra sau một lọn tóc rơi xuống làm vướng mắt cô. Và rồi, anh đi mất, để lại cô cùng một niềm tin chắc chắn rằng dẫu có hậu quả gì đi chăng nữa, cuộc sống của cô đã vĩnh viễn thay đổi theo những cách mà cô không bao giờ có thể tưởng tượng được.
• • •
Sau khi lấy lại cái túi xách trong phòng khách, Amanda tìm thấy Dawson trong bếp. Anh đã mở một chai rượu và rót ra hai cái ly. Anh đưa một ly rượu cho cô, và họ lặng lẽ đi ra ngoài hiên. Những đám mây đen nơi chân trời đã cuồn cuộn kéo đến gần, mang theo một màn sương mù nhẹ. Trên bờ dốc, cây cối mọc đầy chạy tới dòng sông, tán lá rung rinh thành những luồng xanh thăm thẳm.
Amanda đặt ly rượu sang bên và lục lọi trong túi xách. Cô lôi ra hai cái phong bì, đưa cho Dawson cái có tên của anh còn cô giữ cái kia trong lòng - cái họ cần đọc trước lúc tiến hành nghi thức. Cô nhìn theo lúc Dawson gấp chiếc phong bì lại và nhét nó vào túi quần sau.
Amanda đưa cho anh chiếc phong bì không đề tên. “Anh đã sẵn sàng đọc cái này chưa?”
“Sẵn sàng hơn bao giờ hết.”
“Anh có muốn mở nó ra không? Chúng ta cần phải đọc nó trước buổi lễ.”
“Không, em làm đi,” anh nói, dịch ghế lại sát hơn. “Anh sẽ đọc từ chỗ này.”
Amanda tách một đầu bì thư ra rồi nhẹ nhàng tách nốt phần còn lại. Mở bức thư ra, Amanda giật mình trước những chữ viết nguệch ngoạc trên các trang giấy. Thỉnh thoảng, có từ này từ kia bị gạch xóa, những dòng chữ xiên xẹo phơi bày sự run rẩy và phản ánh tuổi tác của Tuck. Bức thư gồm ba trang giấy dài kín cả hai mặt, khiến cô không khỏi băn khoăn chẳng biết ông đã mất bao nhiêu thời gian để viết. Thư đề ngày 14 tháng Hai năm nay. Ngày Valentine. Chẳng hiểu sao, nó có vẻ thật phù hợp.
“Anh sẵn sàng chưa?” cô hỏi.
Thấy Dawson gật đầu, Amanda cúi xuống bức thư và cả hai cùng bắt đầu đọc.
Amanda và Dawson,
Cảm ơn các cháu đã đến. Và cảm ơn các cháu vì đã làm điều này cho bác. Bác không biết nhờ ai khác.
Bác không phải là người giỏi viết lách, vậy nên cách tốt nhất để bắt đầu bức thư này chắc là nói cho các cháu biết một câu chuyện tình. Ý bác là chuyện tình của bác và Clara, và mặc dù có lẽ bác có thể kể lể chi tiết về quá trình tìm “hiểu cũng như những năm đầu cuộc hôn nhân của các bác - phần mà các cháu muốn nghe - được bắt đầu vào năm 1942.
Thời điểm đó, các bác đi đến kết hôn được ba năm, và bà ấy đã sẩy thai lần đầu tiên. Bác biết chuyện đó khiến bà ấy đau khổ đến mức nào, vì bác cũng thế, vì bác chẳng thể làm gì được. Thử thách đẩy một số người cách xa nhau. Những người khác, giống như bác và bà ấy, lại càng trở nên gắn bó hơn. Nhưng bác thường hay nói lan man. Phải nói rằng, càng lớn tuổi thì người ta càng hay như thế. Cứ đợi mà xem.
Như bác đã nói, đó là năm 1942, và nhân kỷ niệm ngày cưới năm đó, hai bác đi xem. Vì tôi và cô gái của tôi (For Me and My Gal), có Gene Kelly và Judy Ganand đóng vai chính. Đó là lần đầu tiên cả bác và bà ấy được xem phim chiếu rạp, đèn đã bật lên, bác và bà ấy vẫn ngồi yên trên ghế, ngẫm nghĩ về nó. Bác không nghĩ là các cháu đã từng xem bộ phim này, và bác sẽ không làm phiền các cháu bằng việc kể lể chi tiết, nhưng phim kể về một người đàn ông đã tự biến mình thành kẻ tật nguyền cốt để không phải tham gia Thế chiến, và sau đó phải cố gắng giành lại trái tim người con gái anh ta yêu, người con gái giờ đây tin rằng anh ta là kẻ hèn nhát. Hồi đó bác cũng vừa nhận được thông báo nhập ngũ của Lục Quân, vậy nên bộ phim có nhiều chỗ gây ấn tượng rất mạnh bởi vì bác không muốn bỏ người con gái của mình để tham gia chiến tranh, nhưng chẳng ai trong hai bác muốn nghĩ về chuyện đó. Thay vào đó, bác và bà ấy bàn luận về bài hát chủ đề, trùng tên với phim. Đó là bài hát dễ nhớ nhất, hay nhất mà hai bác từng được nghe. Trên đường lái xe về nhà, bác và bà ấy cứ hát đi hát lại bài đó. Và một tuần sau đó, bác ghi danh vào hải quân.
Kể ra cũng lạ, vì, như bác nói đấy, lúc ấy bác chuẩn bị nhập ngũ, và cứ nhìn công việc hiện tại của bác, tính đến hiểu biết của bác về máy móc và chuyện bác không biết bơi thì có lẽ Lục quân là lựa chọn phù hợp hơn. Có thể rốt cuộc bác sẽ ở trong một bãi đậu xe để đảm bảo cho những chiếc xe tải và xe jeep có thể lăn bánh khắp châu Âu. Nếu xe cộ không chạy được thì các quân chủng Lục quân có làm được trò gì ra hồn chứ, phải vậy không? Nhưng mặc dù chỉ là một anh chàng nông thôn, bác vẫn biết rằng Lục quân thích đưa ta đi đâu thì ta sẽ phải đi đấy, ta chẳng thể đi theo ý mình được, và lúc đó, dân chúng đã biết rằng chỉ cò là vấn đề thời gian khi chúng ta trường kỳ tiến đánh châu Âu. Ike (Dwight David Eisenhower) vừa tiến vào Bắc Phi. Họ cần bộ binh, cần lính đánh đường bộ, và mặc dù rất phấn khích trước ý nghĩ tấn công của Hitler, nhưng bác không hề nghĩ đến chuyện gia nhập bộ binh.
