Chương 10
ậu biết đấy, ngay bây giờ tôi có thể làm mà không cần đến thứ này nữa,” Jansson càu nhàu khi Reilly thả mình xuống chiếc ghế bên kia bàn trước mặt ông sếp. Ngồi tại bàn trong văn phòng Trợ tá Giám đốc Thường trực tại Federal Plaza[23] là Aparo và Amelia Gaines, cùng với Roger Blackburn, chỉ huy lực lượng đặc nhiệm đặc trách về các tội phạm bạo lực và tội phạm nghiêm trọng, và hai trong số các đặc vụ trợ tá thường trực[24] của Blackburn.
Quần thể bốn tòa nhà chính phủ tại khu Manhattan Hạ chỉ cách Ground Zero[25] vài tòa nhà. Trong đó có hai mươi lăm ngàn nhân viên chính phủ, và là trụ sở của ban tác chiến Phân Cục New York của FBI. Ngồi ở đó, Reilly thoát được tiếng ồn ào không dứt trong khu vực làm việc chính. Thực ra sự yên tĩnh tương đối trong văn phòng riêng của sếp là điều duy nhất có đôi chút hấp dẫn trong công việc của Jansson.
Trên cương vị Trợ tá Giám đốc Thường trực của ban tác chiến Phân Cục New York, trong những năm qua Jansson đã phải giơ vai gánh vác trách nhiệm nặng nề. Tất cả năm lĩnh vực trọng tâm của Cục – ma tuý và tội phạm có tổ chức, tội phạm bạo lực và những tên tội phạm quan trọng, tội phạm về tài chánh, phản gián nước ngoài, và chủ nghĩa khủng bố nội địa – con chiên ghẻ gần đây nhất của cái đám tởm lợn đó – đều đã hoạt động rất hiệu quả. Jansson có vẻ là người được đào tạo cho sứ mạng này, ông có khổ người to lớn của một cựu tiền đạo bóng bầu dục Mỹ, cũng là vị trí ngày trước ông đã đảm nhiệm trong đội bóng, tuy nhiên dưới mái tóc hoa râm, khuôn mặt khắc khổ của ông có một vẻ lạnh nhạt, cách biệt. Nhưng điều đó không làm những nhân viên dưới quyền Jansson cảm thấy khó chịu lâu, bởi họ sẽ nhanh chóng hiểu ra rằng, ngoài cái chết và thuế là những thứ chắc chắn ai cũng biết, có một điều chắc chắc khác: nếu được Jansson ủng hộ, bạn có thể yên chí san bằng bất kỳ trở ngại nào xuất hiện trên đường đi của bạn. Tuy nhiên, nếu phạm sai lầm khiến ông ta nổi giận, bạn chỉ còn cách trốn biệt xứ.
Vì Jansson sắp về hưu, nên Reilly có thể hiểu được tại sao ông sếp của anh đặc biệt không thích những ngày tháng tại nhiệm cuối cùng của ông gặp rắc rối với những chuyện có thể làm cho ‘quan trên trông xuống người ta trông vào’ như vụ METRAID – cái tên mới đầy thú vị của vụ cướp viện bảo tàng. Giới truyền thông chộp ngay lấy vụ này cũng đúng thôi. Đây không chỉ là một vụ cướp có vũ khí bình thường. Đó là một cuộc tập kích lớn. Khẩu súng liên thanh của chúng đã lia vào những nhân vật hàng đầu của New York. Vợ ngài Thị trưởng bị bắt làm con tin. Một người bị chúng hành quyết ngay trước mắt bàn dân thiên hạ; không phải bị bắn, mà là chặt đầu, và không phải trong khuôn viên kín cổng cao tường trong một chế độ độc tài nào đó ở Trung Đông, mà là tại đây, tại Manhattan, trên Đại lộ Thứ Năm.
Trên truyền hình trực tiếp.
Reilly đảo mắt nhìn từ Jansson đến lá cờ và phù hiệu của Cục treo trên tường phía sau, rồi nhìn lại ông trong khi vị Trợ tá Giám đốc Thường trực chống hai khuỷu tay lên mặt bàn và thở một hơi rõ dài.
“Lúc chúng ta tóm cổ được bọn chúng, chắc chắn là tôi sẽ nói cho bọn khốn này biết bọn chúng đã láo lếu như thế nào.” Reilly nói vẻ thăm dò.
“Cậu cứ việc,” Jansson vừa nói vừa chồm người tới phía trước, ánh mắt nghiêm khắc quét qua khuôn mặt của đám nhân viên đang tập hợp trước mắt. “Tôi không cần nói cho các cậu biết tôi đã nhận được điện thoại nhiều đến mức nào hay là từ các vị tai to mặt lớn đến cỡ nào về chuyện này. Hãy cho tôi biết công việc của chúng ta đang ở đâu và tiến triển theo hướng nào đây?”
Reilly nhìn những người khác và lên tiếng đầu tiên.
“Các khám nghiệm pháp y sơ bộ không chỉ ra cho chúng ta một hướng nào cụ thể. Những tên đó không để lại dấu vết gì nhiều ngoài vỏ đạn và mấy con ngựa. Các nhân viên trong Đội Phản ứng Khẩn cấp đang bực bội vì có quá ít kết quả để tiếp tục.”
“Đây là lần duy nhất,” Aparo phụ hoạ.
“Tuy vậy, những vỏ đạn cho chúng ta biết chúng sử dụng súng Cobray M11/9 và Micro Uzis. Này Rog, các cậu đang điều tra việc này phải không?”
Blackburn hắng giọng. Anh là một người bản chất mạnh mẽ, người mới đây đã xử lý một mạng lưới phân phối ma tuý lớn nhất ở khu Harlem, kết quả là bắt giữ hơn hai trăm người. “Hiển nhiên là những loại súng này phổ biến vô cùng. Bọn tôi đang tiến hành các bước điều tra, nhưng tôi sẽ không nín thở chờ đợi. Không thể làm vậy với những chuyện như thế này. Không thể tưởng tượng được là mấy thằng quái này chỉ mua những thứ đó trên mạng Internet mà thôi.”
Jansson gật đầu: “Vậy còn lũ ngựa?”
Reilly trả lời ngay, “Cho đến nay vẫn chưa có thông tin gì. Loại ngựa thiến lông màu xám và màu hạt dẻ rất phổ biến. Chúng tôi đang kiểm tra chéo hồ sơ những con ngựa bị đánh cắp và lần theo xuất xứ của những chiếc yên ngựa, nhưng cũng lại…”
“Không có nhãn hiệu hay con chíp gì sao?”
Với trên năm mươi ngàn con ngựa bị đánh cắp trên toàn quốc mỗi năm, việc sử dụng các dấu hiệu nhận dạng ngựa càng lúc càng trở nên thịnh hành hơn. Phương pháp thông dụng nhất là cách đánh dấu bằng sắt lạnh, sử dụng một con dấu bằng sắt siêu lạnh áp vào da con vật, làm thay đổi các tế bào sản xuất sắc tố, khiến chỗ được đánh dấu trên mình ngựa sẽ mọc lông trắng thay vì lông có màu. Một phương pháp khác kém thông dụng hơn, sử dụng mũi kim tiêm để cấy vào dưới da con vật một con chíp cực nhỏ có chứa mã số nhận dạng đã được lập trình.
“Chẳng có chíp nào cả,” Reilly đáp, “nhưng chúng tôi đang cho người rà quét lại. Các con chíp cực nhỏ cho nên rất khó phát hiện trừ phi biết đích xác chúng cấy vào đâu. Thêm một điều nữa là các con chíp thường được giấu vào những chỗ khó thấy nhất để đảm bảo chúng vẫn còn nguyên tại chỗ khi con ngựa bị mất cắp được tìm thấy. Mặt khác, lũ ngựa đúng là đã được đánh dấu bằng phương pháp lạnh, nhưng do đóng dấu chồng lên nhau nhiều lần nên bây giờ không thể nhận dạng lại được. Các nhân viên trong phòng thí nghiệm cho rằng may ra làm được điều gì đó bằng cách t các dấu khác nhau ra để truy tìm dấu nguyên thủy.”
“Còn trang phục và áo giáp Trung cổ bọn chúng mặc trên người thì sao?” Jansson quay sang Amelia Gaines, người phụ trách mảng này.
“Việc này cũng cần thêm nhiều thời gian,” cô trả lời. “Những nguồn cung cấp điển hình cho loại trang phục đó là các nhóm chuyên nghiệp nhỏ lẻ ở rải rác khắp nơi trong nước, nhất là trong khi các thanh kiếm là đồ thật chứ không phải là đồ rởm dùng trên sân khấu. Tôi cho là chúng ta sẽ có được manh mối từ chỗ này đây.”
“Vậy là những tên khốn đó đã tan biến vào hư vô, phải không?” Jansson rõ ràng đã mất kiên nhẫn.
“Chắc chắn là có xe chờ sẵn đón chúng. Trong công viên có hai lối ra không xa chỗ chúng bỏ ngựa lại. Chúng tôi đang tìm các nhân chứng, nhưng đến giờ vẫn chưa có gì.” Aparo xác nhận. “Bốn tên, tách riêng ra, đi bộ đến công viên vào giờ đó buổi tối. Chúng đi dễ dàng mà không bị ai chú ý.”
Jansson lại ngồi xuống, im lặng gật đầu, đầu óc ông đang đối chiếu những mảnh thông tin lộn xộn, và sắp xếp lại các ý tưởng cho mạch lạc. “Mọi người nghĩ ai đã làm cái vụ này nào? Ai cũng có một đối tượng tâm đắc của mình rồi chứ?”
Reilly nhìn khắp lượt những người ngồi quanh bàn trước khi lên tiếng. “Vấn đề này thì phức tạp hơn đây. Cái đầu tiên nảy ra trong đầu là một danh mục hàng hóa được đặt mua.”
Những vụ trộm tác phẩm nghệ thuật, nhất là những món đồ nổi tiếng, thông thường chúng được trộm theo đơn đặt hàng hay đã được ngã giá trước với các nhà sưu tập muốn sở hữu những món đồ đó ngay cả khi có thể họ không bao giờ để cho ai khác nhìn thấy chúng. Nhưng ngay từ lúc đặt chân đến viện bảo tàng, Reilly đã gạt ngay điều này ra khỏi suy nghĩ của mình. Những danh mục hàng hóa được đặt mua hầu như đưa ra cho các tên trộm thông minh. Mà việc cưỡi ngựa chạy dọc theo Đại lộ Thứ Năm không phải là hành động của kẻ thông minh. Cái tình trạng hỗn loạn kia cũng vậy, và tệ hơn cả là hành động chặt đầu người bảo vệ.
“Tôi nghĩ tất cả chúng ta sẽ cùng đồng ý với nhau về điểm này,” Reilly nói tiếp. “Những biện pháp sơ bộ của chuyên gia nghiên cứu tâm lý và hành vi tội phạm cũng đồng ý như vậy. Đằng sau hành động vơ vét những Thánh tích vô giá này còn có nhiều điểm khác nữa. Nếu chỉ muốn lấy những món đồ đó, người ta hẳn chỉ chọn một buổi sáng thứ Tư trời mưa và yên tĩnh, đột nhập vào bảo tàng trước khi có đông người đến, rút súng ra và tóm lấy những món gì mình thích. Ít người trông thấy hơn, ít rủi ro hơn. Đằng này những tên đó đã chọn cái lúc đông đảo tấp nập nhất, có khả năng được bảo vệ nghiêm ngặt nhất để trình diễn màn cướp của chúng. Cứ như thể chúng muốn cười vào mũi chúng ta. Chắc chắn là chúng đã thành công, nhưng tôi nghĩ chúng cũng đã công khai đưa ra một tuyên bố.”
“Tuyên bố gì?” Jansson hỏi.
Reilly nhún vai, “Thì chúng ta đang cố tìm ra nó đây.”
Vị Phụ tá Giám đốc Thường trực quay sang Blackburn. “Các cậu có đồng ý như thế không?”
Blackburn gật đầu. “Nên nhìn nhận vấn đề như thế này. Bất kể những tên đó là ai, chúng đang là những người hùng trên đường phố. Cái đám ngu xuẩn nghiện ngập đó đã lấy được tất cả những gì chúng mơ mộng, hẳn bọn chúng đã cắm đầu chơi ba cái trò điện tử trên máy Playstation rồi sau đó lại ra tay hành động y như vậy trong cuộc sống thực tế. Tôi hy vọng là bọn chúng không khởi đầu một xu hướng nào đó ở đây. Nhưng, phải, tôi nghĩ còn có nhiều điều khác với bọn này hơn là cái hiệu ứng nhạt nhẽo mà chúng tạo ra.”
Jansson liếc nhìn về phía Reilly. “Xét cho cùng, xem ra đây là chuyện con nít đối với cậu thôi.”
Reilly nhìn ông sếp, im lặng gật đầu. Chính xác, con nít không phải là từ đầu tiên bật lên trong tâm trí anh. Nó như một con khỉ đột ngót nghét cả tấn chứ chẳng con nít gì, Reilly trầm ngâm nghĩ ngợi, nó quả thực là việc của mình.
Cuộc họp bị gián đoạn vì sự xuất hiện của một người mảnh dẻ, vẻ mặt nghiêm nghị, bộ comlê vải tuýt màu nâu mặc bên ngoài chiếc áo tu sỹ, Jansson rời khỏi ghế, chìa bàn tay hộ pháp bắt tay người mới đến.
“Kính chào Đức Cha, rất vui vì Đức Cha đã đến. Mời Đức Cha ngồi. Giới thiệu với mọi người, đây là Đức Cha de Angelis. Tôi đã hứa với Đức Tổng Giám mục sẽ mời Đức Cha tham dự cuộc họp và giúp đỡ chúng ta giải quyết việc này.”
Jansson tiếp tục giới thiệu với Đức Cha de Angelis các nhân viên có mặt. Cho phép một người ngoài tham dự một cuộc họp nhạy cảm như cuộc họp này là việc làm hết sức bất thường, nhưng vị khâm sứ Tòa thánh, đại sứ của Vatican tại Mỹ đã gọi nhiều cuộc điện thoại đến các giới thẩm quyền cấp cao để được phép tham dự cuộc họp.
Reilly đoán chừng vị tu sĩ tuổi ngoài bốn mươi. Mái tóc đen đã cắt gọn gàng của ông ta chải ngược ra sau hai bên thái dương rất cân đối, với những đốm màu bạc ở quanh hai tai. Đôi kính gọng thép bị ố bẩn đôi chỗ, vị tu sĩ tỏ thái độ rất nhã nhặn và khiêm tốn khi nghe giới thiệu tên và chức vụ của từng nhân viên. để tôi làm gián đoạn cuộc họp của các vị,” ông ta nói lúc ngồi xuống.
Jansson khẽ lắc đầu, gạt bỏ suy nghĩ trong đầu. “Mọi bằng chứng chưa chỉ ra cho chúng ta bất kỳ điều gì cả thưa Cha. Chúng tôi không muốn có định kiến về vấn đề này và tôi cần nhấn mạnh rằng đây chỉ đơn thuần là một cuộc họp nhằm nêu ra các ý kiến và cảm nhận về vụ việc – chúng tôi đang thảo luận về những kẻ tình nghi tiềm năng của cuộc công kích đó.”
“Tôi hiểu,” de Angelis đáp.
Jansson quay sang Reilly, người tuy khó chịu với ý tưởng đó nhưng vẫn tiếp tục trình bày. Reilly biết là phải giúp Đức Cha này theo kịp sự kiện.
