Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 11
hiều muộn một ngày trong tuần, Faz và Del bước chân qua cánh cửa của Cục Quản lý bằng lái trên đường Spring, trung tâm Seattle. Một đống người vẻ mặt buồn chán đang ngồi chờ trên những chiếc ghế nhựa trông có vẻ chẳng thoải mái chút nào. Đó là cái viễn cảnh mà Faz đã lường trước. Một giọng nữ tự động đọc thông báo số của vị khách tiếp theo và hướng dẫn họ đi tới cửa tương ứng. Mọi người bước đi như những con rô bốt.
“Nhìn cứ như bước ra từ trong một bộ phim viễn tưởng, ở đó những cỗ máy đã tiếp quản và con người chỉ là những kẻ lười nhác.” Faz nói. “Tôi nghĩ tôi vừa xem bộ phim đó tối qua trên ti vi.”
“Anh đoán xem có bao nhiêu trong số đó tới đây để ngồi nhờ điều hòa?” Del nói.
“Anh muốn cá gì nào? Đảm bảo chỗ này cũng điên như ở thư viện cho xem.” Faz đáp.
“Tôi thích vụ cá cược này rồi đấy, dù sao thì tôi vẫn sẽ thắng. Tôi sẽ mua thêm một suất mì cho Vera nữa, vui gấp đôi.”
“Vợ anh thật hạnh phúc, và anh cũng hạnh phúc nữa, Faz ạ.” Del nói.
Khi tới quầy phục vụ, Faz đưa cho người phụ nữ đứng sau quầy xem phù hiệu cảnh sát và thẻ căn cước. Cô ta có vẻ không mấy ngạc nhiên.
“Chúng tôi có cuộc hẹn với Henrik…”
Khi ông đang luống cuống nói nốt tên họ thì người phụ nữ đã tiếp lời. “Engvaldson.”
“Vâng, đúng rồi đó.” Faz nói. “Líu hết cả lưỡi.”
Cô ta chẳng thèm nở nụ cười, chỉ tay về phía những cái ghế rồi nhấc điện thoại lên. “Hai anh ngồi đi.” Del mỉm cười khi họ quay người lại, đi về phía những cái ghế nhựa màu trắng. “Tôi ngửi thấy mùi bánh mì kẹp thịt cừu nướng rồi đây, và anh có biết điều gì sẽ khiến nó càng ngon hơn không?”
“Miễn phí chứ gì?” Faz nói.
“Chuẩn.” Del đáp.
Del không phải là loại người keo kiệt; anh có thể trả tiền cho phần ăn của mình. Chỉ là anh thích những vụ thắng cược mà thôi. Anh không thể nào xem một trận đua hay thi đấu mà không đặt cược một cái gì đó. Đặt cũng chẳng có gì nhiều, đôi khi chỉ là một vài ba đô la, và Faz cũng phải thừa nhận rằng điều đó khiến cho những cuộc thi đấu thú vị hơn nhiều.
Faz hi vọng Engvaldson có thể cung cấp một chút thông tin về việc Andrea Strickland đã dùng cái gì để có thể lấy được bằng lái dưới cái tên Lynn Hoff. Vào thời điểm này, bất cứ thông tin gì cũng có giá trị.
Họ không phải chờ lâu. Một người đàn ông cao lớn mặc chiếc quần ka ki và áo sơ mi màu xanh nước biển nhạt đón họ ở hành lang. “Chào hai điều tra viên.” Ông ta nói và giơ tay ra, cánh tay nhìn lêu nghêu như cái cần trục cẩu hàng. “Tôi là Henrik Engvaldson. Không biết tôi đã nói chuyện với ai trên điện thoại thế nhỉ?”
“Là tôi.” Faz nói, cảm giác mình thật nhỏ bé, điều này đủ để cho thấy đối phương cao lớn thế nào. Faz cao hơn một mét chín, và sáng hôm đó, khi cân tươi không quần không áo, ông nặng gần một trăm hai mươi hai cân. Del cao hơn chừng vài ba centimet và nặng hơn bốn đến sáu cân, mặc dù anh không bao giờ chịu thừa nhận điều đó. Tuy thế, nhìn thôi cũng đã thấy rõ sự khác biệt.
Họ đi theo Engvaldson tới một cánh cửa ở phía cuối căn phòng. Ông ta phải cúi đầu xuống mới đi vừa cái thanh ngang của cửa, điều này xác thực việc người đàn ông này phải cao trên hai mét. Faz quay sang nhìn Del khi họ đi tiếp xuống một hành lang hẹp hơn.
“Họ Engvaldson là từ đâu thế nhỉ?” Faz hỏi.
“Rõ ràng là một họ của Thụy Điển.” Engvaldson nói. “Từ bé đến lớn, tôi vẫn nghĩ tôi là người Na Uy, cho tới khi vợ tôi thử tra cái tên đó trên trang Ancestry.com. Đúng là một sai lầm lớn. Hóa ra tổ tiên của tôi đến từ Thụy Điển!”
“Giống hệt trong quảng cáo nhỉ.” Faz nói.
“Chính xác.”
“Tôi ấy hả? Tôi chẳng muốn tìm hiểu mấy thứ đó.” Del nói. “Tôi có trách nhiệm tìm hiểu những thứ mà tôi không hề muốn biết.”
“Như kiểu có thể anh không phải là con người ấy hả?” Faz nói.
Engvaldson dẫn họ tới một căn phòng làm việc điển hình cho một nhân viên nhà nước, một căn phòng nhỏ, thiết thực và hữu dụng. Khi ông ta ngồi xuống, nhìn ông ta có vẻ quá cao lớn so với cái bàn. Ông ta mở một tập tài liệu ra và đưa cho Faz một bản copy ảnh chụp bằng lái xe của Lynn Hoff - hay chính là Andrea Strickland. “Cô ta đăng kí trước để lấy bằng.”
“Đăng kí trước?” Del hỏi. “Nghĩa là thế nào?”
“Cô ta điền đơn đăng kí trước ở trên mạng, rồi sau đó tới thi để nhận bằng. Như thế sẽ tiết kiệm được thời gian.”
“Ồ, tôi hiểu rồi.” Del nói.
“Cô ta dùng cái gì để chứng minh nhân thân?” Faz hỏi.
“Giấy chứng sinh đã được xác thực.” Engvaldson nói sau khi xem lại tập tài liệu.
“Vậy đó là một người hợp pháp rồi.” Faz nói.
“Có thể là thế mà cũng có thể không. Nhân viên của chúng tôi nhận được các loại giấy tờ sử dụng mẫu của từng bang khác nhau, nhưng không may là việc phát hiện ra giấy tờ giả mạo không hề đơn giản. Cảnh sát các bang hiện tại đang dần sử dụng một mẫu giấy tờ chung đã được quy chuẩn hóa, nhưng vào năm 1992, mỗi bang lại có một mẫu riêng.”
“Vậy là cô ta có thể làm giả giấy chứng sinh và tạo ra cái tên giả?” Del hỏi.
“Có thể là như thế.” Engvaldson đáp.
“Đây là phòng ban làm việc bận rộn nhất ở chỗ các anh à?” Faz hỏi.
“Đúng thế.” Engvaldson đáp, hiểu rõ ý câu hỏi của Faz nhắm tới cái gì. “Và với việc chính phủ liên bang yêu cầu tất cả mọi người phải đổi sang bằng lái cải tiến, dạo gần đây chúng tôi bận rộn hơn bao giờ hết.”
Đó dường như là lý do vì sao Strickland lại chọn tới đây, Faz nghĩ trong đầu; nhân viên càng bận, họ càng ít có thời gian để kiểm tra lại những giấy tờ này, đặc biệt nếu như tờ giấy chứng sinh đó nhìn có vẻ thật.
“Cô ta có cung cấp mã số An sinh xã hội không?” Faz hỏi.
Engvaldson đưa cho Faz một tài liệu khác.
Faz so sánh dãy số đó với dãy số mà anh lấy được từ Cơ quan Quản lý An sinh xã hội của Lynn Hoff. Nó trùng khớp. “Vậy ra là một mã số đang hoạt động.” Faz nói, nghe có vẻ ngạc nhiên.
“'Đang hoạt động' là sao, cô ta vẫn còn sống ư?” Del hỏi.
“Không nhất thiết.” Faz nói. “Ngày trước, trước khi có máy tính, những kẻ lừa đảo sẽ tới nghĩa trang và tìm một bia mộ của một đứa trẻ đã chết có độ tuổi tương đồng với chúng. Chúng sẽ đánh cắp tên và ngày tháng năm sinh của đứa trẻ để có mã số An sinh xã hội. Giờ đây khi đã có máy tính, Cơ quan Quản lý An sinh xã hội sẽ kết nối dữ liệu thông tin của họ với thông tin của những người đã chết.”
“Phải rồi, vậy tức là nếu cô ta đã chết, chúng ta sẽ biết ngay.” Del nói. “Vậy làm cách nào mà cô ta lấy được số của một người đang sống?”
Faz nói. “Chạy tới phố người Tàu với vài ba ngàn đô la trong túi, anh sẽ có được bất cứ thứ gì anh muốn. Cũng có thể con người kia, Lynn Cora Hoff, là một kẻ nghèo khổ bần cùng, không có dữ liệu phạm tội, không họ hàng thân thích hay bất kì ai tới nhận dạng. Nếu là như thế, sẽ không có ai thông báo với Cơ quan Quản lý An sinh xã hội về cái chết của cô ta. Cô ta chỉ tạm ngừng tồn tại mà thôi.”
“Tôi đoán sẽ cần rất nhiều thời gian.” Del nói.
“Đúng vậy.” Faz tán thành. “Đó là lý do tại sao tôi lại ngạc nhiên khi thấy nó vẫn đang hoạt động.”
“Vậy là việc này không giống việc con trai tôi bỏ ra hai mươi đô la mua một cái thẻ căn cước giả để có thể mua được bia.” Del nói.
“Không, không hề giống.” Engvaldson nói. “Nó phức tạp hơn nhiều.”
“Chí ít thì chúng ta cũng biết được cô ta đã làm bằng cách nào.” Faz đứng dậy và chìa tay ra. “Cảm ơn anh đã giúp đỡ chúng tôi.”
“Không có gì.” Engvaldson uốn người đứng dậy như thân cây đậu trong truyện cổ tích của trẻ con.
“Anh đi máy bay thế nào?” Del nói, ngẩng cổ lên nhìn.
Engvaldson giơ hai tay ra như dáng của Siêu nhân. “Thường là như thế này.” Nói rồi, ông ta bật cười lớn. “Người ta vẫn thường hỏi tôi câu đó. Tôi sẽ xin ngồi ngay hàng đầu hoặc hàng gần cửa thoát hiểm. Các hãng hàng không phải tìm được chỗ cho tôi chứ.”
“Thế hả? Họ có phải tìm chỗ cho mấy gã béo như chúng tôi không?” Del hỏi.
“Chuyện đó thì tôi chịu. Để tôi đưa các anh ra ngoài.”
Căn phòng chính đã sạch không một bóng người. Engvaldson mở khóa cánh cửa kính và đẩy ra. Họ cảm ơn ông ta một lần nữa vì đã dành thời gian cho họ rồi đi về phía thang máy.
“Vậy là nếu cô ta lấy bằng lái xe, chúng ta có thể đoán được rằng cô ta có ý định ở lại bang này?” Del hỏi.
“Có thể. Đó cũng có thể là lý do vì sao cô ta lại thay đổi diện mạo, nhưng cũng không nhất thiết là vậy.” Faz nói. “Có thể cô ta lấy số An sinh xã hội là để có được bằng lái, và như thế cô ta sẽ nhận được hộ chiếu dễ dàng hơn và bay đi nơi khác. Và anh cũng cần tới bằng lái để mở tài khoản ngân hàng. Thử nghĩ mà xem. Cô ta sẽ làm gì với tài khoản tín thác? Nếu có ý định ra nước ngoài, anh không thể xách theo một va li tiền lên máy bay, và cô ta cũng không thể sử dụng tên thật của mình. Cô ta sẽ cần tới bằng lái để đổ tiền vào một tài khoản với cái tên Lynn Hoff, hoặc một tổ chức ma nào đó. Rồi sau đó, cô ta sẽ bắt đầu chuyển tiền ra nước ngoài. Từ đó, chúng sẽ được chuyển đi vài nơi khác nữa có đảm bảo bảo mật thông tin và cuối cùng, chúng biến mất.”
“Hẳn là cô ta đã phải tuyệt vọng lắm.” Del nói.
“Đó gọi là giả chết.” Faz nói. “Những người làm giả cái chết thường là để nhận tiền bảo hiểm hoặc trốn khỏi chủ nợ, rồi sau đó sẽ xuất hiện trở lại với nhân dạng của một người khác.” Faz nhìn vào đồng hồ. “Ngân hàng có lẽ đã đóng cửa.”
“Ừ, nhưng Salumi thì vẫn mở và tôi đói rồi.” Del nói.
Khi Tracy và Kins về đến trụ sở, họ nhận được một bất ngờ nhỏ đang đợi ở trên bàn - bánh mì sandwich bọc trong giấy gói trắng. Và một mẩu giấy nhỏ đã nói lên tất cả.
Đừng có nói là tôi chẳng bao giờ tặng không một thứ gì.
“Đó chẳng phải là phủ định những ba lần sao?” Kins nói.