Tại phòng ghi danh nhập ngũ, họ dán trên tường tờ áp phích tuyển quân này. “Vì Hải quân. Đại bác sẵn sàng.”Nó viết vậy đấy. Nó có hình một thủy thủ ở trần đang vác quả đạn pháo, và nó đã nói với bác một điều gì đó. Mình có thể làm được, bác tự nhủ lòng, vậy là bác tiến đến bàn hải quân chứ không phải bàn Lục quân, và đăng ký ghi danh ngay tại đó.
Khi bác về nhà, Clara khóc suốt mấy tiếng liền. Rồi bà ấy bắt bác hứa sẽ quay trở lại với bà ấy. Và bác đã hứa như vậy.
Bác trải qua đợt huấn luyện cơ bản và khóa đào tạo về quân nhu. Rồi, tháng Mười một năm 1943, bác được điều tới USS Johnston, một tàu khu trục trên Thái Bình Dương. Đừng bao giờ để cho bất kỳ ai nói với các cháu rằng phục vụ trong Hải quân thì đỡ nguy hiểm hơn ở Lục quân hay quân đoàn lính thủy đánh bộ nhé. Hoặc là ít đáng sợ hơn. Ta phó mặc bản thân cho con tàu, chứ không phải dựa vào trí thông minh của mình, bởi vì nếu tàu chìm, ta sẽ chết. Nếu ta rơi xuống biển, ta sẽ chết, bởi vì sẽ chẳng có con tàu nào mạo hiểm dừng lại để cứu ta. Ta không thể cháy, ta không thể trốn, và trong đầu ta sẽ nảy ra cái suy nghĩ rằng ta chẳng thể kiểm soát được bất kỳ thứ gì và suy nghĩ đó sẽ ăn sâu bén rễ trong tâm trí. Cả đời bác chưa bao giờ sợ hãi như hồi bác ở Hải quân. Khói bom khắp nơi, lửa cháy trên boong tàu. Trong lúc đó, súng nổ đùng đùng và âm thanh vang lên không giống với bất kỳ thứ âm thanh nào ta từng nghe thấy. Có lẽ lớn gấp 10 lần tiếng sấm, nhưng nói thế cũng chẳng thể diễn tả được nó. Trong các trận đánh lớn, những chiếc máy bay tiêm kích Zero của quân Nhật không ngừng oanh tạc boong tàu, đạn vãi khắp nơi. Nhưng tình hình như thế này, ta vẫn phải làm công việc của mình, như thể chẳng xảy ra chuyện gì bất thường hết.
Tháng Mười năm 1944, các bác tuần tra gần Samar, sẵn sàng chung sức dẫn đầu cuộc xâm chiếm Philippines. Đoàn tàu có 13 tàu, nghe thì có vẻ nhiều, nhưng ngoài tàu vận tải, đoàn tàu chủ yếu gồm tàu khu trục và tàu hộ tống, vậy nên chúng ta không có hỏa lực mạnh. Và rồi, ở chân trời, các nhìn thấy dường như cả một hạm đội quân Nhật đang tiến về phía mình. Bốn tàu chiến, tám tàu tuần tiễu, mười một tàu khu trục, đang quyết tâm tống tất cả xuống đáy biển. Sau này bác nghe nói có người bảo rằng chúng ta giống như chàng tí hon David chống lại gã khổng lồ Goliath, chỉ có điều, chúng ta thậm chí còn chẳng có lấy một cái súng cao su. Và đúng như vậy đấy.
Khi bọn chúng khai hỏa, súng của bọn ta thậm chí chẳng thể bắn được đến chỗ chúng. Vậy bọn bác biết làm gì đây? Khi chúng ta chẳng có lấy một cơ hội? Các bác giao chiến. Trận chiến vịnh Leyte, giờ người ta gọi nó như thế đấy. Tiến thẳng về phía chúng. Các bác là tàu đầu tiên khai hỏa, tàu đầu tiên xả đạn và phóng ngư lôi, tấn công đồng thời một tàu tuần tiễu và một tàu chiến. Cũng gây ra thiệt hại khá lớn nữa. Nhưng vì đang dẫn đầu nên các bác cũng là tàu đầu tiên tê liệt trên mặt biển. Một cặp tàu tuần tiễu của địch áp sát vào và bắt đầu nã đạn, rồi tàu bác chìm xuống. Trên tàu có 327 người, và ngày hôm đó 186 người, trong đó có nhiều người là bạn thân của bác, đã hy sinh. Bác là một trong 141 người sống sót.
Hẳn là các cháu đang băn khoăn không biết tại sao bác lại kể cho các cháu nghe chuyện này, có lẽ các cháu nghĩ rằng bác lại đang nói chuyện luyên thuyên, vậy nên có lẽ bác nên làm rõ vấn đề. Trên bè, giữa vòng đại chiến cuồng loạn, bác nhận ra bác không còn sợ hãi nữa. Đột nhiên, bác biết mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi vì bác biết rằng chuyện giữa Clara và bác vẫn chưa kết thúc, và cảm giác bình yên này choáng ngợp khắp tâm hồn bác. Nếu muốn, các cháu có thể gọi nó là cơn sốc đạn, nhưng bác biết rõ bác hiểu được điều gì, và ngay tại đó, dưới bầu trời bom đạn ngập tràn khói súng, bác nhớ lại hôm kỷ niệm ngày cưới của hai bác vài năm về trước, và bác bắt đầu hát “Vì tôi và cô gái của tôi”, y như Clara và bác đã làm khi lái xe từ Raleigh về nhà. Cứ vận hết hơi mà gào, như thể bác chẳng quan tâm đến bất cứ chuyện gì trên đời, bởi vì bác biết rằng, bằng cách nào đó, Clara có thể nghe được tiếng bác, và bà ấy sẽ hiểu rằng không cần gì phải lo lắng hết. Bác đã hứa với bà ấy mà, các cháu biết đấy. Và không gì, thậm chí cả việc chìm xuống đáy Thái Bình Dương, đủ sức ngăn bác giữ lời hứa đó.
Thật điên rồ, bác biết vậy. Nhưng như bác nói đấy, bác đã được cứu. Mùa xuân năm sau, bác được phân vào phục vụ trên các tàu vận tải tới Iwo Jima. Rồi chớp mắt một cái, chiến tranh đã kết thúc, bác được về nhà, khi trở về, bác không kể gì về chiến tranh. Bác không thể. Không một lời nào. Ký ức đó đau đớn và Clara hiểu điều đó, vậy nên dần dần, hai bác ổn định lại cuộc sống. Năm 1955, hai bác bắt đầu xây dựng ngôi nhà nhỏ này. Bác tự làm hầu hết mọi việc. Một buổi chiều, vừa xong công việc trong ngày, bác đi về phía bác Clara, lúc này đang ngồi đan trong bóng râm. Và bác nghe thấy bà ấy hát “Vì tôi và cô gái của tôi”.
Bác đứng sững lại, và ký ức về trận chiến ùn ùn quay trở lại, bác không nhớ tới bài hát đó suốt nhiều năm rồi, và bác chưa bao giờ kể cho bà ấy nghe chuyện đã xảy ra trên trên bè ngày hôm đó. Nhưng ắt hẳn bà ấy đã nhận ra điều gì đó từ vẻ mặt của bác, vì bà ấy ngước lên nhìn bác.
“Từ dịp kỷ niệm ngày cưới của chúng ta,” bà ấy nói rồi tiếp tục trở lại với việc đan lát. “Em chưa bao giờ kể cho anh nghe điều này, nhưng hồi anh ở Hải quân, có một đêm em đã mơ một giấc mơ,” bà ấy tiếp lời. “Em đang ở giữa cánh đồng cánh đồng hoa dại này, và mặc dù không nhìn thấy anh, em vẫn có thể nghe thấy tiếng anh đang hát bài này cho em nghe, và khi tỉnh dậy, em không còn sợ nữa. Bởi vì cho tới tận lúc đó, em vẫn luôn sợ rằng anh sẽ không quay trở lại.”
Bác đứng chết trân ở đó. “Đó không phải giấc mơ đâu, cuối cùng bác nói.
Bà ấy chỉ mỉm cười và bác có cảm giác bà ấy đang chờ câu trả lời này của bác. “Em biết. Như em đã nói đấy, em nghe thấy tiếng anh.”
Sau đó, bác không bao giờ dứt được khỏi đầu cái suy nghĩ rằng giữa bác và Clara có một mối gắn kết mạnh mẽ nào đó, có thể nói là mang tính tâm linh ấy.
Vậy nên năm vài năm sau, bác quyết định bắt tay vào xây dựng khu vườn và bác đã đưa bà ấy đến đây vào dịp kỷ niệm ngày cưới để chỉ cho bà ấy thấy. Hồi đó nó chưa có gì nhiều nhặn, khác hoàn toàn so với bây giờ, nhưng bà ấy thề rằng đây là nơi đẹp nhất trần đời. Vậy là năm sau bác mở rộng diện tích trồng trọt và gieo thêm nhiều hạt giống mới, vừa làm vừa ngân nga bài hát của bác và bà ấy. Mỗi năm qua đi trong đời sống vợ chồng bác, bác đều làm y như thế, cho đến khi bà ấy qua đời. Bác rải tro bà ấy ở đây, tại nơi bà ấy yêu thương.
Nhưng sau khi bà ấy mất, bác đã chìm trong đau khổ. Bác giận dữ, rượu chè be bét và dần dần không còn là chính mình nữa. Bác không còn mở rộng đất đai, không trồng trọt và hát nữa bởi vì Clara đã mất rồi và bác chẳng thấy còn có lý do gì để tiếp tục. Bác căm ghét thế giới này và bác không muốn tiếp tục nữa. Bác đã không chỉ một lần nghĩ đến chuyện tự kết liễu mạng sống, nhưng rồi Dawson đã xuất hiện. Thật tốt biết bao khi có cậu ấy bên cạnh. Bằng cách nào đó, cậu ấy đã nhắc nhở bác rằng bác vẫn còn thuộc về thế giới này, rằng công việc của bác vẫn chưa được hoàn thành. Nhưng rồi cậu ấy cũng đi mất. Sau đó, bác đến đây, lần đầu tiên đến thăm nơi này sau nhiều năm. Đã qua mùa rồi, nhưng vài bóng hoa vẫn đang nở, và dù không biết tại sao, nhưng khi bác hát bài hát của bác và bà ấy, nước mắt bác ứa ra. Bác khóc vì Dawson, có lẽ vậy, nhưng bác cũng khóc cho chính mình nữa. tuy nhiên, chủ yếu, bác khóc vì Clara.
Chính lúc đó, chuyện bắt đầu. Sau đó, đến buổi tối, khi bác về nhà, bác nhìn thấy Clara qua ô cửa sổ phòng bếp. Dù rất mơ hồ, nhưng bác nghe bà ấy đang ngân nga bài hát của hai bác. Nhưng bà ấy chỉ là ảo ảnh, không thật sự có ở đó, và đến lúc vào được bên trong thì bà ấy đã đi mất rồi. Vậy là bác quay trở lại ngôi nhà nhỏ và lại bắt đầu trồng trọt. Phải nói là đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, và bác lại nhìn thấy bà ấy, lần này là trên hiên. Vài tuần sau đó, sau khi bác đã gieo hạt xong, bà ấy bắt đầu đến một cách thường xuyên, có thể mỗi tuần một lần, và bác đã có thể tiến lại gần bà ấy hơn trước khi bà ấy biến mất. Nhưng rồi, khi hoa nở, bác đến đây, lang thang giữa những khóm hoa, và đến lúc trở về nhà, bác có thể nhìn thấy và nghe bà ấy nói một cách rõ mồn một. Bà ấy đứng ngay ở đó trên hiên nhà, chờ đợi bác, như thể lấy làm ngạc nhiên không hiểu tại sao lâu đến thế bác mới hình dung ra. Kể từ đó, mọi chuyện cứ như thế. Bà ấy thuộc về những bông hoa, cháu có hiểu không? Tro cốt của bà ấy đã giúp cho hoa phát triển, và chúng càng lớn, càng trở nên sống động hơn. Và chừng nào bác còn giữ cho những bông hoa ấy sống, chừng đó Clara vẫn có thể tìm được cách trở về với bác.
Chính bởi vậy mà các cháu mới có mặt ở đây, và chính bởi vậy bác mới nhờ các cháu làm điều này cho bác. Đây là chỗ của hai bác, cái góc nhỏ xíu xiu trên thế giới, nơi tình yêu có thể khiến cho bất kỳ điều gì cũng trở thành có thể. Bác cho rằng hai cháu, hơn bất kỳ người nào khác, sẽ hiểu điều đó.
