Chương 9: Con Lợn Khổng Lồ
elen tỉnh giấc từ mờ sáng. Lửa đã tắt và mùi hăng hắc của tro nguội xông vào cổ họng cô. Xung quanh cô, đồ đạc của Mills và Pastor, vung vãi và vô dụng trong ánh sáng mờ của buổi sớm mai, đập vào mắt cô. Như vậy, thảm kịch tối qua không phải là cơn mơ: cả cuộc chiến đấu chết người của Milos, vết thương và cuộc tàn sát của những con cẩu-nhân cũng không.
Cô quay sang phía chàng trai và khẽ lay vai cậu:
- Anh ổn chứ?
- Ổn… Milos mỉm cười, nhưng cậu không nhúc nhích một phân.
Cô đứng dậy và ra mở cửa. Tuyết vẫn rơi xuống trong đêm. Quần áo của những con cẩu-nhân đã bị phủ kín và, gần mấy tảng đá, ba cái xác vùi của Mills, Pastor và Ramsès không còn lại gì ngoài ba cái ụ nhỏ khum khum. Cô trở vào nhà và cặm cụi nhen lại bếp; nhưng cành cây nhỏ, những miếng củi vụn… Cô quỳ gối thổi. Vẫn nằm trên đệm, Milos quan sát cô bằng góc mắt:
- Em biết làm mọi thứ! Giấu các xác chết dưới tuyết, nhóm bếp, an ủi người khác… Có khi em làm cho anh cả cốc cà phê cũng nên!
- Chúng ta cá nhé? Cô đáp lại và làm ra vẻ rất vui.
Cô nhanh nhẹn mở các ngăn tủ, các hốc tường cho đến khi thấy được thứ cô tìm kiếm: một cái xoong cũ không quai. Cô đem ra ngoài bỏ đầy tuyết vào, rồi cho lên bếp. Chưa đến mười phút sau, cô chìa cho Milos một cốc nước nghi ngút khỏi và bỏ thêm vài giọt rượu của Pastor:
- Rất tiếc, kết quả đã rõ rồi nhé…
Chống một khuỷu tay, chàng trai uống từng ngụm nhỏ.
- Anh có thể đi được không? Helen hỏi. Mỗi người chúng ta sẽ có một đôi đế vợt… Như vậy tốt cho việc xuống núi... Bởi vì chúng ta sẽ quay lại, đúng không? Chúng ta không thể tiếp tục…
Milos đặt chiếc cốc đã cạn sang bên cạnh và buồn rầu nhìn cô:
- Cảm ơn em vì cốc "cà phê", em thật dễ mến, nhưng anh sẽ không thể đi được. Anh thậm chí còn không thể đứng lên. Anh đã ngủ cả đêm bởi vì anh đau quá. Nhìn này, anh nghĩ lưỡi dao đã gần như xuyên qua đùi anh.
Cậu vén tấm chăn. Máu đã ướt trên chiếc sơ mi của con cẩu-nhân. Cậu nhẹ nhàng xé mảnh vải quần đã bị rách.
- Trời ơi, Helen thốt lên khi phát hiện vết thương há ra, em thay băng cho anh nhé.
- Như thế cũng không ngăn được máu chảy… Milos nói. Chỉ cần anh cố ít cử động nhất có thể để cầm vết thương. Không làm gì khác được. Trừ phi em cũng biết khâu các vết thương… Em có chỉ và kim khâu đấy chứ?
Cả hai đều không cười được. "Em sẽ cần sức cho cả hai chúng ta…" hôm qua Milos nói thế. Giây phút này Helen hiểu cậu đã rất có lý.
- Em sẽ đi tìm sự giúp đỡ ở dưới thung lũng. Helen cố cứng cỏi đáp, em sẽ gặp được một người nông dân có xe kéo… Và họ sẽ đưa anh xuống để chăm sóc cho anh… Hoặc là em sẽ dẫn lên đây một vị bác sĩ…
- Em tin em có thể đi tới đó chứ?
- Anh thấy một giải pháp nào khác ư? Chúng ta chắc phải chờ đợi nhiều thế kỷ thì mới gặp ai đó đi qua đây.
Milos thở dài. Để Helen đi một mình cậu không đành lòng.
- Tuyết làm cảnh quang thay đổi. Em sẽ không còn nhận ra gì hết.
- Em sẽ không tìm cách đi lại con đường chúng ta đã đi. Em sẽ đi thẳng xuống trước mặt em và em sẽ gõ cánh cửa đầu tiên em gặp.
Không tốn thêm thời gian nữa, cô đứng dậy và chuẩn bị cho chuyến đi. Đôi đế vợt của Mills tốt hơn vì gỗ gần như mới và quai da mềm maij. Cô chỉnh về cỡ chân của mình và đi thử vài bước trong tuyết. Trong số hai chiếc ba lô, cô chọn chiếc của Pastor, vì nhỏ hơn. Cô bỏ hết các thứ đồ bên trong ra: một gói bánh quy của lính và hai quả táo, cô để tất cả bên cạnh Milos cùng với một nửa ổ bánh mì đen:
- Anh cần phải ăn một chút, nếu không anh sẽ mất sức đấy.
- Anh sẽ cố, chàng trai hứa.
Cô còn làm tan một nồi tuyết đầy và mang đến cho cậu làm nước dự trữ. Rồi cô thu nhặt và để xung quanh cậu tất cả những gì có thể bảo vệ cậu khỏi lạnh: tấm chăn của nhà trú chân, chiếc áo chui cổ của một con cẩu-nhân và cả áo vest của Mills vẫn treo sau cánh cửa. Cô cuộn tròn chiếc áo vest lót da của Pastor để vào trong túi và bỏ phần bánh mì đen còn lại lên trên.
