Chương 12
akov xoay xở dựng một bếp lò tạm trên cầu tàu ở Câu lạc bộ du thuyền Chernobyl rồi nấu bữa sáng với cá hun khói cùng cà phê đen cho Hoffman và Arkady. Tay súng mặc áo sơ mi làm lộ ra bao súng và dường như hài lòng với cảnh tàu rỉ sét chất đống ở trụ cầu.
Hoffman đấm liên tục vào ngực như Tarzan. “Giống như đang đi xuôi dòng sông Zambezi. Kiểu Nữ hoàng châu Phi ấy. Ngoại trừ bọn ăn thịt người ở đây đều là lũ Ukraine tóc vàng, mắt xanh.”
“Không phải anh đang có thành kiến đấy chứ?” Arkady hỏi.
“Chỉ đang nói về căn nhà tối tăm như hang động mà anh bạn tốt Vanko của anh đã tìm cho chúng tôi. Quên nhà bếp kiểu Do Thái đi,” Hoffman nói. “Ở đây chúng ta được ăn tối ngoài trời, ít nhất cho đến khi trời mưa.”
“Căn nhà có bị nhiễm phóng xạ không?”
“Không hẳn. Tôi biết, tôi biết, ở Chernobyl, nó được coi là khách sạn bốn sao.”
Arkady nhìn kỹ Hoffman. Chòm râu màu đỏ đã mọc kín cằm anh ta. “Anh không cạo râu à?”
“Họ muốn một người theo đạo Do Thái, vậy tôi sẽ cho họ một kẻ như thế. Ngược lại, trông anh như vừa bị một con gấu lạm dụng ấy.”
“Yakov nói tôi ổn.” Lúc mới tỉnh, Arkady đã tự kiểm tra vết thương. Các vết bầm tím song song rải đều từ bắp chân lên mạng sườn và mỗi khi quay đầu, anh lại có cảm giác nặng trịch.
Hoffman thích thú, “Với Yakov, trừ khi bị lòi xương ra, còn không thì anh vẫn ổn. Đừng đòi hỏi sự cảm thông từ Yakov.”
“Cậu ta ổn,” Yakov nói. Ông ta cạo lớp cháy dính ở đáy chảo và ném xuống nước. Lũ cá liền nổi lên đớp gọn chúng. “Cậu ta là người tốt.”
“Ý ông là…?” Arkady hỏi.
“Khờ dại,” Hoffman đáp. “Thân thiết với mọi người, giúp đỡ, tin tưởng họ sẽ chỉ khiến anh bị tổn thương. Anh có biết lũ nhóc đánh anh là ai không?”
“Tôi khá chắc là hai anh em nhà Woropay. Dân quân tự vệ. Yakov đã khiến chúng sợ.”
“Yakov thừa khả năng.”
Yakov ngồi xổm bên cạnh bếp lò, ngoại trừ khẩu súng đeo trên vai, ông ta trông hệt một lão già về hưu nhàn nhã cạnh dòng sông lững lờ, từng mảng xác tàu trôi vô định, từng đám mây sũng nước đang ùn ùn kéo đến. Arkady không biết Yakov hiểu được bao nhiêu hay có muốn hiểu không. Thi thoảng, ông ta đáp lại bằng tiếng Ukraine, đôi khi dùng tiếng Hebrew, có lúc lại chẳng nói gì, giống như chiếc đài cũ kỹ với các tần số khác nhau.
Hoffman nói, “Anh đã làm đúng một chuyện là không sợ hãi. Người Ukraine sẽ không tin tưởng một người Nga và một người Do Thái bằng hai gã dân quân tự vệ của họ. Bên cạnh đó, tôi không muốn Yakov mạnh tay. Tôi trả tiền để ông ta bảo vệ tôi, không phải anh. Nếu chúng thực sự đào bới xung quanh, có nghĩa là đã buộc Yakov trở lại thời kỳ chiến tranh Crime*. Anh có để ý thấy ông ta đội mũ chỏm* không? Đủ khiến bọn phi Do Thái phải chú ý.”
“Ông từng sống ở đây à?” Arkady hỏi Yakov, nhưng tay súng đang bận rộn lật cá; con cá được hun khói, nướng và cháy đen, còn gì có thể làm với nó nữa nhỉ, Arkady băn khoăn?
“Vậy là anh gặp người bạn Victor của chúng ta ở Kiev hôm qua,” Hoffman nói. “Anh ta trông phát đạt chứ?”
“Biến đổi.”
“Tốt hơn, bỏ qua chuyện đó đi. Điều cốt yếu là cả hai đã thấy con khỉ đột Obodovsky cùng nha sĩ của gã.”
“Cô nhân viên chăm sóc răng miệng của gã nữa.”
“Nhân viên chăm sóc răng miệng. Sao anh và Victor không học theo anh em Woropay và cho Obodovsky vài gậy? Bắt gã phải khai ra mình đang ở đâu lúc xe tải diệt côn trùng đến con hẻm phía sau tòa nhà của Pasha. Nếu anh không biết làm thế nào thì để Yakov giúp. Ông ta là chuyên gia đấy. Chắc hẳn phải có rất nhiều câu hỏi.”
“Vâng. Anh nói mình đã từng đến đây năm ngoái theo yêu cầu của Pasha Ivanov để xem xét khả năng kinh doanh nhiên liệu phóng xạ đã qua sử dụng.”
“Họ đã đóng thành từng gill*. Không lò phản ứng nào hoạt động nhưng có hàng tấn nhiên liệu bẩn. Thật điên rồ.”
“Nhưng lại không thể mua bán được?”
“Phải. Chuyện này thì có liên quan gì tới Obodovsky?”
“Anh đã nói chuyện với ai ở đây? Quan chức nào?” Arkady hỏi.
“Tôi không biết. Tôi không nhớ.”