Nhưng giờ đã đến lúc bác đến với bà ấy rồi. Đã đến lúc hai bác được hát cùng nhau. Đã đến thời điểm của bác và bác không có gì nuối tiếc hết. Bác lại được ở cùng với Clara, và đó là nơi duy nhất bác muốn ở. Hãy rải tro của bác vào trong gió và hoa, và đừng khóc than vì bác. Thay vì đó, bác muốn các cháu hãy mỉm cười vì cả hai bác; vui vẻ mỉm cười vì bác và cô gái của bác.
Tuck
Dawson ngả người về phía trước, tì hai cẳng tay lên bắp đùi, cố hình dung ra cảnh Tuck viết bức thư. Nghe có vẻ chẳng hề giống với người đàn ông thô kệch, ít nói từng thu nhận anh. Đây là một Tuck mà Dawson chưa gặp bao giờ, một người Dawson không hề quen biết.
Khuôn mặt Amanda đầy ve dịu dàng khi cô gập bức thư lại, hết sức thận trọng để không làm rách.
“Em biết bác ấy nói đến bài hát nào rồi,” cô nói sau khi đã cất bức thư vào trong ví an toàn. “Em từng nghe bác ấy hát một lần lúc bác ấy ngồi trong ghế bập bênh. Lúc em hỏi bác ấy về nó, bác ấy không trả lời rõ ràng gì. Thay vào đó, bác ấy lại bật máy quay dĩa phát bài này cho em nghe.”
“Ở nhà lớn ấy hả?”
Cô gật đầu. “Em còn nhớ lúc ấy em đã nghĩ bài hát thật dễ thuộc, nhưng bác Tuck đã nhắm mắt lại và dường như... đắm chìm vào nó. Khi bài hát kết thúc, bác ấy đứng dậy và bật lại bài hát, và lúc đó em không biết nó có ý nghĩa gì. Nhưng giờ em đã hiểu.” Cô quay về phía anh. “Bác ấy đang gọi bác Clara.”
Dawson chậm rãi xoay xoay ly rượu. “Em có tin bác ấy không? Về chuyện nhìn thấy bác Clara ấy?”
“Hồi đó thì không. Dù sao thì cũng không thật sự tin. Nhưng giờ thì em không chắc.”
Tiếng sấm ầm ì xa xa, nhắc họ nhớ lại nhiệm vụ của mình ở đây. “Anh nghĩ có lẽ đã đến lúc rồi,” Dawson nói.
Amanda đứng dậy, phủi bụi trên quần, rồi họ cùng nhau đi xuống vườn. Gió giờ đã lặng, nhưng lớp sương mù càng dày đặc hơn.
Buổi sáng trong treo đã qua, bị thay thế bằng tiết trời chiều phản chiếu sức nặng âm u của quá khứ.
Sau khi Dawson lấy lại cái hộp, họ tìm thấy con đường dẫn tới chính giữa khu vườn. Mái tóc Amanda gợn sóng lăn tăn trong làn gió nhẹ, và anh nhìn cô lùa tay vào trong tóc, cố gắng giữ nó nguyên nếp. Họ đến chính giữa khu vườn thì dừng lại.
Dawson ý thức rõ sức nặng của chiếc hộp trong tay anh. “Chúng ta nên nói gì đó,” anh lầm bầm. Thấy cô gậy đầu, anh bắt đầu trước, bày tỏ lòng tôn kính với người đàn ông đã cho anh nơi trú ẩn cùng tình bạn. Đến lượt mình, Amanda cảm ơn Tuck vì đã là người bạn tâm tình của cô và nói cho ông biết rằng cô quan tâm đến ông như đến một người cha. Khi họ đã xong, gió nổi lên gần như một tín hiệu, Dawson bèn nhấc cái nắp hộp lên.
Tro tung bay, cuộn xoáy trên những bông hoa, và khi dõi mắt nhìn cảnh tượng ấy, Amanda không thể không nghĩ rằng Tuck đang tìm kiếm bà Clara, đang gọi bà lần cuối cùng.
• • •
Sau đó họ quay trở vào nhà, cùng tưởng nhớ về Tuck và ngồi bên nhau trong sự im lặng đầy thấu hiểu. Ngoài kia, mưa bắt đầu rơi. Mưa rơi đều nhưng không nặng hạt, một cơn mưa mùa hè lất phất chẳng khác gì một sự ban phước.
Khi thấy đói, họ đánh liều lao ra giữa trời mưa, lái chiếc Stingray xuống lối xe chạy quanh co để trở ra đường cao tốc. Dù có thể quay lại Oriental, nhưng họ lai tới New Bern. Gần quận thương mại giàu lịch sử này, họ tìm thấy một nhà hàng tên là Chelsea. Khi họ đến, nhà hàng gần như vắng tanh, nhưng đến lúc họ ra về, bàn nào cũng kín khách.
Mưa ngớt một lát, và họ tận dụng thời gian đó tản bộ trên những vỉa hè tĩnh lặng, ghé thăm những cửa hàng vẫn đang mở cửa. Trong lúc Dawson ngắm nghía trong một hiệu sách cũ, Amanda tận dụng cơ hội đó để ra ngoài gọi điện thoại về nhà. Cô nói chuyện với ca Jared và Lynn trước khi trò chuyện qua loa chiếu lệ với Frank. Cô cũng gọi cho mẹ, để lại tin nhắn vào máy trả lời tự động, cho bà biết cô có thể về muộn và nhắn bà đừng khóa cửa. Cô ngắt điện thoại đúng lúc Dawson tiến đến, lòng cô chợt nhói buồn khi nghĩ ra rằng đã sắp hết đêm rồi. Như thể đọc được suy nghĩ của cô, Dawson đưa cánh tay ra, và cô khoác tay anh, chậm rãi cùng anh quay trở lại xe.
Trên đường cao tốc trở về, mưa lại bắt đầu rơi. Gần như ngay khi họ vừa băng qua sông Neuse, màn sương đã trở nên dày đặc hơn nữa, những tua dây leo từ trong rừng vươn ra như những ngón tay ma. Ánh đèn pha chiếu sáng lờ mờ con đường, và cây cối dường như nuốt chửng chút ánh sáng leo lắt đó. Dawson giảm tốc độ lại trong bóng tối ẩm ướt âm u.