Trước khi xuất phát, cô ngồi gần Milos và ôm đầu cậu trong đôi bàn tay.
- Chúng ta đã cần hai ngày để đi lên đây. Em sẽ cố đi xuống nhanh hơn: có thể chỉ một ngày. Thậm chí em sẽ không phải đi xuống tận dưới. Chúng ta đã gặp nhiều người dân trên đường đi, anh cũng nhớ. Với một chút may mắn, em sẽ trở lại vào ngày mai hay muộn nhất là ngày kia… Anh đừng có mà chạy trốn đây, nhé?
- Anh sẽ đau lắm…
Họ im lặng trong vài giây.
- Anh cứ nghĩ sẽ bảo vệ em mà bây giờ chính anh là người cần em, chàng trai thở dài. Anh có vẻ khôn lỏi… Đáng lẽ anh nên ở lại trường…
- Thôi đi! Helen ngắt lời cậu. Anh muốn ngăn bầy thú đuổi kịp Bart và Milena, và anh đã thành công! Nhờ có anh, bọn họ không còn phải lo sợ gì nữa!
- Ừ, nhưng em…?
- Em sẽ xoay xở được, anh đừng lo lắng! Thôi, em đi đây… Anh muốn em kiếm thêm củi đốt nữa không? Những cành khô ấy? Anh còn phải đốt chúng tối nay…
- Không, đừng mất thời gian vào việc đó. Anh muốn em ra đi hơn.
- Được rồi. Em đi đây.
Cô gái vẫn còn ngập ngừng.
- Em có thể làm một việc gì khác cho anh không?
- Có: hãy trở về nhé…
- Tất nhiên là em sẽ trở về!
- Hứa chứ?
Cô chỉ gật đầu. Nếu em mở miệng, cô tự nhủ, giọng em sẽ yếu đi, và đây không phải lúc để khóc. Đến cửa, cô quay lại và cười với cậu lần cuối. Chàng trai nhúc nhích các ngón tay trước mặt để nói lời tạm biệt.
- Anh đợi em, Helen. Hãy cẩn thận nhé.
Cô cứ đi thẳng xuống phía trước mặt trong nhiều giờ liền, cô chạy ngay khi có thể, không nghĩ gì khác ngoài việc không để mất thời gian. Đôi đế vợt gỗ kêu lạo xạo theo mỗi bước chân trong tuyết lạnh. "Bước đi! Bước đi!" dường như lặp đi lặp lại đến vô tận âm thanh nhỏ dai dẳng của chúng. Mặt trời lam các tảng băng đá lấp lánh. Sẽ đẹp biết bao, cô gái tự nhủ, nếu trên kia không có Milos với cái chân đỏ máu!...
Mỗi lần dừng lại, cô ngạc nhiên về hơi thở dồn dập và tiếng tim mình đập thình thịch trong bầu im lặng của rừng núi. Cô ăn một chút bánh mì, để một chút tuyết tan trong miệng và lại lên đường. Hy vọng thầm kín của cô là tìm thấy một chỗ trú chân trước buổi tối, nhưng mặt trời đã lui dần sau các dãy núi phía Tây, mà cô vẫn không nhìn thấy dấu hiệu nào cho thấy có dân cư sinh sống.
Cuối cùng, sườn dốc cũng thoai thoải hơn. Vùng đồng bằng chắc không còn quá xa nữa. Vì bóng tối dần chiếm lĩnh không gian và không khí lạnh buốt luồn lách qua chiếc áo chui cổ, Helen mặc áo vest lót da của Pastor và rảo nhanh bước chân. Ý nghĩ phải ngủ ngoài trời khiến cô hoảng hốt. May thay, nhiều mỏm đá đã sớm lộ ra, rồi tới màu xanh của đồng cỏ. Cô tháo đôi đế vợt và buộc vào quai ba lô. Một con đường đi xuống dọc theo rừng cây bu lô. Cô đi theo con đường đó, và chưa đến năm trăm mét thì một ngôi nhà nhỏ bằng đá xuất hiện phía bên phải, ở cuối bãi cỏ.
Ngôi nhà chắc chắn đã rất cũ, nhưng được bảo dưỡng tốt. Một làn khói trắng mỏng bay lên từ ống khói. Một con lợn khổng lồ đang lội trong bùn sau hàng rào, hai cái tai bẩn to tướng của nó vẫy vẫy hai bên. Chưa bao giờ Helen nhìn thấy một con vật to đến thế. Nó chắc phải nặng gần hai tấn. Cô tiến gần đến cánh cửa và gõ. Chờ đợi mà không thấy tiếng đáp lại, cô gõ cửa lần nữa. Cô thoáng nghĩ đến câu chuyện Chiếc Khuyên Vàng. Phải chăng trên bàn sẽ có ba chiếc bát? Và ba chiếc ghế? Và ba chiếc giường? Con lợn khổng lồ nhìn cô từ đằng xa, đồng thời những tiếng rống như bị chọc tiết cuộn lên trong họng nó.
- Có ai không? Helen gọi.
Cô đi một vòng quanh ngôi nhà, nhưng không nhìn thấy xe kéo cũng chẳng thấy chiếc xe ngựa nào, chỉ có đống củi dự trữ dưới chái nhà. Trở lại từ đầu nhà bên kia, cô gõ lên ô cửa sổ.
- Có ai không?