“Chắc chắn nó phải liên quan tới hàng triệu đô la đầu tư. Anh trao đổi với giám đốc nhà máy, kỹ sư, bộ trưởng ở Kiev à?”
“Những người kiểu như thế, phải.”
“Anh buộc phải che giấu chuyện đó à?”
Hoffman híp mắt lại cho thấy anh ta đang tức giận.
“Những câu hỏi này là sao? Lẽ ra anh phải ở phe tôi chứ. Chuyện mua bán nhiên liệu không bao giờ thành công. Nó chẳng liên quan gì đến cái chết của Pasha hay Timofeyev cả. Hoặc cả Obodovsky.”
“Ăn nào, ăn nào.” Yakov đưa lên vài cái đĩa tự chế đựng cá nướng.
Hoffman hỏi, “Nếu tôi và Yakov đơn giản chỉ trở lại Kiev, yêu cầu Victor đưa tới chỗ Obodovsky và thổi bay đầu gã thì sao nhỉ?”
“Cà phê.” Yakov đặt xuống vài cốc thiếc đựng thứ nước như siro đen xì. “Trước khi trời mưa.”
Con cá có thớ thịt cứng như dây cáp ngầm dưới nước. Arkady nhấm nháp cà phê và dành thời gian để ngưỡng mộ khẩu súng Mỹ của Yakov, nòng 0.45, được lau chùi nhiều tới nỗi lớp mạ đã mòn vẹt, lộ cả lõi thép.
“Dùng tốt chứ?”
“Năm mươi năm rồi,” Yakov đáp.
“Chậm hơn một chút so với khẩu hiện đại.”
“Chậm có lẽ lại tốt. Ý tôi là cậu sẽ có thời gian ngắm chuẩn.”
“Lời khuyên khôn ngoan.”
“Sao không nện cho Obodovsky một trận?” Hoffman hỏi lại.
“Bởi vì Anton Obodovsky chỉ là một con tốt hạng bét và kẻ đã sắp đặt việc chuyển Xesi Clorua tới căn hộ của Pasha mới là kẻ cầm đầu. Họ không bị ngăn cản, có mã ra vào và né tránh được máy quay.”
“Đại tá Ozhogin à?”
“Chắc chắn ông ta là người trong Bộ phận an ninh của Ivanov.”
“Tôi muốn giết ông ta. Ông ta đã giết Timofeyev và Pasha.”
“Chỉ là Ozhogin chẳng bao giờ ở đây. Còn anh thì đã từng và sẽ không cho tôi biết lý do. Anh định ở đây bao lâu?”
“Tôi không biết. Chúng tôi đang tận hưởng, cắm trại ngoài trời, có gì phải vội chứ?”
Có vẻ không giống Hoffman. Anh ta ngồi trên cái chắn bùn ô tô gặm xương cá, giống như một người đột nhiên có thừa tính kiên nhẫn.
“Cảm ơn vì tách cà phê.” Arkady bước lên cầu tàu.
“Bố tôi từng ở đây,” Yakov nói.
“Ồ?” Arkady dừng lại.
Yakov tìm kiếm trong túi áo, châm nửa điếu thuốc mình đã cất đi. Ông ta nói bằng giọng tự nhiên như thể mọi chi tiết đều hiện rõ trong đầu. “Chernobyl từng là một thành phố cảng, trung tâm của người Do Thái. Khi Hồng quân tiếp quản nước Nga, Ukraine được tự do. Người Ukraine đã xua toàn bộ dân Do Thái lên tàu và đánh chìm họ, nhấn họ xuống nước, dùng súng máy bắn chết bất kỳ ai cố bơi vào bờ.”
“Như tôi đã kể với cậu,” Hoffman nói với Arkady, “đừng đòi hỏi bất kỳ sự thông cảm nào từ Yakov.”
Victor gọi điện cho Arkady và thông báo rằng mình đã bị mất dấu Anton Obodovsky ở sòng bạc đêm qua.
“Kiev cũng khốn nạn như Matxcova. Anh phải mua thẻ thành viên với giá một trăm đô la ở quầy lễ tân trước khi chúng cho anh đặt chân vào. Anh phải trả tiền cho quyền bị mất tiền. Anton đã vào và ra bằng cửa sau trong khi tôi đang bị vướng ở cửa trước. Gã ta đang âm mưu gì đó. Tôi chỉ cảm thấy tiếc cho Galina.”
“Galina?”
“Nhân viên chăm sóc răng miệng. Hoa hậu hoàn vũ? Cô ta như một đứa trẻ đáng yêu. Có chút thực dụng.”
“Răng của Anton thế nào?” Arkady hỏi.
“Bình thường.”
“Anh đang ở đâu?”
“Quán cà phê, phòng trường hợp Anton quay lại. Mưa như trút nước. Anh có biết người châu Âu làm gì khi trời mưa không? Họ dành cả ngày bên tách cà phê. Rất tao nhã.”
“Nghe giọng anh cứ như đang có kỳ nghỉ thú vị ấy. Hãy đến đại lý du lịch đối diện phòng khám nha khoa và kiểm tra xem Anton có mua vé đi đâu không. Đồng thời, tôi biết chúng ta từng tìm hiểu Ivanov và Timofeyev đã làm gì trong suốt thời gian thảm họa xảy ra ở Chernobyl, nhưng tôi vẫn muốn anh tìm hiểu lại.”
“Chúng ta đều biết rồi. Họ chẳng làm gì. Lúc đó họ chỉ là hai thần đồng đang nghiên cứu ở Matxcova.”
“Về cái gì, cho ai?”
“Vớ vẩn, chuyện đó xưa rồi. Theo luật lệ của nước Nga mới thì: Những triệu phú bị giết là vì tiền.”