“Chúng tôi vừa nói rằng đây không chỉ là một vụ cướp viện bảo tàng. Cái cách thực hiện vụ việc, thời điểm, mọi thứ diễn ra ở đây biểu thị nhiều điều khác nữa chứ không chỉ là một vụ cướp có vũ trang đơn giản.”
De Angelis mím môi, nghiền ngẫm những hàm ý câu nói vừa được phát biểu. “Tôi hiểu.”
“Phản ứng tự nhiên,” Reilly tiếp tục, “là chĩa vào những tín đồ Hồi giáo chính thống, nhưng trong trường hợp này tôi đoán chắc làm vậy là hoàn toàn chệch hướng.”
“Tại sao anh nghĩ như vậy?” de Angelis hỏi. “Điều không may là bọn chúng có vẻ thù hận chúng ta thực sự. Tôi chắc rằng các anh còn nhớ dư luận om sòm về vụ cướp ở Viện Bảo tàng Baghdad. Những la lối về các tiêu chuẩn kép, sự trách móc, giận dữ này nọ… Ở khu vực ấy, người ta chưa quên vụ đó đâu.”
“Tin tôi đi, vụ này không phải là cách làm của chúng[26] – thực ra chuyện này chả liên quan gì cả. Cuộc tấn công của bọn chúng thường công khai, và chúng luôn lớn tiếng khoe mẽ công trạng này nọ của mình, và luôn thích chơi theo kiểu cảm tử thần phong của Nhật… Hơn nữa, bất kỳ một người Hồi giáo chính thống nào mặc trang phục có hình thánh giá đều xem như là kẻ bị nguyền rủa.” Reilly nhìn de Angelis; ông linh mục có vẻ đồng ý với Reilly. “Dĩ nhiên chúng tôi sẽ xem xét chuyện đó. Chúng tôi phải làm. Nhưng tôi sẽ điều tra một đám khác nữa.”
“Một hành động của bọn lôm côm,” Jansson dùng một từ lóng trong chính trị, nhưng không chính xác, để chỉ bọn chuyên đánh bom hèn hạ.
“Theo tôi nghĩ, rất có khả năng là như vậy,” Reilly gật gù kèm với cái nhún vai quen thuộc. Bọn quá khích “thích sống một mình” đơn lẻ, bọn cực đoan hung bạo trong nước cũng như bọn khủng bố nước ngoài vốn là một phần cuộc sống thường nhật của Reilly.
De Angelis có vẻ hoang mang. “Lôm côm là
“Đó là những tên khủng bố người bản xứ, thưa Cha. Những nhóm có cái tên lố bịch kiểu như Trật Tự, Huynh Đệ Thầm Lặng, hầu hết đều hoạt động dưới một hệ tư tưởng nặng hận thù gọi là Nhất Thể Cơ Đốc, mà theo như tôi biết, là một sự xuyên tạc kỳ dị của thuật ngữ…”
Vị khâm sứ Tòa Thánh loay hoay trên ghế ngồi, vẻ bứt rứt khó chịu. “Tôi nghĩ tất cả những người đó đều là tín đồ Cơ đốc cuồng tín.”
“Đúng vậy. Nhưng nhớ là chúng ta đang nói về Tòa Thánh Vatican – Giáo hội Công giáo. Và những kẻ này không phải là những con chiên của La Mã, thưa Cha. Các giáo hội méo mó của chúng – nhân đây nói luôn, chẳng có chút gì là Công giáo cả – không được Vatican thừa nhận. Những con chiên của Cha đã thực sự tỏ rõ là không muốn dính dáng gì đến bọn đó vì bất cứ lý do gì. Ngoài việc đổ hết những khó khăn rắc rối của bọn họ lên đầu người da đen, người Do Thái, và những người đồng tính luyến ái, những gì chúng có chung chỉ là một sự thù ghét chính quyền có tổ chức, như chính phủ của chúng tôi nói riêng và của Cha do có liên đới. Chúng nghĩ chúng ta là những con quỷ Satan ghê gớm – mà kỳ quặc ở chỗ, đó chính là thuật ngữ do Khomeini gán cho chúng ta và ngày nay nó vẫn tiếp tục vang vọng khắp thế giới Hồi giáo. Hãy nhớ rằng những tên đó đã đặt bom tòa nhà liên bang ở thành phố Oklahoma, đặt bom sát hại những người Thiên Chúa giáo, những người Mỹ. Và bọn chúng hiện diện khắp nơi. Chúng ta chỉ mới tóm được một tên ở Philadelphia sau một thời gian dài theo dõi, y là thành viên của tổ chức Aryan Nations[27], một nhánh của Giáo hội Những Đứa Con Của Đấng Cứu Thế[28]. Tên này trước đó là một giáo sỹ của tổ chức Aryan Nations, có trách nhiệm thiết lập mối quan hệ với đạo Hồi. Trong vai trò này, y thú nhận đã ra sức tạo lập liên minh với những người Hồi giáo cực đoan chống Mỹ sau vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín.”
“Kẻ thù của kẻ thù ta,” de Angelis lẩm bẩm, vẻ đăm chiêu.
“Chính xác là như vậy,” Reilly tán đồng. “Những tên này nhìn mọi thứ bằng một thế giới quan cực kỳ điên rồ, thưa Cha. Chúng ta cần phải cố gắng tìm hiểu hiện nay chúng đang đưa ra lời tuyên bố về nhiệm vụ điên khùng nào.”
Sau khi Reilly dứt lời, một khoảnh khắc yên lặng ngắn ngủi bao trùm căn phòng. Jansson lên tiếng, “Được rồi, vậy thì cậu sẽ điều hành vụ này.” Reilly bình thản gật đầu, “Được thôi.”
Jansson quay sang Blackburn, “Rog, cậu vẫn tiếp tục theo dõi dưới góc độ một vụ cướp chứ?”
“Đúng vậy. Chúng ta phải làm cả hai cho đến khi có cái gì đó lộ ra cho phép chúng ta chọn được hướng này hay hướng kia.
“Tốt lắm, thưa Cha,” giờ Jansson quay sang nói với de Angelis. “Nếu Cha cho chúng tôi danh sách những thứ đã bị chúng cướp đi, càng chi tiết càng tốt thì công việc của chúng tôi sẽ thuận lợi hơn. Những bức ảnh chụp, trọng lượng, kích thước, bất cứ cái gì Cha có. Chúng tôi cần phải đưa ra một số cảnh báo.”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Vậy thì, thưa Cha,” Reilly xen vào, “một trong những kỵ sĩ dường như chỉ quan tâm đến một thứ thôi, là cái này,” Reilly nói và lôi ra một tấm hình thu được từ những máy ghi hình bảo vệ an ninh trong viện bảo tàng. Tấm hình cho thấy tên kỵ sĩ thứ tư đang ôm chiếc máy mã hóa. Reilly đưa tấm ảnh cho vị khâm sứ Tòa Thánh. “Danh mục triển lãm của viện bảo tàng ghi nó là thiết bị mã hóa trục quay đa hộp số,” anh nói, và hỏi, “Cha có ý kiến gì không về lý do tên kia chỉ lấy một thứ đó thôi trong khi xung quanh y có nhiều món châu báu khác?”
De Angelis chỉnh lại kính trong lúc xem xét tấm hình; ông ta lắc đầu, “Rất tiếc là tôi không hiểu biết gì nhiều về… cái máy này. Tôi chỉ có thể tưởng tượng nó có giá trị như một thứ đồ vật lạ của ngành cơ khí. Mọi người thỉnh thoảng đều thích phô trương sự thông minh của mình, dường như các đồng đạo của tôi, những người đã chọn những gì cần đem ra trưng bày cũng vậy.”
“Vậy thì có lẽ Cha nên hỏi lại họ. Tôi không được rõ, nhưng có thể là họ biết trước đây những nhà sưu tập nào đã có dịp tiếp cận với các món đồ ấy.”
“Tôi sẽ để tâm đến chuyện này.”
Jansson nhìn quanh. Mọi người đều đã sẵn sàng. “Được rồi, các cậu,” ông trợ tá giám đốc nói, sắp xếp lại giấy tờ của mình. “Hãy tính sổ bọn quái vật này đi.”
Khi những người khác đã bước ra khỏi phòng, de Angelis tiến đến bắt tay Reilly. “Cám ơn đặc vụ Reilly. Tôi có cảm giác chúng ta hợp tác tốt với nhau.”
“Chúng ta sẽ tóm được chúng, thưa Cha. Bao giờ cũng vậy, chuyện gì rồi cũng có cách.”
Đôi mắt vị khâm sứ Tòa Thánh nhìn thẳng vào mắt Reilly, như đang đánh giá anh. “Anh có thể gọi tôi là Michael.”
“Tôi vẫn sẽ gọi ngài là “Cha,” nếu gọi như thế không có gì thất thố. Dường như đó là một thói quen khó sửa.”
De Angelis có vẻ ngạc nhiên. “Anh là người Công giáo
Reilly gật đầu.
“Toàn tòng chứ?”
De Angelis nhìn xuống, bất chợt cảm thấy lúng túng. “Xin thứ lỗi cho tôi, đáng lẽ tôi không nên tò mò như thế. Có lẽ một số thói quen của tôi cũng khó bỏ như của anh vậy.”
“Không sao. À, vâng, tôi cùng một phía với Cha mà.”
De Angelis có vẻ hài lòng. “Anh thấy đó, trên nhiều phương diện, công việc của chúng ta cũng không khác biệt nhau lắm. Cả hai chúng ta đều giúp cho mọi người nhận biết tội lỗi của họ.”
Reilly mỉm cười. “Có lẽ vậy, nhưng mà… tôi không chắc Cha có dịp tiếp xúc cùng giới tội phạm như chúng tôi thường gặp quanh đây.”
“Vâng, thật đáng lo ngại… nhiều vụ việc ngoài kia chẳng tốt đẹp gì.” De Angelis dừng lại, rồi nhìn Reilly. “Điều đó làm công việc của chúng ta có trị hơn.”
Vị khâm sứ Tòa Thánh thấy Jansson nhìn về phía mình, dường như ông trợ tá giám đốc muốn gặp ông ta. “Tôi hoàn toàn tin tưởng anh, anh Reilly à. Tôi chắc chắn là anh sẽ tóm được bọn chúng,” vị tu sĩ nói với Reilly trước khi bước đi.
Reilly nhìn ông ta bước đi, anh nhặt tấm hình chụp từ máy quay trên bàn lên. Trước khi nhét nó vào trở lại tập hồ sơ, anh nhìn tấm ảnh lần nữa. Từ một góc tấm ảnh bị vỡ hạt do độ phân giải thấp của các máy ghi hình giám sát trong viện bảo tàng. Reilly có thể nhận ra hình dạng một người đang núp phía sau chiếc tủ trưng bày, nét mặt kinh hoàng nhìn tên kỵ sĩ và cái thiết bị y cầm trên tay. Khi xem cuộn băng video, Reilly nhận ra hình dạng đó chính là người phụ nữ tóc vàng anh đã nhìn thấy đi ra khỏi viện bảo tàng đêm ấy. Reilly nghĩ đến thử thách mà cô ta đã trải qua, hẳn cô ta phải vô cùng hoảng sợ, Reilly chợt cảm thấy mình bị người phụ nữ này thu hút. Anh thầm mong cô ta được bình yên.
Reilly bỏ tấm hình vào hồ sơ. Lúc rời khỏi phòng, anh không thể không nghĩ ngợi về cái từ Jansson đã sử dụng.
Bọn quái vật.
Cái ý nghĩ đó, quả thật chẳng làm yên tâm chút nào.
Tìm ra những động cơ khiến những con người có đầu óc lành mạnh nhúng tay vào tội ác đã là điều khó. Hiểu được tâm trí của kẻ điên khùng thường là điều bất khả thi.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa