Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Bologna
hực ra thì không phải đại úy Black mà chính trung sĩ Knight mới là người châm ngòi cho nỗi hoảng loạn đưa đám của vụ Bologna, cậu này đã lặng lẽ lỉnh khỏi xe tải chở quân đi lấy thêm hai bộ áo giáp chống đạn ngay khi biết được mục tiêu tấn công, báo hiệu cho khởi đầu của một cuộc chạy đua dữ dội trở lại lều cung cấp dù mà sau đó đã biến thành một vụ tranh cướp hỗn loạn cho đến khi toàn bộ số áo giáp dự phòng đều biến mất.
“Này, có chuyện gì vậy?” Kid Sampson hồi hộp hỏi. “Bologna không đến mức khốc liệt như vậy chứ, phải không?”
Nately, đang ngồi thừ ra ở trên sàn xe tải, hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt trẻ trung u ám, không trả lời.
Chính là tại trung sĩ Knight và một loạt những lần trì hoãn phũ phàng, bởi vì ngay ngày đầu tiên khi họ leo lên máy bay, thì một chiếc xe Jeep lại tới đưa tin ở Bologna đang mưa nên trận đánh sẽ bị hoãn. Lúc họ về lại phi đoàn thì ở Pianosa cũng đang mưa, nên họ đã có cả ngày còn lại để trân trối nhìn tuyến ném bom(32) trên bản đồ dưới mái lều quân báo uy nghi và đờ đẫn suy tưởng về cái thực tế rằng chẳng có lối thoát nào cho mình hết. Bằng chứng cho điều ấy nằm ngay trên đó, dưới dạng một dải băng hẹp màu đỏ đính ngang qua lục địa Ý: các lực lượng mặt đất tại Ý bị găm chặt ở khoảng cách không thể vượt nổi là bốn mươi hai dặm phía Nam mục tiêu ném bom và không thể nào chiếm được thành phố này kịp thời. Không gì có thể cứu những gã trai ở Pianosa khỏi nhiệm vụ Bologna. Bọn họ đã bị sập bẫy.
Hy vọng duy nhất của họ là trời sẽ mưa mãi, và như thế tức là không có hy vọng nào cả bởi họ biết rằng sẽ đến lúc tạnh mưa. Khi mưa tạnh ở Pianosa thì ở Bologna lại mưa. Khi tạnh mưa ở Bologna thì lại bắt đầu mưa lại ở Pianosa. Nếu không có tí mưa nào thì sẽ có những hiện tượng kỳ quái không giải thích nổi như dịch tiêu chảy hoặc tuyến ném bom tự di chuyển. Trong sáu ngày đầu tiên đã có tới bốn lần họ phải tập hợp, nghe chỉ dẫn tác chiến để rồi lại bị về chỗ cũ. Một lần họ thậm chí đã cất cánh, đã vào đội hình xong xuôi thì lại bị đài chỉ huy triệu tập trở lại mặt đất. Trời càng mưa thì họ càng khổ sở. Càng khổ sở thì họ lại càng cầu mong sao cho trời tiếp tục mưa. Suốt cả đêm, các gã trai nhìn lên bầu trời và buồn bã khi trông thấy nhiều sao. Suốt cả ngày, họ nhìn vào tuyến ném bom trên một tấm bản đồ nước Ý khổ lớn xộc xệch đặt trên cái giá ba chân mà hễ có gió là lại bị thổi lật úp và cứ trời mưa là lại phải lôi vào dưới mái lều quân báo uy nghi. Tuyến ném bom là một dải lụa satin mỏng màu đỏ thắm dùng để mô tả vị trí tiên phong nhất của các lực lượng mặt đất thuộc phe Đồng minh tại mỗi vùng trong lục địa Ý.
Vào buổi sáng sau vụ Hungry Joe vật lộn với con mèo của Huple, ở cả hai nơi mưa bỗng ngừng rơi. Đường băng bắt đầu khô. Phải mất tròn hai mươi bốn giờ nữa mặt đất mới cứng trở lại, nhưng bầu trời đã không một gợn mây. Nỗi oán giận ấp ủ trong mỗi người nở ra thành căm ghét. Đầu tiên họ ghét đám lính bộ binh trên lục địa bởi vì bọn họ đã thất bại trong việc đánh chiếm Bologna. Sau đó họ bắt đầu ghét chính tuyến ném bom. Trong hàng giờ họ trừng mắt nhìn chằm chằm dải băng đỏ trên bản đồ và căm ghét nó bởi vì nó sẽ không di chuyển lên đủ cao để bao trọn luôn thành phố này. Khi đêm xuống, họ tụ tập lại trong bóng tối với những chiếc đèn pin, tiếp tục lễ cầu kinh ma quái với tuyến ném bom trong lời khẩn cầu ủ ê như thể họ có thể di chuyển dải băng đó lên trên bằng sức mạnh tập thể của những lời cầu nguyện sầu thảm.
“Tôi thật không thể tin nổi,” Clevinger cảm thán với Yossarian bằng giọng lên bổng xuống trầm vừa đẫm vẻ phản đối vừa đầy kinh ngạc. “Điều đó đi ngược hoàn toàn với tín điều nguyên thủy. Họ đang đảo lộn nguyên nhân và kết quả. Vụ này cũng vớ vẩn chả khác gì mấy trò gõ lên gỗ hay bắt tréo ngón tay(33). Họ thực sự tin rằng chúng ta có thể không phải bay ra trận ngày mai nếu như có ai đó rón rén đi đến chiếc bản đồ vào giữa đêm và dịch tuyến ném bom đó ra khỏi Bologna. Anh có thể tưởng tượng nổi không? Anh và tôi chắc chắn là những người có lý trí cuối cùng còn sót lại.”
Đến giữa đêm, Yossarian gõ tay lên gỗ, bắt tréo ngón tay, và rón rén đi ra khỏi lều của mình để nâng đường vẽ tuyến ném bom lên trên ra khỏi Bologna.
Hạ sĩ Kolodny rón rén lẻn vào lều của đại úy Black sáng sớm hôm sau, chui vào bên trong màn và nhẹ nhàng lắc mảnh xương vai nhớp nháp mà gã sờ thấy cho đến khi đại úy Black mở mắt.
“Anh đánh thức tôi làm cái gì thế?” đại úy Black rên rỉ.
“Họ đã chiếm được Bologna rồi, thưa sếp,” hạ sĩ Kolodny nói. “Tôi nghĩ là sếp muốn biết được tin này. Như vậy thì nhiệm vụ có bị hủy không?”
Đại úy Black vận sức ngồi thẳng dậy và bắt đầu thành thục gãi cặp giò dài khẳng khiu của mình. Loáng cái gã đã mặc đồ vào và chui ra ngoài lều, mắt nheo, bực bội và râu ria lởm chởm. Trời trong và ấm. Gã hờ hững ngó bản đồ. Chắc chắn rồi, họ đã chiếm được Bologna. Ở trong lều quân báo, hạ sĩ Kolodny đã bắt đầu gỡ bỏ bản đồ Bologna. Đại úy Black ngồi xuống với một cái ngáp rõ to, nhấc chân đặt lên mặt bàn, và gọi điện thoại cho trung tá Korn.
“Anh đánh thức tôi làm gì thế?” trung tá Korn rên rỉ.
“Họ đã chiếm được Bologna đêm qua, thưa sếp. Liệu nhiệm vụ này có bị hủy không?”
“Anh nói gì cơ, Black?” trung tá Korn gầm lên. “Tại sao phải hủy nhiệm vụ này?”
“Bởi vì họ đã chiếm được Bologna, thưa sếp. Nhiệm vụ này không bị hủy sao?”
“Tất nhiên là hủy rồi. Chả lẽ giờ quân ta lại đi tự đánh bom quân mình?”
“Anh đánh thức tôi làm gì thế?” đại tá Cathcart rên rỉ với trung tá Korn.
“Họ chiếm được Bologna rồi,” trung tá Korn nói. “Tôi nghĩ là anh muốn biết tin này.”
“Ai đã chiếm Bologna?”
“Chúng ta.”
Đại tá Cathcart mừng hết biết, bởi vì gã đã thoát được cam kết ngớ ngẩn là ném bom Bologna mà không làm hoen ố danh tiếng về lòng dũng cảm đã có được khi xung phong đưa quân của mình đi làm việc đó. Tướng Dreedle cũng hài lòng với việc giành được Bologna, mặc dù ông vẫn giận đại tá Moodus vì đã đánh thức ông dậy để thông báo chuyện đó. Quân đoàn cũng hài lòng và quyết định trao tặng huân chương cho sĩ quan nào chiếm được thành phố này. Không có sĩ quan nào chiếm thành phố này cả, do vậy thay vào đó họ đã trao huân chương cho tướng Peckem, bởi vì tướng Peckem là sĩ quan duy nhất có đủ tham vọng để đòi lấy huân chương đó.
Ngay khi tướng Peckem nhận được huân chương, ông bắt đầu đòi được giao nhiều trọng trách. Quan điểm của tướng Peckem là tất cả các đơn vị chiến đấu trong quân đoàn đều phải đặt dưới quyền kiểm soát của Lực lượng Đặc biệt do chính tướng Peckem là chỉ huy trưởng. Nếu việc ném bom quân địch không phải là một nhiệm vụ đặc biệt, ông thường lớn tiếng nói, với một nụ cười tuẫn đạo chừng mực ngọt ngào vốn luôn là Đồng minh trung thành của ông trong mọi cuộc tranh cãi, thì ông không thể không tự hỏi liệu còn cái gì trên quả đất này có thể gọi là nhiệm vụ đặc biệt nữa. Với vẻ tiếc nuối nhã nhặn, ông đã từ chối đảm nhiệm một vị trí chiến đấu dưới quyền tướng Dreedle.
“Bay ra trận cho tướng Dreedle không hẳn là những gì tôi nghĩ tới,” ông từ tốn giải thích cùng một tiếng cười hòa nhã. “Tôi nghĩ nhiều hơn tới khía cạnh thay thế vị trí của tướng Dreedle, hay thậm chí về một vị trí cao hơn tướng Dreedle nơi tôi có thể thực hành cùng lúc giám sát thêm thật nhiều tướng khác nữa. Các anh thấy đấy, những năng lực đáng giá nhất của tôi đều nằm trong lĩnh vực quản lý. Tôi có khả năng tuyệt vời khiến cho những người khác nhau phải đồng thuận.”
“Ông ta có khả năng tuyệt vời khiến cho nhiều người khác nhau phải đồng thuận rằng ông ta là đồ khốn,” đại tá Cargill tâm sự riêng với cựu binh nhất Wintergreen với hy vọng rằng cựu binh nhất Wintergreen sẽ lan truyền nó đi khắp trụ sở quân đoàn Không lực Hai mươi bảy. “Nếu có ai xứng đáng với vị trí chiến đấu này thì đó chính là tôi. Thậm chí chính tôi là người đã đề xuất ra ý tưởng chúng ta xin nhận huân chương đó.”