“Dù sao, tôi sẽ đánh giá cao nếu anh làm chuyện đó.” Arkady gọi điện từ con đường cạnh bờ sông. Qua tàng cây cối, anh có thể quan sát Hoffman và Yakov trên cầu tàu. Yakov trầm ngâm nhìn xuống mặt nước, còn Hoffman đang nghe điện thoại. “Anh đã chuyển bao nhiêu thông tin cho Bobby?”
Sau phút bối rối nhất thời, Victor nói, “Lyuba gọi. Tôi giải thích tình hình cho cô ấy và cô ấy phân tích cho tôi. Rồi cô ấy nói, Hoffman đang trả tiền cho tôi.”
“Anh báo cho anh ta mọi chuyện à?”
“Khá nhiều. Nhưng tôi cũng báo hết với anh mà không lấy một xu.”
“Bobby đang sử dụng tôi như một con chó săn. Anh ta chỉ ngồi và chờ đợi cho đến khi tôi lôi thứ gì đó ra ánh sáng.”
“Anh làm việc còn anh ta được lợi à? Tôi nghĩ nó được gọi là chủ nghĩa tư bản.”
“Còn chuyện nữa. Vanko ngưỡng mộ cách Alex kiếm tiền trong suốt thời gian nghỉ ở Chernobyl bằng cách làm biên phiên dịch tại một khách sạn ở Matxcova. Chẳng có gì đáng xấu hổ cả. Nhưng Alex lại nói anh ta chẳng làm gì ngoài công việc giảng dạy được trả rất ít tiền hay thậm chí là không hề được trả công. Một nghịch lý nho nhỏ và có lẽ không phải việc của tôi.”
“Đó chính là điều tôi đang nghĩ.”
Arkady xòe tay ra, hứng một giọt mưa. “Bắt đầu bằng cách gọi điện cho các khách sạn ở Matxcova có phục vụ doanh nhân đến từ phương Tây - Aerostar, Kempinsky và Marriott - theo thứ tự. Chuyện này sẽ rất tốn kém. Hãy gọi từ khách sạn anh đang ở và tính vào tài khoản của Bobby.”
“Những lời kỳ diệu. Vậy là tôi có thể ngồi một chỗ và uống cà phê trong lúc làm việc đó hả?”
“Giống như bất kỳ ai.”
Trước khi cơn mưa trở nên nặng hạt, Arkady lái xe trở lại ngôi làng cấm mà Timofeyev được tìm thấy. Arkady đã tới đây khoảng hai mươi lần và mỗi lần, anh đều cố gắng tưởng tượng bằng cách nào vị triệu phú Nga đến được cổng một nghĩa trang trong Khu vực cấm. Anh cũng cố hình dung bằng cách nào mà anh chàng dân quân tự vệ Katanay và một ‘người cư trú bất hợp pháp’ lại phát hiện ra thi thể của Lev Timofeyev. Liệu người đó có phải chính là người nhặt rác được vớt lên từ hồ làm mát không? Lúc này, cả ba đều đã biến mất, Timofeyev và Hulak chết, còn Katanay thì mất tích. Chiếc BMW của Timofeyev được tìm thấy vài ngày sau đó giữa đám xác trực thăng ở bãi đỗ nhiễm phóng xạ. Các dữ kiện này chẳng có ý nghĩa gì. Mặt khác, bầu không khí thì lại rất hoàn hảo, trận mưa xối xả từ đám mây đen kịt và sấm chớp đì đùng, giống hệt ngày cuối cùng của Timofeyev.
Arkady xuống xe ở khoảng trống mà Eva Kazka đã tổ chức buổi khám bệnh ngoài trời. Từ chỗ này sẽ thấy được hai nghĩa trang. Một chính là bản thân ngôi làng với cửa sổ vỡ lỗ chỗ cùng mái nhà đổ nát. Cái còn lại chính là một nghĩa địa với những cây Thánh giá đơn giản bằng kim loại sơn xanh hoặc trắng, một số có gắn bảng, một số lại có ảnh lồng trong khung hình bầu dục, vài cái được trang trí bằng hoa nhựa sáng màu. Giữ mãi ngọn lửa vĩnh hằng, Arkady thầm nghĩ, mang cho tôi hoa nhựa.
Maria Panasenko hiện ra từ một góc nghĩa trang. Anh rất ngạc nhiên vì một biển báo hình thoi ở cổng cho biết nghĩa trang bị nhiễm xạ quá nặng, không được vào trong và các cuộc thăm viếng bị giới hạn chỉ mỗi năm một lần. Maria quàng một chiếc khăn dày để tránh mưa, ngoài ra bà trông vẫn giống hệt thiên thần cổ xưa, người đã thết đãi bữa tiệc samogon say mèm hai đêm trước. Maria cầm một lưỡi hái, trên vai là bao bố đựng đầy cỏ và bụi gai, bà từ chối nhờ Arkady vác hộ. Đôi tay bà nhỏ nhắn, cứng cáp và cặp mắt xanh vẫn tỏa sáng ngay cả dưới cơn mưa xám xịt.
“Hàng xóm của chúng tôi.” Bà nhìn khắp nghĩa trang một lượt. “Tôi tin chắc họ sẽ làm tương tự cho chúng tôi.”
“Nó được giữ gìn rất tốt,” Arkady nói. Giống một phòng chờ ấm áp để đi lên thiên đường.
Bà nhoẻn cười, khoe hàm răng bằng thép. “Roman và tôi luôn lo sợ nó không phải chỗ tốt cho chúng tôi. Giờ, chúng tôi đã có lựa chọn.”
“Vâng.” Niềm an ủi trong cơn bĩ cực.
Bà nghiêng đầu. “Dầu sao cũng thật buồn. Cả ngôi làng chết hết, giống như kết thúc của một cuốn sách. Chính là thế, chẳng còn ai nữa. Roman và tôi có lẽ là những trang cuối cùng.”
“Hai người còn rất nhiều năm nữa mà.”