“Dù sao tôi vẫn yêu mến anh ấy.” Tracy lột bỏ giấy bọc. “Tôi đói sắp chết rồi và tôi cá mấy món này mua từ Salumi.”
“Đói như thế sao cô không gọi thứ gì đó mà ăn khi ở nhà hàng?”
“Tôi mất hứng chẳng muốn ăn khi Fields bắt đầu nói chuyện.”
Trán Kins nhăn lại. “Tôi không nghĩ anh ta tệ đến mức ấy.”
“Anh không thấy đâu.”
“Nghe cô nói giống hệt giọng vợ tôi khi tôi gặp rắc rối mà chẳng biết tại sao. Anh ta đã làm gì vậy?”
“Ý anh muốn hỏi anh ta còn làm gì ngoài việc lột trần cô phục vụ bằng ánh mắt mỗi lần cô ta đi tới bàn ấy hả? Anh ta muốn bỏ bao nhiêu pho mát lên mì và sò vậy?”
“Thật vậy sao?” Kins nói.
“Anh không để ý à?”
“Tôi bận để ý cô phục vụ.”
Tracy đảo mắt. “Đúng là lợn.”
“Ơ này, của tôi là thịt cừu.” Kins nói, cầm nửa cái bánh mì lên. “Bánh của cô là thịt vai lợn hả?”
“Không, đồ ngốc.”
Kins vừa cười ha hả vừa lục tìm trong ngăn kéo vài đồng lẻ. “Tôi đi mua soda đây. Muốn một lon không?”
“Không, cảm ơn.” Cô nói.
Tracy cắn một miếng bánh mì. Faz đã mua cho cô bánh nhân thịt vai lợn. Nhưng cô sẽ không nói cho Kins biết đâu.
“Crosswhite.”
Tracy cúi gập người khi nghe thấy tiếng rên rỉ bằng đường mũi của Nolasco. Cô đặt chiếc bánh đang ăn dở xuống.
“Kins đâu?” Nolasco nói khi bước vào ô làm việc của họ.
“Đi mua soda rồi.” Cô nói, nuốt nốt miếng bánh trong miệng.
“Chuyện quái gì đang diễn ra với người phụ nữ trong lồng cua thế hả?” Nolasco nói. “Báo chí gọi đến ầm ĩ, nói rằng cô ta chính là người phụ nữ được coi là đã chết trên núi Rainier tháng trước. Có đúng như thế không?”
“Có vẻ là thế.” Tracy nói, bực bội khi biết rằng báo chí đã có được thông tin, cũng có nghĩa là có thể gã chồng cũng đã nắm được tin tức.
“Cô nói với họ à?”
Cô tỏ thái độ nhạo báng. “Tất nhiên là không rồi. Tôi nói với họ làm gì?”
“Vậy thì có ai đó làm rồi.”
“Không phải tôi và cũng không phải Kins. Tôi có thể dám chắc điều đó.”
“Không phải tôi làm sao?” Kins bước vào phòng làm việc với một lon Coke cho người ăn kiêng.
“Báo chí biết chuyện về Andrea Strickland rồi.” Tracy nói.
“Bằng cách nào?”
“Nó lên sóng vào bản tin lúc sáu giờ.” Nolasco nói.
“Manpelt làm à?” Kins nói.
“Cả những người khác nữa.” Nolasco đáp. “Điện thoại reo cháy cả máy, các sếp thì gọi và tôi thì chả biết cái quái gì.”
“Tối qua chúng tôi mới biết và đã lái xe ngay tới Rainier và Tacoma.” Kins nói. “Vừa mới về tới nơi xong.”
Nolasco nhìn sang Tracy, vẻ mặt không tin. “Cô không biết báo chí tìm ra bằng cách nào thật sao?”
Thông thường, Nolasco sẽ là lựa chọn đầu tiên của Tracy khi thông tin bị rò rỉ. Trong ban của cô luôn có những kẻ làm rò rỉ tin tức, các sếp thường chấp nhận tiết lộ thông tin để tạo quan hệ tốt với báo giới. Cô không biết liệu Nolasco đang nói chân thành hay chỉ đang tìm cách đổ lỗi lên đầu người khác “Tôi chịu.” Cô nói. “Chúng tôi đã hi vọng sẽ nói chuyện được với người chồng trước khi câu chuyện nổ ra.”
“Giờ thì quên chuyện đó đi được rồi. Anh ta đang là tâm điểm chú ý.”
“Anh ta đã nói những gì?” Tracy hỏi.
“Chính xác những gì cô mong chờ. Anh ta vừa bất ngờ vừa đau buồn sâu sắc, và cũng không biết điều gì đã thúc ép cô vợ phải làm giả cái chết, cũng không biết kẻ nào lại muốn giết cô ta.”
