Chương 11
ể cả nếu muốn, tôi cũng không thể bước qua xem cái gì đang ở trên hiên. Bill và Eric trông có vẻ cam chịu, và khi những ma cà rồng có vẻ cam chịu, nghĩa là bạn thực sự không muốn đi điều tra làm gì.
“Chúng ta sẽ phải đốt căn chòi,” Eric nói từ cách đó vài chục phân. “Tôi ước gì Callisto đã dọn dẹp đống bừa bộn của cô ả.”
“Ả không bao giờ làm thế đâu,” Bill nói, “đó là điều tôi nghe được. Đó là sự điên loạn. Sự điên loạn thực thụ quan tâm gì đến việc khám phá chứ?”
“Ồ, tôi không biết,” Eric lơ đãng nói. Hắn nghe như thể đang nhấc một thứ gì đó. Một tiếng rơi đánh uỵch nặng nề. “Tôi đã chứng kiến vài người điên rồ nhưng lại rất xảo quyệt khi điên đấy.”
“Điều đó đúng,” Bill nói. “Chẳng phải chúng ta nên đặt một hai người bọn họ ở trên hiên sao?”
“Làm thế nào anh phân biệt được chứ?”
“Điều đó cũng đúng nữa. Đây là một đêm hiếm hoi tôi có thể đồng tình với anh nhiều thế này.”
“Cô ấy đã gọi cho tôi và nhờ tôi giúp đỡ.” Eric đáp đầy ẩn ý.
“Rồi, được rồi. Nhưng anh nhớ thỏa thuận của chúng ta đấy.”
“Làm sao tôi quên được?”
“Anh biết Sookie có thể nghe thấy chúng ta.”
“Với tôi thì chẳng sao cả,” Eric nói, và phá ra cười. Tôi nhìn chằm chằm vào bóng đêm và băn khoăn, không lấy gì làm tò mò cho lắm, họ đang nói về cái quái gì thế nhỉ. Không phải tôi là nước Nga, để có thể được chia thành từng phần cho những nhà độc tài hùng mạnh nhất. Sam đang nghỉ ngơi bên cạnh tôi, trở lại trong hình dáng con người của anh, và trần như nhộng. Vào lúc này đây, thì tôi chẳng buồn màng đến. Cái lạnh không gây phiền hà gì với Sam, bởi anh là người biến hình.
“Nhìn này, có người còn sống,” Eric gọi.
“Tara,” Sam gọi.
Tara bò xuống các bậc thang về phía chúng tôi. Cô quàng tay quanh người tôi và bắt đầu nức nở. Trong sự mệt mỏi vô cùng, tôi ôm lấy để cô khóc hu hu. Tôi vẫn đang mặc bộ quần áo Công Tước Hoa Cúc của mình, còn cô mặc bộ đồ lót rực lửa. Chúng tôi giống như những bông hoa súng trắng to đùng trong một cái ao lạnh lẽo, cả hai người bọn tôi. Tôi cố gắng tự đứng thẳng dậy mà ôm lấy Tara.
“Có thể có một cái chăn trong căn chòi đó nhỉ, anh có nghĩ thế không?” tôi hỏi Sam. Anh phóng vọt qua những bậc thang, và tôi để ý thấy hiệu quả rất thú vị từ phía sau.
Sau một chốc, anh phóng bay trở lại - chà, cảnh tượng này thậm chí còn hấp dẫn hơn - và bọc chăn quanh cả hai chúng tôi.
“Tôi hẳn sẽ phải sống,” tôi lẩm bẩm.
“Tại sao em nói thế?” Sam tò mò. Anh có vẻ không hoàn toàn kinh ngạc lắm với những sự kiện của buổi tối.
Tôi chẳng thể nói với anh rằng đó là bởi vì tôi đã xem anh nhảy nhót xung quanh, vậy nên tôi nói, “Trứng và Andy thế nào rồi?”
“Nghe giống một chương trình phát thanh,” Tara đột ngột nói, rồi khúc khích cười. Tôi không ưa cái âm thanh này.
“Họ vẫn đứng nguyên ở chỗ cô ấy bỏ họ lại,” Sam tường thuật. “Vẫn đang nhìn chằm chằm.”
“Tôi-vẫn-đang-nhìn-chằm-chằm,” Tara hát, theo giai điệu bài “Tôi vẫn đang đứng đây” của Elton John.
Eric phá ra cười.
Hắn và Bill đã sắp sửa châm lửa. Họ đảo qua chỗ chúng tôi để kiểm tra phút cuối.
“Cô đến bằng xe nào thế?” Bill hỏi Tara.
“Ô ô ô, một ma cà rồng,” cô nói, “Anh là người yêu của Sookie, phải không hả? Tại sao hôm trước anh có mặt ở trận đấu với một con cún như Portia Bellefleur cơ chứ?”
“Cô ấy cũng tốt mà.” Eric nói. Hắn nhìn xuống Tara với nụ cười kiểu như ban ơn nhưng lại thất vọng, giống như một người nuôi chó nhận xét một con cún con, đáng yêu, nhưng thấp kém.
“Cô đã đến bằng xe nào?” Bill hỏi lại lần nữa. “Nếu cô còn tỉnh táo, tôi muốn xem thế nào.”
“Tôi đến bằng chiếc Camaro trắng,” cô nói điềm đạm. “Tôi sẽ lái xe về nhà. Hoặc có thể là tốt hơn tôi không nên lái. Sam ơi?”
“Đương nhiên, tôi sẽ chở cô về nhà. Bill, anh cần tôi giúp đỡ gì không?”
“Tôi nghĩ tôi và Eric có thể kham được. Anh có thể mang cái tên gầy nhom kia không?”
“Trứng ấy hả? Tôi sẽ xem thế nào.”
Tara tặng tôi một nụ hôn lên má, và bắt đầu khập khiễng băng qua sân tới xe của cô. “Tôi đã để lại chìa khóa trong xe,” cô gọi với ra.
“Thế còn ví của cô thì sao?” Cảnh sát chắc chắn sẽ thắc mắc nếu họ tìm thấy ví của Tara trong một căn chòi đầy nhóc xác người.
“Ồ… nó ở trong đó.”
Tôi lẳng lặng nhìn Bill, anh liền tìm cái ví về. Anh trở lại với chiếc túi đeo vai to, đủ rộng để chứa không chỉ đồ trang điểm và các vật dụng hằng ngày, mà còn cả quần áo để thay đổi.
“Đây là của cô hả?”
“Đúng vậy, cảm ơn anh,” Tara nói, lấy lại chiếc túi từ anh cứ như thể cô sợ ngón tay anh sẽ chạm vào ngón tay cô. Cô đã chẳng kén cá chọn canh hồi đầu buổi tối lắm đâu, tôi nghĩ.
Eric đang mang Trứng ra xe của cô. “Anh ta sẽ không nhớ bất cứ gì về chuyện này cả,” Eric nói với Tara khi Sam mở cửa chiếc Camaro để Eric có thể đặt Trứng nằm xuống ghế sau.
“Tôi ước mình có thể nói như vậy.” Khuôn mặt cô có vẻ như hóp xuống tận xương dưới sức nặng của sự nhận biết những gì đã xảy ra tối nay. “Tôi ước mình chưa bao giờ nhìn thấy thứ đó, cho dù ả ta là gì đi nữa. Mà hơn cả, tôi ước mình đã không bao giờ đến đây. Tôi ghét làm việc này. Tôi chỉ nghĩ rằng Trứng xứng đáng cho tôi làm việc này.” Cô ném một cái nhìn vào hình hài ù lì ở hàng ghế sau xe. “Anh ta không đáng. Không ai xứng đáng cả.”
“Tôi cũng có thể xóa bỏ ký ức của cô,” Eric đưa ra gợi ý một cách tự nhiên.
“Không,” cô nói. “Tôi cần phải nhớ một ít chuyện này, và đeo mang gánh nặng của những người còn lại cũng đáng.” Tara nghe có vẻ già hơn hai mươi tuổi. Đôi khi chúng ta trưởng thành chỉ vỏn vẹn trong giây lát; tôi đã làm điều đó khi tôi khoảng bảy tuổi và cha mẹ tôi qua đời. Tara đã làm việc đó vào đêm nay.
“Nhưng tất cả bọn họ đều chết rồi, tất cả trừ tôi, Trứng và Andy. Các anh không lo chúng tôi sẽ nói ra sao? Các anh sẽ truy bắt chúng tôi phải không?”
Eric và Bill liếc mắt trao đổi. Eric nhích lại gần Tara hơn một chút. “Nghe này, Tara,” hắn mào đầu bằng giọng rất thuyết phục, rồi cô ấy đã mắc sai lầm khi ngước nhìn lên. Sau đó, một khi cái nhìn của cô đã dán chặt vào Eric, hắn bắt đầu tẩy xóa những ký ức của buổi tối. Tôi thì mệt mỏi quá rồi không muốn phản kháng, cứ như thể phản kháng thì sẽ có tác dụng gì lắm vậy. Kể cả khi Tara có thể đặt câu hỏi, cô ấy cũng không nên bị tri thức chất chồng. Tôi hy vọng rằng cô ấy sẽ không lặp lại những sai lầm của mình nữa, sau khi được tách biệt khỏi nhận thức về những gì đã bắt cô trả giá; nhưng cô ấy không được phép kể ra chuyện gì hết.
Tara và Trứng, được Sam (người đã mượn quần của Trứng) chở đi, đang trên đường trở về thị trấn khi Bill bắt đầu sắp xếp một vụ cháy trông có vẻ tự nhiên để thiêu rụi căn chòi. Eric hình như đang đếm số thi thể chồng chất trên hiên, để chắc chắn rằng những thi thể trên đó hoàn toàn đủ để làm đám thanh tra tin tưởng. Hắn băng qua sân để kiểm tra Andy.
“Tại sao Bill lại ghét người nhà Bellefleur nhiều như vậy?” tôi hỏi hắn một lần nữa.
“Ồ, chuyện xưa rồi,” Eric nói. “Từ cái thời Bill còn chưa từng chuyển đổi kia.” Hắn có vẻ hài lòng với tình trạng của Andy và trở lại làm việc.
Tôi đã nghe thấy tiếng xe đang chạy tới, và ngay lập tức cả Bill và Eric đều xuất hiện trong sân. Tôi có thể nghe thấy một tiếng kêu răng rắc khe khẽ từ bên kia căn chòi. “Chúng ta không thể châm lửa từ nhiều hơn một vị trí được, nếu không họ có thể sẽ nói rằng đó không phải tự nhiên, Bill nói với Eric. “Tôi ghét những bước tiến kiểu này trong ngành khoa học cảnh sát quá đi.”
“Nếu chúng ta đã không quyết định sống hòa mình vào cộng đồng, thì họ sẽ phải đổ lỗi cho một trong số bọn họ,” Eric nói. “Nhưng như thế này, chúng ta thật là những vật tế thần ngon cơm… chuyện này khó chịu thật đấy, khi anh nghĩ về việc chúng ta lại mạnh hơn đến thế nào.”
“Này, các anh, tôi không phải người sao Hỏa đâu, tôi là con người, và tôi cũng có thể nghe các anh rõ lắm đấy,” tôi nói. Tôi đang gườm gườm nhìn họ, và họ trông có vẻ xấu hổ tía tai, thì Portia Bellefleur chui ra khỏi xe của cô ta mà chạy về phía anh trai mình. “Các người đã làm gì với Andy thế?” cô ta nói, giọng vỡ ra cay nghiệt. “Các người là lũ ma cà rồng khốn khiếp.” Cô ta tóm lấy cổ áo của Andy lôi qua lôi lại, tìm kiếm những dấu răng cắn.
“Họ đã cứu mạng anh ta,” tôi nói với cô.
Eric nhìn Portia một lúc lâu, đánh giá cô ấy, sau đó hắn bắt đầu sục sạo xe ô tô của những kẻ tham dự tiệc tùng đã chết. Hắn đã lấy được chìa khóa xe hơi của họ, điều mà tôi không muốn nghĩ tới.
Bill đi sang chỗ Andy mà nói, “Dậy đi,” bằng giọng trầm lặng nhất, trầm đến nỗi hầu như không thể nghe thấy được dù cách đó vài mét.
Andy nhấp nháy mắt. Anh ta nhìn sang phía tôi, hoang mang vì sao tôi đã không còn ở trong vòng tay kìm kẹp của anh ta nữa, tôi đoán thế. Anh ta nhìn Bill, rất gần với anh ta, và anh ta lưỡng lự, chờ đợi sự trả thù. Anh ta nhận ra Portia ở ngay bên cạnh mình. Sau đó anh ta nhìn qua Bill vào căn chòi.
“Cháy rồi,” anh ta chậm rãi nhận xét.
“Đúng vậy,” Bill nói. “Họ đều chết cả rồi, trừ hai người vừa mới trở lại thị trấn. Họ không biết gì cả.”
“Vậy thì… những người này thực sự đã sát hại Lafayette à?”
“Đúng thế,” tôi nói. “Mike, và những người nhà Hardaway, và tôi đoán có lẽ Jan cũng biết chuyện này.”
“Nhưng tôi chưa có bằng chứng nào cả?”
“Ồ, tôi cũng nghĩ thế,” Eric gọi. Hắn đang nhìn xuống cốp xe Lincohn của Mike Spencer.
Chúng tôi đều tiến đến chiếc xe hơi để xem. Tầm nhìn hơn người của Bill và Eric giúp họ dễ dàng nhận ra có máu ở trong cốp, máu và ít quần áo vấy máu và một cái ví. Eric rướn người xuống cốp và thận trọng lật mở ví.
“Anh có thể đọc xem nó là của ai không?” Andy hỏi.
“Lafayette Reynold,” Eric nói.
“Vậy thì nếu chúng ta để mặc chiếc xe hơi như thế này rồi bỏ đi, thì cảnh sát sẽ tìm ra cái gì ở trong xe và mọi thứ đều kết thúc. Tôi sẽ được trong sạch.”
“Ôi, cảm ơn Chúa!” Portia nói, thốt lên tiếng kêu như thổn thức. Khuôn mặt không trang điểm của cô và mái tóc dày màu nâu hạt dẻ sáng lên dưới ánh trăng lọc xuyên qua những tán cây. “Ồ, Andy, chúng ta về nhà thôi.”
“Portia,” Bill nói, “nhìn tôi này.”
Cô ta liếc nhìn anh, rồi quay đi. “Tôi xin lỗi đã lôi anh vào chuyện này,” cô ta liến thoắng nói. Cô hổ thẹn khi phải xin lỗi một tên ma cà rồng, bạn có thể nhận thấy thế. “Tôi chỉ cố gắng làm cho một trong những người hay tới đây mời mình tham dự, để tôi có thể tự mình tìm ra chuyện gì đang diễn ra.”
“Sookie đã làm việc đó cho cô,” Bill dịu dàng nói.
Cái nhìn của Portia phóng sang phía tôi. “Tôi hy vọng là đã không quá tồi tệ, Sookie à,” cô ta nói, làm tôi ngạc nhiên.
“Thật ra là đã rất kinh khủng đấy,” tôi nói. Portia co rúm lại. “Nhưng mọi chuyện đã kết thúc rồi.”
“Cảm ơn cô vì đã giúp đỡ Andy,” Portia nói đầy dũng cảm.
“Tôi đã không giúp Andy. Tôi đang giúp cho Lafayette,” tôi cáu kỉnh nói.
Cô hít một hơi sâu. “Đương nhiên rồi,” cô ta nói, với ít lòng tự trọng. “Anh ta là đồng nghiệp của cô mà.”
“Anh ấy là bạn của tôi,” tôi sửa lại.
Lưng cô ta dựng thẳng lên. “Bạn của cô,” cô nói.
Lúc này ngọn lửa đang lan vào căn chòi, và không lâu sau cảnh sát và lính cứu hỏa sẽ đến. Chắc chắn đã đến lúc rời đi.
Tôi nhận thấy cả Eric lẫn Bill đều không đề nghị xóa bỏ ký ức của Andy.
“Tốt hơn hết anh nên ra khỏi đây,” tôi nói với anh ta. “Tốt hơn anh nên trở về nhà mình, với Portia, và bảo bà nội của anh thề rằng anh đã ở đó cả buổi tối.”
Không một lời, anh trai và cô em gái luồn vào trong chiếc Audi của Portia và bỏ đi. Eric chui vào trong chiếc Corvette để quay trở về Shreveport, còn Bill và tôi đi qua cánh rừng để tới chỗ xe hơi của Bill, được che đậy trong đám cây cối dọc con đường. Anh bế tôi đi, vì anh thích được làm vậy. Tôi phải nói rằng, tôi cũng thích thú chuyện này, đôi lần thôi. Đây rõ là một trong những lần ấy.
Chẳng mấy chốc sẽ tới bình minh. Một trong những đêm dài nhất của cuộc đời tôi đã chuẩn bị khép lại. Tôi ngả người nằm xuống ghế xe, mệt mỏi không thể tả.
“Callisto đã đi đâu vậy?” tôi hỏi Bill.
“Anh không biết. Cô ta đi từ nơi này sang nơi khác. Không có quá nhiều maenad tồn tại khi các vị thần mất đi, và kẻ nào đã tìm thấy những cánh rừng, thì sẽ lang thang trong đó. Họ đi trước khi bị phát hiện. Họ đều xảo quyệt như vậy hết. Họ yêu chiến tranh và sự điên rồ của nó. Em sẽ không bao giờ thấy họ ở cách xa một trận đánh đâu. Anh nghĩ rằng tất cả bọn họ sẽ chuyển tới Trung Đông nếu ở đó có nhiều rừng hơn.”
“Callisto đã ở đây bởi vì…?”
“Chỉ đi ngang qua thôi. Có thể ả đã ở đây hai tháng, bây giờ ả tự tìm ra đường cho mình… ai biết được? Tới vùng Everglades, hoặc đi ngược sông tới vùng Ozarks.”
“Em không thể hiểu nổi sao Sam, à, quẩn quanh quanh ả ta.”
“Đó là cái cách mà em gọi đấy hả? Đấy có phải là thứ bọn anh làm không, loanh quanh quanh quẩn?”
Tôi vươn người qua nhéo vào cánh tay anh, việc này cũng giống như ấn tay vào khúc gỗ vậy. “Anh này,” tôi nói.
“Có thể anh ta chỉ muốn được sống theo khía cạnh hoang dã thôi,” Bill nói. “Dù sao thì, Sam khó mà tìm ra người nào có thể chấp nhận bản chất thật sự của anh ta.” Bill ngừng lại đầy ẩn ý.
“À, chuyện đó có thể khó thực hiện đấy,” tôi nói. Tôi nhớ tới việc Bill quay trở lại khu biệt thự ở Dallas, da dẻ hồng hào, và tôi sặc. “Nhưng những kẻ đang yêu đều khó tách rời nhau.” Tôi đã nghĩ về việc mình cảm thấy thế nào khi nghe tin Bill đang gặp gỡ với Portia, và nghĩ về chuyện tôi đã phản ứng ra sao khi nhìn thấy anh ở trận đấu bóng. Tôi vươn cánh tay ra đặt lên đùi anh khẽ siết nhẹ.
Vừa nhìn thẳng đường, anh vừa mỉm cười. Răng nanh của anh hơi nhô ra.
“Anh đã dàn xếp ổn thỏa với những người biến hình ở Dallas chưa?” tôi hỏi sau một lúc.
“Anh đã dàn xếp trong một tiếng đồng hồ, hay đúng hơn là Stan đã dàn xếp. Hắn ta mời họ đến trại chăn nuôi của hắn vào những đêm trăng tròn, trong bốn tháng tới.”
“Ồ, hắn thật tốt bụng.”
“Hừm, thật ra như thế hắn chẳng mất gì cả. Và hắn ta không đi săn, mà hươu nai dầu sao vẫn cần được làm thịt, như hắn ta đã chỉ ra.”
“Ồ,” tôi tấm tắc nhận biết, và rồi sau một giây, “Ồôôôồ.”
“Họ đi săn.”
“Đúng vậy. Hiểu rồi.”
Khi chúng tôi trở về nhà tôi, bình minh đã sắp ló dạng. Eric có thể chỉ vừa đến Shreveport, tôi cho là vậy. Trong khi Bill tắm, tôi ăn một ít bơ đậu phộng và thạch, bởi vì tôi đã không ăn uống gì trong nhiều tiếng đồng hồ đến nỗi tôi chẳng thể đếm hết được. Rồi tôi đi đánh răng.
Ít nhất anh đã không phải vội vã gì. Bill đã dành nhiều đêm tháng trước để tạo một chỗ ở cho anh trong nhà tôi. Anh đã cưa bỏ phần đáy tủ quần áo trong phòng ngủ cũ của tôi, căn phòng tôi đã dùng nhiều năm trước khi bà tôi qua đời và tôi bắt đầu dùng phòng của bà. Anh đã biến toàn bộ đáy tủ thành một cánh cửa bẫy, bởi vậy anh có thể mở ra, trèo vào, và đóng chặt lại sau anh, và không có ai đoán được ngoài tôi ra. Nếu như tôi vẫn thức khi anh xuống dưới đất, tôi đặt một cái va li cũ trong tủ quần áo và vài đôi giày để làm nó trông tự nhiên hơn. Bill đã giữ lại một chiếc hộp trong không gian ẩn nấp để ngủ lại trong đó, bởi dưới đó khá bẩn thỉu. Anh không thường ở lại đấy, nhưng thi thoảng nơi này cũng khá có ích.
“Sookie này,” Bill gọi từ phòng tắm của tôi. “Tới đây, anh còn thời gian để kỳ cọ cho em.”
“Nhưng nếu anh kỳ cọ em, em lại sẽ trằn trọc không ngủ được.”
“Tại sao thế?”
“Bởi vì em sẽ bứt rứt.”
“Bứt rứt ư?”
“Bởi vì em sẽ sạch sẽ nhưng… không được yêu.”
“Trời sắp bình minh rồi,” Bill thừa nhận, đầu anh thấp thoáng chỗ rèm tắm. “Nhưng chúng ta sẽ có thời gian của riêng mình vào tối mai.”
“Nếu Eric không bắt chúng ta phải đi đâu đó khác,” tôi làu bàu, khi đầu anh đã an toàn ở dưới thác nước dội từng đợt. Như mọi khi, anh dùng gần hết nước nóng của tôi. Tôi uốn éo tuột khỏi cái quần soóc chết bầm và quyết tâm vứt nó đi vào ngày mai. Tôi kéo áo phông qua đầu mình và nằm dài trên giường đợi chờ Bill. Ít nhất cái áo ngực mới của tôi vẫn còn nguyên. Tôi quay sang một bên, và nhắm mắt tránh ánh sáng rọi từ cánh cửa phòng tắm khép hờ.
“Em yêu à?”
“Anh tắm xong rồi à?” tôi uể oải hỏi.
“Ừ, mười hai tiếng trước rồi.”
“Cái gì?” Mắt tôi bừng mở. Tôi nhìn ra cửa sổ. Trời vẫn chưa đen kịt, nhưng rất tối.
“Em đã ngủ thiếp đi.”
Tôi có một cái chăn vắt lên người, và tôi vẫn đang mặc cái áo lót màu xanh kim loại và quần lót cùng bộ. Tôi cảm thấy mình giống như chiếc bánh mì mốc. Tôi nhìn Bill. Anh đang chẳng mặc gì hết cả.
“Giữ lấy ý nghĩ đó đi,” tôi nói và vào nhà tắm một chuyến. Khi tôi trở lại, Bill đang đợi tôi ở trên giường, chống tay lên khuỷu tay.
“Anh có để ý tới bộ quần áo mà anh đã cho em không?” Tôi xoay một vòng để cho anh hưởng hết những lợi ích từ sự hào phóng của anh.
“Đáng yêu đấy, nhưng em có lẽ hơi quá chải chuốt cho dịp này rồi.”
“Có thể là dịp gì đây nhỉ?”
“Lần ân ái tuyệt vời nhất của đời em.”
Tôi cảm nhận cơn rạo rực ham muốn tột độ bên dưới kia. Nhưng tôi giữ mặt mình bình thản. “Và anh có thể chắc nó sẽ tuyệt vời nhất chứ?”
“Ồ, chắc chắn rồi,” anh nói, giọng trở nên mềm mượt và lạnh lùng giống như nước chảy quanh những tảng đá. “Anh có thể dám chắc, và em cũng thế.”
“Chứng minh đi,” tôi nói, mỉm cười rất nhẹ.
Đôi mắt anh đang ở trong bóng tối, nhưng tôi có thể nhìn thấy đường cong của môi anh khi anh cười đáp lại. “Rất sẵn lòng,” anh nói.
Một lúc sau đấy, tôi đang cố gắng để khôi phục sức lực của mình, và anh đã nằm phủ lên mình tôi, một tay vắt ngang qua bụng tôi, một chân gác lên chân tôi. Miệng tôi đã mỏi đến nỗi chẳng còn đủ sức để hôn nhẹ lên bờ vai anh nữa. Lưỡi của Bill đang nhẹ nhàng liếm những vết cắn bé tí trên vai tôi.
“Anh biết chúng ta cần làm gì không?” tôi nói, cảm thấy quá lười biếng chẳng muốn nhúc nhích gì nữa.
“Ừm?”
“Chúng ta cần lấy tờ báo.”
Sau một lúc ngưng đọng thật dài, Bill chậm chạp rời khỏi tôi để đi thong thả ra cửa trước. Người phụ nữ giao báo của tôi ghé qua lối chạy xe vào nhà tôi và quẳng báo về phía hiên nhà tôi bởi vì tôi đã trả cho cô ấy khoản tiền boa hậu hĩnh cho sự thấu hiểu đó.
“Nhìn này,” Bill nói, và tôi mở mắt ra. Anh đang cầm một cái đĩa bọc giấy kẽm nướng bánh. Tờ báo được kẹp dưới cánh tay anh.
Tôi bò ra khỏi giường và chúng tôi đi vào nhà bếp theo quán tính. Tôi choàng chiếc áo khoác tắm màu hồng trong lúc bước theo sau Bill. Anh vẫn tự nhiên, và tôi ngưỡng mộ tác phong tự nhiên ấy.
“Có một tin nhắn trên máy trả lời tự động,” tôi nói, khi tôi đổ vào ít cà phê. Việc quan trọng nhất đã xong, tôi giở miếng giấy kẽm ra thì nhìn thấy một chiếc bánh hai tầng trét kem sô cô la, được rắc quả hồ đào theo hình ngôi sao trên mặt bánh.
“Bánh sô cô la của già Bellefleur đây mà,” tôi nói, giọng nhuốm vẻ kính sợ.
“Chỉ cần nhìn là em có thể nhận ra đây là của ai à?”
“Ồ, đây là một chiếc bánh nổi tiếng. Là một huyền thoại. Không có gì ngon bằng bánh của bà Bellefleur hết. Nếu bà ấy đưa chiếc bánh tham dự hội chợ địa phương, nó sẽ giành chiến thắng. Bà ấy mang đến khi ai đó sắp qua đời. Jason nói rằng cũng đáng chết mà, chỉ để ăn một miếng bánh của bà Bellefleur.”
“Mùi bánh mới tuyệt vời làm sao,” Bill nói, làm tôi kinh ngạc. Anh cúi xuống hít ngửi. Bill không hít thở, nên tôi vẫn chưa hiểu chính xác anh ngửi như thế nào, nhưng mà anh có ngửi. “Nếu em có thể xức nó như một loại nước hoa, anh có thể ăn ngấu nghiến em.”
“Anh đã làm thế rồi.”
“Anh có thể làm thế một lần nữa.”
“Em không nghĩ mình kham nổi.” Tôi rót cho mình một cốc cà phê. Tôi nhìn chằm chằm vào cái bánh, lòng đầy băn khoăn. “Em còn không nghĩ là bà ấy biết em sống ở đâu.”
Bill ấn vào nút tin nhắn trên máy trả lời tự động của tôi. “Cô Stackhouse,” một giọng của người quý tộc rất già, đặc miền Nam, nói. “Tôi đã gõ cửa nhà cô, nhưng chắc hẳn cô rất bận rộn. Tôi để lại một cái bánh sô cô la cho cô, bởi vì tôi không biết mình có thể làm gì khác để cảm ơn cô về những việc mà Portia kể là cô đã làm cho cháu trai của tôi, Andrew. Một vài người đã rất tốt bụng nói với tôi rằng bánh ngon. Tôi mong cô sẽ thích nó. Nếu tôi có thể làm giúp cô việc gì, cô chỉ cần gọi điện thoại cho tôi.”
“Chẳng hề nói tên bà ta.”
“Caroline Holiday Bellefleur muốn mọi người đều biết bà là ai.”
“Ai cơ?”
Tôi ngước nhìn lên Bill, đang đứng cạnh cửa sổ. Tôi đang ngồi bên bàn ăn, uống cà phê từ một trong những chiếc cốc in hoa của bà tôi.
“Caroline Holiday Bellefleur.”
Bill không thể nào nhợt nhạt hơn được, nhưng chắc chắn anh đang sững người. Anh đột ngột ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi. “Sookie, giúp anh một chuyện.”
“Tất nhiên, anh yêu. Chuyện gì nào?”
“Đi sang nhà anh lấy cuốn Kinh Thánh ở trên giá sách có kính đằng trước trong hành lang ấy.”
Anh có vẻ rất bồn chồn, tôi chộp lấy chùm chìa khóa và lái xe đi trong chiếc áo choàng tắm, hy vọng sẽ không gặp ai dọc đường đi. Không có quá nhiều người sinh sống trên con đường quê mùa của chúng tôi, và không ai trong số họ lại ở ngoài vào lúc bốn giờ sáng cả.
Tôi chui vào nhà Bill và tìm thấy cuốn Kinh Thánh đúng ở chỗ anh nói. Tôi cẩn thận lấy cuốn sách ra. Nó rõ ràng là khá cũ. Tôi đã lo lắng mang nó lên những bậc thang vào nhà mình đến nỗi suýt vấp ngã. Bill đang ngồi ngay ở chỗ tôi đã rời anh. Khi tôi đặt cuốn Kinh Thánh trước mặt anh, anh liếc nhìn nó một lúc lâu. Tôi đã bắt đầu băn khoăn liệu anh có thể chạm vào nó không. Nhưng anh không nhờ tôi giúp, vậy nên tôi chờ đợi. Bàn tay anh vươn ra và những ngón tay trắng nhợt vuốt khẽ lớp vỏ bọc da đã sờn. Cuốn sách đồ sộ, và những chữ cái bằng vàng trên trang bìa thì văn hoa diêm dúa.
Bill mở cuốn sách bằng những ngón tay nhẹ nhàng và lật một trang. Anh đang nhìn vào một trang về gia đình, với những ghi chú phai màu mực, được viết tay bằng vài nét chữ khác nhau.
“Anh đã viết những chữ này,” anh thì thầm. “Những dòng ở đây.” Anh chỉ vào vài dòng chữ viết.
Tôi đã cảm thấy cổ họng nghẹn lại khi đi vòng qua bàn để nhìn qua vai anh. Tôi đặt tay mình lên vai anh, để nối anh với thực tại.
Tôi gần như không thể đọc được chữ viết.
William Thomas Compton, mẹ anh đã viết, hoặc có thể là bố anh. Sinh ngày 9 tháng Tư, 1840. Một bàn tay khác đã viết, Mất ngày 25 tháng Mười Một, 1868.
“Anh có ngày sinh,” tôi nói, trong tất cả những gì ngu xuẩn có thể nói ra. Tôi chưa bao giờ nghĩ Bill lại có ngày sinh.
“Anh là con trai thứ hai,” Bill nói. “Đứa con trai duy nhất được lớn lên.”
Tôi nhớ rằng Robert, anh trai của Bill, đã qua đời khi mười hai tuổi hay gì đó, và hai đứa bé khác đã chết thuở sơ sinh. Ở đó có tất cả những ngày sinh và ngày qua đời được ghi lại, trên trang ấy dưới những ngón tay của Bill.
“Sarah, em gái anh, đã qua đời mà không có con.” Tôi nhớ chuyện đó. “Người chồng trẻ tuổi của nó đã chết trong chiến tranh. Tất cả những người đàn ông trẻ tuổi đều qua đời trong chiến tranh. Nhưng anh lại sống sót, chỉ để chết sau này. Đây là ngày mất của anh, theo như những gì gia đình anh quan tâm. Đấy là chữ viết tay của Sarah.”
Tôi giữ môi mình mím chặt, để không tạo ra một âm thanh nào. Có gì đó trong giọng nói Bill, cái cách anh chạm vào quyển Kinh Thánh dường như đau đớn không thể chịu đựng được. Tôi cảm nhận mắt mình mọng nước.
“Đây là tên vợ anh,” anh nói, giọng mỗi lúc một khẽ hơn.
Tôi nghiêng người về phía trước để đọc, Caroline Isabelle Holiday. Trong một giây, căn phòng chao đảo qua lại, cho đến khi tôi nhận ra chuyện không thể như thế được.
“Và bọn anh có con,” anh nói. “Bọn anh đã có ba đứa con.”
Tên của họ cũng có ở đó. Thomas Charles Compton, sinh 1859. Thế là, bà ấy đã có thai ngay sau khi họ cưới.
Tôi sẽ chẳng bao giờ có con với Bill cả.
Sarah Isabelle Compton, sinh 1862. Đặt theo tên người cô của đứa trẻ (em gái Bill) và mẹ của bé. Cô đã được sinh ra trong khoảng thời gian Bill tham gia chiến đấu. Lee Davis Compton, sinh 1866. Một đứa bé của sự đoàn tụ gia đình. Mất năm 1867, một bàn tay khác đã thêm vào.
“Những đứa bé thời ấy chết như ruồi,” Bill thầm thì. “Sau chiến tranh bọn anh quá nghèo, chẳng có thuốc men gì hết.”
Tôi đã định lê tấm thân buồn bã sướt mướt của mình ra khỏi nhà bếp, nhưng sau đó tôi nhận ra rằng nếu Bill có thể chịu đựng chuyện này, tôi cũng phải làm được như vậy.
“Hai đứa còn lại thì sao?”
“Chúng sống,” anh nói, sự căng thẳng trên mặt anh giảm đi một chút. “Anh lúc đó đã chết mất rồi, tất nhiên là thế. Tom mới chỉ chín tuổi khi anh qua đời, Sarah thì bảy tuổi. Con bé tóc vàng như mẹ nó.” Bill hơi mỉm cười, một nụ cười mà tôi chưa bao giờ thấy trên mặt anh trước đây. Anh trông khá giống con người. Giống như là nhìn thấy một người sống khác ngồi đây trong căn phòng bếp của tôi, không phải là cùng một người mà tôi đã làm tình say sưa chưa tới một tiếng đồng hồ trước. Tôi kéo một tờ Kleenex ra khỏi hộp ở trên cái giá đựng bánh mì và chậm chậm lên mặt mình. Bill cũng đang khóc, tôi liền đưa cho anh một tờ. Anh nhìn nó ngạc nhiên, cứ như là anh đã trông đợi nhìn thấy một thứ gì khác - có lẽ là một cái khăn tay cô tông thêu chữ lồng. Anh vỗ vỗ vào má mình. Tờ Kleenex chuyển sang màu hồng.
“Anh không bao giờ nhìn lại xem chúng đã trở thành người như thế nào,” anh nói vẻ băn khoăn. “Anh đã triệt để cắt đứt mọi quan hệ. Anh đã không bao giờ quay lại, đương nhiên, khi mà vẫn có khả năng bất kỳ ai trong bọn chúng còn sống sót. Điều đó thật nhẫn tâm.” Anh đọc cuối trang sách.
“Hậu duệ của anh Jessie Compton, người trao lại cho anh ngôi nhà, là người cuối cùng trong dòng trực hệ của anh,” Bill nói với tôi. “Nhánh của mẹ anh nữa, cũng thu hẹp lại, cho đến khi gia đình Loudermilk còn lại là những người duy nhất có họ hàng xa còn liên quan tới anh. Nhưng Jessie đúng là trực hệ từ Tom con trai anh, và hình như là, con gái anh Sarah đã kết hôn năm 1881. Con bé có một đứa con - Sarah đã có một đứa con! Nó đã có bốn đứa con! Nhưng một đứa trong số đó đã chết khi mới sinh.”
Tôi thậm chí không thể nhìn Bill. Thay vào đó, tôi nhìn ra cửa sổ. Trời bắt đầu mưa. Bà tôi yêu mái nhà bằng thiếc, vậy nên khi nó cần phải được thay thế, chúng tôi đã lại lắp thiếc nữa, tiếng lộp bộp của cơn mưa thông thường là âm thanh thư thái nhất mà tôi đã biết. Nhưng không phải tối nay.
“Nhìn này, Sookie,” Bill vừa nói vừa chỉ. “Nhìn này! Con gái của Sarah, đặt tên là Caroline theo tên bà nó, đã kết hôn với một người họ hàng của mình, Mathew Phillips Holiday. Và con gái thứ hai của nó là Caroline Holiday.” Mặt anh đang sáng rực lên.
“Vậy thì bà Bellefleur là chắt của anh.”
“Đúng vậy,” anh nói với vẻ không tin được.
“Vậy thì Andy,” tôi nói tiếp, trước khi tôi kịp nghĩ đi nghĩ lại về điều này, “là, à, chít của anh. Và Portia…”
“Ừ,” anh nói, trông bớt vui vẻ hẳn đi.
Tôi chẳng biết mình phải nói gì nữa, bởi vậy nên tôi không nói gì hết. Sau một chốc, tôi đã có cảm giác rằng chuyện có thể tốt đẹp hơn nếu tôi tự biến đi, bởi vậy tôi cố gắng lướt qua anh để ra khỏi căn phòng bếp bé nhỏ.
“Họ cần gì?” anh hỏi tôi, giữ chặt lấy cổ tay tôi.
OK. “Họ cần tiền,” tôi nói ngay tức thì. “Về vấn đề tính cách của họ thì anh không thể giúp họ được, nhưng họ đang túng tiền mặt theo cách tệ hại nhất. Bà Bellefleur già cả sẽ không từ bỏ ngôi nhà đó, mà căn nhà đang ngốn hết đến từng xu.”
“Bà ấy có kiêu hãnh không?”