Cô dán mặt lên ô kính. Phía trong chìm sâu trong bống tối, nhưng có người ngồi trên một chiếc ghế tựa, có thể nhìn thấy nhờ ngọn lửa của bếp lò, hai chân ngâm trong chậu nước nóng.
- Ông ơi! Helen gọi và người đàn ông ngước mắt về phía cô.
- Cháu có thể vào nhà không ạ?
Đầu người đàn ông thể hiện một cử động không rõ ràng, và cô coi đó nghĩa là sự đồng ý, cô đẩy cửa bước vào. Căn nhà có trần thấp. Một tủ, một bàn, một đồng hồ và hai ghế dài đặt trên nền đất nện là toàn bộ đồ đạc trong nhà. Helen đến gần bếp lò:
- Cháu xin lỗi, thưa ông, cháu đã nhìn thấy khói và…
Ông lão già hơn rất nhiều so với cô tưởng. Hoặc có thể ốm yếu hơn nhiều. Các nếp nhăn sâu chằng chịt trên khuôn mặt mệt mỏi của ông; những sợi tóc trắng cuối cùng vẽ nên một dấu hỏi nhỏ ngộ nghĩnh trên trán ông. Ông lão giữ ẩm tay dưới tấm chăn choàng phủ xuống tận đầu gối.
- Cháu đến từ ngôi nhà trú chân trên núi… Helen lên tiếng. Ông có biết… ngôi nhà trú chân không ạ?
Ông già có vẻ không hiểu. Ông quan sát cô gái trẻ không e sợ, nhưng cũng không thực sự tò mò. Hai tai ông chảy xuống, buông khỏi cái đầu hói.
- Ông sống ở đây một mình ạ?
Cô nhìn kỹ hơn xung quanh và thấy chiếc ghế tựa thứ hai bằng rơm, gần bếp lò.
- Ông sống ở đây một mình ạ? Cô nhắc lại câu hỏi đồng thời nhấn giọng to hơn và chỉ vào chiếc ghế. Có người ở cùng ông ạ?
Cô gái đã chịu thua sự im lặng, thì ông già mở miệng và nói bằng giọng khàn khàn một câu ngắn ngủi và hoàn toàn không thể hiểu được, một câu gì đó như là:
- Sjo cé adji?
- Ông nói gì ạ? Cô hỏi.
Ông già nói lại những từ ấy nhưng to hơn và vảng cả tai.
- Cháu không hiểu ngôn ngữ của ông… Helen xin lỗi, cháu…
Lúc bấy giờ ông già mới rút một cánh tay gầy gò khỏi chăn choàng và run run chỉ vào cô:
- Giai? Gái?
- À! Helen cười đáp lại. Gái! Cháu là con gái.
Với mái tóc ngắn, khuôn mặt vuông và chiếc áo vest của Pastor trên lưng, cô có thể khiến nhiều người nhầm lẫn. Ngay sau khi ông lão biết cô thuộc về phái nữ, qua ánh mắt, ông có vẻ hồ hởi hơn. Ông ra hiệu cho cô kéo ghế và ngồi xuống. Nhưng sự gần gũi đột ngột kết thúc, và hai người ngồi đối diện nhau, thỉnh thoảng cười với nhau điệu cười lúng túng. Helen đang phân vân về việc xin nghỉ nhờ buổi tối thì cánh cửa mở ra, một bà già nhỏ bé đội khăn trùm bước vào. Bà đóng cửa lại, mắc áo khoác lên chiếc định với vẻ nhanh nhẹn và đứng lại ngay giữa phòng khi phát hiện người khách vừa đứng dậy khỏi ghế. Nhưng khi ông già nói câu gì đó ngắn gọn bằng ngôn ngữ của ông, bà bước ngay đến gần Helen, hai cánh tay rộng mở:
- Vợ chưa cưới của thằng Hugo ư!
- Không, cháu không phải là vợ chưa cưới của Hugo, Helen trả lời, vui sướng vì cuối cùng cũng có người hiểu cô nói, cháu bị lạc trên núi và…
- À, bà già nói, vẻ thất vọng hiện rõ, nhưng theo đà, bà vẫn cứ ôm hôn cô. Đôi má mát lạnh của bà mềm mại như lụa. Cháu bị lạc ư?
- Đúng ạ. Cháu đến từ ngôi nhà trú chân trên kia. Bà có biết ngôi nhà đó không?
- Có, ngôi nhà trú chân, ta biết…
- Bạn của cháu ở trên đó… anh ấy bị thương… bị thương rất nặng, bà hiểu chứ ạ? Ở chân… cháu đến tìm sự giúp đỡ… anh ấy cần được giúp đỡ…
Trong khi cô gái nói, ông già cũng cố nói với bà vợ và bà lão tội nghiệp không còn biết nghe ai nữa.
- Ông ấy tưởng cháu là vợ chưa cưới của thằng Hugo, cuối cùng bà nói với Helen. Ông ấy cứng đầu như một con la vậy. Hãy nói với ông ấy là Hugo vẫn khỏe và ông sẽ để cho chúng ta yên!
- Hugo vẫn khỏe ạ, Helen tươi cười nói rõ ràng với ông già. Anh ấy rất khỏe.
- Aaah! Ông già thốt lên, hài lòng, và ông im lặng.
Bà lão nháy mắt như một dấu hiệu tiếp tay. "Bây giờ chúng ta là những người biết điều", bà như muốn nói vậy.
- Lúc nãy cháu nói bạn cháu đang ở trên nhà trú chân, Helen nói tiếp. Anh ấy bị thương rất nặng… cần phải mang theo xe kéo lên chở anh ấy hoặc tìm một bác sĩ để chăm lo cho anh ấy…
- A, có một bác sĩ trên ngôi nhà trú chân à?
- Không ạ! Không có bác sĩ ở trên đó. Bạn cháu ở đó một mình thôi. Anh ấy bị thương. Bà có quen bác sĩ nào không ạ?
- Con trai ta…
- Con trai bà là bác sĩ ạ?
Bà lão đột nhiên thay đổi giọng và nhìn Helen, ngơ ngác:
- Con trai ta là bác sĩ ư? Đứa út hả?
Ối trời ơi, cô gái rên rỉ, tôi rơi xuống đâu thế này?
- Vâng, tuy vậy cô vẫn cố nài, bà vừa nói với cháu thế: con trai bà là bác sĩ. Có đúng thế không ạ?
- Ta không biết… Cháu muốn ăn một chút xúp không?
Đến lúc này, lần đầu tiên Helen mới để ý thấy một nồi gang đen bồ hóng đang sôi trên bếp. Một làn hơi mỏng bay ra từ dưới vung nồi. Suy cho cùng tại sao lại không tranh thủ một chút nhỉ? Bây giờ trời cũng tối rồi. Cần phải ăn no và nằm ngủ ở một chỗ nào đó chứ.
Bà lão nhỏ bé thắp ngọn đèn dầu treo trên thanh xà ngang trần và lấy ra một bát loa to từ ngăn kéo bàn.
- Ta sẽ làm cho người đàn ông của ta ăn trước. Ông ấy run lắm không tự ăn được. Ông ấy cũng không còn minh mẫn nữa, cháu thấy đấy. Từ dạo gần đây, ông ấy chỉ nói bằng tiếng mẹ đẻ thôi… Buồn lắm, cô gái ạ. À giá như cháu nhìn thấy ông ấy hồi trẻ!
Helen quan sát bà lão bón xúp cho "người đàn ông" của bà, bà đứng ngay bên cạnh ông. Thật cảm động khi chứng kiến lòng kiên nhẫn và cử chỉ nhẹ nhàng của bà. Sau đó, hai người phụ nữ ngồi xuống bàn để "ăn tối". Than ôi, món xúp không được ngon như Helen đã hy vọng. Cô gượng gạo nuốt từng miếng xúp chỉ có khoai tây và củ cải lập lờ trong nước canh nhạt nhẽo.
- Có nhiều người dân khác sống gần đây không ạ? Cô gái tiếp tục. Những ngôi nhà khác nữa?
- Con trai của ta… bà lão trả lời.
- Con trai của bà ạ? Người bác sĩ ạ?
Lúc ấy, ông lão đứng lên khỏi ghế, lặp đi lặp lại một câu hỏi trong đó Helen nhận ra từ "Hugo".
- Ông ấy nói gì vậy ạ?
- Ông ấy hỏi cháu đã có bao nhiêu đứa con với thằng Hugo. Ông ấy lẩm cẩm… Đợi đã, cháu sẽ thấy…
Bà lão lúng búng trả lời bằng thứ tiếng của ông chồng và phì cười trong chiếc khăn bà vẫn cầm trên tay.
- Bà đã nói với ông ấy gì vậy ạ?
- Nói là bọn cháu đã có bảy đứa con. Đều là con trai. Và thêm vào đó có cả cặp sinh đôi nữa! Thời gian ông ấy suy nghĩ về điều đó, ông ấy sẽ để cho chúng ta yên!
Quả thực như vậy, ông già gật đầu và lại đắm mình trong các suy nghĩ của ông. Helen nén cười. Bà lão nhỏ bé vừa lanh lợi lại vừa đãng trí này mỗi lúc càng làm cô ngạc nhiên hơn.
- Bà nói với cháu là con trai bà cũng ở đây. Con trai là bác sĩ của bà ấy…
- Bác sĩ hả? Nó ở đây hả?
- Vâng, con trai của bà…
- À đúng rồi, con trai ta. Nó sẽ đến đây sáng mai. Cháu muốn một cốc rượu nho không, cô gái?
- Chú ấy sẽ đến lúc mấy giờ ạ, con trai của bà ấy? Bởi vì bạn của cháu đang bị thương, nằm ở trên kia, ở ngôi nhà trú chân…
- Ừ, ở chân, đúng không?
- Vâng ạ, ở chân. Bác sĩ con trai bà có thể chữa cho anh ấy chứ ạ? Bà nghĩ rằng chú ấy có thể chữa được cho bạn cháu không ạ?
Bà lão tưng tửng đi đến cánh cửa trong nhà và mở ra. Một cầu thang dẫn lên trên tầng và một cầu thang khác dẫn xuống hầm. Bà lấy trên bậc thang đầu tiên một chai rượu nho còn một nửa và lấy hai chiếc cốc từ trong tủ.
- Cháu không uống rượu nho, Helen nói, sự sốt ruột khiến cô bứt rứt, cháu muốn hơn là…
- Đúng thế, giá như cháu nhìn thấy ông ấy hồi trẻ! Bà lão cắt ngang khi vừa rót đầy hai cốc rượu. Hồi đó, ta mười sáu tuổi rưỡi và ta làm việc trong quán bia. Còn ông ấy, ông ấy là thợ chặt củi. Ta và cô bạn Franciska tình cờ đi qua khu rừng thưa. Họ có khoảng chục người công nhân nước ngoài. Họ đang tạm nghỉ. Họ chơi bi bằng những viên đá tròn. Ông ấy nói to và hay đùa. Ông ấy đẹp hơn những người khác. Đẹp hơn rất nhiều. Ông cầm viên đá của mình trên tay và tay kia cầm một miếng pho mát. Hai vai ông ánh lên dưới lớp mồ hôi. Franciska đã nói với ta: "cậu có thấy anh chàng kia chứ, anh ta đẹp trai quá!" Rồi bọn ta cười rúc rích. Những ngày sau đó, ta đã tìm cách đi qua chỗ đó một mình. Một lần, anh ấy đến gần và bọn ta đã giới thiệu tên với nhau. Ở gần, ông ấy còn đẹp hơn so với khi nhìn từ xa… Rồi một lần khác, bọn ta đã trao đổi bằng tín hiệu rằng bọn ta có thể gặp nhau vào buổi tối.
Helen quay đầu lại và nhìn mái đầu lốm đốm các vết nhám, cái cổ nhăn nheo và hai vai gầy gò của ông lão đang thiu thiu ngủ bên bếp lò. Mặc dù đang nóng ruột, cô cũng cảm thấy mủi lòng.
- Và… ông bà đã gặp nhau?
- Tất nhiên rồi. Thử ngăn cản một chàng trai và một cô gái gặp nhau xem! Ta đã đợi ông ấy ở điểm hẹn sau xưởng của bố ta. Ta đã lên tự trang điểm. Bôi son đỏ, chỉ thế thôi. Khi ta nhìn thấy ông đi qua góc phố và bước về phía mình, ta cảm thấy như ngã ngửa về phía sau vậy! Ông ấy mặc chiếc áo sơ mi trắng, rộng, với cổ áo mở xuống ngực, và chiếc quần dài có đường lì… Một đường li! Bằng bàn là! Trong khi đó ông ấy lại ngủ trong túp lều giữa rừng! Điều đó cũng không thể ngăn cản ông ấy là một con người lịch lãm. Hồi đó, ông ấy mười tám tuổi… Và ta mười sáu tuổi rưỡi…
- Bà vẫn nhớ tất cả…
- Không. Ta quên hết rồi… nhưng không phải thế… nào, chạm cốc với bà nào, cô gái…
Hai người chạm cốc. Rượu làm rát cổ và Helen phải khó khăn lắm mới uống hết ngụm đầu tiên.
- Và… ông bà sinh được nhiều người con chứ ạ? Cô gái hỏi tiếp, hơi xấu hổ vì nối lại đoạn hội thoại cô thấy thích thú.
- Con ư? Có… bọn ta đã có… bốn đứa… không… năm chứ…
- Và người trẻ nhất bây giờ là bác sĩ? Đúng thế chứ ạ?
- Ta không biết nữa… thứ lỗi cho ta, ta cũng như ông ấy… ta bị mất trí nhớ… nào, giờ chúng ta đi ngủ thôi… bọn ta ngủ trong phòng, ở đây, ngay bên cạnh… còn cháu, cháu ngủ trên kia… lấy nến trong ngăn kéo trước khi đi lên nhé.
Bà đi đến bên ông chồng, thầm thì điều gì đó vào tai ông và giúp ông đứng dậy. Hai người đi ngang qua căn phòng. Họ bước đi với tốc độ chậm chạp như vô tận. Helen vừa nhìn họ đi qua trước mặt vừa uống cốc rượu. Rượu vang bốc lên đầu cô. Khi cánh cửa phòng ngủ đóng lại sau ông bà lão, Helen đứng lên và đến ngồi gần bếp lò để tích giữ chút hơi ấm. Chắc chắn ở căn phòng trên kia sẽ lạnh. Cô sắp lên trên phòng thì bà lão lại xuất hiện trong bộ quần áo ngủ và chiếc mũ trùm đầu.
- Xem này, cô gái…
Trong chiếc khung bằng gỗ là tấm ảnh bán thân một người đàn ông trẻ trung, thắt ca vát, râu đen và được cắt tỉa rất đẹp. Ông đội lệch trên đầu một chiếc mũ dẹt lạ lẫm và nhìn ống kính với vẻ tự tin.
- Con trai của ta… Hãy đọc phía sau…
Trên mặt các tông sau khung ảnh, một bàn tay cẩn thận đã viết ngày tháng và tên của người được tôn vinh ba mươi năm về trước: Josef, và chức vị: Bác sĩ Y khoa.
- Con trai của bà! Người sẽ đến đây vào ngày mai ư?
- Đúng thế. Nó đến vào thứ Ba hàng tuần. Chúc ngủ ngon, cô gái.
Helen tính nhanh lại những ngày đã qua. Milos và cô bỏ trốn khỏi trường nội trú vào tối thứ Sáu, và từ đó hai đêm đã trôi qua. Bà lão có thể không nhầm…
Mặc dù rất mệt, cô vẫn không sao ngủ được. Căn phòng lạnh quá, giường nằm bị trũng, còn cái chăn lông khổng lồ chỉ trực cuộn rơi xuống nền sau mỗi cử động nhẹ nhất. Hình ảnh Milos đang bị mất máu trong ngôi nhà trên núi ám ảnh cô. Cô chỉ chợp mắt được khi gần sáng, được ru ngủ bằng tiếng ngáy ầm ĩ của con lợn khổng lồ làm rung cả các ô cửa sổ.
Bác sĩ đến lúc mười giờ, trên chiếc xe ô tô gầm cao nổ máy phành phạch và lấm bùn. Đó là một người khoảng năm mươi tuổi, mắt màu đen. Ông trông không giống như trong ảnh nhiều lắm, mái tóc hoa râm, chỏm bị hói và râu xồm. Helen ngang qua bãi cỏ và vội vàng đến chỗ ông trong khi ông còn chưa kịp đặt chân xuống đất. Thật nhẹ người biết bao vì cuối cùng cũng nói chuyện được với người hiểu nhanh và rõ vấn đề!
- Chúng ta sẽ tiếp tục đi bằng ô tô và đi vòng qua núi, bác sĩ nói. Tôi biết một nơi từ đó chúng ta có thể đến ngôi nhà trú chân trong hai giờ đi bộ.
- Chú muốn nói là chúng ta sẽ có mặt trên đó trước tối nay phải không ạ?
- Đó là điều tôi muốn nói.
- Nhưng… chú có hộp dụng cụ chưa ạ? Chú có thể chữa cho bạn cháu chứ ạ?
- Tôi đã có tất cả những gì cần có. Tôi để các đồ cần thiết lại cho bố mẹ rồi chúng ta sẽ đi.
Helen ôm choàng lấy ông. Những lời từ biệt ông bà lão nhỏ bé nhanh chóng thốt ra.
- Hãy trở lại thăm bọn ta nhé! Bà lão nói. Bọn ta rất thích có người đến chơi.
- Con gái đấy! Ông lão chỉ vào Helen và nói với người con trai.
Và ông lại làm một chuỗi độc thoại dài không thể hiểu được trong đó cái tên "Hugo" được nhắc đến nhiều lần.
- Ông ấy nói gì vậy ạ? Helen hỏi.
- Ông ấy nói cháu còn quá trẻ để có tận bảy đứa con trai với Hugo. Tôi tự hỏi ông ấy lấy chuyện đó từ đâu…
- Nhưng mà Hugo là ai vậy? Helen cười hỏi.
- Đó là con trai tôi, bác sĩ trả lời. Nó sẽ tròn mười hai tuổi vào đầu tháng Mười một này.
Bác sĩ nếm một xe trượt con lên thùng xe và quay maniven cho ô tô nổ máy. Con lợn tạm biệt họ bằng tiếng kêu ủn ỉn cuối cùng, và họ lên đường trong khi bà lão vẫy vẫy chiếc khawnt ay bẩn của bà trên bậu cửa.
Dốc lên chỉ thoai thoải, nhưng sỏi đá làm con đường trở nên khó đi hơn. Chiếc xe xóc rất dữ dội, và Helen phải bám vào tay nắm cánh cửa và ghế ngồi để không bị nảy bắn lên. Thật không thuận tiện chút nào để nói chuyện trong tiếng kêu ầm ĩ của động cơ.
- Cô cậu làm gì trên ngôi nhà trú chân vào mùa này vậy? Bác sĩ hỏi to.
- Chúng cháu đi dạo! Helen đáp và cô ngạc nhiên thấy dễ dàng hơn biết bao khi gào thật to một lời nói dối so với khi nói bằng giọng bình thường.
- Vậy cô cậu đã bị tuyết giam cầm ư?
- Vâng ạ.
- Tôi hiểu rồi. Tôi tên là Josef, còn cô?
- Helen ạ.
Họ im lặng trong vài cây số, rồi bác sĩ hất đầu chỉ chiếc túi để trên ghế sau.
- Trong đó có một số thứ ăn được, bánh mì và sô cô la đen, tôi nghĩ thế. Cô cứ tự nhiên…
Sô co la! Helen cố gắng không chồm lên trên như một người sắp chết đói. Cô đưa tay lấy chiếc túi và nhẹ nhàng đặt nó trên đầu gối.
- Vậy làm sao cậu ấy lại bị thương, bạn cô ấy?
- Khi đẽo một mẩu gỗ bằng con dao của anh ấy, Helen trả lời, một thỏi sô cô la cầm trong tay. Chú muốn ăn không ạ?
- Có, một ô nhỏ thôi, bác sĩ cười nói đùa, đó chính là điểm yếu của tôi đấy!
Đúng lúc cô đang đưa cho bác sĩ mẩu sô cô la, một cú xóc mạnh làm cả hai bắn lên khỏi ghế và họ phá lên cười.
Và nếu mình nói với chú ấy sự thật, Helen nghĩ khi cắn thỏi sô cô la… Một khi ở trên kia, chú ấy sẽ nhanh chóng hiểu ra mình đã nói dối. Chú ấy sẽ thấy vết thương sâu của Milos và tất cả vết máu trong gian phòng… Nếu như tuyết đã tan, thậm chí chú ấy còn thấy cả các xác chết nữa! Chú ấy là bác sĩ, chú sẽ chăm sóc cho Milos, tất nhiên rồi, nhưng sau đó? Liệu chú ấy có tố cáo hai đứa không?
Cô nhận ra mình đã chơi một cuộc chơi đầy nguy hiểm khi kéo người đàn ông không quen biết này tới nơi xảy ra thảm kịch. Nhưng còn cách nào khác để cứu giúp Milos đâu?
Họ chạy tiếp một hồi không nói với nhau điều gì khác ngoài chuyện phong cảnh tầm thường và đường xá tệ hại. Tập trung vào việc lái xe, bác sĩ không hỏi thêm nữa. Bên phải họ mở ra các thung lũng tối sẫm. Phía bên trái họ, đỉnh ngọn núi biến mất trong sương mù. Một con chim săn mồi lớn va cành vào cửa kính chắn gió ô tô khiến họ giật mình.
- Chúng ta còn cách xa không ạ? Helen hỏi.
- Không, chúng ta đến rồi, bác sĩ trả lời, và chưa đến mười lăm phút sau, ông dừng xe bên lề đường.
Một con đường phủ đầy tuyết dẫn thẳng lên núi. Hai người lắp đôi đế vợt vào chân rồi đi theo con đường đó. Bác sĩ sải những bước dài, kéo theo sau ông chiếc xe trượt con sẽ dùng để đưa Milos xuống. Thỉnh thoảng ông dừng lại đợi Helen đang khó nhọc đi theo sau, mang theo hộp y cụ. Họ đi bộ hơn hai giờ rồi đến một khu rừng nhỏ toàn cây linh sam.
- Ngôi nhà trú chân ở ngay phía sau kia, bác sĩ nói. Cô sẽ nhận ra chỗ đó ngay thôi.
Quả vậy, ngay khi đi qua khu rừng, cô nhận ra mái nhà to rộng màu xám, nằm cách họ khoảng hai trăm mét ở phía trên. Tim cô đập mạnh. Em đến đây. Milos… Đừng lo lắng… Em dẫn theo một bác sĩ… Tất cả rồi sẽ trôi qua tốt đẹp…
Cô đang định bước ra khỏi khu rừng thì bác sĩ đặt bàn tay lên vai cô:
- Đợi đã!
- Có chuyện gì vậy ạ?
- Có người! Nhìn kìa!
Ba người đàn ông, tay cầm xẻng, đứng gần tảng đá chỗ vùi các xác chết của Mills, Pastor và Ramsès. Hai người nghe thấy họ thề độc bằng giọng rất to khi bới ra các thi thể. Một người thứ tư đang hối hả quanh chiếc xe kéo đậu ngay trước cửa. Tất cả đều mặc áo vest và đi bốt da.
- Đây là mấy gã của hội Phalange… bác sĩ nói nhỏ. Chúng làm gì ở đây vậy?
Cánh cửa ngôi nhà mở ra, và hai người đàn ông nữa xuất hiện. Chúng túm vai và chân một cơ thể cứng đơ khiêng ra ngoài và phũ phàng ném lên xe kéo. Một cánh tay lủng lẳng ở một bên, giống như bị trật khớp.
Helen thấy đau đớn.
- Milos…
Cô lùi lại một bước và ngồi lên chiếc xe trượt con. Chỉ trong vài giây, tất cả trong cô sụp đổ: tuyết chói lòa, những cành linh sam, bầu trời màu xám.
- Milos… cô bật khóc.
- Nín đi! Bác sĩ ra lệnh. Không được gây ra tiếng động!
Trên kia, trước cánh cửa, những người đàn ông đi đế vợt và cả ba cùng đẩy chiếc xe kéo xuống núi.
- Chúng ta đi thôi! Một trong số họ lớn tiếng gọi những người đang đứng gần tảng đá.
Trong vài giây, chiếc xe kéo đã biến mất.
- Chúng không đắp chăn cho anh ấy… Helen rên rỉ. Anh ấy đã chết rồi sao?
- Tôi không biết, bác sĩ nói khẽ. Không nên ở lại chỗ này. Đi thôi.
Mặc dù chế độ sưởi đã ở mức cao nhất, Helen vẫn run lập cập trong ô tô. Bác sĩ dừng lại, cởi áo vest và đưa cho cô.
- Cô hãy mặc nó và cố bình tâm lại. Tôi không nghĩ rằng bạn cô đã chết. Cô đã tháy chúng vội vã mang cậu ta đi như thế nào rồi chứ? Khi ai đó đã chết rồi, người ta sẽ không vội vàng gì cả, không đúng thế sao?
Helen chỉ có thể biết đồng ý, nhưng dẫu vậy, cô vẫn không yên tâm. Họ chạy xe trong im lặng hồi lâu, đi chậm hơn nhiều so với khi lên, rồi bác sĩ quay sang phía cô và nhìn cô với vẻ nhân từ:
- Giờ hãy vui lòng kể cho tôi nghe tất cả, cô gái… Chuyện gì đã xảy ra trên nhà trú chân vậy?
Và, vì cô vẫn còn ngần ngại:
- Cô không phải lo ngại gì tôi hết, cô gái ạ. Cô thấy rõ điều đó…
Cô muốn tin điều đó và bắt đầu kể từ đầu, không cầm được nước mắt:
- Chúng cháu chạy trốn khỏi trường nội trú…
Cô kể tất cả với ông: Chuyện Bart và Milena bỏ trốn, Catharina nhỏ bé bị nhốt trong ngục, cô nói cả chuyện Basile bị chết, cuộc họp hàng năm,Van Vlyck, Mills, Pastor và những con quái vật của gã. Cô kể cho ông nghe cả về chuyến xe khách trong đêm, cuộc đi bộ mỏi mệt trên núi, thời gian đời chờ trong giá lạnh gần tảng đá, trận đánh nhau kinh hoàng của Milos và vết thương của cậu, cơn thịnh nộ của những con cẩu-nhân… Cô kể hết, và khi kể xong, cô nhủ thầm với chính mình: Điều cháu không kể với chú, bác sĩ ạ, đó là Milos là tình yêu đầu của cháu, giờ đây cháu chắc chắn về điều đó… nhưng cháu đã mất anh ấy…
Ông lắng nghe cô đến tận cuối không cắt ngang, rồi chỉ đơn giản hỏi:
- Cô quen ai đó có thể đón tiếp cô không?
- Mẹ tinh thần của cháu, Helen khẽ đáp. Đó là người duy nhất mà cháu biết bên ngoài trường nội trú, nhưng cháu không thể đến nhà mẹ nữa.