“Đủ dài rồi, nhưng vẫn cảm ơn cậu.”
“Tôi đang băn khoăn, dân quân tự vệ nào thích loanh quanh ở đây nhỉ?”
“Ồ, chúng tôi không gặp họ nhiều.”
“Người cư trú bất hợp pháp?”
“Không.”
“Liệu có tình cờ có người mang họ Obodovsky nào chôn cất trong nghĩa trang không?”
Maria lắc đầu và bảo bà biết tất cả mọi người trong những ngôi làng xung quanh. Không ai mang họ Obodovsky. Bà liếc nhìn bao tải. “Xin lỗi, tôi phải mang thứ này về trước khi chúng bị ướt. Cậu nên rẽ vào uống ly rượu.”
“Không, không, cảm ơn bà.” Nghĩ tới samogon làm anh sợ toát mồ hôi.
“Cậu chắc chứ?”
“Vâng. Tôi sẽ đến vào ngày khác nếu có thể.”
“Đừng ở ngoài trời mưa.”
“Vâng.”
Anh đợi bà đi khuất trước khi để tâm trí quay trở lại với Timofeyev và ngày ông ta bị giết. Arkady có quá ít thông tin đáng tin cậy, chủ yếu là lúc phát hiện ra xác Timofeyev, ông ta đang nằm ngửa mặt trên bùn ở cổng nghĩa trang, cổ bị cắt, mắt trái bị mất, cả đầu tóc và áo đều không dính máu nhưng máu lại đóng cục ở mũi. Và chiếc BMW của ông ta được tìm thấy ở bãi đỗ trực thăng bị nhiễm xạ. Arkady không có cơ sở nào để hỏi tại sao; tất cả những gì anh thắc mắc là bằng cách nào. Liệu Timofeyev có tự lái xe đến ngôi làng hay có người đã đưa ông ta tới? Đi xung quanh để tìm kiếm nghĩa trang hay bị đưa thẳng tới đó? Nếu có một thám tử có thẩm quyền tại hiện trường, liệu anh ta có tìm được vết bánh xe, vết máu, dấu vết kéo lê đôi giày lúc cái xác bị kéo đi hay bùn trong giày của người chết không? Hoặc ít nhất là dấu chân; báo cáo cho biết có rất nhiều vết chân sói, tại sao không có dấu giày? Nếu đã nhắc đến tại sao, liệu có phải Timofeyev là mục tiêu của một âm mưu hay là món béo bở vô tình lọt vào tay anh chàng Katanay đang mất tích?
Arkady lại bắt đầu lần nữa từ khu vực trống của làng, nơi hợp lý nhất cho một chiếc xe đỗ lại; từ chỗ này tới nghĩa trang, con đường thu hẹp thành một lối đi bộ. Rèm cửa bị vạch ra từ một trong số ít những ngôi nhà đang có người ở và trước khi đóng lại, anh kịp thoáng nhìn thấy Nina, hàng xóm của Maria, đang đứng chống nạng. Làm sao có chuyện xảy ra dưới con mắt cảnh giác của những người sống sót mà không bị phát hiện? Mặc dù bọn họ đều thề không thấy gì.
Rẽ vào lối đi bộ, Arkady cứ đi vài bước lại dừng, vạch lá và bụi cây sang một bên để tìm kiếm dấu chân hoặc vết máu như anh vẫn làm hàng chục lần trước đây, dù chẳng có kết quả gì. Anh dừng ở cổng nghĩa trang, tưởng tượng cảnh Timofeyev đứng, quỳ và nằm ngửa. Nếu có ảnh chụp thì thật hữu ích. Hoặc biểu đồ hay phác họa. Thay vào đó, lực lượng tự vệ lại giày xéo hiện trường và mưa đã cuốn trôi bất kỳ dấu vết vật lộn hay vệt máu nào nếu có. Lúc này, Arkady chẳng khác gì một con chó đang cố lần theo mùi hương cũ. Tuy nhiên sẽ luôn luôn còn lại gì đó. Du khách đến thăm những ngọn đồi nghiêng ở Borodino vẫn cảm nhận hơi thở của lính bắn súng Nga và Pháp bên dưới lớp cỏ. Cớ sao không có tiếng vọng nào về giây phút cuối cùng của Timofeyev chứ? Và tại sao không phải là linh hồn của những người được chôn cất trong khoảnh đất này của ngôi làng? Cho dù đó là những mảnh đời đơn giản thì vẫn cứ là cuộc đời, quẩn quanh vài cánh đồng và vườn hoa quả, cách xa phần còn lại của thế giới như đã hàng thế kỷ.
Arkady mở cổng. Nghĩa trang là ngôi làng thứ hai của những ngôi mộ nhỏ và Thánh giá, chia cắt với bên ngoài bằng hàng rào sắt. Vài ngôi mộ hầu như chỉ vừa đủ chỗ để đặt chân, trong khi một hoặc hai ngôi lại rộng tới nỗi đặt vừa cả bộ bàn ghế, nhưng không có hầm mộ nào ấn tượng hoặc bằng đá; sự giàu có hầu như không có mặt trong cuộc sống hay cái chết ở cộng đồng nơi đây. Maria đã cần cù dọn sạch cỏ quanh những cây Thánh giá ở một phía của nghĩa trang và những ngôi mộ không có Thánh giá đặt bốn lọ thủy tinh cắm hoa bướm màu tím, xanh và trắng ở mỗi góc của một ụ đất hiu hắt. Mộ của người cư trú bất hợp pháp. Tội ác mới to lớn làm sao?
