Truyện Thần Tiên epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Công Chúa Không Lời
gày xửa ngày xưa ở nước Thổ Nhĩ Kỳ có một pasha [1] chỉ có một đứa con trai độc nhất, vì thế mà bạn hiểu ông yêu chiều nó như thế nào. Ông để cho con rong chơi lêu lổng suốt ngày thay vì phải học hành chăm chỉ để trở thành người có ích.
Có một thời gian món đồ chơi ưa thích nhất của đứa bé là một quả bóng vàng và với quả bóng ấy nó đùa chơi suốt từ sáng sớm cho đến tối khuya mà không làm phiền bất cứ ai. Một hôm, trong lúc ngồi chơi trong đình hóng mát dựng ở giữa vườn, vừa ném quả bóng vào tường vừa bắt bóng, cậu bé thấy có một bà già đang múc nước từ cái giếng trong góc vườn bằng một cái ấm đất. Nó chụp vội lấy quả bóng và ném thẳng vào cái ấm làm ấm vỡ vụn ra thành hàng ngàn mảnh. Bà già giật mình ngạc nhiên nhưng không nói gì chỉ lẳng lặng đi tìm một cái ấm khác. Ngay khi bà đi khuất, thằng bé vội vã nhặt quả bóng lên. Khi nó quay lại đình hóng mát nó lại trông thấy bà già, đang đi lại gần giếng với một cái ấm đất đặt trên vai. Bà cúi xuống định múc nước thì choang một cái, ấm đất vỡ thành từng mảng dưới chân bà. Tất nhiên bà lấy làm giận dữ lắm, nhưng vì sợ pasha, bà vẫn làm ngơ mà bỏ ra đồng xu cuối cùng để mua một cái ấm mới. Cả lần này nữa với một cú ném, quả bóng lại làm chiếc ấm vỡ tan tành xác pháo. Đến nước này thì bà già không chịu đựng hơn được nữa, cơn giận của bà bùng lên, bà run rẩy giơ nắm đấm về phía nhà hóng mát, nơi thằng nhóc đang nấp ở đấy, hét lên:
“Tao ước gì mày sẽ bị trừng phạt bằng cách đem lòng yêu công chúa im lặng.” Nói xong bà lão biến mất.
Trong một khoảng thời gian dài thằng bé không để ý đến lời nguyền này, thực sự nó đã quên. Nhưng năm tháng trôi qua và nó bắt đầu nghĩ về chuyện đó nhiều hơn, kí ức về lời nguyền rủa của bà già lại trở về trong tâm trí nó.
“Ai là công chúa Im Lặng?” Cậu thắc mắc, “tại sao yêu một người như vậy lại là một hình phạt?” Không có lời giải đáp. Tuy vậy, điều đó không ngăn cản cậu suy nghĩ lo lắng đến mức ngày càng ốm yếu rồi lâm bệnh nặng cuối cùng nằm liệt giường. Pasha rất hoảng sợ không hiểu con mình mắc bệnh gì. Ông cho mời tất cả những danh y trong nước đến chữa trị cho con trai nhưng ai cũng bó tay.
“Bệnh tình của con bắt đầu như thế nào con trai?” Một hôm pasha hỏi cậu. “Có lẽ nếu chúng ta biết rõ chúng ta sẽ có cách giúp con.”
Thế là chàng trai kể cho cha nghe câu chuyện xảy ra nhiều năm về trước lúc cậu còn là một đứa bé và những lời bà già nói.
“Hãy cho con, con cầu xin cha hãy cho con đi chu du thiên hạ.” Sau khi kể xong câu chuyện, người con nài nỉ, “nếu con có thể tìm được một công chúa như vậy có thể tình trạng này sẽ chấm dứt.”
Dù rất đau lòng phải xa đứa con yêu dấu, người cha cảm thấy rằng con trai mình chắc không qua nổi nếu cứ để cậu ở nhà thêm một thời gian nữa.
“Thôi thì con cứ đi đi và chúc con thượng lộ bình an,” pasha đáp rồi đi ra ngoài gọi người đầy tớ tâm phúc nhất của mình lệnh cho ông ta đi cùng với con trai.
Mọi sự chuẩn bị diễn ra rất chóng vánh và sớm hôm sau cả hai lên đường. Nhưng cả lão bộc già lẫn chàng trai trẻ đều không mảy may biết mình sẽ đi đâu hoặc cần phải làm gì. Đầu tiên họ bị lạc trong một khu rừng rậm rạp. Từ khu rừng đó họ đi vào một vùng hoang vu, nơi họ lang thang trong 6 tháng trời không gặp một sinh vật nào và khó có thể tìm ra một thứ gì ăn uống cho đến khi họ chỉ còn da bọc xương. Bộ quần áo họ mặc trên người thì biến thành những miếng vải rách treo trên vai. Cả hai quên tất cả mọi chuyện về nàng công chúa, mong ước duy nhất của họ là thấy mình lại có mặt ở lâu đài của pasha như xưa. Rồi một hôm họ phát hiện ra mình đang đứng ở lưng chừng núi. Những hòn đá dưới chân họ sáng lên lấp lánh như kim cương, tim họ đập dồn dập vì vui sướng khi trông thấy một ông già bé nhỏ đi về phía họ. Cảnh tượng này đánh thức trong họ tất cả những kí ức xa xưa và cảm giác mệt mỏi buồn nản chợt tan biến như có phép màu. Với giọng nói xiết bao sung sướng, họ chào đón người mới đến. “Chúng tôi đang ở đâu vậy ông bạn?” Họ hỏi và người già đáp lại đây là ngọn núi nơi con gái sultan [2] ngồi với bảy tấm mạng che mặt và sở dĩ những hòn đá sáng lên là do chúng phản chiếu sắc đẹp rực rỡ của nàng.
Nghe những lời này tất cả những khó khăn, nguy hiểm vừa qua đều biến khỏi tâm trí họ.
“Làm cách nào cháu có thể sớm gặp nàng đây?”
Chàng trai nóng lòng hỏi, nhưng ông già chỉ thủng thẳng đáp:
“Hãy kiên nhẫn một thời gian con trai ạ. Sáu tháng nữa lại trôi qua trước khi con có thể đến được tòa lâu đài nơi công chúa ở cùng với các nữ tì của nàng. Nhưng thử nghĩ coi nếu cháu gặp mặt nàng mà lại không làm cho nàng mở miệng nói thì cháu sẽ phải mất mạng như bao chàng trai khác. Vì vậy hãy suy nghĩ cho kĩ!”
Nhưng chàng trai trẻ chỉ mỉm cười trước lời khuyên ấy – như những lần trước.
Ba tháng sau họ thấy mình đang ở trên đỉnh một ngọn núi khác và con trai của pasha ngạc nhiên thấy khắp các sườn núi phủ một màu đỏ tuyệt đẹp. Cách đấy không xa, bám vào vách núi là một ngôi làng nhỏ và chàng trai gợi ý với lão bộc trung thành là họ hãy đến ngủ đêm ở đó. Về phần mình dân làng tiếp đón khách lạ rất nồng hậu, mang đồ ăn ra mời và dọn giường cho họ nghỉ lưng. Thật là một dịp may hiếm có khi hai khách bộ hành có thể để cho đôi chân mỏi rã rời nghỉ trong chốc lát.
Sáng hôm sau họ hỏi chủ nhà xem ông có thể cho họ biết họ còn phải đi bao lâu mới đến được chỗ ở của công chúa và liệu ông có biết lí do tại sao mà ngọn núi này lại đỏ hơn những ngọn núi khác không.
“Trong vòng ba tháng rưỡi nữa cậu vẫn phải tiếp tục rong ruổi đường dài,” chủ nhà đáp, “cuối thời hạn đó cậu sẽ thấy mình đứng trước cổng tòa lâu đài. Còn về màu của ngọn núi này là do màu hồng mịn màng từ đôi má và đôi môi của công chúa chiếu sáng qua bảy tấm mạng che mặt nàng. Chưa có ai từng được thấy khuôn mặt ấy bởi vì nàng chỉ ngồi đó, không nói một lời dù người ta đồn rằng có nhiều người đã bỏ mạng vì nàng”.
Đến đây, chàng trai không muốn nghe thêm điều gì nữa, vội vàng cảm ơn lòng tốt của chủ nhà và cùng với lão bộc, chàng hăm hở lên đường.
Ngày đêm họ tiếp bước, mệt thì ngủ dưới gốc cây hoặc trong hang động, đói thì ăn dâu rừng hoặc bất cứ một con cá nào mà họ có thể bắt được trong các dòng suối. Cuối cùng khi quần áo của họ rách tả tơi như miếng giẻ và đôi chân họ mỏi đến không thể đi thêm một bước nào nữa thì họ thấy phía xa xa trước mắt mình, trên đỉnh núi cao ngất là một tòa lâu đài xây bằng đá hoa cương màu vàng.
“Cuối cùng thì nó đây rồi,” chàng trai reo lên, dòng máu nóng dường như dâng lên trong huyết quản của chàng. Nhưng khi chàng trai và người bạn đồng hành bắt đầu trèo lên đỉnh núi, họ phải dừng lại vì kinh hoàng bởi vì mặt đất trắng xoá những chiếc đầu lâu. Chàng trai là người đầu tiên tìm thấy tiếng nói của mình và chàng cố lấy giọng bình tĩnh nói với lão bộc:
“Chắc chắn đây là đầu lâu của những người đã cố công làm cho công chúa mở miệng nói nhưng đã thất bại. Phải, nếu chúng ta thất bại thì xương của chúng ta cũng trắng xóa nơi này.”
“Ôi trời ơi, xin công tử hãy quay lại trong khi vẫn còn chưa muộn,” lão bộc khẩn khoản van nài. “Pasha đã giao cho tôi trách nhiệm trông nom công tử và khi khởi hành tôi đã không nghĩ là cái chết đang chờ đợi chúng ta như vậy.”
“Kiên cường lên, ông bạn già, hãy kiên cường lên!” Chàng trai cất tiếng cười: “Là người ai mà không phải chết. Với lại, lão cũng biết là dù sao đến một lúc nào đó, công chúa cũng phải nói chứ.”