Khi họ về đến ngôi nhà nhỏ bằng đá, màn đêm đã buông xuống. Bác sĩ tắt máy, nhưng không vội xuống xe. Trong sự yên lặng đột ngột, giọng ông hiền hậu và đầy chắc chắn.
- Nghe này, Helen. Tôi đã suy nghĩ kỹ. Đây là điều bây giờ sẽ diễn ra. Trước hết chúng ta sẽ ăn ở đây, với bố mẹ tôi. Đừng lo lắng về bữa ăn, hôm nay sẽ tốt hơn hôm qua, tôi đã mang đến nhiều đồ ngon. Sau đó, tôi sẽ đưa cô về nhà tôi, trong thị trấn mà cô đã đến bằng xe khách. Tại đó, cô sẽ làm quen với vợ tôi và "chồng chưa cưới" của cô, thằng Hugo. Nhưng cô sẽ không thể ở lại. Trong vùng sắp có xung đột, rất nhiều cuộc xung đột, cô nên e ngại về điều đó. Họ hoàn toàn không muốn mất người của mình theo cách ấy. Cô cũng không thể trở lại trường nội trú nữa. Vậy thì sáng mai, ngay từ sớm, tôi sẽ bắt xe khách để cô xuống phía Nam. Tôi sẽ đưa cho cô một khoản tiền đủ dùng, thậm chí có thể nhiều hơn thế. Buổi tối tiếp sau cô sẽ đến thủ đô. Hãy hỏi về cây cầu Fagots và đi tới đó. Cầu Fagots, đừng quên đấy. Bởi vì trong thành phố đó có rất nhiều cầu. Cây cầu ấy nằm ở phía Bắc, trên hướng thượng nguồn dòng sông. Có nhiều người ngủ dưới gầm cầu ấy. Họ có vẻ đáng sợ nhưng đừng sợ họ. Họ sẽ không làm hại gì cô đâu. Hãy hỏi một người tên là Mitaine. Cô nghe cho rõ nhé: Mitaine. Hãy nói với anh ta cô đến do tôi giới thiệu, do bác sĩ Josef giới thiệu. anh ta sẽ giúp cô và sẽ chỉ cho cô nơi những người giống như chúng ta ở trong thành phố. Tôi đã bị mất liên lạc, trong khi mạng lưới không ngừng thay đổi…
- Những người giống như chúng ta?
- Đúng thế, những người không ưa hội Phalange… Giải thích như vậy đủ làm cô hài lòng chưa?
- Với cháu như thế là đủ. Cháu cảm ơn chú…
- Tôi tên là Josef.
- Cảm ơn chú Josef…
- Không có gì, Helen ạ. Đó là điều tối thiểu tôi có thể làm cho cô. Vẫn còn một lời khuyên nhỏ nữa. Tôi có thể góp ý không?
- Vâng.
- Cô nên bỏ ngay cái áo vest với ba lô này đi. Chúng có thể kéo theo rất nhiều phiền phức cho cô đấy.
- Cô gái nhận ra cô vẫn đang mặc áo vest lót da của Pastor và mang trên lưng balô của Mills.
- Ồ, tất nhiên rồi! Nhưng cháu sẽ làm gì với chúng đây?
- Cháu không muốn người ta thấy chúng ở nhà bố mẹ chú. Cần phải chôn hoặc đốt chúng đi…
- Tôi có ý kiến hay hơn, bác sĩ nói. Hãy đưa chúng cho tôi. Sẽ không còn dấu vết gì của chúng nữa, kể cả tro bụi… Ngày mai, vợ tôi sẽ đưa cho cô một chiếc áo khoác thay thế.
Khi đi qua hàng rào, ông ném ba lô và áo vest qua các tấm ván che. Con lợn giống sục chiếc mõm khổng lồ của nó vào trong một lúc, rồi nó quyết định nhai ngấu nghiến cái ba lô chỉ trong vài giây, đến khung bằng kim loại nó cũng không được tha. Nó dành nhiều thời gian hơn một chút để thưởng thức món ăn kết hợp tinh tế giữa chiếc áo vest lót da với bùn đất.
Ngày hôm sau, vào lúc rạng đông, họ cùng nhau đến bến xe liên tỉnh, Helen thu mình trong chiếc áo khoác len mà vợ bác sĩ đưa cho. Trên bến đợi, bác sĩ đưa cho cô số tiền như đã hứa cùng với một số đồ dự phòng và một cuốn sách để đọc trên đường. Ban đầu ông chỉ bắt tay cô, rồi ông thay đổi ý và hôn lên hái má cô:
- Cầu Fagots… Mitaine… Nhất thiết không được quên đấy… Chúc may mắn…
Cô lên chính chiếc xe đã đưa cô đến đây bốn ngày trước, hay đúng ra là cả một thế kỷ trước, từ cái thời xa xưa mà Milos vẫn còn ở bên cạnh cô. Khi nhìn các ngọn núi xa dần qua ô cửa kính vuông bẩn thỉu phía sau xe, cô cảm thấy tim mình rạn nứt. Họ đã bắt được anh, Milos ơi, vậy mà anh vẫn nói với em họ không bao giờ bắt được anh… Họ sẽ làm gì anh? Và em, một mình em sẽ trở nên thế nào? Chúng ta đã thề không rời xa nhau nữa… Hãy nói cho em biết rằng anh sẽ không chết? Chúng ta sẽ gặp lại nhau nhé? Hứa nhé?
Trận Đấu Mùa Đông Trận Đấu Mùa Đông - Jean Claude Mourlevat Trận Đấu Mùa Đông