Tháng Tám
aravaggio xuống thang lầu trong bóng tối rồi vào nhà bếp. Ít cần tây trên bàn, vài củ cải rễ vẫn còn bùn đất. Ánh sáng duy nhất phát ra từ ngọn lửa Hana vừa nhóm. Nàng quay lưng lại phía anh và chưa nghe tiếng chân anh vào. Những ngày ở tòa villa đã làm thân thể anh thư thái, giải tỏa căng thẳng cho anh, vì thế anh dường như to lớn hơn, những cử chỉ của anh dềnh dàng hơn. Chỉ có sự thầm lặng trong chuyển động của anh vẫn như cũ. Mặt khác, bây giờ anh có một vẻ cẩu thả, cử chỉ của anh thành uể oải.
Anh kéo chiếc ghế ra để nàng quay lại, nhận ra anh đang ở trong phòng.
“Chào chú David.”
Anh giơ cánh tay lên. Anh cảm thấy anh đã ở trong sa mạc quá lâu.
“Ông ấy thế nào?”
“Đang ngủ. Nói đến kiệt sức.”
“Ông ấy có phải là người chú nghĩ không?”
“Ông ấy là người tốt. Chúng ta có thể để ông ấy yên.” “Cháu cũng nghĩ thế. Kip và cháu đều chắc chắn ông ấy
là người Anh. Kip nghĩ những người tốt nhất đều có tính lập dị, anh ấy đã làm việc chung với một người như thế.”
“Chú nghĩ Kip cũng lập dị. Cậu ấy đang ở đâu thế?”
“Anh ấy đang mưu tính chuyện gì ngoài hàng hiên, không muốn cháu ra ngoài ấy. Tiệc mừng sinh nhật cháu.” Đang co ro bên khung sắt lò sưởi, Hana đứng dậy, lau bàn tay vào cánh tay bên kia.
“Để mừng sinh nhật cháu chú sẽ kể cho cháu nghe một câu chuyện nhỏ”, anh nói.
Nàng nhìn anh.
“Không phải là chuyện về Patrick, nhé?” “Một chút về Patrick, đa số là về cháu.”
“Cháu vẫn chưa nghe được những chuyện ấy, chú David.”
“Những người cha rồi sẽ chết. Cháu vẫn sẽ yêu ông ấy theo cách của cháu. Cháu không thể giấu cha trong lòng.”
“Chừng nào chất morphine tan đi thì chú hãy nói chuyện với cháu.”
Nàng đến bên anh và quàng tay quanh người anh, nhón chân hôn lên má anh. Vòng tay anh siết chặt quanh người nàng, bộ râu lún phún của anh như cát trên da nàng. Bây giờ nàng yêu điều ấy ở anh; trước kia anh lúc nào cũng quá chỉnh trang. Patrick từng nói đường ngôi trên tóc anh như Đường Yonge lúc nửa đêm. Trước kia Caravaggio di chuyển như một vị thần linh trước mặt nàng. Bây giờ, khi khuôn mặt, thân mình của anh đầy đặn ra và mái tóc ngả màu muối tiêu, anh là một người thân thiện hơn.
Bữa ăn tối nay do anh công binh sửa soạn. Caravaggio không háo hức cho lắm. Đối với anh, một trong ba bữa ăn ngày hôm nay coi như đã mất. Kip tìm rau cỏ, bày chúng ra gần như chưa nấu, chỉ đun chúng sôi lên một lúc thành súp. Lại thêm một bữa ăn thanh đạm, không phải là bữa ăn Caravaggio mong ước sau một ngày lắng nghe người đàn ông trên lầu. Anh mở tủ dưới bồn rửa chén. Ở đấy, bọc trong một miếng vải ẩm, là một ít thịt khô. Caravaggio cắt thịt và bỏ vào túi.
“Cháu có thể giúp chú bỏ morphine, chú biết mà. Cháu là một y tá giỏi.”
“Chung quanh cháu là những người đàn ông điên rồ…”
“Vâng. Cháu nghĩ tất cả chúng ta đều điên.”
Khi Kip gọi, họ bước từ bếp ra hàng hiên có lan can thấp bằng đá, viền quanh là những ngọn đèn.
Với Caravaggio, chúng trông như một chuỗi nến điện tìm thấy trong những nhà thờ bụi bặm, và anh nghĩ anh công binh lấy chúng đi là quá đáng, cho dù anh lấy vì sinh nhật của Hana chăng nữa. Tay che mặt, Hana bước chậm về phía trước. Trời lặng gió. Hai chân và đùi nàng chuyển động qua chiếc váy của nàng như thể lớp vải là nước loãng. Giày tennis của nàng êm lặng trên mặt đá.
“Anh đào ở đâu cũng thấy vỏ ốc”, anh công binh nói.
Họ vẫn chưa hiểu. Caravaggio cúi xuống những ánh đèn nhấp nháy. Chúng là những vỏ ốc đựng dầu. Anh nhìn theo dãy đèn; chắc phải có khoảng bốn mươi vỏ.
“Bốn mươi lăm”, Kip nói, “số năm của thế kỷ này tính cho đến nay. Ở quê hương tôi, chúng tôi ăn mừng thời đại cũng như ăn mừng chính mình”.
Hana đi bên cạnh họ, hai tay trong túi áo, và Kip thích nhìn dáng nàng bước như thế. Rất thoải mái, tựa hồ nàng đã cất đôi tay đi nghỉ đêm, và bây giờ chuyển động đơn giản, không có tay.
Caravaggio bị phân tâm vì sự hiện diện đáng kinh ngạc của ba chai rượu vang đỏ trên bàn. Anh bước đến, đọc nhãn hiệu và lắc đầu sửng sốt. Anh biết anh công binh sẽ không uống chút rượu nào. Cả ba chai đã được khui. Chắc hẳn Kip đã đọc một cuốn sách về phép xã giao trong thư viện. Rồi anh nhìn thấy bắp và thịt và khoai tây. Hana khoác tay Kip và cùng anh đến bàn.
Họ ăn uống, độ sánh không ngờ của rượu vang như vị thịt trên lưỡi họ. Không bao lâu họ trở nên ngớ ngẩn trong những lần nâng ly chúc mừng anh công binh - “người thu lượm tài hoa” - và bệnh nhân người Anh. Họ nâng ly mừng nhau, và Kip tham dự với ly nước của anh. Đây là lúc Kip bắt đầu nói về mình. Caravaggio giục Kip nói thêm, tuy không phải lúc nào anh cũng lắng nghe Kip, đôi khi đứng dậy và bước quanh bàn, đi qua đi lại trong niềm vui của buổi tiệc. Anh muốn đôi trẻ thành hôn, muốn dùng lời ép buộc chúng, nhưng dường như chúng có những lề luật lạ lùng riêng về quan hệ của mình. Anh đang làm gì trong vai trò này. Anh lại ngồi xuống. Thỉnh thoảng anh để ý thấy một ngọn đèn tắt đi. Những vỏ ốc chỉ chứa được từng ấy dầu. Kip đứng dậy và đổ đầy paraffin hồng vào chúng.
“Chúng ta phải giữ đèn thắp cho đến nửa đêm.”
Rồi họ nói về cuộc chiến xa vời vợi. “Khi chiến tranh với Nhật kết thúc, cuối cùng tất cả mọi người có thể về nhà”, Kip nói. “Còn cậu thì sẽ đi đâu?” Caravaggio hỏi. Anh công binh lúc lắc đầu, nửa gật, nửa lắc, miệng mỉm cười. Vì thế Caravaggio bắt đầu nói, phần lớn cho Kip nghe.
Con chó thận trọng đến bên cạnh cái bàn và đặt đầu lên gối của Caravaggio. Anh công binh xin nghe những câu chuyện Toronto khác, như thể đấy là một nơi chốn diệu kỳ.
Tuyết nhận chìm thành phố, đóng băng bến cảng, người ta nghe hòa nhạc trên phà vào mùa hè. Nhưng điều anh thật sự chú ý là những manh mối về bản chất của Hana, mặc dù nàng lẩn tránh, hướng Caravaggio ra khỏi các câu chuyện có những giây phút của cuộc đời nàng. Nàng muốn Kip chỉ biết nàng trong hiện tại, một người có lẽ nhiều khuyết điểm hơn hoặc đồng cảm nhiều hơn hoặc cứng rắn hơn hoặc điên cuồng hơn cô gái hoặc người phụ nữ trẻ trước kia là nàng. Trong đời nàng có mẹ nàng Alice cha nàng Patrick mẹ kế nàng Clara và Caravaggio. Nàng đã thừa nhận những cái tên này với Kip như thể chúng là giấy tờ chứng minh của nàng, hồi môn của nàng. Họ toàn bích và không cần phải bàn thảo thêm. Nàng dùng họ như tài liệu trong một cuốn sách nàng có thể mở ra tìm chỉ dẫn về cách luộc trứng, hoặc cách nhét tỏi vào thịt cừu. Không ai được hạch hỏi họ.
Bây giờ - vì đang rất say - Caravaggio kể câu chuyện Hana hát bài Marseillaise, câu chuyện anh đã kể cho nàng nghe trước kia. “Vâng, tôi đã nghe bài ấy”, Kip nói, và thử hát nó. “Không được, anh phải hát lớn lên”, Hana nói, “anh phải vừa đứng vừa hát!”.
Nàng đứng dậy, cởi đôi giày tennis rồi leo lên bàn. Trên bàn, cạnh đôi chân trần của nàng, là bốn ngọn đèn vỏ ốc chập chờn gần tắt.
“Em hát cho anh đây. Anh phải tập hát nó như thế này đây, Kip. Em hát cho anh đây.”
Nàng hát to lên vào bóng tối phía bên ngoài những ngọn đèn vỏ ốc, bên ngoài khung ánh sáng hình vuông từ phòng bệnh nhân người Anh, vào bầu trời tối có những bóng cây bách nghiêng ngả. Nàng rút hai tay khỏi túi áo.
Kip đã nghe bài hát này trong những trại lính, do những nhóm đàn ông hát, thường trong những giờ phút kỳ lạ, chẳng hạn như ngay trước một trận túc cầu tùy hứng. Còn Caravaggio, khi anh nghe nó trong những năm chiến tranh vừa qua, anh không bao giờ thật sự thích nó, không bao giờ thích nghe nó. Trong lòng anh là giọng hát của Hana từ bao năm trước. Bây giờ anh thích thú lắng nghe vì nàng lại hát nó, nhưng niềm vui của anh nhanh chóng thay đổi vì cách nàng hát. Không phải nỗi đam mê của tuổi mười sáu mà là âm vang của vòng ánh sáng ngại ngần chung quanh nàng trong bóng tối. Nàng hát nó như thể nó sứt sẹo, như thể người ta không bao giờ còn có thể gom được tất cả hy vọng của bài hát. Nó đã bị biến đổi trong năm năm dẫn đến đêm hôm nay, sinh nhật hai mươi mốt của nàng trong năm bốn mươi lăm của thế kỷ XX. Hát bằng giọng người lữ khách mỏi mệt, một mình chống chọi tất cả. Một chứng thực mới. Không còn vẻ quyết chắc trong bài hát, người hát chỉ là một giọng ca đối đầu mọi ngọn núi quyền lực. Đấy là điều chắc chắn duy nhất. Giọng hát là điều duy nhất chưa bị phá hỏng. Một bài hát của đèn vỏ ốc. Caravaggio nhận ra nàng đang hát cùng, và vang vọng lại, trái tim của anh công binh.
Trong lều có những đêm không chuyện trò và những đêm tràn đầy chuyện trò. Họ không bao giờ biết chắc điều gì sẽ xảy đến, mảnh quá khứ của ai sẽ hiện ra, hoặc vuốt ve có trở nên vô danh và thầm lặng trong bóng tối của họ không. Sự gần gũi của thân thể nàng hoặc khối ngôn ngữ của nàng trong tai anh - trong lúc họ nằm trên cái gối hơi anh nhất định thổi phồng lên và dùng mỗi tối. Anh đã mê sáng chế Tây phương này. Anh ngoan ngoãn xì hơi và xếp nó làm ba mỗi buổi sáng, như anh đã làm trong suốt thời gian anh đi dọc lên đất Ý.
Trong lều Kip dụi vào cổ nàng. Anh tan chảy khi những móng tay nàng gãi trên da anh. Hoặc anh kề miệng anh vào miệng nàng, bụng anh áp vào cổ tay nàng.
Nàng ca hát và âm ư. Trong bóng tối của lều, nàng nghĩ anh nửa phần là chim - tính chất lông vũ trong anh, lớp sắt lạnh ở cổ tay anh. Khi nào anh ở trong bóng tối như thế với nàng, cử động của anh ngái ngủ, không hẳn nhanh nhẹn như thế giới bên ngoài, trong khi dưới ánh sáng ban ngày anh lướt qua tất cả mọi thứ hỗn độn chung quanh anh, như màu sắc lướt trên màu sắc.
Nhưng ban đêm anh thích uể oải. Nàng không thể nhìn thấy trật tự và nguyên tắc của anh nếu nàng không nhìn thấy đôi mắt anh. Không có chìa khóa nào mở được anh. Chỗ nào nàng chạm vào cũng là những khung cửa ngôn ngữ braille. Như thể những cơ quan, trái tim, hàng xương sườn, có thể nhìn thấy dưới làn da, nước bọt trên tay nàng bây giờ là màu sắc. Anh đã vẽ bản đồ cho nỗi buồn của nàng nhiều hơn bất cứ người nào khác. Cũng như nàng biết con đường tình yêu lạ lùng anh dành cho người anh nguy hiểm của anh. “Bọn anh có dòng máu lang thang. Thế nên đối với bản chất của anh ấy, bị giam là khó khăn nhất, và anh ấy có thể tự tử để được tự do.”
Trong những đêm chuyện trò, họ đi trên đất nước có năm dòng sông của anh. Sutlej, Jhelum, Ravi, Chenab, Beas. Anh dẫn nàng vào ngôi đền lớn của đạo Sikh, cởi giày nàng, ngắm nàng khi nàng rửa chân, quàng đầu. Chỗ họ vào được xây năm 1601, bị xâm phạm năm 1757, rồi được xây lại ngay sau đó. Năm 1830 người ta khảm vàng và cẩm thạch. “Nếu anh đưa em đến trước bình minh, thoạt tiên em sẽ thấy sương mù trên mặt nước. Rồi sương tan để lộ đền thờ trong ánh sáng. Em sẽ nghe thấy những bài ca của các vị thần - Ramananda, Nanak và Kabir. Ca hát là tâm điểm của sùng bái. Em nghe bài ca, em ngửi thấy mùi trái cây trong vườn của đền thờ - trái lựu, trái cam. Đền thờ là nơi nương náu trong dòng lũ cuộc đời, mở cửa cho tất cả mọi người. Nó là con tàu băng qua đại dương ngu muội.”
Họ đi trong đêm, qua cánh cửa bạc đến đền thờ nơi cuốn Sách Thánh nằm dưới màn trướng bằng gấm thêu. Ca đoàn ragis hát những đoạn trong Sách, được các nhạc công đệm theo. Họ hát từ bốn giờ sáng đến mười một giờ đêm. Cuốn Granth Sahib được mở ra ngẫu nhiên, một câu trích dẫn được chọn, và trong ba giờ, trước khi sương tan trên mặt hồ để lộ đền Vàng, những đoạn sách hòa vào nhau, đong đưa trong tiếng đọc không ngừng.
Kip đi với nàng bên một cái ao nhỏ đến đền cây, nơi chôn Baba Gujhaji, giáo sĩ đầu tiên của đền. Một cái cây của lòng mê tín, già bốn trăm năm mươi tuổi. “Mẹ anh đến đây để buộc một sợi dây vào cành cây, cầu khẩn cây xin một đứa con trai, rồi khi anh của anh sinh ra, bà trở lại để xin được ban thêm một đứa nữa. Khắp Punjab có những cây thiêng và nước nhiệm màu.”
Hana im lặng. Anh biết chiều sâu bóng tối trong nàng, thiếu thốn đứa con cũng như lòng tin. Anh luôn vỗ về nàng trở về từ bìa những cánh đồng u buồn của nàng. Một đứa con mất đi. Một người cha mất đi.
“Anh cũng đã mất một người giống như cha vậy”, anh đã nói thế. Nhưng nàng biết người đàn ông bên cạnh nàng là một trong những người được ban phép, đã lớn lên như một người ngoài cuộc nên có thể đổi lòng trung, có thể thay thế mất mát. Có những người bị bất công tiêu hủy và có những người không bị. Nếu nàng hỏi anh, anh sẽ nói anh đã có một cuộc đời tốt đẹp - dù anh của anh ở trong tù, đồng đội của anh bị nổ tung, anh liều mạng mỗi ngày trong cuộc chiến tranh này.
Mặc dù những người như vậy tốt bụng, họ là một bất công ghê gớm. Anh có thể ở dưới hố đất sét cả ngày để gỡ ngòi một trái bom có thể giết anh bất cứ lúc nào, có thể về nhà từ đám tang của một người lính công binh đồng đội, sinh lực anh buồn rầu, nhưng với bất cứ thử thách nào chung quanh, anh luôn có giải đáp và ánh sáng. Nhưng nàng không thấy gì cả. Với anh, có những tấm bản đồ định mệnh khác nhau, và ở đền thờ bên hồ Amritsar, tất cả tín ngưỡng và đẳng cấp đều được chào đón và ăn cùng nhau. Chính nàng cũng sẽ được phép đặt tiền hoặc hoa lên tấm vải trải trên sàn nhà và tham dự vào tiếng ca hát không ngơi.
Nàng ước mong điều ấy. Tính hướng nội của nàng là một nỗi buồn tự nhiên. Anh sẽ để nàng vào bất cứ cổng nào trong mười ba cánh cổng cá tính, nhưng nàng biết nếu anh bị nguy hiểm anh sẽ không bao giờ quay lại đối diện nàng. Anh sẽ tạo ra một khoảng không gian chung quanh mình và tập trung. Đấy là kỹ năng của anh. Anh nói người Sikh giỏi về kỹ thuật. “Bọn anh có sự gần gũi bí ẩn… cái gì nhỉ?” “Sự đồng cảm.” “Đúng thế, sự đồng cảm với máy móc.”
Anh sẽ lạc lõng giữa họ trong nhiều giờ, điệu nhạc trong máy radio tinh thể nện vào trán anh và vào tóc anh. Nàng không tin nàng có thể hướng về anh hoàn toàn, làm người tình của anh. Anh chuyển động với một vận tốc cho phép anh thay thế mất mát. Đấy là bản chất của anh. Nàng sẽ không xét đoán anh vì chuyện ấy. Nàng có quyền gì đâu. Mỗi sáng Kip ra đi với cái túi da đeo trên vai trái, bước trên lối đi rời villa San Girolamo. Mỗi sáng nàng nhìn anh, nhìn có thể là lần cuối cùng vẻ tươi mới của anh đối với thế giới. Sau vài phút, anh sẽ nhìn lên hàng bách tơi tả vì mảnh đạn pháo, những cành ở lưng chừng đã bị đạn pháo làm gẫy. Pliny chắc cũng đã bước trên một con đường như thế này, hoặc Stendahl, vì những đoạn trong Tu viện thành Parma cũng xảy ra trong khu vực này của thế giới.
Kip sẽ ngước nhìn lên, vòng cung của những cây cao bị thương phía trên anh, con đường trước mặt anh từ thời Trung cổ, và anh, một chàng trai trong nghề nghiệp lạ lùng nhất mà thế kỷ của anh đã sáng chế ra, một anh công binh, một kỹ sư quân đội, rà và gỡ mìn. Mỗi sáng anh hiện ra từ trong lều, tắm và mặc quần áo trong vườn, rời tòa villa và khu lân cận, thậm chí không vào nhà - có thể vẫy tay nếu anh nhìn thấy nàng - như thể ngôn ngữ, nhân tính sẽ làm anh rối rắm, sẽ giống như máu chui lọt vào trong bộ máy anh cần phải hiểu. Nàng sẽ nhìn thấy anh ở quãng trống trên lối đi, cách căn nhà bốn mươi mét.
Đấy là giây phút anh để tất cả họ lại sau lưng. Lúc cầu kéo đóng lại sau lưng người hiệp sĩ và anh chỉ còn một mình với nỗi an bình của tài năng nghiêm nhặt của chính mình. Ở Siena nàng đã nhìn thấy một bức bích họa. Một bức vẽ thành phố. Vài mét bên ngoài những bức tường thành phố, lớp sơn của người họa sĩ đã tróc ra, thế nên không có cả sự yên ổn của nghệ thuật để mang lại vườn cây ăn trái trong những dặm đường xa cho người lữ khách đang rời lâu đài. Nàng cảm thấy đó là nơi Kip đi đến trong ngày. Mỗi sáng anh sẽ bước từ khung cảnh trong tranh đến những vách đá tăm tối của hỗn loạn. Người hiệp sĩ. Vị thánh chiến sĩ. Nàng sẽ nhìn thấy bộ quân phục khaki thấp thoáng qua hàng bách. Ông người Anh đã gọi anh là fato profugus - kẻ bị định mệnh săn đuổi. Nàng đoán rằng, đối với anh, những ngày này bắt đầu bằng niềm vui được ngước mắt nhìn lên hàng cây.
Họ đã đưa lính công binh đến Naples bằng máy bay đầu tháng Mười năm 1943, chọn những người giỏi nhất trong những đội công binh ở miền Nam nước Ý, Kip là một trong ba mươi người được đưa vào thành phố bị gài mìn.
Quân Đức ở chiến trường Ý đã sắp xếp một trong những cuộc rút quân xuất sắc và kinh khủng nhất trong lịch sử. Cuộc tiến quân của Đồng Minh, đáng lẽ mất một tháng, kéo dài một năm. Lối đi của họ bốc lửa. Lính công binh theo sát vạt chắn bùn của những chiếc xe tải trong khi các đội quân tiến tới, mắt họ tìm kiếm những vết xáo trộn mới trên đất, dấu hiệu mìn chôn hoặc mìn thủy tinh hoặc mìn giày. Cuộc tiến quân chậm ghê gớm. Xa hơn về phía bắc trong vùng núi, phe đảng của những nhóm cộng sản Garibaldi đeo những chiếc khăn tay đỏ làm hiệu cũng gài thuốc nổ trên đường, thuốc nổ sẽ phát nổ khi xe tải Đức cán qua.
Mức đặt mìn ở Ý và Bắc Phi thật khó tưởng tượng. Ở chỗ nối hai đường Kismaayo-Afmadu, người ta tìm thấy 260 trái mìn. Trong vùng cầu sông Omo có 300 trái mìn. Trong ngày 30 tháng Sáu, năm 1941, lính công binh Nam Phi gài 270 trái mìn Mark II ở Mersa Matruh. Bốn tháng sau người Anh gỡ 7806 trái mìn ở Mersa Matruh và gài chúng ở nơi khác.
Mìn được chế tạo bằng mọi thứ. Ống nước mạ kền đường kính bốn mươi phân được đổ đầy thuốc nổ rồi để lại trên đường quân đội đi qua. Mìn trong những hộp gỗ để lại trong các căn nhà. Mìn ống nước được đổ đầy gelignite, mảnh vụn kim loại và đinh. Lính công binh Nam Phi nhồi sắt và gelignite vào thùng xăng mười bốn lít thành loại mìn có thể hủy diệt xe bọc sắt.
Tệ nhất là trong thành phố. Những đơn vị gỡ bom, huấn luyện sơ sài, được chở bằng tàu thủy từ Cairo và Alexandria. Sư đoàn Mười Tám trở nên nổi tiếng. Trong ba tuần của tháng Mười năm 1941, họ gỡ 1403 trái bom có sức nổ mạnh.
Tình trạng ở Ý còn tệ hơn châu Phi, cơ cấu đồng hồ trong ngòi bom lập dị đến hãi hùng, cơ quan khởi động bằng lò xo khác với các bom Đức được dạy trong huấn luyện. Khi lính công binh vào các thành phố, họ bước trên những đại lộ có xác chết treo trên cây hoặc ban công của các tòa nhà. Quân Đức thường trả đũa bằng cách giết mười người Ý cho mỗi người Đức bị giết. Vài xác treo bị gài mìn và phải cho nổ trên không.
Quân Đức rút khỏi Naples ngày 1 tháng Mười, năm 1943. Trong một trận tấn công của quân Đồng Minh vào tháng Chín trước đấy, hàng trăm người dân đã bỏ đi và bắt đầu sống trong những hang động ngoài thành phố. Trong khi rút lui, quân Đức giội bom vào những cửa động, buộc dân chúng phải ở lại dưới đất. Một trận dịch sốt phát ban bộc phát. Trong bến cảng, những tàu bị đục thủng đáy vừa mới bị gài mìn bên dưới mặt nước.
Ba mươi lính công binh bước vào thành phố đầy những cạm bẫy. Bom nổ chậm gắn vào tường của những tòa nhà công cộng. Gần như tất cả các xe đều bị gài bom. Lính công binh vĩnh viễn trở nên nghi ngại với những vật dường như vô tình được đặt trong một căn phòng. Họ nghi ngờ mọi vật họ nhìn thấy trên bàn, trừ phi nó được đặt theo hướng “bốn giờ”. Nhiều năm sau chiến tranh, lính công binh để một cây bút mực lên bàn sẽ đặt đầu to hơn của nó theo hướng bốn giờ.
Naples tiếp tục là vùng chiến trong sáu tuần và Kip ở đấy cùng đơn vị công binh trong suốt thời gian ấy. Sau hai tuần, lính công binh tìm thấy dân chúng trong những hang động. Da của họ đen sạm vì phân và sốt phát ban. Đoàn người đi về bệnh viện thành phố là một đám rước ma.
Bốn ngày sau, bưu điện trung ương nổ tung, bảy mươi hai người bị chết hoặc bị thương. Bộ sưu tập văn thư về thời Trung cổ phong phú nhất của châu Âu đã bị cháy rụi trong viện lưu trữ thành phố.
Ngày 20 tháng Mười, ba ngày trước khi điện được phục hồi, một người Đức ra đầu hàng. Hắn bảo chính quyền rằng trong khu bến cảng của thành phố có hàng ngàn bom gắn liền với hệ thống điện ngưng hoạt động. Khi điện được bật lên, thành phố sẽ tan vào lửa. Hắn bị tra hỏi hơn bảy lần, với những mức độ khéo léo và tàn bạo khác nhau - nhưng cuối cùng chính quyền vẫn không chắc chắn về lời tự thú của hắn. Lần này cả thành phố di tản. Trẻ con và người già, người sắp chết, người mang thai, người đã được đem ra khỏi hang động, thú vật, các xe jeep có giá trị, binh lính bị thương rời bệnh viện, bệnh nhân tâm thần, cha xứ và tu sĩ và ma sơ rời tu viện. Đến hoàng hôn ngày 22 tháng Mười, năm 1943, chỉ còn mười hai người lính công binh ở lại.
Theo dự định, điện sẽ được bật lên vào lúc ba giờ sáng hôm sau. Trước đấy, không một ai trong nhóm lính công binh đã từng ở trong một thành phố bỏ trống, và những giờ này sẽ là những giờ khắc kỳ lạ và bối rối nhất trong cuộc đời họ.
Trong những buổi chiều tối, bão sấm chớp kéo qua vùng Tuscany. Sét đánh bất cứ vật kim loại hoặc tháp nhọn nào nhô lên trên cảnh vật. Ngày nào Kip cũng trở về tòa villa theo con đường màu vàng giữa hai hàng cây bách vào khoảng bảy giờ tối, khi tiếng sấm, nếu có, bắt đầu. Một kinh nghiệm thời Trung cổ.
Hình như anh thích những thói quen tạm thời ấy. Nàng hoặc Caravaggio sẽ nhìn thấy hình dáng anh xa xa, dừng chân trên đường về để ngoái nhìn thung lũng xem cơn mưa còn cách anh bao xa. Hana và Caravaggio trở vào nhà. Kip tiếp tục đi nửa dặm lên đồi, trên lối đi hơi lượn về bên phải rồi từ từ về bên trái. Tiếng giày bốt của anh trên lớp sỏi. Từng luồng gió xô vào anh, đập ngang thân cây bách, khiến chúng chao đi, vào tay áo của anh.
Trong mười phút kế tiếp anh bước đi, không chắc mưa có bắt kịp anh hay không. Anh sẽ nghe tiếng mưa trước khi anh cảm thấy nó, tiếng lách tách trên mặt cỏ khô, trên lá cây olive. Nhưng lúc này thì anh đang ở phía trước của trận bão, trong luồng gió lộng tươi mát của ngọn đồi.
Nếu mưa bắt kịp anh trước khi anh đến tòa villa, anh sẽ tiếp tục bước cùng nhịp độ, cài tấm áo choàng cao su vào ba lô rồi đi bên trong chiếc áo.
Trong lều, anh nghe tiếng sấm rền. Những tiếng rắc giòn của nó trên đầu, như tiếng bánh xe ngựa trong lúc nó biến vào những ngọn núi. Một ánh chớp chói lọi thình lình rọi qua lớp vải lều, đối với anh hình như lúc nào nó cũng rực rỡ hơn ánh nắng, một ánh chớp lân tinh, một thứ giống máy móc, liên quan đến một chữ mới anh đã nghe trong những phòng lýthuyết và qua radio tinh thể của anh, chữ “hạt nhân”. Trong lều, anh tháo tấm khăn xếp ướt, lau khô tóc và quấn tấm khăn xếp khác lên đầu.
Cơn bão cuộn khỏi Piedmont, đi về phía nam và phía đông. Sét đánh những tháp chuông của các nhà thờ nhỏ trên núi với những hoạt cảnh tả Những đoạn đường Thập Gias[101] hoặc Những điều bí nhiệm của Tràng Hạt[102]. Trong thị trấn nhỏ Varese và Varallo, những tượng đất nung lớn hơn người thật đúc từ thế kỷ XVII được chiếu rọi trong phút chốc, tả cảnh trong Thánh Kinh. Chúa Jesus đang bị hành hình, hai cánh tay trói giật ra sau, ngọn roi giáng xuống, con chó sủa, ba người lính trong hoạt cảnh nhà thờ kế tiếp giơ cây thập giá cao hơn về phía những đám mây vẽ.
Ở địa điểm của nó, villa San Girolamo cũng nhận được những khoảnh khắc ánh sáng như thế - những hành lang tối, phòng ông người Anh nằm, căn bếp nơi Hana đang nhóm lửa, giáo đường nhỏ bị đạn pháo - tất cả bỗng sáng lên, không còn hình bóng. Kip sẽ không ngại ngùng bước đi dưới cây cối trong khoảnh vườn của anh khi có những cơn bão như thế, nguy cơ bị chết vì sét đánh nhỏ nhoi đến đáng thương so với những hiểm nguy trong cuộc sống thường ngày của anh. Những hình ảnh Thiên Chúa giáo ngây thơ trong những đền đài trên sườn đồi anh đã nhìn thấy ở cùng anh trong khoảng không gian tranh tối tranh sáng, trong lúc anh đếm số giây giữa sấm và sét. Có lẽ tòa villa này là một hoạt cảnh tương tự, bốn người trong những cử động riêng tư, được rọi sáng trong thoáng chốc, đã bị ném vào cuộc chiến này một cách mỉa mai.
Mười hai lính công binh ở lại Naples tản ra trong thành phố. Suốt đêm họ phá vỡ những đường hầm bịt kín, leo xuống ống cống, tìm những đường dây ngòi nổ có thể nối liền với máy phát điện trung tâm. Theo dự định, họ sẽ lái xe đi lúc hai giờ sáng, một giờ trước khi điện được bật lên.
Một thành phố mười hai người. Mỗi người trong một khu vực thành phố khác nhau. Một người ở chỗ máy phát điện, một người ở hồ chứa nước, vẫn còn lặn xuống nước - chính quyền tin chắc rằng lũ lụt sẽ gây ra sự tàn phá. Cách gài mìn một thành phố. Sự thinh lặng là đáng sợ nhất. Tiếng động duy nhất của thế giới loài người họ nghe thấy là tiếng chó sủa và giọng chim hót vọng ra từ cửa sổ những căn chung cư phía trên mặt đường. Khi đến giờ bật điện, anh sẽ vào một căn phòng có con chim. Một thứ thuộc về loài người trong khoảng trống không này. Anh đi ngang qua Museo Archeologico Nazionale[103], những tàn tích của Pompeii và Herculaneum để ở đấy. Anh đã nhìn thấy con chó thời xưa đông cứng trong lớp tro màu trắng.
Anh bật ngọn đèn công binh màu đỏ buộc vào cánh tay trái của anh trong khi bước đi, nguồn sáng duy nhất trên đường Strada Carbonara. Anh mệt nhoài vì cuộc lùng kiếm ban đêm, và bây giờ hình như chẳng còn chuyện gì để làm. Mỗi lính công binh đều có máy truyền tin, nhưng chỉ được dùng nó trong trường hợp có khám phá khẩn cấp. Anh mệt mỏi nhất vì sự thinh lặng ghê sợ trong những khoảng sân vắng vẻ và những bồn nước phun khô cạn.
Lúc một giờ sáng, anh lần dấu đến giáo đường San Giovanni a Carbonara bị hư hại, anh biết trong ấy có một nhà nguyện Tràng hạt nhỏ. Anh đã bước xuyên qua giáo đường vài buổi tối trước đấy, khi sét rọi sáng bóng tối, và anh đã nhìn thấy những hình người to lớn trong bức hoạt cảnh. Một thiên thần và một phụ nữ trong phòng ngủ. Bóng tối thay vào cảnh tượng ngắn ngủi ấy, và anh ngồi trên một chiếc ghế dài chờ đợi, nhưng không còn cảnh nào hiện ra nữa.
Bây giờ anh tiến vào góc giáo đường ấy, với những tượng đất nung tô màu như những người da trắng. Hoạt cảnh diễn tả một phụ nữ đang nói chuyện với một thiên thần trong phòng ngủ. Mái tóc xoăn màu nâu của người phụ nữ lộ ra dưới chiếc áo khoác rộng màu xanh, những ngón tay trái của bà chạm vào lồng ngực mình. Khi anh bước vào căn phòng, anh nhận ra mọi thứ đều lớn hơn thật. Đầu của anh không cao hơn vai của người phụ nữ. Cánh tay thiên thần giơ lên cao đến năm mét. Dù thế, đối với Kip họ là bầu bạn. Đấy là một căn phòng có người, và anh bước đi trong cuộc thảo luận của những tạo vật này, miêu tả một chuyện ngụ ngôn về loài người và thiên đàng.
Anh chuồi túi da khỏi vai và đối diện cái giường. Anh muốn nằm lên đấy, ngập ngừng chỉ vì sự hiện diện của thiên thần. Anh đã đi vòng quanh hình dáng thiên thần, để ý thấy những bóng đèn bụi bám gắn sau lưng hình dáng ấy bên dưới đôi cánh sẫm màu, và anh biết cho dù anh ước muốn anh cũng không thể ngủ dễ dàng trong sự hiện diện của một hình dáng như thế. Trong hoạt cảnh có ba đôi dép, một điểm tế nhị của người dựng cảnh, thấp thoáng bên dưới cái giường. Lúc ấy khoảng một giờ bốn mươi sáng.
Anh trải tấm áo khoác của mình trên sàn, ép dẹp túi da làm gối rồi nằm xuống mặt đá. Phần lớn tuổi thơ của anh ở Lahore, anh ngủ trên một tấm chiếu trên sàn phòng ngủ của anh. Thật ra anh chưa bao giờ quen với giường kiểu Tây phương. Anh chỉ dùng một tấm nệm mỏng và một cái gối hơi trong lều của mình, còn lúc ở Anh quốc khi anh ở cùng Huân tước Suffolk, anh ngột ngạt chìm vào tấm nệm mềm nhão, nằm kẹt cứng ở đấy, thức cho đến khi anh bò ra để nằm ngủ trên thảm.
Anh duỗi người ra bên cái giường. Anh để ý những đôi dép cũng lớn hơn thật. Chân của dân Amazon thì vừa dép ấy. Trên đầu anh là cánh tay phải ngập ngừng của người phụ nữ. Dưới chân anh là thiên thần. Không bao lâu nữa, một lính công binh sẽ bật điện thành phố lên, và nếu anh nổ tung, anh sẽ nổ tung cùng với hai nhân vật này. Hoặc là họ sẽ chết, hoặc là họ sẽ an toàn. Dù sao đi nữa, anh chẳng còn làm gì thêm được nữa. Anh đã thức cả đêm, săn tìm lần cuối những chỗ giấu thuốc nổ và đạn nổ chậm. Những bức tường sẽ sụp đổ chung quanh anh, hoặc anh sẽ bước đi trong một thành phố sáng đèn. Ít nhất anh đã tìm thấy những hình dáng phụ mẫu này. Anh có thể thoải mái trong cuộc đối thoại bằng dáng điệu này.
Anh kê tay dưới đầu, nhận ra vẻ cứng rắn trên mặt thiên thần trước đây anh không nhìn thấy. Đóa hoa trắng thiên thần đang cầm đã lừa mỵ anh. Thiên thần cũng là chiến sĩ. Trong chuỗi tư tưởng này, anh nhắm mắt và đầu hàng sự mệt mỏi.
Anh xoải tay chân với một nụ cười mỉm trên khuôn mặt, như thể nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng được ngủ, cảm giác xa xỉ của một điều như thế. Lòng bàn tay trái của anh úp xuống mặt bê tông. Màu khăn xếp của anh giống màu ren cổ áo của Mary.
Dưới chân bà, anh công binh nhỏ bé người Ấn mặc quân phục nằm bên cạnh sáu chiếc dép. Dường như nơi này không có thời gian. Mỗi người trong số họ đã chọn một tư thế thoải mái nhất để quên đi thời gian. Người khác sẽ nhớ đến chúng ta như thế. Trong nỗi êm ấm, với nụ cười mỉm, khi chúng ta tin tưởng ngoại vật chung quanh. Bây giờ, với Kip bên chân hai dáng hình, hoạt cảnh gợi ý một cuộc tranh cãi về số phận của anh. Cánh tay đất nung giơ lên để ngừng hình xử, một hứa hẹn tương lai tốt đẹp cho người sinh ra ở ngoại quốc đang ngủ như một đứa trẻ. Ba người gần đến điểm quyết định, thỏa thuận.
Dưới lớp bụi mỏng, khuôn mặt thiên thần mang một niềm vui mãnh liệt. Lưng thiên thần gắn sáu bóng đèn, hai bóng đã bị hỏng. Dù vậy, sự kỳ diệu của dòng điện bỗng nhiên thắp sáng đôi cánh thiên thần từ bên dưới, vì thế màu đỏ máu và màu xanh và màu vàng của những cánh đồng mù tạc rực lên sống động trong buổi chiều muộn.
Bây giờ trong tương lai, bất kỳ Hana ở đâu, nàng cũng cảm nhận thân hình Kip chuyển động theo cuộc sống của nàng. Trí nàng lặp lại chuyển động ấy. Con đường anh lao qua giữa họ. Khi anh biến thành hòn đá im lặng giữa họ. Nàng nhớ tất cả mọi điều trong ngày tháng Tám ấy - bầu trời như thế nào, những vật trên bàn trước mặt nàng tối đi trong tiếng sấm.
Nàng nhìn thấy anh trên cánh đồng, hai tay ôm đầu, rồi nhận ra cử chỉ ấy không phải vì đau đớn mà vì anh cần ôm sát headphone vào đầu. Anh cách nàng một trăm mét trong cánh đồng bên dưới khi nàng nghe một tiếng thét thoát ra khỏi thân thể anh, thân thể chưa bao giờ nói lớn giọng giữa họ. Anh quỵ gối, như thể bị gẫy đôi. Anh lặng yên như thế, rồi chậm chạp đứng dậy và đi chéo về phía lều của anh, vào lều và đóng vạt lều. Có tiếng sấm lắc rắc khô giòn và nàng thấy hai cánh tay nàng tối lại.
Từ cái lều, Kip hiện ra với khẩu súng trường. Anh vào villa San Girolamo, lướt qua nàng, di chuyển như một trái banh thép trong máy arcade[104], qua khung cửa rồi lên cầu thang từng ba bậc một, hơi thở anh đều đặn, giày bốt của anh đụng vào vách đứng của những bậc thang. Nàng nghe tiếng chân anh đi dọc hành lang trong khi nàng tiếp tục ngồi ở bàn trong bếp, cuốn sách trước mặt nàng, cây bút chì, những vật này đông lại và ngả bóng trong ánh sáng trước cơn bão.
Anh vào phòng ngủ. Anh đứng ở chân giường của bệnh nhân người Anh.
Chào cậu công binh.
Báng súng tì vào ngực anh, dây đeo súng vòng quanh cánh tay gập thành hình tam giác của anh.
Chuyện gì xảy ra bên ngoài thế?
Kip trông như kẻ tội đồ, tách biệt ra ngoài thế giới, khuôn mặt nâu của anh đang khóc. Thân hình anh xoay đi, bắn vào bồn nước phun cổ, và lớp vữa tường tung bụi lên giường. Anh xoay lại để khẩu súng trường chĩa vào ông người Anh. Anh bắt đầu run rồi cả người anh gắng kềm chế cơn run rẩy ấy.
Để cây súng xuống, Kip.
Anh va mạnh lưng vào tường và ngừng run rẩy. Bụi vữa tường lơ lửng trong không gian chung quanh họ.
Này chú, tôi đã ngồi ở chân giường này và lắng nghe lời ông. Những tháng vừa qua. Khi tôi còn bé tôi đã làm thế, y như thế. Tôi tin rằng tôi có thể rót đầy vào mình những gì người lớn dạy tôi. Tôi tin rằng tôi có thể mang theo kiến thức ấy, dần dà thay đổi nó, nhưng dù sao đi nữa cũng sẽ truyền đạt nó cho một người khác.
Tôi lớn lên cùng những truyền thống của quê hương tôi, nhưng sau này, thường là với những truyền thống từ quê hương của ông. Hòn đảo trắng mỏng manh với những tập tục và cách cư xử và sách vở và trường lớp và lý lẽ, bằng cách nào đấy đã biến đổi cả thế giới. Các ông là mẫu mực của cách xử sự chuẩn xác. Tôi biết, nếu tôi nhấc một tách trà với ngón tay không đúng tôi sẽ bị cấm cửa. Nếu tôi thắt nút cà vạt không đúng kiểu tôi sẽ bị loại. Phải chăng các ông có quyền lực như thế chỉ vì những chiếc tàu thủy? Phải chăng, như anh của tôi nói, vì các ông có lịch sử và máy in ấn?
Các ông rồi người Mỹ đã biến đổi chúng tôi. Với những phép tắc truyền giáo của các ông. Những người lính Ấn phí hoài cuộc đời họ làm anh hùng để họ có thể là pukkah[105]. Các ông gây chiến như chơi cricket. Làm thế nào các ông lừa được chúng tôi vào chuyện này? Đây… hãy nghe chuyện các ông đã làm.
Anh quăng khẩu súng trường lên giường rồi đến bên ông người Anh. Chiếc radio tinh thể treo bên hông anh, gắn vào thắt lưng. Anh gỡ nó ra và đặt headphone lên cái đầu đen đúa của người bệnh, ông nhăn mặt vì da đầu đau đớn. Nhưng anh công binh để headphone lại trên đầu ông. Rồi anh bước về chỗ cũ và cầm khẩu súng lên. Anh thấy Hana ở cửa.
Một trái bom. Rồi một trái bom nữa. Hiroshima. Nagasaki. Anh xoay khẩu súng về vòm cửa sổ. Con chim ưng trong vùng không gian của thung lũng dường như cố tình trôi vào chữ V của ống nhắm. Nếu anh khép mắt lại, anh nhìn thấy những đường phố châu Á ngập lửa. Lửa cuộn qua những thành phố như tấm bản đồ bùng nổ, ngọn cuồng phong hơi nóng chạm vào làm khô héo những thân người, trong không gian đột nhiên in bóng dáng loài người. Cơn rúng động của trí tuệ phương Tây.
Anh nhìn bệnh nhân người Anh, đang đeo headphone, mắt hướng vào nội tâm, lắng nghe. Điểm nhắm của khẩu súng trường chuyển từ cái mũi gầy xuống trái cổ, trên xương đòn gánh. Kip ngưng thở. Hai tay gập lại chính xác thẳng góc ôm khẩu súng trường Enfield. Không lay chuyển.
Rồi đôi mắt của ông người Anh nhìn lại anh.
Cậu công binh.
Caravaggio vào phòng, vươn tay về phía Kip, và Kip xoay báng súng vào sườn anh. Cái tát bằng chân của một con thú. Thế rồi, như thể đang tiếp tục cùng một cử động, anh trở về vị trí cũ, tay gập lại thẳng góc trong tư thế của đội quân xử bắn, tư thế đã ăn sâu vào anh trong những trại lính khác nhau ở Ấn và Anh quốc. Cái cổ bị bỏng ở trong tầm nhắm của anh.
Kip, nói chuyện với tôi đi.
Bây giờ khuôn mặt anh là một con dao. Anh nén những giọt lệ vì kinh ngạc và hoảng sợ, nhìn mọi thứ, mọi người chung quanh anh theo một cách khác. Đêm có thể xuống giữa họ, sương có thể rơi, và đôi mắt nâu đậm của chàng trai sẽ nhìn ra kẻ thù mới lộ hình.
Anh của tôi đã bảo tôi. Đừng ơ hờ với châu Âu. Bọn giao dịch. Lũ sắp xếp giao kèo. Bọn vẽ bản đồ. Anh ấy nói đừng bao giờ tin dân châu Âu. Đừng bao giờ bắt tay họ. Nhưng chúng tôi, ôi chao, chúng tôi dễ lóa mắt - vì những bài diễn văn, huy chương và lễ nghi của các ông. Những năm vừa qua tôi đã làm gì? Cắt đi, gỡ đi những tay chân ma quỷ. Để làm gì? Để cho chuyện này xảy ra ư?
Chuyện gì thế? Lạy chúa Jesus, cậu nói đi!
Tôi để cái radio lại cho ông, để ông nuốt lấy bài học lịch sử của ông. Đừng động đậy nữa, Caravaggio. Tất cả những bài diễn văn của nền văn minh từ vua và nữ hoàng và tổng thống... những tiếng nói của trật tự trừu tượng. Hãy ngửi đi.
Hãy nghe radio và ngửi mùi ăn mừng trong ấy. Ở nước tôi, khi người cha bẻ gẫy công lý, người cha bị giết.
Cậu không biết người đàn ông này là ai.
Điểm nhắm của khẩu súng không rời cần cổ bị bỏng. Rồi anh công binh chuyển hướng nó lên đôi mắt của người đàn ông.
Cậu bắn đi, Almásy nói.
Đôi mắt của anh công binh và người bệnh gặp nhau trong căn phòng chập choạng tối giờ đây đầy chật thế gian.
Ông gật đầu với anh công binh. Cậu bắn đi, ông trầm tĩnh nói.
Kip bật băng đạn ra khỏi súng, chụp nó khi nó bắt đầu rơi xuống. Anh ném khẩu súng lên giường, một con rắn đã phun hết nọc độc. Anh nhìn thấy Hana ở đâu đó bên lề mọi chuyện.
Người đàn ông bị bỏng gỡ headphone ra khỏi đầu mình, chậm chạp đặt chúng xuống trước mặt. Rồi bàn tay trái của ông với lên kéo máy trợ thính ra, thả nó xuống sàn.
Bắn đi, Kip. Tôi không muốn nghe nữa.
Ông nhắm mắt. Trôi vào bóng tối, xa khỏi căn phòng.
Anh công binh dựa vào tường, hai bàn tay nắm lại, cúi đầu. Caravaggio có thể nghe thấy tiếng mũi anh hít thở không khí, nhanh và mạnh như một ống thụt.
Ông ấy không phải là người Anh.
Người Mỹ, người Pháp, tôi không cần biết. Khi các ông bắt đầu thả bom những dân tộc da nâu của thế giới, thì các ông là người Anh. Các ông có Vua Leopold của Bỉ và giờ đây các ông có tên khốn kiếp Harry Truman của Mỹ. Tất cả các người học hỏi từ người Anh.
Không đúng. Không phải ông ấy. Lầm rồi. Trong tất cả mọi người ông ấy có lẽ ở bên phe của cậu đấy.
Anh ấy sẽ bảo điều ấy không quan trọng, Hana nói.
Caravaggio ngồi xuống ghế. Anh nghĩ, anh lúc nào cũng ngồi trên chiếc ghế này. Trong phòng có tiếng eo éo từ máy radio tinh thể, vẫn nói bằng giọng như bị ngộp nước. Anh không thể quay nhìn anh công binh hoặc nhìn về phía hình dáng lờ mờ là chiếc áo đầm của Hana. Anh biết người lính trẻ nói đúng. Họ sẽ không bao giờ thả trái bom như thế xuống một quốc gia da trắng.
Anh công binh bước ra khỏi phòng, bỏ Caravaggio và Hana lại bên cạnh giường. Anh đã bỏ lại ba người trong thế giới của họ, không còn là tên lính canh của họ nữa. Trong tương lai, nếu và khi nào người bệnh chết đi, Caravaggio và cô gái sẽ chôn cất ông. Cứ để người chết chôn người chết. Anh chưa bao giờ biết chắc câu ấy có nghĩa là gì. Mấy chữ trơ tráo trong Thánh Kinh ấy.
Họ sẽ chôn tất cả ngoại trừ cuốn sách. Thân thể, khăn trải giường, quần áo, cây súng trường. Không lâu sau, chỉ còn lại một mình Caravaggio với Hana. Và động cơ của tất cả chuyện này là từ máy radio. Một biến cố phát ra từ làn sóng ngắn. Một cuộc chiến mới. Cái chết của một nền văn minh.
Đêm tĩnh mịch. Anh có thể nghe tiếng những con cú đêm, tiếng kêu xa xôi của chúng, tiếng cánh đập khi chúng xoay hướng. Hàng cây bách vươn cao phía trên lều của anh, đứng yên trong đêm lặng gió. Anh ngả lưng nằm xuống, nhìn chăm chăm vào góc tối của căn lều. Khi anh nhắm mắt, anh nhìn thấy lửa, người ta lao vào những dòng sông vào những hồ chứa nước để tránh lửa hoặc hơi nóng đốt cháy mọi thứ trong giây phút, tất cả những gì họ níu giữ, da tóc của họ, thậm chí làn nước họ lao vào. Trái bom rực rỡ được mang bằng máy bay vượt đại dương, qua mặt trăng ở phương Đông, về quần đảo màu xanh. Rồi được thả xuống.
Anh chưa ăn uống gì, không thể nuốt nổi bất cứ cái gì. Trước khi nắng tắt, anh dọn sạch những vật dụng quân đội trong lều, dụng cụ gỡ bom, tháo tất cả huy hiệu trên quân phục. Trước khi nằm xuống, anh tháo khăn xếp, chải tóc và cột lại thành búi, rồi ngả lưng nằm, nhìn ánh sáng trên vải lều chầm chậm phai đi, mắt anh chăm chú nhìn tia sáng màu xanh cuối cùng, nghe gió lặng xuống rồi yên hẳn, nghe cánh của những con chim ưng kêu “thụp” khi chúng xoay hướng. Và tất cả những tiếng động tinh tế trong không gian.
Anh cảm thấy tất cả gió trên thế gian đã bị hút về châu Á. Anh bước đi xa dần nhiều trái bom nhỏ trong sự nghiệp của anh đến một trái bom dường như lớn bằng cỡ một thành phố, rộng lớn đến nỗi nó để người sống sót chứng kiến cái chết của dân số chung quanh họ. Anh không biết gì về trái bom. Anh không biết nó là một tấn công bất ngờ của kim loại và sự bùng nổ, hay không khí sôi bỏng trào đến và xuyên qua bất cứ thứ gì thuộc về con người. Anh chỉ biết là anh cảm thấy anh không thể để bất cứ thứ gì đến gần anh nữa, không thể ăn thức ăn hay uống từ một vũng nước trên mặt ghế đá ngoài hàng hiên nữa. Anh cảm thấy anh không thể rút một que diêm trong bao ra và thắp đèn, vì anh tin rằng ngọn đèn sẽ mồi lửa mọi thứ. Trong lều, trước khi ánh sáng tan đi, anh đã mang hình gia đình ra nhìn. Tên của anh là Kirpal Singh, và anh không biết anh đang làm gì ở đây.
Bây giờ anh đứng dưới hàng cây trong hơi nóng tháng Tám, không đội khăn xếp, chỉ mặc một cái kurta[106]. Tay không, anh chỉ đi dọc theo bờ giậu, đôi chân trần trên mặt cỏ hoặc sàn đá của hàng hiên hoặc tro của một đống lửa cũ. Thân thể anh thao thức, đứng trên bờ một thung lũng lớn của châu Âu.
Lúc sáng sớm nàng nhìn thấy anh đứng bên cạnh lều. Suốt buổi tối nàng đã dõi tìm ánh đèn trong đám cây cối. Tối hôm ấy mỗi người trong tòa villa ăn một mình, ông người Anh không ăn gì. Bây giờ nàng thấy cánh tay anh công binh quơ ra và những vách tường vải đổ sụp xuống, chồng chất lên nhau như một cánh buồm. Anh quay mình đi đến căn nhà, leo những bậc thang vào hàng hiên và biến mất.
Trong giáo đường nhỏ, anh đi qua những hàng ghế bị cháy về phía bệ thờ, nơi chiếc xe máy nằm bên dưới một tấm vải dầu được chặn xuống bằng những cành cây. Anh bắt đầu kéo tấm vải ra khỏi chiếc xe. Anh cúi xuống bên chiếc xe và bắt đầu xịt dầu vào những đĩa xích và răng cưa.
Khi Hana vào giáo đường nhỏ không nóc, anh đang ngồi đấy, dựa lưng và đầu vào bánh xe.
Kip.
Anh không nói gì, nhìn nàng mà không thấy nàng.
Kip, em đây mà. Chúng em có liên quan gì đến việc ấy đâu?
Trước mặt nàng anh là một hòn đá.
Nàng quỳ xuống ngang với anh rồi ngả vào người anh, nghiêng đầu tựa vào ngực anh, giữ yên như thế.
Một trái tim đang đập.
Khi anh vẫn bất động, nàng quỳ thẳng lại.
Ông người Anh có lần đọc cho em nghe một câu từ một cuốn sách: “Tình yêu nhỏ bé đến nỗi nó có thể chẻ mình qua một lỗ kim khâu”.
Anh quay đi, mặt anh dừng lại cách một vũng nước mưa vài phân.
Một chàng trai và một cô gái.
Trong khi anh công binh kéo chiếc xe ra từ dưới tấm vải dầu, Caravaggio nghiêng người qua lan can, cằm tựa vào cánh tay. Rồi anh cảm thấy anh không thể chịu nổi tâm trạng của căn nhà và bước đi. Anh không có mặt khi anh công binh rồ máy xe, ngồi lên xe trong lúc nó hơi chồm lên, sinh động bên dưới anh, Hana đứng gần bên.
Singh chạm vào cánh tay nàng, rồi để xe lăn bánh xuống triền dốc, và chỉ khi ấy mới lên ga cho xe chạy.
Caravaggio đang đợi anh giữa đường đến cổng, tay cầm khẩu súng. Khi Caravaggio bước ra cản lối anh, và chàng trai lái xe chậm lại, thậm chí Caravaggio không buồn giơ súng về phía chiếc xe. Caravaggio đến bên anh và quàng tay quanh người anh. Một vòng tay siết chặt. Lần đầu tiên anh công binh cảm thấy những sợi râu lún phún trên da mình. Anh cảm thấy bị kéo vào, thu gọn trong những bắp thịt. “Tôi sẽ phải học cách nhớ cậu”, Caravaggio nói. Rồi chàng trai lùi lại và Caravaggio đi về căn nhà.
Chiếc xe phóng vào khung cảnh chung quanh anh. Khói của chiếc Triumph và bụi và sỏi vụn rơi qua giữa hàng cây. Chiếc xe phóng qua vỉ song chắn gia súc ở cổng, rồi anh chạy vòng vèo xuống đồi ra khỏi làng, ngang qua mùi của những khu vườn hai bên đường, những khu vườn gắn mình vào triền dốc trong những góc độ bất trắc.
Thân hình anh ở một tư thế đã thành thói quen, ngực anh song song, gần như chạm vào bình xăng, hai cánh tay anh nằm ngang trong hình dáng ít cản gió nhất. Anh đi về hướng nam, tránh Florence hoàn toàn. Xuyên qua Greve rồi rẽ ngang đến Montevarchi và Ambra, những thị trấn nhỏ chiến tranh và cuộc tấn chiếm đã bỏ qua. Khi những ngọn đồi khác xuất hiện, anh bắt đầu leo lên sống lưng chúng về phía Cortona.
Anh đang di chuyển ngược chiều cuộc tấn chiếm, như đang quay ngược cuộn chỉ chiến tranh, con đường không còn căng thẳng vì quân đội. Anh chỉ đi những đường anh biết, nhìn thấy những thị trấn lâu đài quen thuộc xa xa. Anh nằm bất động trên chiếc Triumph, đang nóng lên bên dưới anh trong lúc nó lao đi trên những con đường làng. Anh không mang nhiều hành lý, đã bỏ lại tất cả vũ khí. Chiếc xe phóng qua từng làng, không chậm lại vì một thị trấn hay ký ức chiến tranh nào. “Trái đất sẽ ngả nghiêng như một gã say, và sẽ bị dời đi như một túp lều tranh.”[107]
Nàng mở ba lô của anh. Một khẩu súng lục bọc trong tấm vải dầu, tỏa mùi khi nàng mở ra. Bàn chải đánh răng và bột kem đánh răng, những hình phác họa bằng bút chì trong cuốn sổ tay, trong số ấy có một tấm vẽ nàng - nàng đang ngồi trên hàng hiên và anh nhìn xuống từ phòng của ông người Anh. Hai khăn xếp, một chai bột hồ. Một đèn công binh với dây quàng bằng da để đeo lúc khẩn cấp. Nàng bật đèn lên và ba lô ngập ánh sáng màu đỏ.
Trong các túi bên hông ba lô nàng tìm thấy những dụng cụ gỡ bom, nàng không muốn chạm vào chúng. Bọc trong một miếng vải nhỏ khác là ống máng kim loại nàng tặng cho anh, dùng để rút chất đường của cây thích ở quê hương nàng.
Từ trong căn lều sụp nàng lôi ra một tấm hình hẳn phải là hình gia đình anh. Nàng cầm tấm hình trong lòng bàn tay. Một người Sikh và gia đình của anh.
Người anh trai chỉ khoảng mười một tuổi trong bức hình này. Kip bên cạnh anh ta, tám tuổi. “Khi chiến tranh đến anh trai anh theo bất cứ phe nào chống lại người Anh.”
Cũng có một cuốn sách hướng dẫn nhỏ, trong ấy là sơ đồ những trái bom. Và hình vẽ một vị thánh có một nhạc sĩ đi kèm.
Nàng để mọi thứ lại chỗ cũ trừ tấm hình nàng cầm trong tay. Nàng mang cái túi qua cây cối, băng ngang hiên ngoài và mang nó vào nhà.
Cứ khoảng độ một giờ anh chậm lại rồi dừng xe, nhổ vào kính bảo hộ và lau bụi bằng tay áo sơ mi của anh. Rồi anh lại nhìn bản đồ. Anh sẽ đi đến vùng Adriatic, rồi về nam. Đa số quân đội đang ở biên giới phía bắc.
Anh lái xe lên đồi vào Cortona, giữa tiếng rít của máy xe đang rồ ga. Anh lái chiếc Triumph lên những bậc thềm ngoài cửa giáo đường rồi bước vào. Một pho tượng đứng đấy, bao quanh là giàn chống. Anh muốn đến gần khuôn mặt tượng hơn, nhưng anh không có ống nhắm của khẩu súng trường, và anh cảm thấy người cứng đơ không leo nổi lên giàn giáo. Anh lang thang bên dưới như một người không thể lọt vào bên trong căn nhà. Anh dẫn xe xuống những bậc thềm giáo đường, rồi đổ dốc qua những vườn nho tan nát và đi tiếp đến Arezzo.
Ở Sansepolcro, anh rẽ vào con đường núi ngoằn ngoèo, vào làn sương mù trong núi, vì thế anh phải giảm tốc độ xuống mức tối thiểu. Bocca Trabaria. Anh thấy lạnh nhưng gạt thời tiết ra ngoài tâm trí. Cuối cùng con đường nhô lên quá màn sương trắng, làn sương mù nằm bên dưới sau lưng anh. Anh đi vòng bên ngoài Urbino nơi quân Đức đã thiêu hủy hết ngựa cày của kẻ địch. Họ đã chiến đấu trong vùng này một tháng; bây giờ anh lướt qua trong vài phút, chỉ nhận ra những đền Đức Mẹ Da Đen. Chiến tranh đã làm tất cả thị trấn và tỉnh lỵ giống nhau.
Anh thả dốc về phía bờ biển. Vào Gabicce Mare, nơi anh nhìn thấy tượng Đức Mẹ Đồng Trinh hiện ra trên biển. Anh ngủ trên đồi, nhìn ra vách đá và mặt nước, gần nơi bức tượng đã được mang đến. Ngày đầu tiên của anh chấm dứt.
Clara thương - Maman thương
Clara ạ, Maman[108] là một từ tiếng Pháp, một chữ tròn gợi ý ấp ủ, một chữ riêng tư thậm chí có thể được hét lên nơi công cộng. Một điều êm ấm và bất tử như một chiếc sà lan. Mặc dù con biết rằng về mặt tinh thần dì vẫn là một chiếc xuồng. Có thể xoay trở vào một con lạch trong giây phút. Vẫn độc lập. Vẫn riêng tư. Không phải là chiếc sà lan có trách nhiệm với mọi người chung quanh. Clara ạ, đây là lá thư đầu tiên của con trong bao nhiêu năm, và con không quen vẻ trịnh trọng của thư từ. Vài tháng vừa qua, con sống với ba người khác nữa, và trò chuyện của chúng con chậm rãi, vẩn vơ. Giờ đây con không quen lối nói chuyện nào khác nữa.
Năm nay là năm 194-. Mấy nhỉ? Con chợt quên mất rồi. Nhưng con biết ngày tháng. Một ngày sau khi chúng con nghe tin về những trái bom được thả xuống Nhật Bản, vì thế con cảm thấy như ngày hôm nay là ngày tận thế. Từ bây giờ trở đi, con tin rằng riêng luôn nghịch với chung. Nếu chúng ta có thể lý giải chuyện này chúng ta có thể lý giải mọi chuyện.
Patrick đã chết trong một chuồng bồ câu ở Pháp. Ở Pháp, vào thế kỷ XVII và XVIII, người ta dựng chuồng bồ câu thật to, to hơn hầu hết các ngôi nhà. Như thế này đây.
Đường ngang ở một phần ba chiều cao từ nóc xuống có tên là gờ chuột - để ngừa chuột chạy lên gạch, cho bồ câu được an toàn. An toàn như chuồng bồ câu. Một nơi thiêng liêng. Về nhiều mặt giống như một giáo đường. Một nơi êm ấm. Patrick đã chết ở một nơi êm ấm.
Lúc năm giờ sáng, anh đạp ga nổ máy chiếc Triumph, và bánh xe sau hất tung ra một lớp sỏi hình quạt. Anh vẫn ở trong bóng tối, vẫn không thể phân biệt đâu là biển trong khung cảnh xa hơn vách đá. Anh không có bản đồ cho cuộc hành trình từ đây về nam, nhưng anh có thể nhận ra những con đường chiến tranh và đi theo lối dọc bờ biển. Khi nắng lên anh có thể chạy nhanh gấp đôi. Những dòng sông vẫn còn ở trước mặt anh.
Khoảng hai giờ chiều, anh đến Ortona, nơi lính công binh đã dựng những cây cầu tiền chế kiểu Bailey, suýt chết đuối giữa dòng sông trong cơn bão tố. Trời bắt đầu mưa và anh ngừng lại để khoác tấm áo choàng cao su. Anh bước quanh chiếc xe trong sự ẩm ướt. Giờ đây, khi anh di chuyển, tiếng động trong tai anh thay đổi. Tiếng mưa rơi tí tách thay tiếng gió rít gào, nước bắn từ bánh xe trước lên giày bốt của anh. Mọi thứ anh nhìn thấy qua kính bảo hộ đều một màu xám. Anh không muốn nghĩ đến Hana. Trong sự im lặng giữa tiếng xe anh không nghĩ đến nàng. Khi khuôn mặt nàng hiện ra anh xóa nó đi, giật tay lái để anh chệch hướng và phải tập trung. Nếu có những chữ, chúng sẽ không phải thuộc về nàng; chúng sẽ là những cái tên trên bản đồ nước Ý anh đang chạy xe qua.
Anh cảm thấy anh mang thân thể của ông người Anh cùng với mình trong cuộc trốn chạy này. Nó ngồi trên bình xăng đối diện anh, tấm thân màu đen ôm lấy thân thể anh, đối diện quá khứ đằng sau vai anh, đối diện vùng quê họ đang phóng qua, cung điện đang xa dần của những người lạ trên ngọn đồi nước Ý sẽ không bao giờ được xây dựng lại. “Và những lời của ta đặt vào miệng ngươi sẽ không rời miệng ngươi.
Hoặc rời miệng con cháu ngươi. Hoặc rời miệng con cháu của con cháu ngươi."[109]
Giọng của ông người Anh ngân nga Isaiah vào tai anh, như ông đã ngân nga buổi chiều ấy khi chàng trai nói về khuôn mặt trên trần giáo đường ở Rome. “Dĩ nhiên có hàng trăm Isaiah. Một ngày kia cậu sẽ muốn nhìn ông lúc già - ở miền Nam nước Pháp, các tu viện xưng tụng ông là một ông già có râu, nhưng tia nhìn của ông vẫn chứa đựng uy quyền.” Ông người Anh đã ngân nga trong căn phòng sơn vẽ. “Nghe đây, Thượng đế sẽ túm chặt và mang ngươi đi, và Ngài chắc chắn sẽ bọc ngươi lại. Ngài chắc chắn sẽ xoay tròn ngươi và ném ngươi như một quả banh vào một xứ sở rộng lớn.”[110]
Anh đang đi sâu hơn vào cơn mưa nặng hạt. Anh đã yêu khuôn mặt trên trần giáo đường, nên anh đã yêu những lời ấy. Như anh đã tin tưởng người đàn ông bị bỏng và những đồng cỏ văn minh anh chăm bón. Isaiah và Jeremiah và Solomon ở trong cuốn sách cạnh giường của người đàn ông bị bỏng, cuốn sách thánh của ông, những thứ ông yêu quý dán vào cuốn sách ấy. Ông đã đưa cuốn sách cho anh công binh, và anh công binh nói chúng tôi cũng có một cuốn Sách Thánh.
Lớp cao su lót kính bảo hộ đã rạn nứt trong những tháng qua, và bây giờ mưa bắt đầu ngập đầy khoảng trống trước mắt anh. Anh sẽ chạy xe không đeo kính, tiếng mưa là tiếng đại dương vĩnh viễn trong tai anh, thân hình khom xuống của anh cứng đơ, lạnh giá, vì thế chỉ có ý niệm về hơi nóng từ chiếc xe anh rất quen lái, tia nước màu trắng bắn ra từ xe khi anh lướt qua những ngôi làng như một ngôi sao băng, một hình ảnh kéo dài nửa giây trong lúc người ta có thể ước một điều gì. “Vì bầu trời sẽ biến đi như khói và trái đất sẽ già cũ như quần áo. Và người sống ở đấy cũng sẽ chết đi như thế.
Vì nhậy sẽ ăn họ như quần áo, và giun trùng sẽ ăn họ như len.[111]”
Một bí mật của những sa mạc từ Uweinat đến Hiroshima.
Anh đang tháo kính bảo hộ khi anh quẹo lên cầu trên sông Ofanto. Anh bắt đầu trượt trong khi tay trái anh giơ lên cầm kính bảo hộ. Anh thả kính xuống để giữ vững chiếc xe, nhưng không ngờ đến cái gờ sắt đầu cầu, chiếc xe ngả về bên phải bên dưới anh. Đột nhiên anh cùng chiếc xe trượt theo làn nước mưa xuống giữa cầu, kim loại chà xát tạo nên những nháng lửa xanh chung quanh tay và mặt anh.
Tấm bảng thiếc nặng bung ra và bay qua vai anh. Rồi anh và chiếc xe chệch về bên trái cầu, chỗ không có tay vịn, và anh với xe văng ra khỏi cầu, nằm nghiêng song song với mặt nước, tay anh giơ ra sau quá đầu. Tấm áo khoác tuột ra khỏi người anh, thoát khỏi mọi thứ máy móc và con người, nhập vào không gian.
Chiếc xe và người lính vẫn ở trên không trung, rồi lộn vòng xuống, thân xe kim loại giữa hai chân anh khi chúng đập mạnh vào dòng nước, xé một đường nước màu trắng, biến mất, mưa cũng rơi vào dòng sông. “Ngài sẽ ném ngươi như một quả banh vào một xứ sở rộng lớn."
Làm thế nào Patrick lại ở trong một chuồng bồ câu, Clara nhỉ? Đơn vị của ba đã bỏ ba lại khi ba bị bỏng và bị thương. Bỏng đến nỗi những cái nút áo sơ mi ba mặc gắn liền vào da thịt ba, vào lồng ngực thân yêu của ba. Lồng ngực con đã hôn và dì đã hôn. Làm thế nào ba con bị bỏng? Ba có thể uốn mình như lươn, hoặc như chiếc xuồng của dì ra khỏi thế giới thực tựa hồ như có phép thuật. Trong sự ngây thơ dễ thương và rắc rối của ba. Ba là người đàn ông ít nói nhất, và con vẫn lấy làm lạ rằng phụ nữ thích ba. Phụ nữ chúng ta thường thích một người đàn ông nói nhiều bên cạnh. Chúng ta là những người theo chủ nghĩa duy lý, khôn ngoan, mà ba thì thường lạc lối, không quyết chắc, không bày tỏ.
Ba bị bỏng, con là y tá, lẽ ra con có thể chăm sóc ba. Dì có hiểu địa lý đáng buồn lắm không? Lẽ ra con có thể cứu ba, hoặc ít nhất ở cạnh ba cho đến giờ phút cuối. Con biết nhiều về chuyện bị bỏng. Ba đã ở một mình với bồ câu và chuột bao nhiêu lâu? Trong những giờ cuối cùng khi ba còn máu và sự sống? Chim bồ câu trên đầu ba. Những đôi cánh vỗ chấp chới chung quanh ba. Không ngủ được trong bóng tối. Ba vẫn ghét bóng tối. Và ba một mình, không có người yêu hay quyến thuộc.
Con chán ghét châu Âu, Clara ạ. Con muốn về nhà. Về căn nhà nhỏ của dì và hòn đá màu hồng ở vịnh Georgian. Con sẽ đi xe bus đến eo biển Parry. Rồi từ đất liền gửi tin nhắn qua radio sóng ngắn đến Pancakes. Rồi đợi dì, đợi bóng dáng dì trong một chiếc xuồng đến cứu con khỏi chốn này, nơi ba và con đã phản bội dì để tiến vào. Làm sao dì trở nên khôn ngoan đến thế? Làm sao dì trở nên cương quyết đến thế? Làm sao dì không bị lừa như ba và con? Dì là yêu quỷ thích lạc thú đã trở nên rất khôn ngoan. Người thuần khiết nhất trong số chúng ta, hột đậu đen nhất, chiếc lá xanh nhất.
Hana
Đầu trần của anh công binh nhô lên khỏi mặt nước, anh hổn hển hớp không khí trên dòng sông.
Caravaggio đã làm cái cầu dây bằng một sợi thừng xuống nóc tòa villa kế bên dưới. Ở đầu bên này, dây thừng được thắt vào quanh eo của pho tượng Demetrius rồi cột chặt vào giếng nước. Sợi dây chỉ cao ngang ngọn hai cây olive trên lối anh đi qua. Nếu anh mất thăng bằng, anh sẽ rơi vào những cành cứng bụi bặm của cây olive.
Anh bước lên cầu dây, hai chân mang vớ của anh bám chặt sợi thừng. Bức tượng ấy đáng giá bao nhiêu? Có lần anh bâng quơ hỏi Hana, và nàng bảo anh rằng bệnh nhân người Anh nói tất cả tượng Demetrius đều vô giá trị.
Nàng dán phong thư lại rồi đứng lên, đi ngang căn phòng để đóng cửa sổ, và đúng lúc ấy ánh chớp lướt qua thung lũng. Nàng nhìn thấy Caravaggio lưng chừng trên không trung, trên hẻm núi chạy quanh tòa villa như một vết sẹo sâu. Nàng đứng đấy tựa như mơ mộng, rồi leo vào vòm cửa sổ và ngồi đấy nhìn ra ngoài.
Mỗi lần có sét, mưa đông lại trong màn đêm thình lình được rọi sáng. Nàng nhìn thấy những con kên kên ném mình lên bầu trời, dõi tìm Caravaggio.
Anh đi được nửa đường thì ngửi thấy mùi mưa, rồi mưa bắt đầu rơi khắp người anh, dán vào thân thể anh, và đột nhiên quần áo anh nặng hơn.
Nàng đưa hai bàn tay khum ra ngoài cửa sổ và chải mưa vào tóc.
Tòa villa trôi đi trong bóng tối. Trong hành lang ngoài phòng bệnh nhân người Anh, ngọn nến cuối cùng đang cháy, vẫn còn cháy trong đêm. Mỗi lần ông mở mắt thức dậy, ông nhìn thấy ánh sáng màu vàng lung linh quen thuộc.
Bây giờ, đối với ông thế giới không có âm thanh, thậm chí ánh sáng dường như cũng là điều không cần thiết. Sáng mai ông sẽ bảo cô gái rằng ông không muốn có ánh nến bầu bạn trong khi ngủ.
Khoảng ba giờ sáng, ông cảm thấy một sự hiện diện trong phòng. Trong một thoáng, ông nhìn thấy một hình dáng ở chân giường của ông, dựa vào tường hoặc có lẽ được vẽ lên đấy, không rõ lắm trong bóng lá bên ngoài ánh nến. Ông thì thào một điều gì đấy, một điều ông vẫn muốn nói, nhưng chỉ có thinh lặng và hình dáng màu nâu mảnh mai, có thể chỉ là bóng đêm, không lay động. Một cây bạch dương. Một người đàn ông đội lông vũ. Một hình dáng đang bơi. Ông không nghĩ ông may mắn đến mức được nói chuyện với anh công binh trẻ một lần nữa.
Dù sao chăng nữa, đêm nay ông vẫn thức để xem hình dáng ấy có di chuyển lại gần ông hay không. Không dùng viên thuốc giảm đau, ông sẽ thức cho đến khi ánh sáng tắt đi và mùi khói nến trôi vào phòng ông và vào phòng của cô gái xa hơn dưới hành lang. Nếu hình dáng quay lại, sẽ có lớp sơn trên lưng hắn, nơi hắn va mạnh vào hình vẽ cây cối trong nỗi đau buồn. Khi ngọn nến tắt ông sẽ có thể nhìn thấy điều này.
Bàn tay ông chậm rãi giơ ra, chạm vào cuốn sách của ông, rồi trở về lồng ngực tối của ông. Trong phòng không còn chuyển động nào khác.
Anh đã ngồi ở đâu khi anh nhớ đến nàng? Giờ đây, sau bao nhiêu năm. Một hòn đá lịch sử nẩy trên mặt nước, nẩy lên để anh và nàng già đi trước khi nó chạm vào mặt nước một lần nữa rồi chìm xuống.
Anh đã ngồi ở đâu trong vườn khi một lần nữa anh nghĩ anh phải vào nhà để viết một lá thư, hoặc một ngày kia đến trạm điện thoại, điền mẫu đơn để cố gắng liên lạc với nàng ở một nước khác. Chính là khu vườn này, vuông cỏ khô cắt ngắn này gợi anh nhớ lại mấy tháng anh ở bên Hana và Caravaggio và bệnh nhân người Anh trong villa San Girolamo về phía bắc Florence. Anh là bác sĩ, có hai con và một người vợ hay cười. Anh thường xuyên bận rộn trong thành phố này. Lúc sáu giờ chiều, anh cởi chiếc áo choàng trắng. Bên trong anh mặc quần màu đậm và một áo sơ mi ngắn tay. Anh đóng cửa phòng mạch, trong ấy tất cả giấy tờ có những loại chặn giấy khác nhau - hòn đá, lọ mực, xe tải đồ chơi con trai anh không còn thích nữa - để quạt không thổi bay đi tất cả. Anh leo lên xe đạp và đạp bốn dặm về nhà bằng ngõ xuyên qua khu chợ. Khi nào có thể, anh rẽ xe vào bóng mát của con đường. Anh đã đến tuổi đột nhiên nhận ra ánh nắng Ấn Độ làm anh mệt nhoài.
Anh lướt đi dưới hàng liễu bên con kênh, rồi dừng lại ở một khu nhà nhỏ, tháo kẹp ống quần dùng khi đi xe đạp và vác xe xuống những bậc thang vào khu vườn nhỏ do vợ anh chăm bón.
Tối hôm nay, một điều gì đấy đã mang viên đá ra khỏi nước và cho phép nó di chuyển ngược chiều trong không gian về thị trấn vùng đồi ở Ý. Có lẽ là vết bỏng hóa chất trên cánh tay một cô bé anh chữa trị hôm nay. Hoặc cầu thang bằng đá, nơi cỏ dại màu nâu hăng hái mọc viền theo những bậc thang. Khi anh nhớ đến nàng, anh đã mang xe đạp lên nửa cầu thang. Vì anh đang trên đường đi làm, nên gợi nhớ ấy bị trì hoãn từ khi anh đến bệnh viện rồi gặp bệnh nhân và ban điều hành trong bảy giờ liên tiếp. Hoặc có thể là vết bỏng trên cánh tay cô bé.
Anh ngồi trong vườn. Và anh ngắm Hana, mái tóc nàng dài hơn, ở xứ sở của nàng. Nàng làm nghề gì nhỉ? Anh vẫn nhìn thấy nàng, khuôn mặt nàng và thân hình nàng, nhưng anh không biết nghề nghiệp hoặc hoàn cảnh của nàng, mặc dù anh nhìn thấy phản ứng của nàng với những người chung quanh nàng, nàng cúi xuống những đứa trẻ, một cánh cửa tủ lạnh màu trắng sau lưng nàng, một bối cảnh có những chiếc xe điện êm lặng. Đây là một món quà giới hạn không hiểu vì sao anh có được, tựa như một cuốn phim chiếu hình nàng, nhưng chỉ một mình nàng, trong im lặng. Anh không thể nhìn thấy rõ những người chung quanh nàng, xét đoán của nàng, anh chỉ nhìn thấy tính chất của nàng và mái tóc thẫm màu đang dài ra của nàng, thỉnh thoảng một lọn tóc rơi xuống mắt nàng.
Giờ đây, anh nhận ra nàng sẽ luôn có một khuôn mặt nghiêm trang. Vẻ mặt nàng đã biến đổi từ một cô gái trẻ đến những đường nét sắc cạnh của một bà hoàng, một người cấu tạo khuôn mặt mình với ước muốn trở thành một mẫu người nhất định. Anh vẫn thích điều ấy ở nàng. Sự thông minh của nàng, việc nàng đã không thừa hưởng vẻ mặt này hoặc sắc đẹp kia, nhưng chúng là những điều nàng tìm kiếm và sẽ luôn luôn phản ánh giai đoạn hiện tại trong cá tính của nàng. Hình như mỗi một hoặc hai tháng anh lại nhìn thấy nàng như thế, như thể những khoảnh khắc chiếu rọi này là sự tiếp nối của những lá thư nàng viết cho anh trong một năm trời, không nhận được thư trả lời, cho đến khi nàng thôi không gửi thư nữa, nản lòng vì sự thinh lặng của anh. Cá tính của anh, anh đoán thế.
Bây giờ anh có những thôi thúc muốn nói chuyện với nàng trong một bữa ăn, trở lại thời kỳ họ gần gũi nhất trong lều hoặc trong phòng bệnh nhân người Anh, cả hai nơi chứa đựng khoảng cách như dòng nước xao động giữa họ. Nhớ lại thời ấy, anh tò mò về mình cũng nhiều như anh tò mò về nàng - trẻ trung và nghiêm túc, cánh tay mềm dẻo của anh giơ qua không khí về phía cô gái anh đã yêu. Giày bốt ướt của anh nằm bên cánh cửa kiểu Ý, dây giày cột vào nhau, tay anh vươn đến bờ vai nàng, trong lúc một hình dáng nằm trên giường.
Trong bữa ăn tối, anh nhìn con gái anh vật lộn với muỗng nĩa, cố cầm những vũ khí to lớn đó trong hai bàn tay bé bỏng của nó. Ở cái bàn này, tất cả tay của họ đều màu nâu. Họ cử động dễ dàng trong lề thói và tập tục của họ. Vợ anh đã dạy cho tất cả bọn họ cá tính khôi hài phóng túng, tính cách con trai anh thừa hưởng. Trong căn nhà này, anh thích chứng kiến sự nhanh trí của con trai anh, sự nhanh trí ấy thường xuyên khiến anh ngạc nhiên ra sao, thậm chí vượt xa kiến thức và tính khôi hài của anh và vợ - cách nó đối xử với những con chó ngoài đường, bắt chước cách đi, tia nhìn của chúng. Anh thích chuyện cậu bé này hầu như có thể đoán ra ước muốn của mấy con chó từ những biểu lộ chúng có được.
Hana di chuyển dễ dàng giữa nhóm người không phải là lựa chọn của nàng. Ngay ở tuổi này, ba mươi tư, nàng vẫn chưa tìm thấy nhóm người của riêng mình, những người nàng muốn. Nàng là một phụ nữ danh giá và khôn ngoan, không may mắn trong những mối tình cuồng nhiệt, luôn liều lĩnh, đôi mày của nàng có một nét chỉ có nàng nhận ra trong gương. Mẫu người lý tưởng và tôn sùng lý tưởng trong mái tóc óng ả đậm màu ấy! Người ta yêu mến nàng. Nàng vẫn còn nhớ những dòng thơ người Anh đọc to lên cho nàng nghe từ cuốn sách của ông. Nàng là một phụ nữ tôi không hiểu rõ đủ để giữ trong đôi cánh của tôi, nếu những nhà văn có cánh, để che chở suốt cuộc đời tôi.
Rồi Hana cử động, khuôn mặt nàng quay lại, và nàng cúi đầu trong một nỗi hối tiếc. Vai nàng chạm vào gờ một cái tủ, một cái ly rơi xuống. Bàn tay trái của Kirpal sà xuống chụp cái nĩa rơi cách sàn nhà vài phân, rồi nhẹ nhàng đặt nó vào những ngón tay của con gái anh, đuôi mắt anh nheo lại sau cặp kính.
Hết
Bệnh Nhân Người Anh Bệnh Nhân Người Anh - Michael Ondaatje Bệnh Nhân Người Anh