Sau đó họ lại can đảm bước tiếp, đi qua những cái đầu lâu và những bộ xương đủ kích cỡ nhưng tất cả đều có màu trắng nhởn. Dần dần họ đi đến một ngôi làng nơi họ dự định dừng chân trong chốc lát để cho đầu óc có thể hưng phấn và tỉnh táo trước nhiệm vụ khó khăn đang đợi họ. Nhưng lần này, dù dân làng ai cũng tử tế, thân thiện, gương mặt họ vẫn không dấu được vẻ buồn thảm, chốc chốc tiếng kêu khóc thảm thương của họ lại vang lên trong thinh không.
“Ôi người anh em, tôi lại mất bạn nữa sao?” “Ôi con trai, ta lại không được thấy con lần nữa ư?”
Khi những người khách lạ hỏi ý nghĩa của những lời than khóc này – những lời than thật sự sầu thảm – họ nhận được câu trả lời như sau:
“Ôi! Hai người lại đến đây tìm cái chết sao! Nơi này thuộc về sultan cha của công chúa và khi có bất cứ người thanh niên nào liều mạng đến đây hòng làm cho công chúa cất tiếng nói đều được đến trình diện sultan. Chính ngài sẽ đưa chàng trai đó đến gặp công chúa. Việc gì xảy ra sau đó thì có lẽ những bộ xương ngoài kia có thể giúp các vị đoán ra.”
Chàng trai trẻ cúi đầu cảm ơn và đứng suy nghĩ hồi lâu, rồi quay sang lão bộc chàng nói:
“Phải, thế là số phận của chúng ta đã được quyết định rồi. Trong lúc này chúng ta phải nghĩ xem cần làm gì và tuyệt đối không được phạm sai lầm”.
Hai, ba ngày sau đó họ đi lang thang ngoài chợ, mở to mắt ra nhìn ngó, nghe ngóng. Rồi một buổi sáng, họ gặp một người đàn ông mang một cái lồng trong có một con chim họa mi. Tiếng chim hót rộn ràng náo nức đến nỗi, chàng trai trẻ phải dừng lại lắng nghe và hỏi mua con chim đó.
“Trời ơi, sao công tử lại chất thêm vào đầu mình một chuyện vô bổ như vậy?” Lão bộc kêu lên vẻ bực bội: “Công tử còn chưa có đủ chuyện phải lo hay sao mà còn đèo bòng thêm chuyện này?”
Nhưng cậu chủ trẻ vốn thích làm theo ý mình, không để ý đến lời than, trả đúng cái giá cao mà người đàn ông đòi, rồi mang chim về treo trong phòng trọ của mình. Tối hôm ấy chàng ngồi một mình, tuyệt vọng cố nghĩ ra một cách nào đó để cho công chúa mở miệng nói, nhưng vẫn chẳng nghĩ ra được gì. Chợt con họa mi mổ vào cửa lồng chỉ được cài bằng một cái que nhỏ và bay ra đậu trên vai chàng, nhẹ nhàng thì thầm vào tai chàng:
“Có điều gì làm chàng phải suy tư vậy, công tử?” Chàng trai giật mình, ở quê hương chàng, chim không biết nói và như nhiều người chàng rất sợ những gì mà mình không hiểu. Nhưng chàng cảm thấy xấu hổ cho sự ngu ngốc của mình và giải thích rằng chàng đã đi qua hàng ngàn dặm đường trong hơn một năm trời để chinh phục trái tim con gái của sultan. Nhưng bây giờ khi đến được bên nàng thì chàng lại chưa nghĩ ra được cách gì làm cho công chúa Im Lặng phải nói.
“Đừng làm cho đầu óc chàng phải vướng víu về chuyện này. Việc này dễ như trở bàn tay. Đêm nay chàng hãy đến chỗ nàng, mang tôi đi cùng và khi vào trong khuê phòng của công chúa, chàng hãy giấu tôi dưới cái bệ để những cây nến bằng vàng. Công chúa che mặt rất dày bằng bảy cái mạng vì thế nàng chẳng nhìn thấy gì mà cũng chẳng ai trông thấy mặt nàng. Sau đó chàng hãy chào hỏi nàng, công chúa sẽ không nói gì đâu. Vì thế mà chàng nói là chàng rất tiếc đã quấy rầy nàng và chàng sẽ nói chuyện với cái bệ để nến. Khi chàng nói tôi sẽ trả lời.”
Chàng trai giấu con chim trong áo và bắt đầu đi đến hoàng cung, cầu xin được ra mắt sultan. Lời cầu xin mau chóng được ân chuẩn. Chàng giấu con chim trong áo khoác để lại ở một góc tối ngoài hành lang và bước vào chính điện nơi sultan đang ngự trên ngai vàng, chàng quỳ lạy trước đức vua.
“Nhà ngươi cầu xin điều gì?” Sultan hỏi, nhìn thật kĩ người lạ - một chàng trai cao lớn, đẹp đẽ. Nhưng khi nghe lời thỉnh cầu của chàng, nhà vua lắc đầu thương xót.
“Nếu ngươi có thể làm công chúa nói, nàng sẽ trở thành vợ ngươi, còn nếu không... ngươi có thấy hàng đống xương chất ngoài kia không?”
“Phải có một ngày nào đó có một người có thể làm nên một kì tích, thưa sultan,” chàng trai đáp với vẻ cứng cỏi, “và tại sao thần lại không thể khác với những người khác? Dù sao thì một khi lời nói đã phát ra, thần cũng không thể rút lại được.”
“Được, vậy thì cứ làm theo ý nhà ngươi.” Sultan phán, rồi lệnh cho quân hầu dẫn chàng trai đến khuê phòng của công chúa và cho phép chàng bước vào một mình.
Thế là không để cho ai thấy, chàng trai cùng cái áo khoác và con chim đi qua dãy hành lang tối om vì đêm cũng đã khuya. Chàng thấy mình đứng trong một căn phòng trống trải chỉ có một chồng nệm bằng lụa và một cây nến cao cắm trên cái giá bằng vàng. Tim chàng đập thình thịch trong lồng ngực khi chàng nhìn vào chồng nệm và biết rằng dưới những tấm mạng kia là nàng công chúa mà chàng hằng khao khát. Sợ rằng những con mắt kia có thể trông thấy mình, chàng vội vã đẩy cái lồng chim vào dưới cái bệ để ngỏ, trên đó ngọn nến đang cháy sáng. Lấy lại bình tĩnh, chàng trịnh trọng cúi chào công chúa và hỏi thăm sức khỏe của nàng.
Chẳng cần căn cứ vào cử động của bàn tay, chàng cũng biết nàng đang lắng nghe. Vì đã biết trước điều đó chàng tiếp tục nói về những chặng đường bôn ba của mình và những miền đất kì lạ mà chàng đã đi qua, nhưng chàng tuyệt không nghe được một lời nào của nàng.
“Tôi thấy rằng nàng chẳng thích thú gì những chuyện này,” cuối cùng chàng nói, “và cũng vì tôi đã bị buộc phải giữ im lặng trong bao tháng qua, tôi cảm thấy mình muốn nói chuyện với một ai đó. Vì thế tôi sẽ đến nói chuyện với cây nến vậy.” Nói xong chàng đi vòng ra phía sau công chúa và kêu lên: “Ôi đây là cây nến đẹp nhất, anh bạn khỏe không?”
“Khỏe lắm thưa ngài,” họa mi véo von đáp, “tôi ngạc nhiên lắm bởi vì bao nhiêu năm qua chẳng có ai trò chuyện với tôi. Bây giờ ngài đã đến đây thì tôi xin ngài hãy nghỉ ngơi một lúc và lắng nghe câu chuyện của tôi.”
“Rất sẵn lòng,” chàng trai đáp, ngồi bệt xuống sàn vì chẳng có tấm nệm nào dành cho chàng cả.
“Ngày xửa ngày xưa,” chim họa mi bắt đầu “có một pasha có một người con gái là một thiếu nữ xinh đẹp nhất vương quốc. Người theo đuổi nàng thì nhiều vô số nhưng nàng không dễ gì đồng ý, cuối cùng chỉ còn lại ba người mà nàng có thể nghĩ đến chuyện hôn ước. Không biết trong ba người đó, ai là người thích hợp với mình nhất, nàng bèn hỏi ý kiến cha và pasha cho vời ba chàng trai đến tiếp kiến và ra một điều kiện. Mỗi người trong bọn phải học một nghề nào đó, trong vòng 6 tháng ai chứng minh được mình là người thông minh nhất sẽ được sánh duyên cùng cô gái.
Mặc dầu những chàng trai này có phần nản chí, nhưng họ cũng thấy rằng thử thách này hoàn toàn hợp lý, và khi rời lâu đài, họ thảo luận với nhau xem ai sẽ theo đuổi nghề nào. Ngày hôm ấy trời rất nóng nực, khi đến một dòng suối chảy từ trên một triền núi xuống, họ dừng lại uống nước và nghỉ ngơi. Một người trong bọn nói: “Tôi thấy tốt nhất là chúng ta hãy chia nhau đi tìm kiếm vận may của mình. Vì thế chúng ta hãy đặt chiếc nhẫn của mình dưới hòn đá này và ai đi đường nấy. Ai xong việc sẽ trở lại đây lấy chiếc nhẫn của mình. Nhờ thế người này sẽ biết tin của người kia hoặc là biết có chuyện gì xảy ra với bất cứ ai trong bọn không.”
“Được,” hai người còn lại đáp. Ba chiếc nhẫn được cho vào một cái lỗ nhỏ và được một hòn đá bịt lại một cách cẩn thận.
Thế rồi họ chia tay nhau, đến ngày đã hẹn họ gặp nhau ở bờ suối nọ. Ai nấy đều hân hoan vui sướng, tíu tít kể cho nhau nghe về việc mình đã làm và mọi chuyện xảy ra trong thời gian qua.
“Tôi nghĩ tôi sẽ là người có được mỹ nhân,” người lớn tuổi nhất nói với một tiếng cười “bởi vì chẳng có ai có khả năng thực hiện một chuyến đi dài một năm trong vòng một giờ.”
“Như thế cũng tuyệt lắm,” người thứ hai đáp. “Nhưng nếu anh trị vì một vương quốc thì việc có ích hơn vẫn là khả năng nhìn thấy mọi việc đang diễn ra ở một nơi xa và đó là điều mà tôi đã học được.”