Mưa vẫn rơi đều trên nóc xe, như thể một con tàu xa xăm đang lăn bánh, và Amanda thấy tâm trí mình bắt đầu miên man hồi tưởng lại những chuyện xảy ra hôm nay. Trong suốt bữa ăn, cô đã bắt gặp Dawson chăm chú nhìn cô không chỉ một lần, nhưng trên cả nỗi ngượng ngùng, cô không muốn anh dừng lại.
Cô biết chuyện này không đúng đắn. Cuộc sống của cô không cho phép xuất hiện thứ ham muốn ấy; xã hội cũng không dung thứ cho nó. Cô có thể bao biện rằng những cảm xúc này chỉ là nhất thời, là sản phẩm phụ từ những yếu tố khác trong cuộc sống của cô. Nhưng cô biết sự thực không phải thế. Dawson không phải một người xa lạ nào đó mà cô tình cờ gặp gỡ, anh là mối tình đầu và cũng là tình yêu đích thực duy nhất của cô, là tình yêu bền bỉ nhất.
Frank thể nào cũng suy sụp mất nếu anh biết cô đang nghĩ gì. Và bất chấp những vấn đề đang nảy sinh giữa hai vợ chồng, cô biết cô yêu Frank. Tuy nhiên, mặc dù chẳng có chuyện gì xảy ra, mặc dù hôm nay cô sẽ về nhà, cô vẫn biết rằng Dawson rồi sẽ còn tiếp tục ám ảnh cô. Cho dù cuộc hôn nhân của cô đã gặp rắc rối nhiều năm nay, nhưng vấn đề không đơn giản là cô đang tìm kiếm sự khuây khỏa ở nơi khác. Chính Dawson, và cái sự chúng ta mà họ tạo ra bất cứ khi nào họ ở bên nhau, đã khiến cho toàn bộ chuyện này vừa tự nhiên vừa không thể tránh khỏi. Cô không thể không nghĩ rằng chuyện giữa họ bằng một cách nào đó vẫn chưa kết thúc; rằng cả hai người họ vẫn đang đợi viết cái kết.
Sau khi họ đã băng qua Bayboro, Dawson giảm tốc độ lại. Phía trước mặt là lối rẽ vào một đường cao tốc khác, đường cao tốc dẫn về phương Nam, tới Oriental. Thẳng tưng trước mặt là Vandemere. Dawson sẽ rẽ, nhưng khi họ tiến gần đến ngã tư, cô lại muốn bảo anh cứ đi tiếp đi. Cô không muốn ngày mai thức dậy, sẽ lại băn khoăn không biết liệu cô có bao giờ được gặp lại anh nữa hay không? Ý nghĩ đó thật kinh khủng, tuy nhiên chẳng hiểu sao, từ ngữ không bật ra được khỏi miệng cô.
Không có ai khác trên đường. Nước chảy từ lớp đá dăm nện vào những rãnh nông hai bên đường cao tốc. Khi họ tiến đến ngã tư, Dawson nhấn nhẹ phanh. Trước sự ngạc nhiên của cô, anh dừng xe lại. Cần gạt nước gạt từ bên này sang bên kia. Những hạt mưa lấp loáng dưới ánh đèn pha. Khi xe đã dừng, máy vẫn chạy, Dawson quay sang nhìn cô, khuôn mặt anh chìm trong bóng tối.
“Chắc mẹ em đang đợi em.”
Cô có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch, mỗi lúc một dồn dập hơn. “Vâng.” Cô gật đầu, không nói thêm gì.
Suốt một lúc lâu, anh chỉ nhìn cô chăm chú, đoán định vẻ mặt cô, thu vào tầm mắt hết thảy những hy vọng, sợ hãi và khát khao trong đôi mắt đang khóa chặt mắt anh. Rồi, thoáng nở nụ cười, anh quay mặt về kính chắn gió, chiếc xe bắt đầu rì rì lăn bánh về phía trước, tiến về hướng Vandemere, và cả hai người, chẳng ai mong muốn hay có thể dừng nó lại được.
• • •
Khi họ quay trở về ngôi nhà nhỏ, dừng lại bên cửa ra vào, không hề có chút lúng túng ngại ngần nào. Amanda tiến về phía bếp trong lúc Dawson bật đèn. Cô đổ đầy lại hai ly rượu lúc trước, trong lòng dấy lên cảm giác vừa do dự vừa ngấm ngầm phấn khích.
Trong phòng khách, Dawson vặn núm radio cho tới khi tìm được một bản nhạc Jazz xa xưa nào đó và để âm lượng ở mức thấp. Anh lấy từ cái giá bên trên ra một cuốn sách cũ và đang lật giở những trang sách ố vàng thì Amanda mang ly rượu đến. Trả cuốn sách lại chỗ cũ trên giá, anh đón ly rượu và theo cô đến đi văng. Anh nhìn cô cởi giày ra.
“Yên tĩnh quá,” cô nói. Đặt ly rượu lên cái đôn, cô co hai chân lên, vòng tay ôm lấy đầu gối. “Em đã hiểu tại sao bác Tuck và bác Clara muốn ở lại đây rồi.”
Ánh đèn lờ mờ trong phòng khách khiến cho nét mặt cô toát lên vẻ bí ẩn, Dawson bèn hắng giọng. “Em có nghĩ là sau này em sẽ còn trở lại đây lần nữa không?” anh hỏi. “Ý anh là sau đợt cuối tuần này ấy?”
“Em không biết nữa. Nếu em biết rằng nó vẫn luôn như thế này, thì câu trả lời là có. Nhưng em biết nó sẽ không như vậy, bởi vì chẳng điều gì có thể tồn tại mãi mãi cả. Và một phần trong em muốn nhớ về hình ảnh nó giống y như ngày hôm nay, khi hoa nở rộ.”
“Chưa kể rằng đây còn là một ngôi nhà sạch sẽ.”
“Cả cái đó nữa,” cô tán thành. Cô với lấy ly rượu, lắc lắc chiếc ly. “Lúc trước, khi tro cốt đang bay đi, anh có biết em nghĩ đến điều gì không? Em đã nghĩ đến cái đêm chúng ta ở bến tàu ngắm mưa sao băng. Em không biết tại sao, nhưng đột nhiên em có cảm giác mình lại đang ở đó. Em có thể nhìn thấy chúng ta đang nằm trên tấm chăn, thầm thì với nhau và lắng nghe tiếng dế kêu, cái tiếng vang vang du dương tuyệt hảo đó. Và trên đầu chúng ta, bầu trời vô cùng... sống động.”