Máu. Eva nói có vẻ Timofeyev đã bị chảy nhiều máu. Có thể xác bị đông cứng sẽ đánh lừa thị giác, nhưng Arkady sẵn lòng tin tưởng cô đã chứng kiến nhiều thứ bạo lực hơn hầu hết các bác sĩ và một bên mắt của Timofeyev nhìn trừng trừng qua một lớp băng đá hẳn đã gợi cho cô nhớ về Chechnya hơn một vụ nhồi máu cơ tim. Câu hỏi duy nhất là khi Timofeyev bị cắt cổ thì máu chảy đi đâu? Nếu ông ta đang đứng máu sẽ dính vào sơ mi. Nếu gập người xuống, máu sẽ dính vào tóc. Chi tiết máu bị đông cứng đầy mũi có thể liên tưởng ông ta đang gập người, vậy là sau đó mặt và tóc ông ta được rửa sạch. Còn mắt? Liệu có phải bị sói ăn mất? Trừ khi ông ta bị treo ngược lên và sau đó, tóc được gội sạch lại, Arkady suy luận. Mặc dù được gội sạch, nhưng chắc hẳn vẫn có vài vết máu bầm xung quanh đầu, song có thể sẽ bị nhầm lẫn với vết bỏng do đông lạnh.
Arkady đứng chống tay vào cổng và trong khoảnh khắc chợt bắt được bóng dáng của một điều gì đó, thứ đang nằm ngay trước mắt anh rồi bất chợt biến mất, bị xua đuổi bởi tiếng mưa rơi lộp bộp cùng tia chớp báo hiệu cơn mưa rào.
Ngôi làng cấm kế bên hoàn toàn không có người ở, nghĩa trang của làng nằm sâu trong đám bụi gai và cỏ dại. Arkady đã trông chờ sự so sánh sẽ mang lại vài điều hữu ích, nhưng thứ anh tìm được từ lúc xuống xe đi bộ loanh quanh là những ngôi nhà mục nát, hết sức u ám dưới lớp mây đen. Mùi của loại nấm mọc từ đống mục nát ganh đua quyết liệt với mùi ung ủng của táo thối. Ngay chỗ lợn rừng đào bới tìm nấm, máy đo trong túi Arkady chợt réo vang. Anh nghe tiếng đồ đạc bị dịch chuyển trên sàn trong ngôi nhà trước mặt và tự hỏi ai sẽ lao tới chiếc xe nhanh hơn, con người hay lợn rừng? Đột nhiên anh thầm ước có con dao săn của đại úy Marchenko hay tốt hơn nữa là khẩu súng của Yakov.
Ngôi nhà phát ra tiếng rít như tiếng ống xả xe máy và một tay lái đội mũ bảo hiểm, mặc quân phục cùng chiếc xe nhỏ hiện ra. Gã vượt qua đám mảnh vỡ trong sân cùng hàng rào cọc nhọn đổ nát, rồi tạm dừng để nhanh chóng hạ kính mũ bảo hiểm xuống. Chiếc xe không có thùng chứa tượng và gắn biển số, nhưng đó chính là chiếc Suzuki màu xanh và một bên đèn xi nhan bị gãy đến sát tấm chắn bùn. Arkady vẫn giữ nó trong túi áo.
“Anh đang tìm thêm tượng để ăn trộm hả?” Arkady hỏi. Tên trộm đáp trả cái nhìn của Arkady như muốn nói, “Lại là anh à?” và lao đi. Lúc Arkady chạy tới xe của anh thì tên trộm đã chạy được nửa đường ra khỏi ngôi làng.
Xe của Arkady to hơn, chạy nhanh hơn nhưng anh lại không phải tay lái giỏi. Tên trộm rời khỏi làng, chạy vào đường mòn nhỏ do những người đi kiếm củi tạo nên. Chỗ nào cành cây gãy đổ một nửa, gã liền cúi người xuống, chỗ đường bị bịt kín, gã khéo léo trượt qua. Arkady bị những cành nhỏ quất vào người, và bị hất khỏi yên xe bởi một cành sồi mọc chìa ra. Tên trộm vẫn yên ổn, đó mới là vấn đề. Anh leo lên xe, lắng nghe tiếng động cơ của chiếc Suzuki. Mưa quất ràn rạt vào lá cây. Hàng phong ngả nghiêng trong gió. Không gợi ý nào cho biết phương hướng tên trộm đã đi.
Arkady tắt máy, dắt xe và với tốc độ thong thả này, anh đã tìm thấy dấu vết của chiếc xe trên đám lá ướt bên dưới; sự ẩm ướt giúp lưu giữ dấu chân và vệt bánh xe tốt hơn. Khi tới chỗ ngã ba, anh đã rẽ sai đường, đi khoảng năm mươi mét trước khi cắt ngang rừng cây về đúng hướng và thấy tên trộm đang đứng chờ phía sau tán lá lấp lánh của bụi linh sam. Nền đất rừng phủ đầy lá kim ướt rất êm và tên trộm hoàn toàn tập trung vào con đường mòn cho đến khi hàm sắt của một cái bẫy bật lên từ mặt đất và sập vào ngay sát chân Arkady. Tên trộm quay sang nhìn cảnh tượng sinh động của Arkady, chiếc xe lẫn cái bẫy một giây trước khi quay ngược lại con đường mòn ban nãy.
Tên trộm chạy phía trước nhưng Arkady không hoàn toàn mất dấu gã, bởi vì miễn là anh giữ xe trong tầm nhìn thì anh vẫn có thể tránh được các chướng ngại vật. Đồng thời, Arkady tận dụng những lúc gã loạng choạng, tăng tốc bám sát hơn, lạng lách trên đường và len lỏi xuyên qua khoảng rừng thông cho đến khi lao thẳng vào ngôi làng nơi họ gặp nhau. Ở phía xa là con đường vốn được bên lâm nghiệp quy hoạch nhưng giờ mọc đầy cây con cao ngang ngực của cánh rừng tái sinh. Tên trộm coi đó như đường đua trượt băng, liệng hết bên này đến bên kia. Arkady lao thẳng qua đám cây con nhằm rút ngắn khoảng cách.
Lúc Arkady gần đuổi kịp thì tên trộm liền bỏ con đường, rẽ vào hàng thông cháy đỏ quạch, bên ngoài Rừng Đỏ. Và xuyên qua một cánh đồng chi chít biển cảnh báo phóng xạ của những ngôi nhà, ô tô lẫn xe tải bị chôn vùi. Arkady liên tục bị lọt vào chỗ trũng, vòng tránh ra rồi lại lọt xuống trong khi tên trộm nhẹ nhàng lướt qua chúng với những cú lộn xe điệu nghệ. Cứ như vậy, gã dần cách xa cho đến khi bánh trước của Arkady lao xuống con mương khuất bên dưới và hất anh ngã nhào về đằng trước. Anh lồm cồm bò dậy nhưng cuộc đua đã kết thúc. Tên trộm biến mất về hướng Chernobyl lúc đường chân trời rùng mình sáng rực, tiếp theo là tiếng sấm nổ đanh gọn báo hiệu cuối cùng cơn bão cũng đã tới.
Khi mưa rơi xuống, ánh đèn của thành phố dường như bị chết đuối. Mái tóc ướt sũng, mềm rũ xõa xuống trán Arkady. Anh chạy xe qua làn ánh sáng mời mọc của quán cà phê, nghe tiếng cửa đóng sầm khi có người vào. Cửa sổ đọng đầy hơi nước. Không ai trông thấy anh. Anh lái xe qua khu tập thể, bãi đỗ xe trở nên thật quyến rũ trong mưa. Anh chạy xe dưới những cành cây oằn mình bật lên bật xuống trong gió. Anh tưởng tượng cảnh Victor đang tránh bão trong quán cà phê ở Kiev, chia sẻ chỗ ngồi với lũ bồ câu. Bộ quân phục của Arkady ướt lạnh dính chặt vào ngực và vai. Một chiếc xe tải chạy qua, cần gạt nước khua liên tục, và anh nghi ngờ tài xế đã chú ý đến mình.
Anh rẽ vào con đường dẫn ra bờ sông, nơi anh sẽ có cái nhìn toàn cảnh về cơn bão. Hơi nước bốc lên nhưng Arkady vẫn có thể thấy Hoffman, Yakov và xe của họ đã rời khỏi cầu tàu. Những con tàu đắm như nổi lên trong sương mù mỗi khi có sấm chớp. Xa xa bờ sông là một bức tranh phác thảo mờ mịt của hàng dương và lau sậy, nhưng dọc lên phía thượng nguồn, cây cầu dẫn tới ánh đèn hiu quạnh trong khu nhà ở của nhân viên vẫn còn hiện rõ. Nhờ ánh chớp nên Arkady có thể nhìn rõ mà không cần bật đèn pha. Anh qua cầu, chạy dọc con đường cho đến khi đi hết những tòa nhà bằng gạch vững chắc trên nền đất xốp xây ở hai bên, ngoại trừ vết bánh xe dẫn tới nơi đã từng là khu thể thao nhưng giờ bị phủ kín bởi cây hương bồ và dương xỉ.
Arkady tắt máy, dắt xe đi theo vết bánh xe dưới tán cây tối tăm tới một gara được xây dựng từ thời thép lượn sóng còn được ưa chuộng. Cánh cửa cài hờ bằng một chiếc khóa móc và kêu cót két lúc bị đẩy ra, nhưng với tiếng sấm sét từ mọi hướng, anh nghi ngờ chẳng ai có thể nghe thấy ngoại trừ tiếng bom nổ. Arkady quét đèn pin vào đồ đạc bên trong. Nhà xe chật kín song rất có trật tự: Đồ ngũ kim đựng trong lọ đặt trên kệ, dụng cụ cầm tay treo thành từng hàng trên tường. Ở giữa là con Moskwich màu trắng của Eva Kazka. Bên cạnh là chiếc xe máy Suzuki, động cơ vẫn còn ấm, bên dưới tấm bạt phía bên kia là thùng xe bị tháo rời. Lấy đèn xi nhan mà anh đã bẻ gãy từ xe của tên trộm tượng trong túi ra và gắn lên vết gãy ở thanh chắn bùn xe của Eva. Hoàn toàn khớp.
Làn khói từ củi cháy dẫn tới căn nhà nhỏ dựng giữa đám cây phong. Qua cửa sổ, Arkady trông thấy một cây đàn piano kiểu đứng và khe hở sáng rực của một bếp lò. Anh gõ cửa, nhưng tiếng sấm nổ ran như tiếng súng bao vây khắp nơi, lấn át mọi âm thanh. Anh đẩy cửa đúng lúc chớp lóe lên phía sau, qua khung cửa bằng kính nhấp nháy, anh có thể thấy đồ vật bên trong gồm một tấm thảm, bộ bàn ghế đan bằng liễu gai, giá sách cùng những bức tranh. Căn phòng lại chìm vào bóng tối. Anh bước vào trong, lúc bầu trời vỡ òa và cả căn phòng sáng rực như chiếu đèn pha lần nữa, Eva đứng ở giữa tấm thảm với cây súng trong tay. Cô đi chân trần, áo choàng khoác vội làm lộ ra vùng bụng cùng cặp chân trắng nõn. Khẩu súng là loại 9mm và có vẻ cô rất quen thuộc với nó.
Eva nói, “Ra ngoài hoặc tôi sẽ bắn.”
Cánh cửa bị gió đóng sầm lại và trong một thoáng, Arkady nghĩ là cô đã bắn. Cô dùng tay kia kéo hai vạt áo lại.
“Là tôi,” anh lên tiếng.
“Tôi biết.”
Trong khoảnh khắc tối tăm, Arkady bước lại gần hơn, kéo cổ áo cô sang một bên, hôn lên vết sẹo trên cổ cô mà lần trước anh đã phát hiện ra. Cô gí nòng súng vào đầu anh lúc anh đẩy vạt áo ra. Ngực cô nhỏ và lạnh như đá cẩm thạch.