“Không đâu các bạn thân mến,” người thứ ba kêu lên, “việc các anh làm là rất tốt nhưng khi pasha biết tôi có thể cải tử hoàn sinh thì ngài sẽ biết ai mới xứng đáng là con rể quý của ngài. Nhưng mà chúng ta hãy mau quay về lâu đài. Chỉ còn có mấy tiếng nữa là hết thời hạn 6 tháng. Vì vậy chúng ta phải mau lên kẻo trễ.”
“Hượm đã,” người thứ hai nói, “để tôi nhìn xem chuyện gì đang diễn ra ở lâu đài.” Nói đoạn người này ngắt vào chiếc lá trên một cái cây mọc gần đấy, lầm bầm đọc thần chú và làm dấu rồi để lên mắt. Mặt chàng biến sắc và chàng thảng thốt kêu lên: “Thôi chết rồi.”
“Có chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy?” Hai người kia hỏi dồn dập.
“Tiểu thư đang nằm hấp hối trên giường, và chỉ còn sống được vài phút nữa.” Người thứ hai đáp với giọng run rẩy. “Làm thế nào đây? Ai có thể cứu sống nàng?”
“Tôi,” người thứ ba đáp, rút từ trong áo choàng ra một cái hộp nhỏ, “thứ dầu này sẽ chữa được bách bệnh nhưng làm sao tôi về kịp đây?”
“Cứ đưa nó cho tôi,” người thứ nhất nói. Chỉ trong nháy mắt anh ta đã có mặt bên tiểu thư cùng pasha và những người thân đang nước mắt lưng tròng. Rõ ràng là không thể phí một giây bởi vì tiểu thư đã bất tỉnh và khuôn mặt nàng đã lạnh ngắt. Cho một ngón tay vào trong lọ, chàng lấy dầu xoa lên mắt, miệng và hai tai, rồi với trái tim đập thùm thụp trong lồng ngực chàng ta đợi kết quả.
Mọi việc diễn ra nhanh hơn chàng nghĩ. Màu hồng đã trở về trên đôi má người con gái và nàng mỉm cười với cha. Pasha sung sướng với việc cải tử hoàn sinh này đến nỗi không thể nói lên lời, chỉ biết ôm chầm lấy con gái. Đoạn quay sang chàng trai trẻ đã cứu sống con gái, ông nói:
“Tráng sĩ có phải là một trong những người mà ta đã phái đi học nghề vào 6 tháng trước?”
“Thưa vâng. Còn có hai người nữa cũng đang trên đường về đây để pasha có thể phân định.”
Kể đến đây, họa mi dừng lại, hỏi chàng trai xem theo ý chàng ai là người xứng đáng với người đẹp.
“Đó là người đã học được cách chế ra thuốc cải tử hoàn sinh.” Chàng đáp.
“Nhưng nếu không có người có thể thấy được chuyện gì đang xảy ra từ một nơi rất xa thì làm sao họ biết được người con gái đang bị bệnh!” Họa mi vặn lại.
“Tôi thì tôi nghĩ anh ta mới là người xứng đáng.” Cứ thế hai người cãi qua cãi lại mỗi lúc một kịch liệt cho đến khi bất thình lình công chúa im lặng suốt từ đầu đến giờ, đứng phắt lên và bảo:
“Các ngươi ngu lắm, không hiểu là nếu không có chàng trai đi nhanh như gió thì dẫu thuốc tiên cũng vô dụng bởi vì cái chết đâu có đợi lâu hơn nữa. Chỉ có chàng ta mới xứng đáng làm chồng cô gái.”
Ngay khi câu đầu tiên bật ra khỏi miệng công chúa, một nô lệ đứng ngay ngoài cửa đã chạy hết tốc lực đến báo cho Sultan biết phép màu đã xảy ra và người cha vui mừng khôn xiết tức tốc chạy đến. Nhưng công chúa hiểu là mình đã rơi vào một cái bẫy giăng ra rất khéo và quyết không thốt ra một lời nào nữa. Nàng ra dấu rằng chàng trai muốn lấy nàng làm vợ thì cần phải thắng được nàng ba lần. Và nàng mỉm cười dưới bảy lớp mạng bởi vì nàng nghĩ đó là điều không thể xảy ra.
Khi Sultan truyền rằng chàng trai đã qua một thử thách và còn phải trải qua hai lần nữa, mặt chàng trai sa sầm xuống như có đám mây giông lướt qua. Có vẻ như đây là một cuộc chơi không công bằng nhưng chàng không dám phản đối, chỉ cúi đầu chào và cố ý bước giật lùi đến gần chỗ giấu con chim họa mi. Đợi lúc không có ai để ý chàng bèn nhét cái lồng chim vào trong áo khoác và rời khỏi cung điện.
“Sao trông chàng buồn bã thế?” Họa mi hỏi, ngay khi họ ra ngoài an toàn. “Mọi chuyện đều xảy ra như đã định mà! Tất nhiên công chúa nổi giận vì nàng đã buột miệng nói. Chàng có thấy rằng ngay từ lời đầu tiên tấm mạng mà công chúa che mặt đã rách toạc. Tối mai cứ mang tôi trở lại, để tôi trên cái cột cạnh hàng rào. Đừng sợ gì hết, chàng chỉ cần tin tưởng vào tôi!”
Tối hôm sau khi mặt trời vừa lặn, chàng trai để cái lồng lại nhà, giấu con chim trong nếp áo gấp chàng lẻn vào cung điện, tiến thẳng tới phòng công chúa. Những người gác cửa cho phép chàng vào trong và chàng cố ý đi cạnh cửa sổ để họa mi có thể nhảy lên cái cột mà không ai nhìn thấy. Sau đó chàng quay lại, cúi thật thấp chào công chúa và hỏi nàng vài câu nhưng cũng như lần trước, nàng không nói gì mà cũng không tỏ dấu hiệu gì là nàng có nghe. Vài phút sau chàng lại cúi chào lần nữa và đi ngang qua cửa sổ, chàng nói:
“Chào bạn cột! Nói chuyện với công chúa cũng chẳng có ích gì, nàng sẽ không nói lấy một tiếng mà ta thì lại cần phải nói với một ai đó. Vì vậy mà ta đến với anh bạn. Hãy cho ta biết suốt thời gian qua, anh bạn có được khỏe không?”
“Cám ơn,” giọng nói vang lên từ cái cột, “tôi cảm thấy mình vẫn như thường. Cũng may là công chúa nhất định giữ im lặng chứ không thì anh cũng chẳng muốn trò chuyện gì với tôi đâu. Để cảm ơn, tôi sẽ kể cho anh nghe một câu chuyện thú vị mà tôi vừa mới nghe được và tôi muốn biết ý kiến của anh.”
“Thế thì thú vị quá,” chàng trai đáp, “làm ơn bắt đầu ngay đi.”
“Xưa có một người con gái xinh đẹp đến nỗi bất cứ ai thấy nàng cũng đem lòng say mê. Nhưng khó có ai có thể làm nàng xiêu lòng, nàng từ chối bất cứ lời cầu hôn nào tuy vẫn cố giữ quan hệ thân thiện với họ. Với cung cách ấy cùng với năm tháng trôi qua, lần lượt từng người một cũng đâm mệt mỏi với sự chờ đợi vô vọng mà kiếm cho mình một người vợ có thể kém bề nhan sắc hơn nhưng lại bớt kiêu kì hơn. Và cuối cùng nàng chỉ còn lại ba người theo đuổi, đó là: Baldschi, Jagdschi, và Firedschi. Nhưng nàng vẫn nghĩ mình cao giá lắm, cho rằng nàng đẹp hơn, tốt hơn tất cả phụ nữ trên đời. Rồi một tối nọ, nàng đã phải mở to mắt trước sự thật. Nàng đang ngồi trước gương chải mái tóc quăn dợn sóng và trong suối tóc đen nhánh như lông quạ lẫn một sợi tóc bạc. Thấy thế, trái tim nàng nảy lên một cái rồi đứng im. “Mình đã già rồi ư?” nàng tự hỏi, “nếu như mình không vội chọn lấy một người mình sẽ ở giá suốt đời sao? Mình biết ai trong số những người rắp ranh bắn sẻ sẽ vui lòng cưới mình ngay ngày mai, nhưng mình không thể quyết định chọn ai. Chắc phải nghĩ ra một cách nào đó để tìm ra người tốt nhất và không được để mất thời gian.”
Thế là thay vì đi ngủ, nàng đã thao thức suốt đêm để nghĩ ra những kế hoạch khác nhau và trời vừa hửng sáng nàng đã trở dậy mặc quần áo.
“Đây là việc đầu tiên phải làm,” nàng lẩm bẩm trong lúc nhổ sợi tóc bạc đã gây cho nàng bao nỗi phiền muộn. “Làm thế này cũng không được chính đáng lắm nhưng mình chẳng nghĩ ra được cái gì tốt hơn. Phải, chẳng có ai trong số họ thông minh hơn ta và ta dám chắc họ dễ dàng lọt vào bẫy.”
Sau đó nàng gọi một nữ tì và ra lệnh cho cô ta đến báo cho Jagdschi biết là nàng đã sẵn sàng đón tiếp chàng trong vòng một tiếng đồng hồ. Rồi nàng ra ngoài vườn đào một ngôi mộ cạnh một gốc cây và chôn xuống đấy một tấm vải liệm.
Jagdschi vô cùng vui sướng với lời hò hẹn này và diện bộ quần áo mới nhất, chàng vội vã đi đến nhà người trong mộng. Nhưng tâm trạng vui sướng của chàng biến mất khi thấy nàng đang nằm dài trên trường kỉ khóc tức tưởi.
“Có chuyện gì vậy, người đẹp?” Chàng hỏi, cúi đầu thật thấp để chào nàng.
“Một điều khủng khiếp đã xảy ra,” nàng nói, giọng nghẹn ngào vì tiếng nức nở. “Cha thiếp đã chết hai đêm trước và thiếp chôn cất ông trong vườn. Nhưng bây giờ thiếp mới biết ông là một thầy phù thủy chưa bao giờ chết bởi vì ngôi mộ của ông trống rỗng và ông đi lang thang đây đó trên thế giới này.”
“Đó là một tin xấu, thật thế. Nhưng mà ta biết làm gì để an ủi nàng đây?”
“Chàng chỉ có thể làm được một điều, đó là quấn mình trong tấm vải liệm và nằm vào quan tài. Nếu ông ấy không thể trở về sau 3 tiếng, ông ấy sẽ mất hết quyền lực đối với thiếp, hồn sẽ buộc phải ra đi và lang thang trong thế giới này.”
Jagdschi rất tự hào vì người đẹp đã tin tưởng mình, bèn quấn quanh mình một tấm vải liệm rồi nằm dài trong mộ. Sau đó đến lượt Baldschi, chàng cũng thấy người mình yêu thương đang khóc than rất sầu thảm. Sau đó nàng cũng bảo anh chàng này rằng cha mình là một phù thủy và rất có thể ông ta sẽ rời khỏi mộ mà theo ám nàng vì vậy Baldschi phải cầm sẵn một hòn đá lớn đập vào đầu ông ta nếu ông ta có dấu hiệu đội mồ đi lên.
Baldschi quá si mê người đẹp nên sẵn lòng làm bất cứ việc gì để làm nàng vui lòng, vội nhặt lên một hòn đá và ngồi xuống cạnh ngôi mộ trong đó Jadgschi đang nằm. Một tiếng sau Firedschi lại đến để bày tỏ tình yêu của mình và cũng như hai trường hợp trên, chàng thấy người trong mơ của mình đang đau khổ não nề. Với chàng, người đàn bà cũng nói cha mình là một thầy phù thủy và kẻ thù của cha nàng đã ném xác ông ra khỏi mộ để thay thế vị trí của ông. “Nhưng,” nàng nói thêm, “nếu chàng có thể khiến phù thủy đến gặp thiếp thì tất cả phép thuật của ông ta sẽ bị tiêu biến, còn nếu không thiếp sẽ thiệt mạng.”
“Ôi người đẹp, có điều gì trên đời này mà ta không thể làm cho nàng.” Firedschi kêu lên rồi chạy ngay ra ngôi mộ, đào lên tóm lấy anh chàng thứ nhất đang nằm trong đó, vác lên vai rồi vội vã chạy vào nhà. Thoạt đầu anh thứ hai quá bàng hoàng khi sự việc diễn ra như thế nên cứ ngồi im như phỗng. Nhưng chỉ ít giây sau anh ta đã nhảy lên, ném hòn đá theo hai người, hi vọng nó có thể giết cả hai. May thay, hòn đá không trúng vào ai hết và chẳng bao lâu sau cả ba đã đứng trước mặt người đàn bà đẹp. Lúc này người thứ nhất nghĩ rằng mình đã giải thoát người đàn bà khỏi quyền lực của thầy phù thủy bèn ném tấm vải liệm đi.
“Nào bây giờ thì cho tôi biết đi chàng trai,” họa mi nói khi kể xong câu chuyện “trong ba người ai là người xứng đáng lấy người đẹp? Tôi thì tôi chọn người thứ ba.”
“Không, không,” chàng trai nói khi hiểu ngụ ý của họa mi “người thứ hai mới chịu nhiều khó nhọc nhất, chắc chắc anh ta xứng với người đàn bà hơn.”
Họa mi không đồng ý, hai người cãi qua cãi lại cho đến lúc một giọng thứ ba vang lên:
“Sao các ngươi lại nói những điều ngớ ngẩn đến thế!” Công chúa kêu lên và khi nàng nói, có tiếng một cái gì bị xé rách. “Tại sao các người không nghĩ đến anh chàng thứ nhất nhỉ? Anh ta chịu nằm trong mộ ba tiếng đồng hồ với một tảng đá trên đầu! Tất nhiên anh ta mới đáng được chọn làm chồng.”
Chỉ vài phút sau tin tức đã bay đến tai Sulton nhưng lúc này ngài không đồng ý với cuộc hôn nhân cho đến khi con gái mở miệng nói đến lần thứ ba. Nghe lệnh, chàng trai lại đến xin lời khuyên của họa mi: Làm thế nào để vượt qua thử thách này, chim bảo với chàng rằng công chúa trong lúc giận dữ đã cho đập nát cây cột và lần này chim phải trốn trong nếp gấp của tấm rèm treo ngoài cửa.
Tối hôm sau, chàng trai đi đến cung điện với những bước chân vững vàng, quả cảm. Khi chàng bước vào phòng công chúa, họa mi bay lên đậu trên bệ cửa, hoàn toàn bị che khuất bởi tấm màn đen. Chàng trai lại nói nói cười cười như mọi lần và tất nhiên công chúa không đáp lại câu nào, cuối cùng chàng rời chỗ công chúa đang ngả mình trên tấm nệm, khuôn mặt che kín dưới những lớp mạng sáng màu – vừa mới được thay. Chàng đi đến bên cửa, từ đó có một giọng nói vui tươi trả lời chàng.
Hai người chào hỏi nhau một lúc, đoạn họa mi hỏi xem chàng trai có thích nghe chuyện không bởi vì nó vừa được nghe một câu chuyện rất thú vị làm cho nó phải suy nghĩ. Để trả lời, chàng trai nói chàng nóng lòng muốn nghe chuyện đó ngay lập tức và không phí một giây, họa mi bắt đầu:
“Đã lâu lắm rồi có một người thợ mộc, thợ may và một anh học trò rủ nhau đi chu du khắp thiên hạ để xem xét mọi việc trên đời. Sau vài tháng trời đi lang thang khắp nơi, họ chán không muốn đi phiêu du nữa, quyết định trụ lại một thành phố nhỏ mà họ ưa thích. Ở đây họ thuê một căn nhà nhỏ, tìm công việc làm và trở về vào lúc mặt trời lặn, ngồi hút thuốc và trò chuyện với nhau về những sự việc xảy ra trong ngày.
Một đêm vào giữa mùa hè, trời nóng hơn thường lệ, người thợ mộc lăn qua lăn lại không thể ngủ được. Thay vì ném đi chiếc nệm đã làm cho mình khó chịu, anh ta làm một việc khôn ngoan hơn là uống một li cà phê và mồi một tẩu thuốc dài. Chợt đôi mắt anh nhìn vào một vài mẩu gỗ để trong góc nhà và với đôi tay khéo léo anh tạc một bức tượng thật đẹp hình một cô gái khoảng 14 tuổi. Tác phẩm này đã làm anh cảm thấy lòng dịu đi đến nỗi anh thấy buồn ngủ và đi về giường nằm xuống ngủ thật say.
Nhưng người thợ mộc không phải là người duy nhất thức dậy vào đêm ấy. Khi có một tiếng sấm vang lên, người thợ may thức dậy, lòng bồn chồn bất an và anh nghĩ mình nên xuống cầu thang, nhúng đôi chân vào vòi nước ngoài vườn. Để đi ra cửa, anh ta phải đi qua căn phòng nơi người thợ mộc vừa ngồi hút thuốc và anh nhìn thấy một cô gái đẹp đứng tựa vào tường. Anh đứng lại, lặng yên không nói hồi lâu trước khi giơ tay chạm vào người cô và thật ngạc nhiên thấy cô gái được tạc bằng gỗ.
“À ta có thể làm cho nàng còn đẹp hơn nữa,” anh nói rồi tìm trên giá một súc lụa vàng óng mà anh vừa mua được của một thương gia. Anh đo, cắt và may một chiếc áo dài tuyệt đẹp cho cô gái. Làm xong thì cũng thấm mệt và anh đi ngủ.
Trời vừa rạng sáng thì anh học trò thức dậy chuẩn bị đi đến thánh đường của người Hồi Giáo. Nhưng kìa anh trông thấy một thiếu nữ đang đứng đấy. Trong lúc tâm hồn lâng lâng vui sướng, anh quỳ xuống trước mặt người đẹp, giơ hai tay lên:
“Trời ơi, nàng còn đẹp hơn cả màn đêm nhung huyền được bọc trong vẻ đẹp của mười ngàn ngôi sao,” chàng lẩm bẩm. “Chắc chắn là một vẻ đẹp hiếm hoi như thế này sẽ không bao giờ đến với đời mà không có linh hồn.”
Nói xong, chàng quỳ xuống cầu nguyện với tất cả tấm lòng mình để cuộc sống hà hơi thở của nó vào người con gái bằng gỗ.
Anh vừa cầu nguyện xong thì bức tượng gỗ tuyệt đẹp biến ngay thành một thiếu nữ. Cả ba người đều yêu cô đến mất trí và đều mong muốn được cưới cô. “Bây giờ thì chàng hãy cho tôi biết,” họa mi hỏi, “cô gái sẽ thuộc về ai? Với tôi có vẻ như người thợ mộc mới là người có diễm phúc đó”.
“Nhưng mà người học trò sẽ không nghĩ đến chuyện cầu nguyện nếu người thợ may không làm cho cô ấy đẹp hơn bằng bộ quần áo tuyệt đẹp do chính tay mình làm ra,” chàng trai lí sự, vì đã hiểu được luật chơi và thế là họ lại cãi nhau rất rôm rả. Bất thình lình, công chúa bực tức vì cả hai không nói gì đến người học trò bèn quên mất lời thề mà kêu to lên: “Các người thật ngu ngốc! Cô gái không thể thuộc về ai ngoài người học trò. Nếu không có anh ta thì liệu những người kia còn có ích gì. Tất nhiên anh ta mới là người được cưới cô gái.” Nàng vừa nói xong thì cả bảy lớp mạng che mặt đều rơi xuống. Và đứng đó là nàng công chúa đẹp nhất trên đời.
“Chàng đã thắng thiếp rồi,” nàng nói với nụ cười e lệ và đưa tay ra cho chàng.
Và thế là họ tổ chức hôn lễ. Sau tiệc cưới họ cho người đi tìm bà già có cái ấm đất mà chàng trai đã ném vỡ nhiều năm về trước. Bà đến sống trong tòa lâu đài của họ, trở thành vú nuôi cho những đứa bé kháu khỉnh lần lượt ra đời và sống hạnh phúc cho đến tận lúc chết.
[1] Pasha: Quan tổng trấn ở Thổ Nhĩ Kỳ
[2] Sultan: Vua ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Truyện Thần Tiên Truyện Thần Tiên - Andrew Lang Truyện Thần Tiên