“Sao em lại nói cho anh nghe chuyện này? Giọng Dawson dịu dàng.
Vẻ mặc cô nhuốm vẻ u sầu. “Bởi vì chính vào cái đêm đó, em đã biết rằng em yêu anh. Rằng em đã thực sự rơi vào lưới tình. Và em nghĩ là mẹ em biết đích xác đã có chuyện gì.”
“Sao em lại nói thế?”
“Bởi vì sáng hôm sau, mẹ hỏi em về anh, và khi em kể cho mẹ nghe về cảm xúc của em, cuối cùng hai mẹ con đã tranh cãi tóe lửa, một trận cãi vã ra trò, một trong những trận cãi nhau tệ hại nhất giữa hai mẹ con. Thậm chí mẹ còn tát em. Em đã rất sốc, em không biết phải đáp trả thế nào. Và suốt lúc đó, mẹ cứ nhai đi nhai lại rằng em cư xử lố bịch ra làm sao, rằng em không biết em đang làm gì đâu. Nghe mẹ em nói thì có vẻ như mẹ giận dữ như thế là vì đối tượng của em là anh, nhưng giờ ngẫm lại, em biết bà sẽ vẫn khó chịu như thế bất kể đối tượng của em là ai. Bởi vì vấn đề không nằm ở anh, hay chúng ta, hay thậm chí họ của anh. Vấn đề nằm ở mẹ em. Mẹ biết em đang trưởng thành, và mẹ sợ mất quyền kiểm soát. Mẹ không biết xử lý chuyện này ra sao - hồi đó không và giờ cũng không.” Cô nhấp một ngụm rượu và hạ cái ly xuống, xoay xoay chân ly giữa các ngón tay. “Sáng nay mẹ bảo em rằng em là kẻ ích kỷ.”
“Bà ấy sai rồi.”
“Em cũng nghĩ như thế,” cô nói. “Dù sao thì ban đầu là thế. Nhưng giờ em không còn chắc chắn thế nữa.”
“Sao em lại nói thế?”
“Em không cư xử đích xác như một phụ nữ đã có chồng, không phải vậy sao?”
Anh nhìn cô, không nói câu gì, cho cô thời gian ngẫm nghĩ về những gì cô vừa nói. “Em có muốn anh đưa em quay lại không?” cuối cùng anh hỏi.
Cô lưỡng lự một lát rồi lắc đầu. “Không,” cô nói. “Thế mới là vấn đề. Em muốn đấy, bên cạnh anh. Mặc dù em biết làm thế là không đúng.” Cô cụp mắt xuống, hàng mi đen nổi bật trên gò má. “Chuyện đó có ý nghĩa gì không?”
Anh lướt ngón tay dọc theo mu bàn tay cô. “Em có thật lòng muốn anh trả lời không?”
“Không,” cô đáp. “Không hẳn. Nhưng nó... phức tạp lắm. Ý em là hôn nhân ấy.” Cô có thể cảm nhận được anh đang vẽ những nét vẽ tinh tế trên da cô.
“Em có thích cuộc sống hôn nhân không?” Dawson hỏi, giọng thăm dò.
Thay vì trả lời thẳng thắn, Amanda nhấp một ngụm rượu, trấn tĩnh lại. “Frank và người tốt. Dù sao thì, hầu như là thế. Nhưng hôn nhân không giống như mọi người vẫn nghĩ. Ai lại chẳng muốn tin rằng mọi cuộc hôn nhân đều ở trong thế cân bằng hoàn hảo, nhưng không phải như vậy. Luôn luôn có một người yêu người kia nhiều hơn. Em biết Frank yêu em, và em cũng yêu anh ấy... chỉ có điều không nhiều bằng. Và em sẽ chẳng bao giờ yêu sâu sắc được... bằng anh ấy.”
“Sao lại không?”
“Anh không biết à?” Cô nhìn anh. “Đó là vì anh. Em còn nhớ rõ, ngay cả khi bọn em đang đứng trong nhà thờ và em đã sẵn sàng đưa ra lời thề nguyện, em vẫn ước gì anh mới chính là người đứng ở đó chứ không phải là anh ấy. Bởi vì không những em vẫn yêu anh, mà còn yêu đến mức không thể nào đo đếm được, và thậm chí ngay từ hồi đó, em vẫn luôn ngờ rằng em sẽ chẳng bao giờ có thể cảm nhận về Frank theo cùng cách đó được.”
Dawson có cảm giác miệng khô khốc. “Vậy tại sao em lại lấy anh ta?”
“Bởi vì em nghĩ như thế là tốt lắm rồi. Và em hy vọng em có thể thay đổi. Rằng qua thời gian, có lẽ tình cảm của em đối với anh ấy có thể trở nên giống như tình cảm em dành cho anh. Nhưng em không làm thế được, và từ năm này sang năm khác, em nghĩ rằng anh ấy cũng bắt đầu nhận ra điều đó. Điều đó khiến anh ấy tổn thương, và em biết điều đó khiến anh ấy tổn thương, nhưng anh ấy càng cố tỏ ra cho em thấy em quan trọng đến mức này với anh ấy thì em lại càng cảm thấy ngột ngạt hơn. Và điều đó khiến em bực bội. Anh ấy khiến em bực bội.” Cô cau mày khi nói những lời này. “Em biết nói như thế này thì em chẳng khác gì một kẻ tồi tệ.”
“Em không tồi tệ,” Dawson nói. “Em thành thật.”
“Cứ để cho em nói hết, được không?” cô nói. “Em cần anh hiểu điều này. Em cần anh biết rằng em yêu anh ấy, và em yêu thương tổ ấm mà bọn em đã cùng nhau vun đắp. Frank si mê con của chúng em. Chúng là tâm điểm cuộc sống của anh ấy, và em nghĩ chính bởi vậy nên bọn em mới đau khổ đến thế khi mất Bea. Anh không biết cảm giác khủng khiếp khi chứng kiến con mình bệnh mỗi ngày một nặng trong khi mình chẳng thể làm gì để giúp nó được. Cuối cùng ta sẽ quay cuồng, cảm thấy cuộn lên mọi cung bậc cảm xúc, từ giận dữ với Chúa vì đã bội bạc với ta cho tới ý thức về sự thất bại và sự hủy hoại tuyệt đối. Tuy nhiên, cuối cùng, em đã có thể vượt qua nỗi đau. Còn Frank thì không bao giờ thật sự phục hồi. Bởi vì đằng sau toàn bộ chuyện này là một nỗi tuyệt vọng không đáy và nó... hút lấy ta. Tại nơi từng tràn ngập niềm vui ấy giờ chỉ còn là một cái hố đang há hoác miệng. Bởi vì Bea chính là như thế đó. Bea chính là hiện thân của niềm vui. Bọn em vẫn thường nói đùa rằng con bé được sinh ra từ cái tử cung đang mỉm cười. Từ hồi còn bé, con bé đã chẳng mấy khi khóc. Và điều đó chưa bao giờ thay đổi. Con bé lúc nào cũng cười; với nó, mọi thứ mới mở đầu là một khám phá đầy phấn khích. Jared và Lynn thường tranh nhau để giành được sự chú ý của con bé. Anh có tưởng tượng được chuyện đó không?”