Anh nghe tiếng khẩu súng kêu lách cách, hoặc là bóp cò hoặc gạt chốt an toàn. Nhũ hoa sẫm màu của cô cứng lại lúc anh hôn lên chúng và anh cảm nhận thấy một luồng run rẩy chạy dọc chân cô. Cô ấn chặt báng súng vào đầu anh, giữ anh ở nguyên đó.
Giường của cô nằm ở phòng trong, có bếp lò riêng đang tỏa ra hơi ấm dịu dàng. Anh không biết họ tới đó bằng cách nào. Đôi khi cơ thể tự biết phải làm gì. Trong trường hợp này là cả hai. Eva xoay người đè lên anh lúc anh trượt vào trong cô cho đến khi đầu cô ngửa ra sau, mồ hôi như lớp phấn mỏng viền quanh mắt, cơ thể cô căng cứng và siết chặt như thể cô sắp sửa biến đổi, như thể tất cả sự điên cuồng anh phát hiện ở cô đã trở thành ham muốn ngấu nghiến, tham lam. Anh cũng hệt như vậy. Họ là hai người chết đói ăn chung cùng một bát.
Cơn bão cuồng loạn chuyển sang mưa đều đều. Eva và Arkady ngồi ở hai đầu giường. Trong ánh sáng của ngọn đèn dầu, trông cô như bức tranh biếm họa với đôi mắt đen, tóc đen và khẩu súng đen trong tay.
“Cô vẫn định bắn tôi à?” anh hỏi.
“Không. Trừng phạt sẽ chỉ khuyến khích anh thôi.” Cô liếc nhìn những vết xước và bầm tím của anh với con mắt của bác sĩ.
“Một trong số chúng là nhờ cô mà có đấy,” anh nói.
“Anh sẽ sống thôi.”
“Tôi cũng nghĩ thế.”
Cô mơ hồ chỉ vào giường lúc này như một bãi chiến trường. “Chuyện này không có bất cứ ý nghĩa gì.”
“Với tôi, nó có nghĩa là một thỏa thuận tuyệt vời.”
“Anh làm tôi ngạc nhiên.”
Anh nghĩ về nó. “Không. Tôi quyến rũ cô là chuyện không tránh khỏi.”
“Cuốn hút như nam châm?”
“Đại loại như thế.”
“Anh đã từng thấy hai con chó đồ chơi làm bằng nam châm chưa? Tại sao chúng lại hút nhau? Không có nghĩa là chúng thèm muốn nhau. Dù sao thì anh cũng không cần lo lắng.”
“Về chuyện gì?”
“Đã có biện pháp phòng ngừa.”
“Nghe có vẻ trịnh trọng nhỉ.”
“Chính xác.”
Ngọn đèn tỏa ra thứ ánh sáng mờ mờ nhưng anh vẫn nhìn rõ mớ hỗn độn dễ chịu: gối, sách và thảm chồng chất lên nhau. Một khung ảnh chụp cặp vợ chồng già đứng trước một ngôi nhà; Arkady phải nhìn tới hai lần mới nhận ra đó là nơi đổ nát cô đã giấu xe máy. Những bức ảnh khác chụp một cô giáo dạy múa ba lê, con mèo mướp, nhóm bạn đang trượt tuyết, ai đó bịt mắt đứng trên bãi biển. Tấm áp phích buổi hòa nhạc của nhóm Stone ở Paris. Một bộ ấm trà cùng bánh mì đen, mứt, dao, thớt và mảnh vụn bánh mì. Nói chung, đó là một căn nhà ấm áp.
Arkady hất hàm về phía khẩu súng. “Tôi có thể lau chùi nó cho cô. Tôi có thể bịt mắt tháo rời và lau chùi nó từ năm lên sáu tuổi. Đó là điều duy nhất bố tôi dạy.”
“Một kỹ năng hữu dụng.”
“Ông ấy cho là thế.”
“Anh và Alex có nhiều điểm chung hơn anh tưởng.”
Cùng là đàn ông, có điểm chung là hiển nhiên, nhưng anh cảm giác Eva có hàm ý sâu hơn. “Như thế nào?”
Eva lắc đầu. Không, cô không muốn nói về đề tài này. Thay vào đó, cô nói, “Anh ta là hai con người khác nhau. Đã từng và sẽ là.”
“Tôi không cho mình là người đàn ông duy nhất trên thế giới.”
“Còn tôi thì vẫn yêu Alex.”
“Tôi không nghi ngờ điều đó.”
“Anh ta nói chuyện này sẽ xảy ra.”
“Alex là người thông minh,” Arkaday nói.
“Alex là kẻ điên.”
“Cô đã làm anh ta nổi điên à?”
“Bằng cách ngủ với người đàn ông khác ư? Nó chẳng có ý nghĩa gì. Ngoài ra, cũng không có nhiều người. Tôi đang rất cần một điếu thuốc.”
Arkady tìm thấy hai điếu cùng một gạt tàn và đặt vào giữa giường.
Eva nói, “Anh có biết gì về tự tử không? Ý tôi là ngoài cách cắt cổ hay cổ tay.”
“Ồ, tôi sinh ra từ một lịch sử dài về tự tử mà. Bố mẹ tôi. Cô có thể cho là nó đã xảy ra rất nhanh, nhưng không, đầu tiên họ sinh tôi ra và sau đó tự sát.”
“Anh…?”
“Không thành công. Dù sao thì lúc này chúng ta cũng đang ở Chernobyl. Tôi nghĩ chúng ta đã đủ nỗ lực. Còn cô…?”
Cô gạt luôn, không để anh dẫn dắt. “Cuộc điều tra của anh thế nào rồi?”
“Có lúc như hiểu ra. Các triệu phú thường bị giết vì tiền. Nhưng tôi không chắc là có đúng trong trường hợp này không.”
“Có gì không đúng à?”
“Phải. Lúc đầu tôi đoán cái chết của Ivanov và Timofeyev có liên quan. Tôi vẫn nghĩ thế nhưng theo một cách khác. Có lẽ có nhiều mối quan hệ song song hơn.”
“Nó có nghĩa là bất cứ điều gì. Hôm nay, anh làm gì ở ngôi làng đó?”
“Tôi đang xem xét nghĩa trang ở ngôi làng của Roman và Maria, rồi bắt đầu băn khoăn không biết chính thức có bao nhiêu người bị chết do thảm họa trong các ngôi làng trong Khu vực cấm. Tôi có thể nhận ra tên trên Thánh giá. Tuy không đọc nhưng tôi phát hiện ra có bốn ngôi mộ không được đề tên.”
“Trẻ con và cháu chắt. Bởi những nguyên nhân khác nhau không chính thức liên quan đến Chernobyl. Một gia đình bị phân tán và chẳng còn ai để chôn cất người chết, ngoại trừ ông bà chúng, những người đã đưa chúng về nhà. Không ai thống kê hết. Có bốn mươi mốt người chết chính thức và nửa triệu người không chính thức do thảm họa. Một danh sách chính xác thì phải dài tới tận mặt trăng.”
“Vì thế tôi đi tới ngôi làng kế bên, nơi tôi gặp cô. Cô đang làm gì với chiếc xe máy trong ngôi nhà đó? Để tôi đoán nhé. Cô lấy các bức tượng để chúng được báo cáo với cảnh sát là bị ăn trộm. Như thế sẽ tránh được bọn nhặt rác và quân tự vệ tham nhũng hợp tác với nhau quấy phá những người già như Roman và Maria. Rồi cô trả lại tượng. Nhưng không nhà nào có người hay tượng trong ngôi làng đó, vậy sao cô lại ở đấy? Ngôi nhà đó là của ai?”
“Không ai cả.”
“Tôi nhận ra chiếc xe từ đèn xi nhan bị gãy và biết được đó là cô nhờ chiếc khăn. Cô nên bỏ khăn quàng ra.”
Anh rướn người qua giường, hôn lên vết sẹo ngang ở cổ cô. Anh cho rằng cô không bắn anh chính là một điềm tốt.
Eva hút nốt điếu thuốc của mình và nói, “Tôi thường nhớ lại con bé mười ba tuổi diễu hành trong ngày Quốc tế Lao động với nụ cười ngốc nghếch. Con bé đã rời làng chuyển về Kiev sống cùng dì và chú để tới một trường học đặc biệt về khiêu vũ; các tiêu chuẩn rất ngặt nghèo nhưng con bé có đủ tiêu chuẩn và cân nặng cùng vóc dáng phù hợp. Nó được chọn cầm biểu ngữ viết, Bước tới tương lai tươi sáng! Nó hài lòng vì ngày hôm đó ấm áp tới nỗi không cần mặc áo khoác. Cơ thể trẻ con có sự phát triển đáng kinh ngạc, sự phân chia tế bào hầu như luôn tạo ra một con người mới. Và ngày hôm đó, con bé sẽ là một người mới bởi vì một đám mây nổi lên che phủ mặt trời, một làn gió nổi lên từ Chernobyl. Và thế là kết thúc chuỗi ngày nhảy múa, bắt đầu những tháng ngày quen thuộc với bác sĩ phẫu thuật Xô Viết.” Cô chạm vào vết sẹo. “Đầu tiên là tuyến giáp, sau đó là các khối u. Đó là cách để anh nhận ra công dân thực sự của Khu vực cấm. Chúng tôi làm tình mà không cần lo lắng. Tôi là một phụ nữ trống rỗng, anh có thể gõ lên như đánh trống. Tuy nhiên, đôi khi nhớ lại con bé đần độn ấy, tôi thấy xấu hổ về sự ngu ngốc của nó đến mức nếu có thể quay ngược thời gian với khẩu súng trong tay, tôi sẽ tự mình bắn chết nó. Mỗi khi bị cảm giác đó chiếm lĩnh, tôi sẽ tìm một cái hố hay ngôi nhà hoang gần nhất để ẩn náu. Có rất nhiều nhà hoang nên không cần lo lắng. Ngoài ra, tôi chẳng có gì để sợ hãi. Ở Chechnya, tôi đã bị cưỡng hiếp. Điều đó làm Alex đau khổ hơn tôi, thậm chí ngay cả khi chúng tôi đã ly hôn. Anh ta luôn cảm thấy có trách nhiệm về nó. Thật vô lý vì tôi không thể bị tổn thương hơn được nữa. Anh có từng là một cậu bé tham vọng không? Anh muốn trở thành người thế nào?”
“Lúc còn nhỏ, tôi muốn trở thành nhà du hành vũ trụ và nghiên cứu các vì sao. Rồi có người bảo tôi là không thể nhìn thấy các vì sao thực sự, thứ tôi nhìn thấy chỉ là ánh sáng được phát ra bởi ngôi sao tồn tại cách đây hàng ngàn năm trước. Cái tôi cho rằng mình nhìn thấy chỉ là thứ đã kết thúc từ lâu, thà rèn luyện thân thể còn hơn làm những điều vô nghĩa. Tất nhiên, cũng có thể hình dung về nghề nghiệp bây giờ của tôi giống như thế. Tôi không thể đưa người chết trở về được.”
“Còn những người bị thương?”
“Mọi người ai cũng đều bị thương.”
“Đó có phải là một lời hứa?”
“Đó là điều duy nhất tôi có thể chắc chắn.”
Chó Sói Cắn Chó Nhà Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith Chó Sói Cắn Chó Nhà