Chương 10
Ở cái thành phố cổ kính chuyên giấu nhẹm sự thực lộ liễu sau những khóm cây rậm lá ở các khu vườn chăm sóc công phu, sau tà áo dài kín đáo của từ chị bán quà rong cho đến cô thiếu nữ mới lớn, sau cái vẻ tề chỉnh vừa lỗi thời vừa mang sắc thái phong lưu tỉnh lẻ, sau giọng nói trọ trệ quen đĩnh đạc trầm bổng của kẻ sai khiến, thì khu Lạc sơn bên hông chợ Đông ba là chỗ thoát hơi của một nếp sống trì trệ khép kín.
Sở dĩ gọi là khu Lạc sơn vì cái tên quán cà phê kiêm quán nhậu mở ở kiosque cất sát lề đường Trần Hưng Đạo. Khách du lịch từ Sài gòn Ðà nẵng ra có thể cảm thấy lạc lõng ở khu lăng tẩm, buồn chán ở khu hành chánh giáo dục ở hữu ngạn sông Hương, bơ vơ giữa các công viên tuyệt đẹp mà vắng người nằm suốt bên bờ dòng nước lặng lờ. Họ nhớ cái rộn rã của Đà Nẵng Sài gòn như nhớ thuốc lá. Người chịu chơi ở Huế có thể dẫn họ ra khu Lạc sơn được lắm. Lạc sơn là một mảnh của khu Chợ Cũ Sài gòn thu nhỏ. Sở dĩ như vậy là nhờ địa thế thuận lợi: phía trước là phố chính Trần Hưng Đạo, phía sau là chợ Đông ba. Bên tay trái là bến xe Huế-Ðà nẵng. Khách lạ tấp nập lên xuống ở khu vực này nên quán cóc nhỏ nhưng lại có sức thu hút mạnh và mãi lực cao. Lúc nào quán cũng đông nghẹt. Cà phê hủ tiếu hoặc cà phê bún bò, cà phê phở cho buổi điểm tâm. Buổi trưa có cơm cà ri bán từng dĩa cho người vội. Rộn rịp nhất là buổi chiều. Khoảng bốn giờ chiều, các sạp vải và hàng trái cây quanh đó đã dẹp hết, chừa lại một khoảng đất rộng trải xi măng từ lề đường vào đến chợ Đông ba. Đủ thứ hàng quán được đẩy trên xe lăn đến để chờ khách nhậu. Nem, chả, bánh cuốn, mì xào dòn, phá lấu, hoành thánh, gà xé phay, vịt tiềm, gỏi cá. Bàn ghế gỗ thấp và gọn bày la liệt. Ngồi chỗ nào cũng được.
Vừa yên vị, đã có không biết bao nhiêu người bán hàng đến tận chỗ lễ phép chào mời. Rượu thì đã có quán Lạc sơn cung cấp. Ngồi ở đây, nếu không ngoái cổ nhìn về phía cầu Trường tiền hoặc lắng tai nghe giọng nhỏ nhẻ trầm bổng của các bà nội trợ Huế, người ta dễ có ảo tưởng đang ngồi nhậu ở một vỉa hè nào đó khu Nguyễn Tri Phương Chợ Lớn hoặc khu Dakao Sài gòn.
Những gì Huế giấu sau các màn trúc ám khói đều được phơi bày ở đây: những người cùi không còn sợ lở giơ vết thương lầy lụa đe khách nhậu để vòi tiền, những thương phế binh cụt cả hai chân mặc đồ trận lếch đến từng bàn sừng sộ đòi rượu, những chị ăn xin áo rách giơ cả đôi vú mướp nhão nhoẹt, những đứa bé bụng ỏng ghẻ hờm hôi hám, những gái chơi hành nghề trên đò vừa ngáp dài vừa hút thuốc cẩm lệ bên tách cà phê nguội lạnh, và nhiều nhất là những lính loại dữ như nhảy dù, biệt động quân, biệt kích, thám báo vừa thoát chết ở một khu rừng phía Bắc nào đó trở về. Gia đình có nề nếp khuyên con gái có đi phố đừng bao giờ nên lơ đễnh bước chân qua khu Lạc sơn. Thầy giáo (trừ các thầy giáo ở xa đến đây chấm thi) không dám đến đó ăn phở. Học trò, nếu muốn sau này thành tài lấy vợ Huế, đi ngay không dám dừng chân. Lạc sơn, cái Núi Vui ấy sừng sững trơ trẽn giữa thành phố lặng lẽ cả thẹn như một cục bướu trên thân thể mảnh mai của tiểu thư sông Hương. Món ăn thức uống bán ở đây ngon thật. Khách lạ đến Huế đừng dại gì phí tiền ở các hiệu ăn sang trọng đường Phan Bội Châu hoặc trước cửa Thượng Tú. Chịu khó thì nhờ thổ công địa phương dẫn đến những cái quán tranh nép khiêm nhường dưới một gốc trúc ngoại ô, ở đó mỗi quán chỉ bán độc có một món, và phải chờ đợi thật lâu: Bánh bèo Vỹ dạ, bún bò mụ Rớt Gia hội, bánh khoái Ðông ba, hoành thánh Đông sơn… Giá thật rẻ, nhưng khách vội ít thì giờ thì không nên thử. Quán bán hàng mà không khí y như một nhà quan thất thế dành mở thêm nghề phụ để mưu sinh. Khách đến không được chiều đãi đon đả như ở Chợ lớn. Chủ có cái tự cao của gia thế, và việc mở quán dường như là điều tủi nhục chung cho giòng họ. Khách được họ hạ cố bưng dĩa bánh khoái đến tận tay là một hân hạnh nghìn năm một thuở. Cô gái dọn bàn nào cũng có nét mặt điềm nhiên lạnh lùng của một nàng công chúa xuất cung.
Cụ già ngồi hút thuốc lào bằng cái bình Giang tây kia có thể là một ông hoàng từng lên xe xuống võng. Người đàn bà lui cui hấp bánh có thể là một hoàng phi. Nếu tưởng tượng được như thế và đủ sức luyến tiếc thời phong kiến hoàng kim thì hãy đi ăn ở các quán đặc biệt ấy.
Nếu không, đã là khách lạ, cứ đến khu Lạc sơn! Nói cho hết thì không phải lúc nào ăn nhậu ở đây cũng khoái khẩu. Đồ nhấm luôn luôn thơm tho, béo bổ và giá phải chăng. Nhưng đây là chỗ tụ tập những hạng người Huế muốn giấu, nên đôi lúc đang ăn, khách phải lợm giọng nuốt không nổi miếng thịt quay nhai dở. Ăn mày ở khu Lạc sơn đông đến nỗi chỉ ngồi chừng năm phút đã có bảy, tám người rách rưới bẩn thỉu đến chìa tay xin tiền. Gặm một miếng xí quách vừa vứt đi, đã có bốn, năm đứa trẻ đánh đấm nhau để lượm lên gặm. Ăn bát mì chưa hết đã có ba, bốn ông lão cầm lon chờ sẵn để tranh nhau chút nước lèo thừa. Lính biệt kích đánh lộn với nhau đạp bàn đổ ghế, có thể làm tung tóe thức ăn lên đầu bạn! Ðấy, thú vui trần tục và niềm ân hận của Huế, tiếng gào thét điên cuồng và hơi thở dài của Huế!
° ° °
Một hôm trên đường đi dạy từ Quốc học về nhà, ông Văn bắt gặp một đám đông khác thường ở khu Lạc sơn. Lúc ấy khoáng năm giờ chiều. Ông dạy mệt nên muốn đạp xe nhanh về nhà để nghỉ một chút và nuốt nổi bát cơm chiều. Ông không muốn dừng lại ở cái chỗ tai tiếng ấy chút nào. Nhưng không hiểu sao tuy đã đi quá chỗ đông đúc, tự nhiên bàn chân trên pédale của ông khựng lại. Hình như ông mỏi rã đến nỗi không đủ sức ấn gót giày lên bàn đạp nữa. Ông dừng lại, ngơ ngác. Vài người đi ngược chiều từ khu Lạc sơn xuống cầu Gia hội xôn xao bàn tán với nhau. Ông nghe loáng thoáng mấy câu:
- Ớn quá! Không biết ông nội ấy con cái nhà ai!
- Ban đầu tao tưởng thứ gì. Sau biết ra, mới bật ngửa.
- Bà bán nem đái cả ra quần, mày thấy không?
- Vậy mới là dân chịu chơi. Chết thì thôi, sá gì?
- Dám được cả tá lắm đấy!
- Không biết nó làm một mình hay có bạn bè tiếp tay!
Ông Văn không dằn được tò mò, nhấc chiếc xe đạp lên lề đường, dắt ngược về hướng Lạc sơn. Một cụ già mặt mày thất sắc vừa đi vừa ngoái nhìn phía sau xô cả vào người ông Văn. Ba đứa trẻ ăn mày chạy ùa về phía trước xô ngã chiếc xe của ông. Tiếng bàn tán cứ mù mờ. Ông chận vài người lại hỏi. Họ nhìn ông như đo lường trước sức chịu đựng, rồi bí mật bảo:
- Lại đó mà coi cho sướng mắt.
Không khí bí mật chẳng khác đi xem thơ Trạng Quỳnh. Ông vất vả lắm mới vừa chen được cả người lẫn xe đến gần đám đông. Trước mặt ông chỉ toàn lưng với lưng. Ông hơi nản, thầm nghĩ: “Chắc lại là một thứ kỳ quan ô nhục của Huế nữa đây. Chị điếm già ế khách bến Thương bạc lên cơn động kinh? Một anh cùi xin tiền không được quẹt cả cùi tay lở vào mặt khách nhậu? Một cụ già ăn xin say rượu? Một con điến cởi quần đứng tô hô giữa chợ? Cái gì thế? Chắc chắn là một “điều ân hận” cho Huế, nhưng là thứ gì?
Ông không thể thua cuộc nửa chừng! Bậy nhất là vướng víu cái xe đạp! Lúc ấy có ai từ phía sau đẩy cái vè xe thật mạnh, làm ông ngã chúi vào vòng người xây bằng lưng áo. Nhiều tiếng la tiếng chửi nổi lên. Vòng vây hở ra một chút, đủ để ông Văn nhận diện được “nỗi ân hận” của Huế.
Ông lặng người sững sờ! Ông có lú lẫn không đây? Tuy phải gào thét suốt ba giờ cho át tiếng ồn của lũ học trò chán học và mê biểu dương lực lượng, nhưng mắt ông chưa đến nỗi lòa. Ông Vẫn trông rõ. Phải, thằng con trai mặc đồ rằn ri tóc dài phủ ót đang say rượu làm trò cười cho thiên hạ kia chính là Lãng con ông. Nó về hồi nào? Và nó đeo thứ gì trên cổ thế kia.
Một người nào đó nói nhỏ, như sợ Lãng nghe thấy:
- Giống xâu nấm mèo quá hỉ! Phải trên ba mươi cái tai người mới xâu dài được chừng ni hỉ!
° ° °
Ông Văn choáng váng, tay thả ghi-đông chiếc xe đạp. Trước mắt ông, những tấm lưng áo khét nắng dỉ mồ hôi quay cuồng. Chân ông bủn rủn. Ông ngã xuống đất lúc nào không hay. Đến khi có tiếng cười ồ và vòng vây quanh Lãng nới rộng ra để tránh một trò tinh nghịch nào đó của thằng lính say, mọi người mới biết mình suýt dẫm lên người một ông già phờ phạc mất trí.
Họ chở ông Văn bằng cyclo về nhà, khi Lãng vẫn còn say sưa!
Ông Văn không dám nói thật với vợ và con gái những điều đã thấy. Ông nói dối mình mệt quá phải dừng lại nghỉ trước quán Lạc sơn, đúng lúc chứng kiến cảnh cậu con trai út say rượu.
Bà Văn không lo ngại gì cho con, chỉ xuýt xoa lo cho chồng. Bà pha nước chanh cho ông uống, nặng lời mắng nhiếc “bầy thú trước bảng đen” từng làm mòn mỏi sinh lực người chồng yêu quí của bà. Bà còn giận lây đến những kẻ gây xáo trộn làm hao hụt ngân quỹ gia đình của bà, và bây giờ làm chồng bà phải gào thét đến ngất xỉu.
Ông Văn giấu không cho Nam biết rõ, chỉ sai con gái:
- Lên Lạc sơn gọi nó về đây cho tao!
Nam đoán Lãng đã làm điều gì ghê gớm lắm, vì ít khi cha nàng xưng mày tao với con cái. Thấy con e ngại phải đến cái chỗ đáng xấu hổ ấy, ông quát:
- Sao còn đứng đó?
Nam vội lấy xe đạp lên khu Lạc sơn. Đến nơi, nàng chỉ dám đứng bên này đường Trần Hưng Đạo lóng ngóng nhìn qua. Phía bên cái quán cóc đám đông vẫn còn đó, nhưng mọi người di tản ra thành nhóm hai nhóm ba người chứ không vây quanh vào một mục tiêu cố định. Nam đoán có lẽ bạn bè của Lãng đã dìu nó đi chỗ khác. Nàng định ra về thì có một chị đàn bà từ phía dưới cầu Gia hội hớt hải chạy lên hỏi:
- Cô có thấy xe nhà thương chở nhà tôi về ngả nào không cô?
Nàng ngạc nhiên hỏi:
- Người nào bị thương?
Chị đàn bà mếu máo nói:
- Không biết có phải ba thằng Lẫm không. Chiều nào ổng cũng đạp cyclo lến Lạc sơn chờ khách, rồi lấy tiền đi nhậu luôn cả đêm. Nghe nói thằng lính say đeo xâu tai người rút dao đâm một ông phu cyclo trúng bụng. Không biết có phải ba thằng Lẫm không?
Một người qua đường biết chuyện chen vào nói:
- Xe quân cảnh chở thằng lính say đi rồi.
Chị đàn bà hấp tấp hỏi:
- Còn người bị thương? Còn ba thằng Lẫm nhà tôi?
- Tui chẳng biết Lẫm Liết gì hết. Chỉ thấy người ta lo ó vang trời: “Nó giết chết ổng rồi! Kêu quân cảnh mau”. Một lúc sau xe quân cảnh tới, rồi xe bệnh viện.
Chị đàn bà hết kiên nhẫn, băng qua phía Lạc sơn để tìm hỏi người khác. Nam hỏi người đi đường:
- Ðầu đuôi ra làm sao hở bác?
- Tui chẳng rõ. Lúc tui tới họ đã chở nó đi rồi. Nghe nói nó vừa đào ngũ về, nhậu say đem xâu tai người ra hù bà bán nem rồi cười.
Nam thầm chắp vá các mảnh “nghe nói” lại và nàng xanh mặt hãi hùng. Nàng hiểu vì sao ông Văn ngất xỉu phải chở về nhà bằng xe cyclo, và vì sao đột nhiên ông xưng mày tao với con cái. Nàng đứng dí một chỗ, tay chân tự nhiên run lẩy bẩy. Nam thầm thì:
- Mô Phật! Sao nó dám làm thế! Ai bày vẽ cho nó cái trò ghê tởm? Ai xúi giục nó, thằng con hoang không bao giờ biết mệt! Mô Phật! Xin Ðức Phật Bà Quan Thế Âm cứu nó ra khỏi biển trầm luân. Nước mắt Nam chảy dài trên má. Tại sao những “người thân” của nàng gặp hết tai ương này đến tội nghiệt khác. Tường còn nằm đó như nạn nhân của bọn ác, còn Lãng thì trở thành một tên giết người. Nghiệp chướng của gia đình mình đây sao? Trở về nói gì với ba má bây giờ? Nàng sợ phải làm cái nhiệm vụ báo tin dữ và chứng kiến khuôn mặt hãi hùng đau đớn của mẹ. Xin Đức Quan Thế Âm giúp cho con thêm can đảm!
Nàng không về nhà ngay. Xuống khỏi cầu Gia hội, nàng rẽ vào chùa. Sư bà tiếp nàng ở nhà hậu. Sư bà dịu dàng gọi pháp danh của Nam hỏi:
- Có việc gì lên chùa tối vậy Diệu Hạnh?
° ° °
Nàng đã quì xuống ôm gối Sư bà khóc nức nở. Nàng vừa gạt nước mắt vừa kể giữa những tiếng nấc nỗi xót xa khi thấy Tường thân thể bầm dập dưới đòn hội chợ, rồi chưa kịp mừng vui, nàng lại phải chứng kiến cái tội nghiệt tày trời của đứa em hoang đàng. Kiếp trước con đã làm nên nghiệp chướng gì để kiếp này con khổ đến thế này? Càng kể lể nàng càng thấy mình phải làm điều gì đó để chuộc lỗi cho cả gia đình, để gieo mầm phúc cho quãng đời còn lại.
Chỉ một mình nàng đầy đủ đức hỉ xả và hy sinh để làm chuyện ấy! Cha mẹ nàng đã khổ cực suốt đời để nuôi nấng dạy dỗ anh em Nam. Anh Ngữ làm trai bận bịu cái nợ lính. Con Quế bộc tuệch chưa hiểu thế nào là nhân là quả, là họa,“là phúc của lẽ đời. Lãng gây tội nghiệt đến mức ấy! Ðiểm lại một vòng, chỉ còn nàng có đủ cơ duyên tạo phúc cho cả nhà. Nàng ngây ngất với ý tưỏng làm kẻ hy sinh cho hạnh phúc người thân yếu. Nam run run thưa với Sư bà:
- Con xin thí phát để cúng dường chư Phật, xin chư Phật thấy rõ lòng thành của con để cứu thoát em con ra khỏi biển trầm luân!
Nam về nhà khoảng chín giờ tối. Ngữ đã biết tin dữ liền chạy lên tiểu khu nhờ bạn thân bên quân cảnh hỏi cho rõ sự việc rồi mới tính cách gỡ. Mẹ nàng đang nằm thiêm thiếp rên rỉ như người hấp hối. Bây giờ chính ông Văn lại tìm các cớ vu vơ để thuyết phục vợ tin rằng có thể có sự lầm lẫn nào đó. Hai vợ chồng thấy Nam trùm tấm khăn nâu, ban đầu ngơ ngác không hiểu gì. Khi hiểu, bà Văn ôm Nam khóc nức nở. Ông Văn thì bậm môi lại, mắt nhìn lên trần nhà để cố ngăn những giọt lệ!
° ° °
Ngữ mất cả buổi tối mới biết đại khái đầu đuôi câu chuyện. Tiểu đoàn Dù của Lãng vừa thất trận ở vùng rừng phía tây Ái tử nên đám tàn quân vừa thoát chết được chở về Ðông hà chờ bổ sung lực lượng. Đây là trận đầu của Lãng, và những gì cậu trải qua hãi hùng quá, hãi hùng hơn trí tưởng tượng dựa theo các phim chiến tranh và phim cao bồi Lãng được xem ở Huế nhiều. Trong phim tuy nhân vật chính là bọn cướp giết người không hề nhíu mày, nhưng trước khi dẫn nhau ra đường đấu súng với nhau, giữa thanh thiên bạch nhật, lão chủ quán rượu béo phệ còn có thì giờ thu lại chai rượu thừa và nhận đủ tiền rượu, anh Do thái mũi khoằm chủ tiệm hòm còn thì giờ chùi bóng hàng hóa chuẩn bị xuất kho. Giờ lâm tử được báo trước bằng điệu nhạc dồn dập chát chúa tiếng thanh la hoặc mấy phút yên lặng nghẹt thở. Lãng cũng cầm súng quyết đấu, nhưng kẻ thù không hiện diện rõ ràng. Rừng dày âm u. Muỗi vắt. Đói khát. Bãi đấu không được phát quang và vào những lúc bất ngờ nhất như dừng chân lại thở hoặc ngả lưng chờ cho gô nước sôi pha trà uống thuốc sốt rét, đột nhiên tắc cù một phát. Một “con” ngã. Thân thể oằn lên một cái, tay chân co giật chút xíu, rồi hết. Không có nhạc dạo mà cũng không có chuông chiêu hồn. Lãng thất vọng não nề, oán trách bọn làm phim lưu manh chuyên dụ dỗ con nít vào những cuộc thanh toán hấp dẫn. Hành quân liên tiếp hai tuần lễ mà chưa bao giờ tiểu đoàn Dù của Lãng tận mặt nhìn thấy kẻ thù. Giá chúng chịu theo đúng luật giang hồ, gửi thư hẹn giờ ở bãi đất trống, rồi hai bên theo từng đôi một mang súng Colt-12 và K-54 hiên ngang bước ra khỏi rừng, một bên bập điếu Tam Đảo một bên bập điếu Ruby Quân tiếp vụ, đến cách nhau khoảng bốn mươi thước thì dừng lại. Khẩu K-54 kềnh càng kéo trễ cái nịt nhựa mầu nâu hiệu Trung cộng. Khẩu Colt-12 bám chặt vào đai nịt Mỹ. Hai bên nhìn nhau chờ phát súng lệnh, hai bàn tay nắm chặt vào thắt lưng. Rồi giờ phút nghiêm trọng đến. Hai phát súng nổ nhưng chỉ có một cái xác ngã xuống. Giá được như thế thì Lãng đâu có đào ngũ. Cuộc chiến tranh ngoài đời chán phè, khổ như chó mà chết lảng nhách. Về Đông hà, Lãng dốc hết túi uống rượu, rồi lận súng lục vào lưng dù về Huế. Một ông bạn nhậu mới quen ở quán rượu Đông hà biếu xâu tai người phơi khô cho Lãng làm bùa. Hắn hứa lần sau nếu chịu chi cho hắn nhậu một bữa đã thật đã như hôm nay, hắn sẽ biếu cho một cái mật Việt cộng. Lãng khâm phục ông bạn mới ra mặt. Ðây rồi. Đúng là trang hảo hớn cở Steve McQueen hay Charles Bronson trong phim Mỹ.
Lãng đeo xâu tai người dưới lần áo mai-dô bẩn, thú vị vì cảm giác nhột nhạt mỗi lần cúi xuống bị xâu tai khô cọ nhẹ vào da ngực. Lãng ngây ngất khi chợt nghĩ lúc nào cũng có mười lăm kẻ vô danh áp tai lên ngực lắng nghe nhịp đập trái tim mình. Có lẽ những chàng cao bồi Mỹ đứng trước kẻ thù chưa bao giờ được hưởng cái cảm giác kỳ lạ thần bí như Lãng được hưởng.
Về đến Huế, trong túi Lãng không còn một xu. Cậu vừa mệt, chán, lại vừa thèm rượu. Qua khu Lạc sơn, Lãng ngập ngừng. Một phần vì không biết phải giấu xâu tai người ở đâu trước khi về nhà, một phần vì mùi nem nướng bốc lên ngào ngạt thơm tho. Lãng muốn xài cái xâu tai khô lần cuối trước khi vứt xuống gầm cầu Gia hội. Cậu gọi nem lu bù, rượu bia uống tì tì hết chai này đến chai khác. Lãng cần say để đủ bạo trả tiền nem và rượu bằng thứ tiền đặc biệt.
Lãng say mèm nên thay vì chỉ cởi nút áo rằn ri ra lấy xâu tai dọa chị bán nem rồi bỏ đi (như các bạn của Lãng trả tiền rượu bằng cách bỏ lọt trái lựu đạn vào đáy cốc), cậu lại mang lủng lẳng xâu tai khô để bô lô ba la làm hề. Ông Văn bắt gặp Lãng đúng vào lúc Lãng đang chọc cười thiên hạ bằng cái trò chơi lạ mắt ấy. Ông về rồi, thì có một bác cyclo giàu Phật tâm bạo gan bước đến lên lớp cho thằng say một thôi dài. Lãng nghe tiếng được tiếng mất. Bác phu cyclo trỏ xâu tai người bảo làm như vậy là gieo mầm ác cho cả họ. Lãng lại tưởng ông ta định cướp của quí của mình. Từ lúc Lãng rút dao cho đến lúc bác cyclo ngã xuống vì bị đâm chếch một nhát vào bả vai, có lẽ không được vài cái tích tắc.
Ngữ thu thập được bấy nhiêu dữ kiện nhờ người bạn tối hôm ấy trực tại phòng quân cảnh tư pháp. Lãng giã rượu ngay từ khi bị xe quân cảnh hốt chở về đồn, và cậu đổ mồ hôi run lập cập khi nhớ lại những điều đã làm. Lãng vừa khóc vừa khai hết, không giấu diếm điều gì. Lãng còn năn nỉ anh quân cảnh thụ lý hồ sơ xin đừng báo tin cho gia đình biết chuyện ô nhục. Lãng rối rít nói:
- Em lạy anh. Anh cứ đánh em đi, cứ còng cả hai chân hai tay em rồi bỏ đói em đi. Nhưng em lạy anh, đừng cho ba má em biết. Em lỡ dại lần đầu!
Người bạn của Ngữ cũng cho biết trường hợp của Lãng sẽ rắc rối. Bộ chỉ huy lực lượng Nhảy Dù đặt tại Sài gòn, và tiểu đoàn của Lãng chỉ là một đơn vị đặc nhiệm được tăng phái cho quân đoàn Một để thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Theo qui chế quân pháp, phải thông báo cho đơn vị gốc của Lãng, rồi sau khi lập hồ sơ ban đầu, phải chuyển hết các giấy tờ về Sài gòn cho Nha Quân pháp, và nếu cứ theo thủ tục thông thường, binh phạm không còn ở quân lao Huế được bao lâu nữa. Lãng lại phạm nhiều tội một lúc: phạm quân kỷ về tác phong, đào ngũ, và cố ý đả thương (may mắn là chưa trí mạng). Hình luật dự liệu án phạt tối thiểu hai năm, tối đa có thể đến hai mươi năm khổ sai hoặc chung thân. Cái kẹt cho Lãng là cuộc hành quân chưa chấm dứt, cho nên tội đào ngũ trở nên trầm trọng. Đào ngũ giữa lúc chiến đấu, ai cũng biết, có thể bị xử bắn tại mặt trận.
Ngữ nghe người bạn rành luật pháp nói xong, lòng cứ bàng hoàng. Cái khó cho chàng là khả năng giao tế của Ngữ kém quá. Chàng biết đó là một khuyết điểm lớn lao khiến nhiều lúc thay vì thong dong đi theo lối tắt, chàng phải tháo mồ hôi leo lên cho hết cái bậc thang của cổng chính. Chàng đã trải qua nhiều kinh nghiệm nên không có ảo tưỏng hoặc lầm lẫn chút nào về việc đó. Cùng một công việc, với cùng một số điều kiện hạn chế, bạn chàng giải quyết sao mà dễ dàng! Giải quyết khơi khơi như đi dạo phố chiều thứ bảy. Nội khuôn mặt tươi vui và cách pha trò lém lỉnh của bạn chàng đã đáng đồng tiền rồi. Họ đi đâu cũng tạo cho bối cảnh chung quanh sự thoải mái, buông thả, gần như không có điều gì là quan hệ trên đời nữa. Họ rút thuốc mời anh lính gác, khen cậu ta đẹp trai dù nước da cậu đen như cột nhà cháy. Rồi vỗ vai gọi “cưng” ngọt xớt. Cậu lính gác dẫn bạn chàng đi một lúc, chưa đầy mười lăm phút sau, bạn chàng đã bá vai ông chức sắc liên hệ, “toa toa moa moa” dẫn ra quán cà phê trước công sở rồi. Cuộc thương lượng ngã ngũ ngay buổi chiều ở quán nhậu, với một giá tiền rẻ bằng nửa giá tiền xe đi về để Ngữ nghiêm chỉnh đàng hoàng giải quyết theo lối cửa chính.
Nhiều lần suy nghĩ, Ngữ nhận thấy cái thất bại lớn nhất của đời chàng, là chàng nghiêm chỉnh quá. Gương mặt chàng đáng lý phải mang kính trắng như Tường, nghề nghiệp chàng phải là nghề giáo như Tường. Khuôn mạt già trước tuổi ấy thật xứng đôi với bộ đi chậm rãi trầm tĩnh. Ngữ ít cười, thật bậy! Không phải chàng không tìm ra cái đáng cười trên đời. Ngược lại, căn cứ vào vài cái truyện ngắn chàng đăng trên báo Sài gòn, nhiều nhà phê bình tiên đoán chàng sẽ tiến xa nếu chịu theo thể loại châm biếm, hoạt kê. Nhưng Ngữ không dễ dãi trong cách cười cợt. Chàng thấy trong hầu hết trường hợp, các bạn quảng giao của chàng cười một cách lãng xẹt, cười thật vô duyên, đó là chưa kể những cái cười nịnh, cười ruồi, cười cầu cạnh, cười vuốt đuôi. Chàng cũng nghiêm chỉnh trong cách đánh giá người lạ. Khi chưa quen biết nhiều (mà Ngữ thường đưa tiêu chuẩn: phải “quen” người ít ra là năm, sáu năm mới thực sự “biết” họ), Ngữ cho mọi người đều đáng trọng, đáng kính nể về tài năng, đạo đức. Nếu như vậy, làm sao dám hạ thấp người ta khi đem một chầu cà phê, một bữa nhậu ra làm quà lót đường cho được việc! Người ta nắm quyền hành, lâu nay tiếp xúc quá nhiều hạng người đến cầu cạnh, người ta có mù đâu mà không biết anh định nhờ vả điều gì. Chưa nhờ vả mà đã “đấm mõm” người ta bằng ăn uống thô tục, thật quá lắm! Ở trường hợp Ngữ, nếu ai la cà đến gần chàng nhờ vả theo kiểu đó, nhất định chàng sẽ lừ mắt rồi đấm một quả vào cái mồm ba hoa thô tục ấy. May mắn cho đời là Ngữ chưa làm được chức gì có quyền để có người nhờ vả!
Lâu nay Ngữ chỉ nhờ vả người khác theo lối chính thức, với cái lưng thẳng và đôi mắt nghiêm trọng. Người ta lễ phép nghiêm trang tiếp chàng, lễ phép nghiêm trang nêu ra một số nguyên tắc bất khoan nhượng và rất nhiều khó khăn về thủ tục, rồi lễ phép nghiêm trang cho chàng một giấy hẹn. Hôm sau đúng hẹn đến, lại được một người nhã nhặn xin lỗi rồi đưa một lời hẹn khác.
Cho nên Ngữ rất ái ngại khi thấy ông Văn đặt hết tin tưởng vào đứa con trai nhà binh. Khi biết rõ tự sự, hai ông bà tìm được một cái cớ để xoa dịu nỗi đau và lo:
- Cũng may không phải chính nó đi cắt được chừng ấy cái tai người. Người ta cho nó thôi.
- Nó trẻ con ham lạ nên mới dại dột. Bản tính Lãng không đến nỗi thế!
Rồi ông Văn moi óc tìm ra được nhiều kẽ hở của vụ án để len lén qua mặt pháp luật: nào Lãng bỏ về Huế lúc đơn vị đã rã hàng và đang chờ bổ sung quân số, nghĩa là không phải lúc đang mặt đối mặt với quân thù; nào Lãng chưa đủ mười tám tuổi nên không thể dựa vào các luật lệ xử cho người lớn; nào bác cyclo chỉ bị thương nhẹ ở bả vai, vết thương sâu không quá một phân và nếu chịu khó thương lượng, gia đình ấy có thể bãi nại với điều kiện… Ngữ đem các lời của cha đi hỏi người bạn quân cảnh. Anh cử nhân luật bị động viên lại biểu diễn kiến thức uyên bác bằng cách dẫn chứng một lô án lệ của tòa quân sự mặt trận vùng Một, vùng Hai, vùng Ba, vùng Bốn. Ngữ chán nản ra về, tuy vụ tai tiếng của Lãng làm khơi dậy nơi chàng một thứ bão tố nội tâm vừa phức tạp vừa xót xa. Chính thời đó chàng viết được cái truyện ngắn đặc sắc mà về sau các nhà phê bình vẫn xem là cái mốc chuyển hướng của văn nghiệp chàng, chuyển từ tính chất lãng mạn thuần cảm sang khuynh hướng nhân bản phản chiến; từ “những đóa hồng dành tặng những người yêu nhau chuyển thành những vòng hoa cườm đặt lên mồ những người chơn chất giữa hai lằn đạn”. Bài “Tổng kết tình hình một năm tiểu thuyết” năm đó đã ví von như vậy về sự đổi thay trong Ngữ. Có lẽ phải nói nhiều hơn nữa về nguyên do sự đổi thay ấy!
° ° °
Ông bà Văn không ngờ đứa con gỡ được rối cho gia đình lại là Quế. Hai vợ chồng chưa quên tài xoay xở của Quế, lúc biến cửa hiệu sách ế thành một nơi tấp nập kẻ ra người vào. Nhưng việc này dính dấp đến luật pháp, đến những pho sách luật dày cộm và đáng sợ hơn nữa, là dính đến còng số tám, xe bít bùng, lính áp tải, vành móng ngựa, nhà tù. Nam yếu đuối chỉ làm mỗi một việc có ý nghỉa là thí phát để mong cứu chuộc tội lỗi của đứa em hoang. Ngữ chạy đi chạy về nhiều bận, mỗi lần về gặp ông Văn, chàng gỡ được vài cái nút để đồng thời mang thêm cho cha nhiều cái nút thắt cứng, cho nên càng ngày ông Văn càng nóng ruột, hết tin ở con. Ngữ định đem cái truyện ngắn cô đọng xúc cảm và suy tưởng của chàng về tấm thảm kịch gia đình đưa cho cha xem, ngầm phân bua rằng khả năng của chàng nên xài ở môi trường khác.
Bắt Ngữ ra vào chỗ cửa công là đã dùng phải sở đoản của chàng. Nhưng thấy cha mất ăn mất ngủ vì vụ Lãng, Ngữ đổi ý. Chàng không dám đưa cho cha đọc!
Quế nhìn thẳng vào vụ rắc rối và mau chóng tìm ra mối gỡ. Nàng hỏi Ngữ:
- Ðeo xâu tai người có bị ra tòa không?
Ngữ rụt rè đáp:
- Có lẽ không. Vấn đề chỉ là lương tâm, thuộc phạm vi siêu hình…
Quế không muốn nghe anh nói lôi thôi dài dòng, hỏi liền:
- Nếu thằng Lãng không say rượu đâm người ta, nó bị phạt nặng nhẹ thế nào?
- Lúc ấy thì khác hẳn. Rắc rối chỉ vì có máu đổ. Nếu không, quá lắm là bị phạt vài ngày cấm trại.
Quế cười tự tin:
- Nếu lỡ đổ máu rồi thì băng bó cho nó cầm máu lại. Người ta chịu thương lượng không?
Ông Văn đáp thay Ngữ:
- Gia đình bác ấy nghèo, lại là Phật tử nên không muốn làm to chuyện. Có lẽ nếu bù đắp được tiền thuốc và khoảng thời gian không đi xe được, họ có thể bãi nại.
Quế lắc đầu, ngờ vực:
- Không giản dị đâu ba! Mỗi lần có dịp như vậy là hàng trăm quân sư quạt mo tự nguyện nhảy vào thúc giục, xúi người trong cuộc đòi hết chuyện này đến chuyện khác. Mình càng tỏ vẻ yếu thì họ đòi càng dữ.
Cả ông Văn lẫn Ngữ đều phải công nhận Quế nói đúng. Họ nhìn Quế với đôi mắt kính nể hơn.
Quế nói tiếp:
- Mình càng nhún nhường chân thật trong những vụ thế này thì càng thua thiệt. Con thấy không ai sợ bồ câu cả. Mình phải tìm cái lốt ó. Ba ơi…
Nói đến đây, Quế dừng lại, ánh mắt nhìn ông Văn e ngại.
Ông Văn hỏi:
- Con định nói gì?
- Hôm trước con nghe Quỳnh Như nó nói hình như ông Toàn thầu khoán là chú của trung tướng Tôn Thất Đính, phải vậy không ba?
- Ba có nghe, nhưng không tin lắm. Ông ấy thì ai đang phất cờ không phải là người nhà ông ấy. Trước đây bị tù chỉ vì cái miệng.
- Nhưng ông ấy tên Tôn thất Toàn mà ba!
- Thì cứ cho là thực đi. Tại sao lại hỏi sang chuyện ông Toàn?
- Ông ấy lập ra cái gì… để con nhớ lại xem. Cái gì bắt đầu bằng chữ “hoàng gia”…
Ngữ cười nhắc:
- Royal Youth Club. Câu lạc bộ Thanh niên Hoàng gia.
- Dạ đúng rồi. Con nghe nói độ này các câu lạc bộ ấy thu được nhiều hội viên lắm. Hội trường đặt ở một cái phủ cạnh sông An cựu. Nhiều sĩ quan cao cấp cũng đến vì có nhảy nhót…
Ông Văn mất kiên nhẫn hỏi gắt:
- Con dài dòng chuyện đó để làm gì?
Quế đỏ mặt sợ cha chê, nhưng vẫn nói:
- Thằng Lãng cũng là hội viên Câu lạc bộ hoàng gia đó ba! Ba cứ nhờ anh Mân con bác Toàn can thiệp, chắc thế nào cũng xong. Mình chỉ lo tiền thuốc thang cho bác cyclo. Nếu nghe nói người nhà trung tướng Đính, họ không dám đòi cao đâu!
Ngữ trố mắt nhìn đứa em gái. Chàng không ngờ Quế nhìn đúng và rõ thực chất cuộc đời như vậy. Lâu nay chàng vẫn tự hào ngầm rằng mình viết tiểu thuyết tức là làm một “đấng tạo hóa nhỏ”, dựng lên nhân vật, mớm cho nói, xúi họ yêu nhau hay bắt họ xa nhau, khi vui cho họ cười, khi buồn buộc họ khóc thay, muốn được cái khả năng tái dựng cuộc sống đó, trước hết phải hiểu phải thấy được thực chất của cuộc sống. Chàng lầm lẫn quá lắm. Lâu nay chàng chỉ dựng được những “ý niệm biết cười khóc múa may”, vì chưa hiểu được nghĩa thực của cuộc đời, chưa lạnh lùng soi thấu mặt thật của kẻ khác. Chàng thua xa Quế em gái chàng. Nó gỡ rối được vụ Lãng, chàng tin chắc như vậy!
Những Đợt Sóng Ngầm Những Đợt Sóng Ngầm - Nguyễn Mộng Giác