Cô dừng lại, giống cô trở nên rời rạc. “Và rồi, tất nhiên, những cơn đau đầu kéo đến và con bé bắt đầu va đụng lung tung khi lẫm chẫm đi xung quanh. Vậy nên bọn em bắt đầu đến khám ở rất nhiều bác sĩ, ai cũng đều nói rằng họ chẳng thể làm gì cho con bé được.” Cô nặng nề nuốt nước bọt. “Sau đó chuyện cứ thế trở nên tệ hẳn. Nhưng con bé vẫn y như ngày xưa, anh biết không? Vẫn vui vẻ. Ngay cả khi sắp mất, khi đã gần như chẳng thể tự mình ngồi dậy được, con bé vẫn cười. Mỗi lần nghe thấy tiếng cười đó, em lại cảm thấy trái tim mình tan nát thêm nữa.” Amanda im lặng, thất thần nhìn ra khung cửa sổ tối đen. Dawson chờ đợi.
“Cuối cùng, em thường nằm trên giường cùng con bé hàng tiếng đồng hồ, chỉ để ôm lấy nó khi nó đang ngủ, và khi con bé thức giấc, hai mẹ con em nằm đó đối mặt với nhau. Em không hề xoay người đi được, bởi vì em muốn ghi nhớ hết thảy dáng vẻ của nó: mũi nó, cằm nó, những lọn tóc xoăn mảnh mai của nó. Và cuối cùng, thì con bé lại ngủ thiếp đi, em ôm ghì lấy nó, nức nở trước sự đời bất công.”
Khi Amanda nói xong, cô chớp mắt, dường như không ý thức được nước mắt đã chảy xuống hai bên má. Cô không làm gì để lau nước mắt, và Dawson cũng vậy. Thay vào đó, anh ngồi im như tượng, nuốt lấy từng từ.
“Sau khi con bé mất, một phần trong em cũng chết theo. Và suốt một thời gian dài, Frank và em gần như không thể nhìn thẳng vào mắt nhau được. Không phải vì bọn em tức giận, mà vì đau khổ. Em có thể nhìn thấy hình ảnh Bea trong Frank, và Frank có thể nhìn thấy hình ảnh con bé trong em, và điều đó không thể nào chịu đựng nổi. Bọn em gần như không thể tỉnh táo được, cho dù Jared và Lynn cần bọn em hơn bao giờ hết. Em bắt đầu uống hai ba ly rượu mỗi đêm, cố gắng làm mình tê dại, nhưng Frank còn uống nhiều hơn. Cuối cùng, em nhận ra chuyện này chẳng giúp ích được gì. Vậy nên em dừng lại. Nhưng với Frank, chuyện không dễ dàng như thế.” Cô dừng lại, day day sống mũi, ký ức đang làm sống dậy những dấu hiệu quen thuộc của cơn đau đầu. “Anh ấy không thể dừng được. Em cứ tưởng rằng việc có thêm một đứa con nữa, vết thương của anh ấy có thể được chữa lành, nhưng không hẳn vậy. Anh ấy là kẻ nghiện rượu, và mười năm nay anh ấy vẫn chỉ sống một nửa cuộc đời. Và đã đến cái mức em không biết làm sao để trả lại cho anh ấy nửa cuộc đời kia.”
Dawson nuốt nước bọt. “Anh không biết phải nói gì nữa.”
“Em cũng không. Em muốn tự nhủ lòng rằng nếu Bea chưa chết, chuyện này đã không xảy đến với Frank. Nhưng rồi em lại băn khoăn không biết sự suy sụp của anh ấy có phải một phần cũng do lỗi của em hay không. Bởi vì em đã làm anh ấy tổn thương bao nhiêu năm rồi, thậm chí trước cả khi xảy ra chuyện của Bea. Bởi vì anh ấy biết em không yêu anh ấy được như anh ấy vẫn yêu em.”
“Đó không phải lỗi của em,” anh nói. Ngay cả anh cũng cảm thấy những lời này không hề thỏa đáng.
Cô lắc đầu. “Anh thật tử tế khi nói như thế, và xét trên bề mặt, em biết anh nói đúng. Nhưng nếu anh ấy đang uống để trốn thoát thực tại này, vậy thì rất có thể đó cũng là cách để trốn thoát khỏi em. Bởi vì anh ấy biết em đang giận dữ và thất vọng, anh ấy biết không có cách nào xóa sạch được mười năm hối tiếc, cho dù anh ấy có làm gì đi chăng nữa. Và nào có ai lại không muốn trốn thoát khỏi điều đó chứ? Nhất là khi nó xuất phát từ người mà ta yêu? Khi tất cả những gì ta mong muốn là người đó cũng yêu ta sâu sắc như ta yêu họ?”
“Đừng như thế,” anh nói, dùng ánh mắt mình khóa chặt ánh mắt cô. “Em không thể đổ lỗi cho mình vì những vấn đề của anh ta và biến chúng thành vấn đề của mình được.”
“Nghe đúng kiểu người chưa từng kết hôn bao giờ.” Cô trao cho anh nụ cười méo mó. “Cứ để em nói nhé, càng kết hôn lâu, em càng nhận ra rằng chẳng có mấy thứ mãi mãi là đen và trắng. Và em không nói rằng nhưng vấn đề trong cuộc hôn nhân của em đều hoàn toàn là lỗi của em. Em chỉ nói rằng có lẽ đâu đó có một vài sắc xám. Cả hai chúng em, chẳng ai hoàn hảo cả.”
“Nghe có vẻ giống cách nói của một chuyên gia tâm lý đấy.”
“Có lẽ thế. Vài tháng sau khi Bea mất, em bắt đầu gặp chuyên gia tâm lý hai lần một tuần. Em không biết mình làm thế nào vượt qua được nếu không có cô ấy. Jared và Lynn cũng được đưa đến chỗ cô ấy, nhưng không lâu như em. Trẻ con có khả năng phục hồi nhanh hơn, em đoán vậy.”
“Về vấn đề này thì anh tin là em đúng.”
Cô tì cằm lên đầu gối, vẻ mặt phản ánh rõ sự rối loạn của cô. “Thực ra em chưa bao giờ kể cho Frank nghe về hai chúng ta.”
“Toàn bộ chuyện này. Ở đây, nhìn thấy anh. Chuyện này khiến em nhớ lại từng có thời em vẫn tin rằng mọi giấc mơ của em đều có thể trở thành sự thực. Đã lâu lắm rồi em không có cảm giác này.” Cô quay sang nhìn anh, khuôn mặt họ chỉ cách nhau vài phân. “Anh có nghĩ là chúng ta có thể làm được điều đó không? Nếu ngày xưa chúng ta bỏ đi và bắt đầu cuộc sống bên nhau?”
“Khó nói lắm.”
“Nhưng nếu phải đoán thì sao?”
“Có. Anh nghĩ chúng ta có thể làm được điều đó.”
Cô gật đầu, cảm thấy trong lòng có gì đó vụn vỡ trước câu trả lời của anh. “Em cũng nghĩ thế.”
Ngoài kia, một cơn gió mạnh bắt đầu quật nước mưa đập vào cửa sổ như nhưng nắm sỏi được ném tên. Radio vẫn dìu dặt tiếng nhạc đến từ một thời gian khác, hòa quyện với giai điệu mưa rơi đều đặn. Căn phòng ấm áp như một cái kén, và Amanda gần như tin rằng chẳng còn điều gì khác tồn tại nữa.
“Anh thường tỏ ra rụt rè,” cô lẩm bẩm. “Khi chúng ta lần đầu tiên cặp thành đôi trong lớp, anh gần như chẳng nói gì với em. Em cứ bật đèn xanh mãi, chỉ đợi anh mời em đi chơi, và cứ băn khoăn không biết liệu anh có bao giờ chịu làm thế hay không.”
“Em vốn xinh đẹp.” Dawson nhún vai. “Anh thì chẳng là gì cả. Bởi vậy anh mới căng thẳng.”
“Em vẫn còn khiến anh căng thẳng à?”
“Không,” anh nói, rồi ngẫm nghĩ lại. Một nụ cười nhẹ dãn ra trên khuôn mặt anh. “Có lẽ là một chút.”
Cô nhướng mày. “Em có thể làm gì không?”
Anh nắm tay cô lật đi lật lại, nhận thấy hai bàn tay họ vừa vặn đến mức hoàn hảo, hình ảnh ấy khiến anh nhớ lại anh đã từ bỏ những gì.
Mới tuần trước, anh còn thấy lòng mãn nguyện. Có lẽ không vui vẻ hoàn toàn, có lẽ hơi cô độc, nhưng mãn nguyện. Anh hiểu anh là ai và vị trí của anh ở đâu. Anh chỉ có một mình, nhưng đó là một lựa chọn tỉnh táo, và đến bây giờ anh vẫn không hề hối tiếc. Nhất là bây giờ. Bởi vì không ai có thể thay thế được vị trí của Amanda, vĩnh viễn không có ai.
“Em nhảy cùng anh nhé?” cuối cùng anh hỏi.
Cô trả lời với một nụ cười thấp thoáng, “Vâng.”
Anh nhổm dậy khỏi đi văng và dịu dàng đỡ lấy cô. Cô đứng lên, chân hơi run khi họ tiến ra giữa căn phòng nhỏ. Tiếng nhạc dường như lấp đầy căn phòng bằng sự khát khao, và trong một thoáng, cả hai người đều không biết phải làm gì Amanda chờ đợi, nhìn Dawson xoay người sang phía cô, khuôn mặt không sao dò thấu. Cuối cùng, đặt một tay lên eo cô, anh kéo cô lại gần. Cơ thể họ áp sát vào nhau và cô dựa vào anh, cảm nhận được bộ ngực vững chãi của anh khi anh vòng tay ôm lấy eo cô. Chậm rãi, họ bắt đầu xoay người và đu đưa.
Anh mang lại cho cô cảm giác thật thoái mái. Cô hít thở mùi hương của anh, sạch sẽ, chân chật cùng tất cả những gì lưu trong ký ức của cô. Cô có thể cảm nhận được phần bụng phẳng lì của anh, và chân anh áp vào chân cô. Nhắm mắt lại, cô ngả đầu vào vai anh, trong lòng cuộn trào ham muốn, thầm nghĩ đến đêm đầu tiên họ làm tình. Đêm đó, cô đã run lên, và giờ cô cũng đang run rẩy.
Bài hát đã kết thúc nhưng họ vẫn tiếp tục ôm lấy nhau khi một bài hát khác bắt đầu. Hơi thở của anh phả ra nóng hổi trên cổ cô và cô nghe tiếng anh thở ra, một kiểu phóng thích. Khuôn mặt anh sát lại gần hơn, và cô ngả đầu ra sau, buông bỏ hết thảy, chỉ mong sao điệu vũ này kéo dài mãi mãi. Muốn họ bên nhau mãi mãi.
Môi anh thoạt đầu sượt qua cổ cô, rồi lả lướt trên má cô, và mặc dù trong đầu vang lên tiếng chuông cảnh báo, cô vẫn căng người ra đón nhận sự động chạm êm ái ấy.
Rồi họ hôn nhau, thoạt tiên ngập ngừng, rồi say đắm hơn, bù đắp cho cả đời xa cách. Cô có thể cảm nhận được bàn tay anh phủ lên tay cô, lên khắp người cô, và cuối cùng khi họ cũng tách nhau ra, Amanda chỉ còn ý thức được duy nhất một điều, đã lâu lắm rồi cô mới cảm thấy nhức nhối thế này. Nhức nhối vì anh. Cô đắm đuối nhìn Dawson qua đôi mắt khép hờ, khao khát anh hơn bất kỳ ai cô từng quen biết, khao khát hết thảy của anh, ngay lập tức. Cô cũng có thể cảm nhận được khát khao của anh, và với một cử chỉ gần như đã được định trước, cô lại hôn anh thêm lần nữa trước khi dẫn anh tới phòng ngủ.
Dành Hết Cho Em Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks Dành Hết Cho Em