“Ông thực muốn ra trận sao?” cựu binh nhất Wintergreen chất vấn.
“Ra trận?” đại tá Cargill kinh hoàng nói. “Ôi không - anh hiểu nhầm tôi rồi. Tất nhiên là thực ra thì tôi cũng không ngại phải ra trận, nhưng năng lực tốt nhất của tôi nằm trong lĩnh vực quản lý. Tôi cũng có khả năng tuyệt vời khiến cho những người khác nhau phải đồng thuận.”
“Ông ta cũng có khả năng tuyệt vời khiến cho những người khác nhau phải đồng ý rằng ông ta là đồ khốn,” cựu binh nhất Wintergreen phá lên cười khi tâm sự với Yossarian, sau khi gã tới Pianosa để tìm hiểu sự thật về Milo và về bông Ai Cập. “Nếu có ai xứng đáng được thăng cấp thì đó phải là tôi.” Thực ra thì gã đã lên được tới chức cựu hạ sĩ, thăng vượt cấp sau khi được chuyển tới trụ sở quân đoàn Không lực Hai mươi bảy với vai trò bưu tín viên và ngay sau đó đã bị hạ cấp xuống thành binh nhì vì đã đưa ra những lời so sánh đáng ghê tởm, và để bị nghe thấy, về những sĩ quan cấp trên của mình. Cái hương vị mê đắm của thành công ban đầu đã tiếp thêm tinh thần cho gã và đốt lên ngọn lửa tham vọng đạt được những thành quả cao quý hơn. “Anh muốn mua bật lửa Zippo không?” gã hỏi Yossarian. “Đồ chôm thẳng từ bên hậu cần đó.”
“Milo có biết anh đang bán bật lửa không đấy?”
“Đâu phải việc của gã? Không phải là giờ Milo cũng đang có mấy cái bật lửa đó à?”
“Thì dĩ nhiên là có,” Yossarian nói. “Nhưng bật lửa của gã đâu phải là đồ ăn cắp.”
“Đó là anh nghĩ vậy thôi,” cựu binh nhất Wintergreen đáp cùng một tiếng khịt mũi cộc lốc. “Bật lửa của tôi bán giá một đô một chiếc. Bật lửa của gã đấy bán bao nhiêu?”
“Một đô một xu.”
Cựu binh nhất Wintergreen cười khẩy đắc thắng. “Lần nào tôi cũng thắng,” gã hả hê nói. “Thế còn đống bông Ai Cập gã đang ôm thì sao? Gã mua bao nhiêu?”
“Tất cả.”
“Trên toàn thế giới này ư? Ôi, quỷ tha ma bắt tôi đi!” cựu binh nhất Wintergreen ré lên với niềm hân hoan độc ác. “Quả là một thằng đần! Anh đã ở Cairo cùng gã. Tại sao anh lại để cho gã làm việc đó?”
“Tôi ư?” Yossarian nhún vai trả lời. “Tôi đâu có ảnh hưởng gì với gã. Chính là tại mấy cái máy điện báo đánh chữ có trong tất cả những nhà hàng xịn ở đó. Milo trước đây chưa từng nhìn thấy một chiếc máy biết in giá hàng, và giá bông Ai Cập tình cờ hiện ra ngay khi anh ta nhờ tiếp viên trưởng nhà hàng giải thích về cách hoạt động của máy. ‘Bông Ai Cập ư?’ Milo nói với vẻ mặt đặc trưng của mình. ‘Bông Ai Cập bán giá bao nhiêu vậy?’ Điều tiếp theo tôi biết là gã đã mua cả vụ bông chết tiệt. Và giờ thì gã chẳng thể đẩy đi đâu được.”
“Tay này không có trí tưởng tượng gì cả. Tôi có thể tẩu tán rất nhiều cái đống này ở ngoài chợ đen nếu gã chịu hợp tác với tôi.”
“Milo biết chợ đen rồi. Ở đó không có nhu cầu mua bông đâu.”
“Nhưng có nhu cầu về đồ dùng y tế. Tôi có thể quấn bông quanh tăm gỗ, hay biến chúng thành những miếng gạc vô trùng rồi đem rao bán lẻ. Gã có thể bán cho tôi với giá hời không nhỉ?”
“Giá nào thì gã cũng không bán cho anh đâu,” Yossarian trả lời. “Gã khá là cay cú vì anh lao vào cạnh tranh với gã. Thực ra thì gã cay cú với bất cứ ai bị dính tiêu chảy vào cuối tuần trước và gây ra tiếng xấu cho nhà ăn của gã. Này, anh có thể giúp chúng tôi đấy.” Yossarian đột nhiên níu lấy tay Wintergreen.
“Anh không thể bịa ra vài mệnh lệnh chính thức từ chiếc máy in ronéo của anh và giúp cho chúng tôi thoát khỏi vụ Bologna được à?”
Cựu binh nhất Wintergreen từ từ gỡ mình ra khỏi y với vẻ khinh miệt. “Tất nhiên là tôi có thể,” gã kiêu hãnh giải thích. “Nhưng tôi sẽ không bao giờ làm một việc như vậy, kể cả trong mơ.”
“Tại sao không?”
“Bởi vì đó là việc của các anh. Tất cả chúng ta đều có công việc của mình. Việc của tôi là tẩu tán số bật lửa Zippo này sao cho có lời tối đa và mua về một ít bông từ chỗ Milo. Việc của anh là ném bom kho đạn ở Bologna.”
“Nhưng tôi sẽ bị giết ở Bologna,” Yossarian van nài. “Tất cả chúng ta cũng sẽ bị giết.”
“Nếu vậy thì anh sẽ phải bị giết,” cựu binh nhất Wintergreen đáp. “Tại sao anh không thể tin vào số mệnh như tôi đây? Nếu số phận của tôi là tẩu tán những chiếc bật lửa này sao cho có lời và mua rẻ của Milo một ít bông Ai Cập thì tôi sẽ làm như thế. Và nếu số phận của anh là bị giết ở trên bầu trời Bologna thì anh sẽ bị giết, vì vậy anh nên đơn giản là ra trận và chết như một người đàn ông. Tôi ghét phải nói điều này, Yossarian à, nhưng anh đang biến thành một kẻ suốt ngày than vãn đấy.”
Clevinger cũng đồng ý với cựu binh nhất Wintergreen rằng việc của Yossarian là bị giết trên bầu trời Bologna và giận tím mặt lên án khi Yossarian thú nhận rằng chính y đã dịch chuyển tuyến ném bom và khiến cho nhiệm vụ này bị hủy bỏ.
“Tại sao lại không?” Yossarian vặc lại, càng lúc cãi càng kịch liệt vì y cũng ngờ là mình đã sai. “Không lẽ tôi phải bị bắn tan xác chỉ vì gã đại tá kia muốn lên chức tướng?”
“Thế còn tất cả những người ở lục địa thì sao?” Clevinger chất vấn với cảm xúc mãnh liệt không kém. “Không lẽ họ phải bị bắn tan xác chỉ vì anh không muốn bay? Họ có quyền nhận được hỗ trợ từ không quân!”
“Nhưng không nhất thiết phải là từ tôi. Xem này, họ đâu có quan tâm ai đã hạ được các kho đạn ấy. Lý do duy nhất khiến cho chúng ta phải bay là bởi vì thằng khốn Cathcart xung phong đẩy chúng ta ra trận.”
“Ôi, tôi biết tất cả những điều này,” Clevinger quả quyết nói, gương mặt hốc hác trở nên trắng bệch, và cặp mắt nâu linh lợi tràn ngập sự chân thành. “Nhưng thực tế là những kho đạn kia vẫn đang ở đó. Anh cũng biết quá rõ rằng tôi cũng ghét đại tá Cathcart không kém gì anh.” Clevinger ngừng lại một chút để nhấn mạnh, miệng gã run lên, rồi gã đấm nhẹ vào chiếc túi ngủ. “Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là quyết định xem mục tiêu nào cần bị tiêu diệt hay ai sẽ là người tiêu diệt chúng hay…”
“Hay ai sẽ là người bị giết trong khi làm việc đó? Và tại sao?”
“Phải, cả chuyện đó nữa. Chúng ta không có quyền chất vấn…”
“Anh điên rồi!”
“… không có quyền chất vấn…”
“Anh muốn nói là tôi không có quyền gì đối với việc mình bị giết như thế nào và tại sao, và quyền đó thuộc về đại tá Cathcart thật đấy à? Anh nghĩ như vậy thật đấy à?”
“Đúng, tôi thật sự nghĩ vậy đó,” Clevinger khăng khăng nói, nhưng có vẻ vẫn không chắc chắn lắm. “Có những người được giao phó trách nhiệm giành thắng lợi trong cuộc chiến, bọn họ ở vị trí phù hợp hơn chúng ta để quyết định xem mục tiêu nào cần bị ném bom.”
“Chúng ta đang nói về hai thứ hoàn toàn khác nhau,” Yossarian trả lời với vẻ mệt mỏi cường điệu. “Anh đang nói về mối quan hệ giữa quân đoàn đối với những người lính, còn tôi thì nói về mối quan hệ giữa tôi và đại tá Cathcart. Anh nói về việc giành thắng lợi trong cuộc chiến, còn tôi thì nói về việc giành thắng lợi và còn sống.”
“Chính xác,” Clevinger tự mãn bật lại. “Thế theo anh cái gì quan trọng hơn?”
“Đối với ai cơ?” Yossarian phản pháo. “Mở mắt ra đi, Clevinger. Đối với những người đã chết thì việc ai giành chiến thắng trong cuộc chiến này còn có khác biệt quái gì chứ.”
Clevinger ngồi thừ ra một lúc như thể vừa bị ăn tát. “Xin chúc mừng!” gã cay đắng thốt lên, hai bờ môi mím chặt thành một đường mỏng dính tái nhợt không một giọt máu. “Tôi không thể nghĩ ra được một thái độ nào có lợi cho kẻ thù đến vậy.”
“Kẻ thù,” Yossarian vặn lại cho chính xác, “là bất cứ ai khiến cho anh bị giết, bất kể người đó thuộc chiến tuyến nào và như thế bao gồm cả đại tá Cathcart. Và anh đừng bao giờ quên điều đó, bởi vì anh càng nhớ kỹ nó thì anh sẽ càng sống lâu.”
Nhưng Clevinger đã quên, và bây giờ thì gã đã chết. Còn khi đó, vì Clevinger đã quá buồn bực vì chuyện này đến nỗi Yossarian không dám nói với gã rằng y cũng chính là kẻ phải chịu trách nhiệm cho dịch tiêu chảy cũng góp phần làm trì hoãn nhiệm vụ này. Milo thậm chí còn buồn bực hơn khi nghĩ tới khả năng lại có kẻ đã đầu độc phi đoàn, và gã bức xúc lao tới gặp Yossarian nhờ giúp đỡ.
“Làm ơn tìm hiểu xem có phải hạ sĩ Snark lại trộn xà phòng giặt vào trong khoai lang nữa không,” gã lén lút đề nghị. “Hạ sĩ Snark tin anh và sẽ nói sự thật nếu anh hứa với cậu ta rằng anh sẽ không nói cho ai khác biết. Ngay khi cậu ta nói, thì hãy tới kể tôi nghe.”
“Tất nhiên là tôi đã nhét xà phòng giặt vào khoai tây,” hạ sĩ Snark thú nhận với Yossarian. “Đó là những gì anh muốn tôi làm, phải không? Xà phòng giặt là cách tốt nhất.”
“Cậu ta thề với Chúa rằng cậu ta không dính líu gì tới vụ này,” Yossarian báo lại với Milo.
Milo bĩu môi đầy vẻ nghi ngờ. “Dunbar nói rằng không có Chúa.”
Không còn hy vọng nào nữa. Vào khoảng giữa tuần thứ hai, tất cả mọi người trong phi đoàn đều trông giống như Hungry Joe, người không có lịch bay và luôn gào thét kinh hoàng trong giấc ngủ. Gã là người duy nhất có thể ngủ được. Suốt đêm, các gã trai đi xuyên qua bóng tối ngoài lều của mình như những hồn ma không lưỡi với những điếu thuốc trên môi. Ban ngày thì họ trân trối nhìn tuyến ném bom trong vô vọng, nhìn vào những nhóm người ủ rũ, hay vào hình ảnh bác sĩ Daneeka bất động ngồi trước cánh cửa đóng ở lều quân y, ngay dưới tấm bảng ghi bằng chữ viết tay đầy chết chóc. Họ bắt đầu bịa ra những chuyện cười rầu rĩ chẳng hài hước chút nào và truyền đi những tin đồn kinh khủng về những hủy diệt đang chờ đón họ ở Bologna.
Một đêm, Yossarian say khướt lẻn tới chỗ trung tá Korn ở câu lạc bộ sĩ quan để nói đùa với gã về khẩu Lepage mới mà quân Đức vừa chuyển tới.
“Súng Lepage nào cơ?” trung tá Korn tò mò chất vấn.
“Khẩu Lepage bắn keo ba-trăm-bốn-mươi-tư mi li mét ấy,” Yossarian trả lời. “Nó sẽ khiến cả một đội bay dính chặt lại với nhau ngay giữa không trung.”
Trung tá Korn giật cùi chỏ ra khỏi những ngón tay bám chặt của Yossarian như thể vừa bất ngờ bị lăng nhục. “Buông ta ra, đồ ngu!” gã thét lên giận dữ, đoạn trừng mắt lên nhìn tán thưởng khi Nately nhảy tới phía sau Yossarian lôi y đi. “Gã điên đó là ai vậy?”
Đại tá Cathcart cười nắc nẻ. “Đó là gã mà anh đã ép tôi phải trao huân chương sau vụ Ferrara đấy. Anh đã ép tôi phải thăng chức gã thành đại úy, nhớ không? Quả đáng đời anh.”
Nately nhẹ cân hơn Yossarian nên rất chật vật cậu mới đưa được tấm thân bồ tượng của y sang bên kia phòng tới một bàn trống. “Anh điên à?” Nately liên tục rít lên lo lắng. “Đó là trung tá Korn. Anh điên à?”
Yossarian muốn uống thêm một ly nữa và hứa sẽ im lặng rời đi nếu Nately đem tới cho y một ly. Sau đó y lại ép Nately đem thêm hai ly nữa. Khi Nately cuối cùng dỗ được y đi ra tới cửa thì đại úy Black xồng xộc từ ngoài lao vào, dộng mạnh đôi giày nhớp nháp xuống nền gỗ khiến nước tràn xuống từ những chỗ gie ra trên người gã ào ào như từ mái nhà cất cao.
“Này, lũ chết tiệt các anh sắp tiêu rồi đấy!” gã hồ hởi thông báo, nhảy tránh ra xa khỏi vũng nước đang hình thành dưới chân gã. “Tôi vừa nhận được cú điện thoại từ trung tá Korn. Các anh có biết điều gì sẽ đợi chúng ta ở Bologna không? Ha ha! Bọn chúng có khẩu bắn keo Lepage mới đấy. Nó sẽ khiến cả đội bay dính lại với nhau trên không trung.”
“Ôi Chúa ơi, đó là sự thật!” Yossarian ré lên và kinh hoàng gục vào Nately.
“Làm gì có Chúa,” Dunbar bình tĩnh trả lời, loạng choạng đi tới.
“Này, giúp tôi một tay đỡ cái gã này với, được không? Tôi cần đưa anh ta quay lại lều.”
“Ai cơ?”
“Tôi. Giời ạ, nhìn trời mưa kia kìa.”
“Chúng ta phải kiếm một cái xe.”
“Chôm xe của đại úy Black đi,” Yossarian nói. “Tôi luôn làm thế.”
“Ta không thể chôm xe của bất cứ ai. Chỉ tại mỗi lần muốn xe anh lại chôm luôn chiếc gần nhất nên giờ chẳng ai còn quên khóa điện hết.”
“Nhảy lên đi,” thượng sĩ White Halfoat nói, say xỉn lái một con Jeep ngụy trang tới. Gã chờ bọn họ chen chúc ngồi hết vào trong, đoạn đột ngột rồ ga phóng vọt đi khiến cả bọn ngã ngửa về phía sau. Gã rống cười trước những lời chửi mắng. Gã lái thẳng về phía trước khi ra khỏi bãi đỗ xe và tông thẳng vào bờ tường ở phía bên kia đường. Những người còn lại trong xe đổ xô về phía trước thành một đống vô dụng và lại tiếp tục nguyền rủa gã. “Tôi quên không rẽ,” gã giải thích.
“Cẩn thận chút đi, được không?” Nately nhắc. “Anh nên bật đèn pha lên.”
Thượng sĩ White Halfoat lùi lại, rẽ rồi tăng tốc tối đa phi lên đường. Bánh xe rít lên kin kít trên mặt đường rải nhựa đen.
“Đừng nhanh thế chứ,” Nately nài nỉ.
“Anh nên đưa tôi tới phi đoàn của anh trước để tôi có thể giúp đặt anh ta lên giường. Sau đó các anh có thể đưa tôi về phi đoàn của tôi.”
“Anh là thằng bỏ mẹ nào vậy?”
“Dunbar.”
“Này, bật đèn pha lên,” Nately hét to. “Và nhìn đường đi chứ!”
“Đèn bật rồi. Không phải Yossarian đang ở trong chiếc xe này à? Đó là lý do duy nhất tôi cho lũ khốn bọn anh lên xe.” Thượng sĩ White Halfoat quay cả người lại trân trối nhìn ghế sau.
“Nhìn đường đi chứ!”
“Yossarian? Có Yossarian ở đây không?”
“Tôi đây, thượng sĩ. Về thôi. Điều gì khiến anh tin chắc vậy? Anh chưa bao giờ trả lời câu hỏi của tôi.”
“Đấy, tôi đã bảo các anh là anh ta ở đây mà.”
“Câu hỏi gì cơ?”
“Câu gì đó mà chúng ta đã nói với nhau.”
“Nó có quan trọng không?”
“Tôi không nhớ nó có quan trọng hay không. Cầu Chúa cho tôi biết được điều đó.”
“Làm gì có Chúa.”
“Chúng ta đã nói chuyện với nhau về điều này đó.” Yossarian reo lên. “Điều gì khiến anh luôn tin chắc đến vậy?”
“Này, anh có chắc là đã bật đèn pha rồi không đấy?” Nately gào lên.
“Đèn bật rồi, bật rồi. Cậu ta còn muốn gì ở tôi nữa? Nhìn từ dưới đó lên thấy tối là vì đống nước mưa trên kính chắn gió này đấy.”
“Mưa thật đẹp, thật đẹp.”
“Tôi hy vọng trời sẽ mưa mãi không ngừng. Mưa ơi, mưa ơi, hãy điiii…”
“… đi đi. Rồi trở lại… ai…”
“… vào hôm kh…”
“… ác nha. Bé Yo-Yo muốn…”
“… chơi. Trên…”
“… bãi cỏ, trong…”
Thượng sĩ White Halfoat lại quên rẽ và cho xe chạy tuốt lên đỉnh một con đê dốc. Xe trôi ngược trở lại, lật nghiêng và nhẹ nhàng đáp xuống bùn.
Cảm giác im lặng thật đáng sợ.
“Mọi người không sao cả chứ?” thượng sĩ White Halfoat thì thào hỏi. Không có ai bị thương, và gã thở phào nhẹ nhõm. “Các anh biết đấy, vấn đề của tôi là ở đấy,” gã than thở. “Ở chỗ tôi không bao giờ nghe lời một ai cả. Ai đó cứ bảo tôi bật đèn pha lên, nhưng tôi cứ phải không chịu cơ.”
“Tôi đã liên tục bảo anh bật đèn pha lên.”
“Tôi biết, tôi biết. Và tôi đã không nghe, phải không? Giá mà tôi có gì để uống nhỉ. Mà tôi có đồ uống thật đấy. Nhìn này. Nó chưa bị vỡ.”
“Mưa đang lọt vào,” Nately để ý thấy. “Tôi đang bị ướt đây này.”
Thượng sĩ White Halfoat mở một chai whisky làm từ lúa mạch đen, uống và quăng cho mọi người. Ai nấy đều uống dù đang nằm chất đống lên nhau, ngoại trừ Nately cứ mải mò mẫm tìm tay nắm cửa mãi không được. Chai rượu rơi bộp xuống đầu và rượu chảy xuống tận cổ. Cậu bé bắt đầu vật vã trong tuyệt vọng.
“Này, chúng ta cần phải ra khỏi đây!” cậu khóc lóc. “Ta sắp chết đuối cả nút đây này.”
“Có ai ở đó không?” Clevinger hỏi đầy vẻ lo lắng, ánh đèn pin rọi từ trên xuống.
“Clevinger!” họ gào lên, và cố kéo gã vào qua cửa sổ khi gã cúi xuống tìm cách giúp đỡ.
“Nhìn bọn họ kìa!” Clevinger phẫn nộ kêu lên với McWatt, kẻ đang nhăn nhở cười sau tay lái chiếc xe của ban tham mưu. “Nằm la liệt như một lũ thú vật say khướt. Cả cậu nữa đấy hả, Nately? Cậu phải tự thấy xấu hổ đi! Nào - giúp tôi đưa họ ra khỏi đây trước khi họ chết sạch vì viêm phổi đi.”
“Các anh này, nghe thì cũng không phải là ý tồi lắm đâu,” thượng sĩ White Halfoat trầm ngâm. “Tôi nghĩ là tôi thích chết vì viêm phổi.”
“Tại sao?”
“Tại sao lại không?” thượng sĩ White Halfoat trả lời, và lại nằm xuống đống bùn đầy mãn nguyện cùng chai rượu âu yếm trong vòng tay.
“Ôi, giờ thì xem anh ta đang làm gì này!” Clevinger gào lên tức tối. “Liệu các anh có thể tự đứng lên và đi vào trong xe để tất cả chúng ta có thể trở về phi đoàn được không?”
“Chúng ta không thể trở về hết được. Ai đó phải ở lại để giúp tay thượng sĩ với cái xe mà anh ta đã lấy khỏi bãi đỗ này.”
Thượng sĩ White Halfoat đã ngồi vào trong xe của ban tham mưu, cười khoái trá và đầy vẻ tự hào. “Đó là xe của đại úy Black,” gã hớn hở nói cho mọi người biết. “Tôi trộm nó khỏi tay gã ở câu lạc bộ sĩ quan bằng bộ chìa khóa dự phòng mà gã cứ tưởng là bị mất vào sáng nay.”
“Ôi, quỷ tha ma bắt tôi đi. Do vậy cần phải uống.”
“Anh chưa uống đủ rượu sao?” Clevinger gắt gỏng ngay lúc McWatt nổ máy. “Nhìn cái thân anh xem. Có chết vì rượu hay là chết vì đuối nước thì anh cũng mặc xác, phải không?”
“Miễn là không bị chết vì bay.”
“Này, mở nó ra, mở nó ra,” thượng sĩ White Halfoat giục McWatt. “Và tắt đèn pha đi. Đó là cách duy nhất.”
“Bác sĩ Daneeka đã đúng,” Clevinger tiếp tục. “Người ta đúng là không đủ hiểu biết để mà liệu lo thân. Tôi thực sự ghê tởm tất cả bọn anh.”
“OK, lắm mồm quá, ra khỏi xe đi,” thượng sĩ White Halfoat ra lệnh. “Tất cả ra khỏi xe ngay, ngoại trừ Yossarian. Mà Yossarian đâu rồi nhỉ?”
“Tránh xa tôi ra.” Yossarian phá lên cười và đẩy gã ra. “Người anh toàn bùn là bùn.”
Clevinger hướng về Nately. “Cậu khiến tôi thực sự kinh ngạc đấy. Cậu có biết cậu bốc mùi như thế nào không? Thay vì đưa anh ta thoát khỏi rắc rối thì cậu cũng lại say khướt như anh ta. Hình như anh ta lại đụng độ lần nữa với Appleby?” Cặp mắt Clevinger mở to hết cỡ đầy cảnh giác khi nghe thấy Yossarian khúc khích cười. “Anh ta đâu có đụng độ với Appleby nữa, có phải không?”
“Lần này thì không,” Dunbar nói.
“Không, lần này thì không. Lần này tôi còn làm tốt hơn nữa kia.”
“Lần này anh ta đụng phải trung tá Korn.”
“Không phải vậy chứ!” Clevinger thở gấp.
“Đúng vậy à?” thượng sĩ White Halfoat reo lên vui sướng. “Vậy càng cần phải uống.”
“Nhưng điều đó thật kinh khủng!” Clevinger tuyên bố đầy nghiêm trọng. “Cả quả đất này không còn ai hay sao mà anh lại chọn trung tá Korn? Mà này, đèn pha bị làm sao vậy? Tại sao xung quanh tối mù thế này?”
“Tôi đã tắt chúng đi,” McWatt trả lời. “Anh biết không, thượng sĩ White Halfoat nói đúng. Tắt đèn pha đi thì tốt hơn nhiều.”
“Anh điên à?” Clevinger thét lên, và nhào người về phía trước để bật đèn pha. Gã quay lại về phía Yossarian như sắp phát điên. “Anh có thấy việc anh đang làm không? Anh đã khiến cho tất cả bọn họ bây giờ cũng như anh! Giả sử trời hết mưa và chúng ta sẽ phải bay tới Bologna vào ngày mai. Các anh đều sẽ rất khỏe đấy nhỉ!”
“Trời sẽ chẳng bao giờ tạnh mưa đâu. Không thưa ngài, mưa kiểu này thì có thể sẽ mưa mãi.”
“Trời tạnh mưa rồi đây!” ai đó nói, và cả xe chìm trong im lặng.
“Lũ khốn các anh thật đáng thương,” một lúc sau thượng sĩ White Halfoat bèn thì thầm thương cảm.
“Trời đã tạnh hẳn thật rồi chứ?” Yossarian nhu mì hỏi.
McWatt tắt cần gạt nước mưa đi để kiểm tra. Mưa đã tạnh. Mây đã tan dần. Trăng hiện rõ sau lớp sương mỏng màu nâu.
“Thôi xong,” McWatt nức nở. “Chết tiệt!”
“Các bạn đừng lo,” thượng sĩ White Halfoat nói. “Đường băng ngày mai vẫn sẽ còn mềm lắm chưa dùng được đâu. Rất có thể là trời sẽ lại mưa tiếp trước khi nó kịp khô hẳn.”
“Đồ mất dạy bẩn thỉu hôi hám trời đánh thánh vật,” tiếng Hungry Joe hét lên vọng ra từ lều của gã khi xe họ về tới phi đoàn.
“Chúa ơi, tối nay anh ta đã về rồi ư? Tôi tưởng anh ta vẫn ở Rome với máy bay đưa thư.”
“Ôi! Ô Ô Ôi! Ô Ô Ôi!” Hungry Joe lại hét lên.
Thượng sĩ White Halfoat rùng mình. “Tay đó làm cho tôi sợ vãi cả ra,” gã cáu kỉnh thì thầm thú nhận. “Này, chuyện gì đã xảy đến với đại úy Flume vậy?”
“Có một gã nọ cũng khiến cho tôi sợ vãi cả ra. Tôi thấy gã đấy ở trong rừng tuần trước, đang ăn quả mọng dại. Gã giờ không còn ngủ trong thùng xe nữa. Trông gã cứ như quỷ.”
“Hungry Joe cứ sợ gã sẽ phải thay vào vị trí của ai đó nghỉ ốm, mặc dù chẳng có ai nghỉ ốm cả. Anh có nhìn thấy gã vào đêm gã cố giết Havermeyer và rơi vào hào của Yossarian không?”
“Ôi!” Hungry Joe lại hét lên. “Ôi! Ô Ô Ôi! Ô Ô Ôi!”
“Thật hạnh phúc khi không có Flume ở trong nhà ăn nữa. Không còn phải nghe ‘Đưa muối đây ngay và luôn, Walt’.”
“Hoặc ‘Đưa bơ đây cho tôi trét, Fred.’ ”
“Hoặc ‘Rót đây một ít, Pete.’ ”
“Tránh ra, tránh ra,” Hungry Joe thét lên. “Tao đã nói là tránh ra, tránh ra, đồ mất dạy bẩn thỉu hôi hám trời đánh thánh vật.”
“Ít nhất là chúng ta biết được gã đang mơ về cái gì,” Dunbar nhăn nhó quan sát. “Gã mơ về đồ mất dạy bẩn thỉu hôi hám trời đánh thánh vật.”
Đêm đó Hungry Joe mơ thấy con mèo của Huple đang nằm ngủ ở trên mặt, khiến gã chết ngạt, và khi gã tỉnh dậy thì con mèo của Huple đúng là đang ngủ trên mặt gã thật. Nỗi thống khổ thật là kinh khủng, tiếng hú hét khủng khiếp của gã rít lên như xé toang đêm trăng, rung lên trong sức ảnh hưởng của chính nó suốt vài giây tiếp theo như một chấn động hủy diệt. Sau đó là lặng im tê dại, và rồi một loạt tiếng động hỗn loạn vang ra từ bên trong lều gã ta.
Yossarian là một trong những người đầu tiên có mặt ở đó. Khi y lao vào qua cửa thì Hungry Joe đã rút súng ra và đang vật lộn giằng tay ra khỏi Huple để bắn con mèo, còn con mèo thì cứ phun phì phì và điên cuồng đánh lạc hướng để gã không bắn được Huple. Cả hai gã đều đang mặc quần lót quân đội. Bóng đèn sáng rỡ trên cao lắc qua lắc lại như điên trên cái dây điện lỏng lẻo, và những bóng đen cứ chập chờn chao đảo nhấp nhô hỗn loạn, khiến cho cả lều như đang quay cuồng. Theo bản năng Yossarian với tay tìm chỗ bám, rồi tung mình về phía trước trong một cú bổ nhào xuất sắc đã đè bẹp cả ba tay tham chiến xuống đất. Y đứng dậy khỏi cuộc loạn đả, mỗi tay túm cổ một tên - cổ Hungry Joe và cổ con mèo. Hungry Joe và con mèo nhìn nhau căm hận. Con mèo phun phì phì độc địa vào Hungry Joe, còn Hungry Joe thì cố đập nó một cú kinh hồn.
“Một trận đánh công bằng,” Yossarian tuyên bố, và tất cả những người bị tiếng gào thét kinh hoàng kia kéo đến bắt đầu hò reo vui sướng trong nỗi nhẹ nhõm mênh mông tuôn trào. “Chúng ta sẽ có một trận đánh công bằng,” y chính thức giải thích cho Hungry Joe và con mèo sau khi đã mang cả hai ra ngoài, hai tay vẫn túm chặt gáy bọn này. “Nắm đấm, răng và vuốt. Nhưng không được dùng súng.” Y nhắc nhở Hungry Joe. “Và không được phun phì phì,” y nghiêm khắc nhắc nhở con mèo. “Khi tôi buông cả hai ra thì vào vị trí. Thoát khỏi tay tôi là quay lại đánh ngay nhé. Bắt đầu!”
Có cả một đám đông khổng lồ phù phiếm đang khát khao được tiêu khiển, nhưng con mèo bất chợt sợ hãi đúng vào lúc Yossarian buông tay ra, và nó nhục nhã chạy trốn khỏi Hungry Joe như một con chó. Hungry Joe được tuyên bố là người thắng cuộc. Gã khệnh khạng bước đi hạnh phúc với nụ cười kiêu hãnh của một nhà vô địch, mái đầu teo tóp ngẩng cao, bộ ngực gầy gò vươn ra phía trước. Hungry Joe quay về giường ngủ trong niềm vui chiến thắng và lại mơ thấy con mèo của Huple đang ngủ ở trên mặt, khiến gã ngạt thở.
32. Bombline, còn gọi là tuyến ném bom không kích, là giới tuyến được lập ra ở một khu vực chiến trường. Ngoài giới tuyến đó, không quân có thể tấn công mà không gây nguy hại cho các lực lượng mặt đất của chính phe họ.
33. Các hành động cầu may.
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22