“Em nghĩ anh có thể nhận ra từ tin nhắn thoại của bà ấy. Nếu như không biết tên đệm của bà là Holiday, em hẳn đã có thể nghĩ rằng đó là ‘Kiêu Hãnh’.” Tôi đưa mắt nhìn Bill. “Em nghĩ tính cách ấy được di truyền.”
Bằng cách nào đó, khi đã biết anh có thể làm gì cho những người nối dõi của mình, Bill có vẻ cảm thấy khá hơn. Tôi biết rằng anh có thể sẽ hồi tưởng lại trong vài ngày nữa, và tôi sẽ không bất bình với anh về chuyện đó. Nhưng nếu anh quyết định biến Portia và Andy thành mối bận tâm lâu dài thì việc đó có thể là vấn đề đấy.
“Anh đã không thích cái tên Bellefleur trước chuyện này,” tôi nói, tự mình cũng ngạc nhiên. “Tại sao thế?”
“Khi anh nói chuyện với câu lạc bộ của bà em, em nhớ chứ, hội Những Hậu Duệ Của Sự Hy Sinh Vinh Quang ấy?”
“Có chứ, tất nhiên rồi.”
“Và anh đã kể một câu chuyện, chuyện về người lính bị thương ở ngoài mặt trận, người đã liên tục kêu cứu ấy? Và bạn của anh Tolliver Humphries đã cố cứu anh ta như thế nào ấy?”
Tôi gật đầu.
“Tolliver đã chết khi cố gắng cứu,” Bill thất vọng nói. “Và tên lính bị thương lại tiếp tục kêu cứu sau cái chết của cậu ấy. Bọn anh đã cố gắng mang tên ấy về trong đêm tối. Tên hắn là Jebediah Bellefleur. Hắn mười bảy tuổi.”
“Ôi Chúa ơi. Vậy đó là tất cả những gì anh biết về nhà Bellefleur cho tới ngày hôm nay.”
Bill gật đầu.
Tôi cố gắng nghĩ ra điều gì đó có ý nghĩa để nói. Điều gì đó về sự xếp đặt của tạo hóa. Điều gì đó về việc ở hiền gặp lành. Gieo nhân nào gặt quả ấy chăng?
Tôi lại cố gắng bỏ đi lần nữa. Nhưng Bill đã tóm lấy cánh tay tôi, kéo tôi về phía anh. “Cảm ơn em, Sookie.”
Tôi không bao giờ ngờ anh lại nói thế. “Tại sao vậy?”
“Em đã khiến anh làm những điều đúng đắn mà không suy nghĩ đến chuyện kết cục sẽ được gì.”
“Bill, em không thể khiến anh làm gì được.”
“Em đã làm anh suy nghĩ như một con người, giống như anh vẫn còn sống vậy.”
“Điều tốt anh làm là ở trong con người anh, không phải ở em.”
“Anh là ma cà rồng, Sookie. Anh đã làm ma cà rồng lâu hơn anh làm người nhiều. Anh đã khiến em buồn phiền nhiều lần. Nói thực nhé, thỉnh thoảng anh không thể hiểu được tại sao đôi lúc em lại làm những việc em làm, bởi vì anh không còn làm người từ lâu lắm rồi. Không phải khi nào cũng dễ chịu khi nhớ lại làm người là như thế nào. Đôi khi anh không muốn bị gợi nhắc lại.”
Đây là vấn đề tiến thoái lưỡng nan cho tôi đây. “Em không biết liệu là mình đúng hay sai, nhưng em không biết làm thế nào để khác đi,” tôi nói. “Em sẽ thấy khổ sở nếu không phải vì anh.”
“Nếu bất cứ chuyện gì xảy ra với anh,” Bill nói, “em nên đến với Eric.”
“Anh đã nói thế lúc trước rồi,” tôi nói với anh. “Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, em sẽ chẳng phải đến với ai cả. Em là con người của riêng em. Em phải quyết định mình muốn làm gì. Anh phải bảo đảm rằng không có chuyện gì xảy ra với mình.”
“Chúng ta sẽ có nhiều rắc rối hơn từ Hội Bằng Hữu trong những năm tới,” Bill nói. “Sẽ phải có những hành động mà có lẽ là con người em sẽ thấy ghê tởm. Và có cả những nguy hiểm gắn liền với công việc của em.” Anh không có ý nói tới việc chạy bàn.
“Nước đến chân thì chúng ta sẽ nhảy.” Ngồi trong lòng Bill thật là một sự hậu đãi, đặc biệt khi anh vẫn còn khỏa thân. Cuộc sống của tôi chính xác không có nhiều hậu đãi cho tới khi tôi gặp Bill. Giờ đây mỗi ngày có một, hoặc hai hậu đãi.
Trong căn phòng bếp mờ mờ sáng, với mùi hương cà phê cũng tuyệt diệu (theo cách riêng của nó) như mùi cái bánh sô cô la, và mưa rơi lộp độp trên mái nhà, tôi đang có một khoảnh khắc đẹp đẽ với chàng ma cà rồng của mình, điều mà bạn có thể gọi là một khoảnh khắc con người ấm áp.
Nhưng có lẽ không nên gọi nó như thế, tôi nghĩ lại, cọ má của tôi vào gò má Bill. Tối nay, Bill trông thật giống con người. Và tôi - à, tôi đã để ý rằng khi chúng tôi làm tình trên những chiếc khăn trải giường sạch sẽ, rằng trong bóng tối làn da của Bill đã lấp lánh phát ra ánh sáng đẹp đẽ khác thường.
Và da của tôi cũng vậy.
Ma Cà Rồng Ở Dallas Ma Cà Rồng Ở Dallas - Charlaine Harris Ma Cà Rồng Ở Dallas