“Nghe có vẻ như anh ta đã chuẩn bị và tập dượt sẵn từ trước.” Tracy nói.
“Chắc chắn là vậy rồi.” Kins tiếp lời.
Nolasco nhìn chăm chăm Tracy. “Cô không nói gì, không nói với ai hết thật chứ?”
Tracy nghi ngờ Nolasco đang gài cô. “Tại sao tôi lại phải làm thế?”
“Câu hỏi hay đấy. Một câu hỏi nữa đây, tại sao một người phụ nữ ở Renton, quản lý một nhà trọ lại nói với phóng viên rằng nạn nhân đã sống ở nhà trọ đó gần một tháng và hai điều tra viên án mạng đã tìm đến đó để hỏi han?”
“Sự thật là thế.” Kins nói. “Chúng tôi đã tới đó và hỏi chuyện họ, nhưng chúng tôi không tiết lộ gì về nạn nhân cả.”
Nolasco nhìn hai người họ. “Tôi muốn có báo cáo viết tay trước khi hai người rời văn phòng tối nay để tôi có thể trình lên các sếp. Họ muốn Lee có phát biểu gì đó với công chúng.” Ông ta nói, nhắc tới Bennett Lee, sĩ quan quản lý truyền thông của sở.
“Chúng tôi chưa tìm được mẫu ADN. Quá sớm để đưa ra phát ngôn vào lúc này.” Tracy nói.
“Sớm gì nữa khi chủ nhà trọ đã phát hiện ra, đúng không?” Nolasco nói.
“Được thôi, thế thì Lee có thể nói với họ rằng cô ta không phải gái mại dâm, không phải dân hút chích cũng không phải người vô gia cư.” Tracy nói.
Nolasco lườm cô. “Còn gì hữu ích hơn nữa không?”
Kins xen vào. “Chúng tôi nói chuyện với kiểm lâm núi Rainier và có một bản sao báo cáo của anh ấy và chúng tôi còn nói chuyện với điều tra viên quận Pierce. Chúng tôi sẽ viết gì đó nhưng sẽ giấu đi tất cả những nội dung có thể là một phần của cuộc điều tra sắp tới.”
“Tôi muốn được báo cáo tất cả những việc sắp tới.” Nolasco nói, hướng câu nói và cả một cái lườm về phía Tracy. “Đã hiểu chưa?”
“Rõ rồi.” Tracy nới.
Nolasco bước ra khỏi phòng làm việc, nhưng lại dừng chân và quay lại chỗ Tracy. “Và cô có thể nói với bạn của bạn trai cô, cái người làm việc cho Angels ấy, rằng anh ta chả biết cái khỉ gió gì hết. Cái tối mà cô kể ấy, Trout ghi được một cú home run và ăn thêm bốn điểm nữa đấy nhé.”
Tracy cố để không bật cười. “Ồ, thế sao?”
“Phải, chính thế.”
Nolasco rời đi. Kins nhìn cô chằm chằm.
“Mike Trout? Cầu thủ bóng chày á?“
Cô nhún vai và mỉm cười. “Nghe nói anh ta bị chấn thương gân khoeo.”
“Cô có thích xem bóng chày đâu.”
“Tôi cũng không thích Nolasco ngó lơ tôi.”
Kins lắc đầu. “Không vuốt râu hùm không chịu được đúng không cô gái?”
“Có hiệu quả mà, chẳng phải sao? Chọc cho hắn điên lên và hắn sẽ biến đi.”
Vừa ăn nốt chiếc bánh mì Salumi họ vừa bàn luận xem sẽ viết những gì vào báo cáo gửi cho các sếp và báo chí làm ra vẻ là họ đã cung cấp thông tin nhưng thực chất là không hề đưa ra thông tin gì có ích.
“Xem thử tin tức đi.” Kins đề nghị.
Họ xem lại bản thu tin tức đã phát. “Chúng ta có thể tìm xem nọ đã đưa những tin gì và phỏng lại là xong.” Anh với lấy gói bánh mì, xoay người lại và ném nó vào cầu vòng bóng rổ treo phía sau bàn làm việc của Del. Nó lọt qua rổ và rơi thẳng xuống thùng rác.
“Thế đấy.” Kins nói. “Trên đường về nhà tôi sẽ mua một tấm vé số. Ngày mai chúng ta vẫn sẽ đi tới Portland chứ?”
Cô gật đầu. “Người chồng vẫn luôn là một kẻ tình nghi.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt