IX - Bộ Ba Chứng Cứ Ngoại Phạm
ần này chính Harding là người đứng lên. Đôi mắt anh ta mở lớn – “như mắt bò vậy”, Elliot gọi chúng như thế, đầu anh đã đi qua cả chuỗi động vật để tìm cho được thứ minh họa về Harding chính xác nhất – với vẻ cảnh giác. Anh ta vẫn giữ lại vẻ mặt tốt bụng máy móc, cũng như không hề suy giảm sự tôn trọng của mình dành cho cảnh sát; nhưng đôi bàn tay nhiều lông của anh ta có vặn vẹo đôi chút.
“Nhưng tôi đang quay phim mà” anh ta phản đối. “Nhìn xem, đó là cái máy quay phim. Anh không nghe nó đang chạy sao? Thật sự không nghe à?”
Sau đó anh ta cười to, với vẻ quyến rũ rất chân thực. Dường như anh ta hi vọng rằng có ai đó sẽ bật cười với mình, và anh ta thấy bực khi không ai làm vậy.
“Tôi biết rồi,” anh ta nói thêm, mắt nhìn xa xôi. “Tôi từng có lần đọc được một câu chuyện.”
“Bây giờ, thật đấy hả?” giáo sư Ingram hỏi.
“Vâng,” Harding nói một cách khá nghiêm túc. “Một gã có chứng cứ ngoại phạm vì mọi người thề rằng họ đã nghe được cậu ta làm việc liên tục trên máy đánh chữ. Nhưng hóa ra là cậu ta có một cái máy tạo ra tiếng động như tiếng máy đánh chữ khi cậu ta không ở đó. Lạy Chúa, anh nghĩ rằng có thứ gì sẽ sử dụng máy quay thay tôi khi tôi không có ở đây hả?”
“Nhưng điều đó thật vô lí,” Marjorie hét lên, như thể đây là đỉnh điểm của sự bối rối. “Em đã thấy anh. Em biết anh đã ở đó mà. Đó có phải là điều anh nghĩ không, thanh tra?”
Elliot nở nụ cười không cảm xúc của mình.
“Cô Wills, tôi chưa hề nói bất cứ điều gì cả. Là giáo sư đây đã đưa ra tất cả những gợi ý đó. Dù sao thì, chúng ta có thể cân nhắc đến điểm đó, ngay cả khi,” anh rất thông cảm với họ, “chỉ để xong chuyện. Dù vậy, lúc đó nơi này rất tối, đúng không?”
Giáo sư Ingram trả lời anh, trước khi những người khác kịp lên tiếng.
“Có lẽ trong khoảng hai mươi giây đầu thì trong này rất tối, cho đến khi Chesney mở những cánh cửa đôi đó ra. Sau đó đã có đủ ánh sáng hắt ra từ chiếc bóng đèn dùng để chụp ảnh gần bức tường phía xa phòng làm việc, thế nên lúc đó không thể gọi trong này là tối om được. Các đường nét hiện lên một cách rõ ràng đến hoàn hảo, tôi nghĩ những người đồng hành cùng tôi cũng sẽ kể với anh như vậy.”
“Đợi một chút, thưa ông. Lúc đó mọi người đang ngồi như thế nào?”
Giáo sư Ingram đứng dậy, và cẩn thận sắp xếp ba cái ghế có tay vịn thành một hàng ngang cách mỗi bên khoảng ba feet. Những chiếc ghế đối mặt và cách khung cửa đôi khoảng tám hay chín feet, do đó toàn bộ khoảng cách từ Marcus Chesney đến đây sẽ vào khoảng mười lăm feet.
“Chesney đã sắp xếp mấy cái ghế trước khi chúng tôi đến đây,” giáo sư Ingram giải thích, “và chúng tôi không xáo trộn chúng. Tôi ngồi ở đây, phía bên tay phải và gần chỗ đèn nhất.” Ông đặt tay lên lưng ghế. “Marjorie ngồi ở giữa. Harding ngồi ở chiếc ghế cuối cùng bên kia.”
Elliot quan sát vị trí. Sau đó anh quay sang hỏi Harding.
“Nhưng anh đã làm gì ở chỗ quá xa xôi bên trái vậy?” anh hỏi. “Không phải ngồi chính giữa thì sẽ thuận lợi hơn cho việc quay phim sao? Từ vị trí này anh đâu thể quay được hình ảnh Nemo bước qua cửa sổ.”
Harding lau trán.
“Bây giờ, để tôi hỏi anh điều này: Làm thế quái nào mà tôi biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra chứ?” anh ta hỏi gặng, mặt đối mặt. “Ông Chesney không hề giải thích trước cho chúng tôi xem cần phải tìm kiếm thứ gì. Ông ấy chỉ nói, ‘Ngồi đằng đó!’ và tôi hi vọng anh không nghĩ tôi dự định sẽ tranh cãi với ông ấy về điều đó. Georgie bé nhỏ sẽ không làm điều đó. Tôi đang ngồi – hay, đúng hơn, tôi đang đứng, khoảng chỗ này, và tôi đã có tầm nhìn đủ đẹp rồi.”
“Ôi, cuộc tranh cãi này để làm gì vậy?” Marjorie nói. “Dĩ nhiên anh ấy phải ở đây rồi. Tôi đã nhìn thấy anh ấy di chuyển ra phía sau để quay trọn hình ảnh. Và tôi cũng ở đây. Không phải sao?”
“Cháu không hề rời khỏi đây,” giáo sư Ingram ôn tồn khẳng định. “Ta đã cảm thấy cháu.”
“Sao?” Harding nói.
Khuôn mặt của giáo sư Ingram trở nên không mấy vui vẻ. “Ta cảm thấy sự hiện diện của con bé, cậu trai. Ta nghe tiếng con bé thở. Ta có thể vươn tay và chạm vào con bé. Đúng là con bé đang mặc một bộ váy tối màu, nhưng anh cũng nhìn thấy đấy, con bé có một làn da rất trắng, và hai bàn tay cùng khuôn mặt con bé hiện ra rõ ràng trong bóng tối giống như mặt trước chiếc áo sơ mi cậu đang mặc vậy.” Khẽ hắng giọng, ông quay sang Elliot. “Điều tôi đang cố nói với anh, thanh tra, đó là tôi cam đoan rằng cả hai người bọn họ đều không có lúc nào rời khỏi căn phòng này. Harding luôn trong tầm mắt của tôi. Marjorie thì ở chỗ tôi có thể chạm vào được. Giờ thì, nếu hai người có thể chứng minh điều tương tự cho tôi.”
Ông nghiêng đầu một cách lịch sự và sắc sảo về hướng của Marjorie. Elliot cảm thấy, cách xử sự của ông giống như cách một bác sĩ kiểm tra mạch của bệnh nhân, và có một sự tập trung và tĩnh lặng trên khuôn mặt ông lúc này.
“Dĩ nhiên bác ở đó chứ,” Marjorie thét lên.
“Cô chắc không?” Elliot hỏi tới cùng.
“Tôi hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Tôi đã thấy áo sơ mi và cái đầu hói của ông ấy,” cô gái tiếp tục nhấn mạnh, “Ồ, tôi đã thấy mọi thứ! Tôi cũng đã nghe tiếng ông ấy thở. Anh chưa bao giờ có cảm giác tinh thần về sự hiện diện của một người nào đó à? Anh sẽ không biết nếu có người rời nhóm hay sao?”
“Còn anh, anh Harding?”
Harding ngần ngại lên tiếng.
“À thì, nói thật, phần lớn thời gian tôi đã dán chặt mắt vào ống ngắm của máy quay. Vậy nên tôi không có nhiều cơ hội để quan sát chung quanh. Mà khoan, mặc dù vậy!” Anh ta đánh nắm đấm tay phải vào gan bàn tay trái, và một biểu cảm gần như nhẹ nhõm xuất hiện trên khuôn mặt như thể có một bánh xe đang quay vòng sau đôi mắt anh ta. “Haa! Giờ đợi đã, đừng hối tôi. Ngay sau khi gã đội mũ chóp cao đó bước ra ngoài khung hình, tôi có nhìn lên, và bước lùi lại, sau đó tắt máy quay. Tôi đã va vào một chiếc ghế khi tôi lùi lại, vậy nên tôi có nhìn quanh,” anh ta vừa xoay cổ tay vừa nói tiếp, “và tôi có thể nhìn thấy Marjorie đủ gần. Tôi có thể thấy đôi mắt cô ấy sáng lên, theo cách nào đó. Điều đó không hợp lí theo khoa học lắm, nhưng anh biết ý tôi là gì mà. Dĩ nhiên là tôi biết cô ấy lúc nào cũng ngồi đó, bởi vì tôi đã nghe thấy cô ấy nói lớn rằng: ‘Đừng’. Nhưng tôi cũng đã thấy cô ấy, và dù sao đi chăng nữa,” nụ cười toe toét của anh ta khiến không khí trong phòng trở nên vui vẻ hơn, “anh có thể chắc chắn rằng cô ấy chẳng cao năm feet chín hay sáu feet còn gì. Dù sao việc này cũng chẳng liên quan gì đến chúng tôi hết, đúng không?”
“Và cậu có nhìn thấy tôi chứ?” giáo sư Ingram hỏi.
“Sao?” Harding nói, mắt vẫn dính chặt vào Marjorie.
“Tôi nói là, cậu đã thấy tôi trong bóng tối chứ?”
“Ô, chắc chắn rồi. Cháu nghĩ bác đã cố cúi người nhìn đồng hồ đeo tay. Bác lúc nào cũng ngồi đó cả.”
Harding đã lấy lại vẻ rạng rỡ và lòng hăng hái bất thường của mình, như thể anh ta đang định phô diễn dáng vẻ khệnh khạng với ngón cái móc vào áo ghi lê của mình vậy.
Nhưng Elliot lại bắt đầu cảm thấy mình đang dò dẫm trong một làn sương mù thậm chí còn dày đặc hơn lúc nãy. Vụ án này là một bãi lầy tâm lí. Song anh khá chắc chắn rằng những người này đang nói sự thật, hay đúng hơn anh nghĩ rằng họ đang nói thật.
“Anh thấy đấy, trước mắt anh,” giáo sư Ingram giải thích, “là một tập hợp chứng cứ ngoại phạm cực kì hoàn hảo. Không thể có chuyện một trong số chúng tôi lại liên quan đến án mạng này được. Đó là nền tảng để anh điều tra vụ án này, bất kể theo cách nào. Dĩ nhiên, anh có thể chọn nghi ngờ câu chuyện của chúng tôi; nhưng không gì dễ dàng hơn là kiểm chứng những chuyện đó. Dựng lại hiện trường! Để chúng tôi ngồi đây theo hàng như chúng tôi ngồi lúc đó, tắt hết đèn đi, bật cái bóng đèn dùng để chụp ảnh trong căn phòng kia lên, và anh sẽ tận mắt thấy rằng dù ai trong chúng tôi cũng hoàn toàn không thể rời căn phòng đó mà không bị nhìn thấy.”
“Tôi e rằng chúng ta không thể làm điều đó lúc này, thưa ông, trừ khi ông có một cái bóng đèn dùng để chụp ảnh khác,” Elliot nói. “Chiếc đèn kia vừa mới hết sáng. Hơn nữa…”
“Nhưng…!” Marjorie kêu lên. Cô kiềm chế bản thân lại, nhìn chằm chằm vào những cánh cửa đóng kín với đôi mắt hoang mang rối loạn.
“… hơn nữa,” Elliot tiếp tục, “các bạn có thể không phải là những nhân chứng duy nhất. Tôi có một điều muốn đặc biệt hỏi cô, cô Wills. Mới vừa nãy cô đã nói cô chắc chắn chiêc đồng hồ trong phòng làm việc chạy đúng. Tại sao cô lại chắc chắn về điều đó?”
“Phiền anh lặp lại lần nữa được không?”
Elliot hỏi lại lần nữa.
“Bởi vì nó đã bị vỡ rồi,” Marjorie đáp, kéo sự chú ý của mình lại. “Ý tôi là, cái chốt dùng để chỉnh kim đồng hồ đã bị phá hỏng hoàn toàn, vậy nên anh hoàn toàn không thể thay đổi giờ của chiếc đồng hồ đó. Và nó là một chiếc đồng hồ chạy rất chính xác. Kể từ khi chúng tôi mua về nó chạy không sai một giây.”
Giáo sư Ingram bắt đầu bật cười.
“Tôi hiểu. Chiếc đồng hồ bị hỏng khi nào vậy, cô Wills?”
“Sáng hôm qua. Pamela – một trong những người giúp việc – đã làm rơi nó khi cô ấy đang quét dọn văn phòng của bác Marcus. Cô ấy đang lên giây chiếc đồng hồ, tay kia thì cầm giá nến, và cô ấy va cái giá nến vào cái chốt lên giây và làm nó rơi ra. Tôi đã nghĩ bác Marcus sẽ rất giận dữ. Anh biết đấy, chúng tôi chỉ được phép lau dọn phòng làm việc của bác ấy một tuần một lần. Bác ấy giữ tất cả sổ sách công việc trong đó, và đặc biệt chúng tôi không được phép chạm vào bản thảo viết tay mà bác ấy đang viết trên đó. Nhưng bác ấy đã không hề…”
“Không hề làm gì?”
“Bác ấy đã không hề nổi giận, ý tôi là vậy đó. Hoàn toàn ngược lại nữa. Bác ấy có vẻ phân vân. Tôi đã nói rằng chúng tôi có thể gửi chiếc đồng hồ xuống cửa hàng nhà Simmond dưới thị trấn và sửa nó lại. Bác ấy đã đứng nhìn vào chiếc đồng hồ trong vòng một phút, và bất thình lình phá ra cười. Bác ấy nói, ‘Không, không, cứ để nó đó: giờ thì nó được đặt giờ một cách chính xác, không thể điều chỉnh, và rằng trông nó rất vui.’ (Nó là một chiếc đồng hồ tám ngày, lúc ấy đã được lên dây rồi.) Bác ấy cũng nói rằng Pamela là một cô gái xuất sắc, và sẽ là diễm phúc cho cha mẹ già của cô ấy. Đó là những gì tôi nhớ được.”
Giờ thì, tại sao, thanh tra – thám tử Elliot nghĩ, tại sao một người đàn ông lại đứng trước một chiếc đồng hồ và bất ngờ phá ra cười? Nhưng anh không có nhiều thời gian để suy tư. Như để đẩy mớ rắc rối này lên đến đỉnh điểm, thiếu tá Crow bỗng xuất hiện từ cửa ra vào dẫn đến sảnh chính căn nhà.
“Tôi có thể gặp anh một lát được không, thanh tra?” ông yêu cầu với giọng là lạ.
Elliot bước ra và đóng cửa lại. Đó là một cái sảnh rộng rãi, được ốp gỗ sồi sáng màu, với cầu thang rộng và thấp, sàn nhà bóng loáng đến nỗi phản chiếu lại cả cạnh của những tấm thảm trải sàn. Một chiếc đèn đứng đang được bật, tạo nên một vùng ánh sáng bên cạnh cầu thang và chiếu vào chiếc điện thoại nằm ở trên bệ.
Thiếu tá Crow vẫn giữ được vẻ ngoài bình tĩnh giả tạo của mình, nhưng đôi mắt ông trông đầy ẩn ý. Ông ra hiệu về phía chiếc điện thoại. “Tôi vừa mới nói chuyện với Billy Emsworth xong,” ông nói.
“Billy Emsworth? Đó là ai?”
“Người có vợ sinh con tối nay. Người mà Joe Chesney đến gặp: anh chưa biết sao? Tôi biết rằng đã rất trễ rồi, nhưng tôi nghĩ Emsworth có thể vẫn đang ngồi chúc mừng với một hay hai người bạn. Đúng là như thế, và tôi đã nói chuyện với anh ta. Tôi không nói gì về vụ án cả, tôi chỉ chúc mừng, dù vậy tôi hi vọng anh ấy không băn khoăn tại sao tôi lại gọi điện thoại vào lúc hai giờ sáng chỉ để chúc mừng suông.” Thiếu tá Crow hít một hơi dài. “Chà, nếu chiếc đồng hồ trong văn phòng chạy đúng, Joe Chesney có một bằng chứng ngoại phạm hoàn toàn vững vàng.”
Elliot không nói gì cả. Anh đã đoán trước được điều này.
“Bé con được sinh vào khoảng mười một giờ mười lăm. Sau đó Chesney ngồi xuống và nói chuyện với Emsworth và bạn bè của anh ta cho đến gần nửa đêm. Tất cả bọn họ đều nhìn đồng hồ đeo tay khi ông ta rời khỏi đó. Khi Emsworth thấy ông ấy đi ra cửa, chuông đồng hồ nhà thờ vừa điểm mười hai giờ. Và Emsworth bước lên và làm một bài diễn văn về một khởi đầu tươi mới và tốt đẹp. Vậy nên thời gian ông ấy rời đi đã được xác định. Bây giờ, Emsworth sống ở phía bên kia của Sodbury Cross. Vậy nên Joe Chesney không thể nào đến đây kịp vào thời điểm vụ án mạng xảy ra. Anh nghĩ sao về điều đó?”
“Chỉ một điều thôi, thưa ngài, rằng tất cả bọn họ đều có bằng chứng ngoại phạm,” Elliot kể lại cho ông ấy nghe.
“Chắc chắn không?” thiếu tá Crow nói.
“Có, thưa ngài,” Elliot nói.
“Chuyện này rầy rà rồi đây.”
“Đúng vậy, thưa ngài.”
“Phiền phức chết tiệt!” cảnh sát trưởng nói to lên với một tiếng gầm nhẹ. “Anh có nghĩ họ nói thật không, về việc lúc đó không quá tối để theo dõi chuyển động của mọi người ấy?”
“Tất nhiên chúng ta phải xác thực lại điều đó.” Elliot do dự nói. “Nhưng bản thân tôi đã chú ý thấy sự ảnh hưởng của ánh sáng chói lòa từ căn phòng bên kia. Thành thật thì tôi không nghĩ nó đủ tối để một người có thể lẻn ra mà không bị nhìn thấy. Và nói thật hơn nữa thì, thưa ngài, tôi tin họ.”
“Anh không nghĩ rằng có thể ba người bọn họ đã cùng nhau dựng nên câu chuyện này à?”
“Mọi điều đều có thể. Dù vậy…”
“Anh không nghĩ thế?”
Elliot thận trọng suy nghĩ. “Ít nhất thì,” anh quyết định, “dường như chúng ta không thể chỉ tập trung sự chú ý vào các thành viên của gia đình này được. Chúng ta cần mở rộng phạm vi điều tra. Thứ bóng ma mặc áo khoác dự tiệc bên ngoài hoàn toàn có thể là một người nào đó ngoài kia. Khoan đã, tại sao ngài lại hỏi vậy?”
“Tôi sẽ nói với anh điều này,” thiếu tá Crow lạnh nhạt nói. “Bởi vì Bostwick và tôi vừa mới tìm ra bằng chứng, bằng chứng chỉ ra rằng kẻ sát nhân phải là một thành viên của gia đình này hoặc là một người có mối quan hệ gần gũi với họ.”
Trong khi Elliot lại một lần nữa được trải nghiệm cảm giác chuyện xảy ra không đúng tí nào, rằng anh đang phải nhìn vụ án qua những cặp mắt kiếng méo mó, thì cảnh sát trưởng đã kéo anh về phía cầu thang. Thực ra, cách cư xử của thiếu tá Crow có phần nào đó hơi ép buộc.
“Chuyện này rất bất thường. Bất thường nhất từ đầu tới giờ,” ông nói, đánh lưỡi lục cục một cách vô nghĩa, “nhưng giờ việc đó đã xong và đã được làm rất tốt. Khi Bostwick đi lên cầu thang để xem liệu chàng trai Emmet này có đủ khỏe để nói chuyện với chúng ta hay chưa, ông ấy nghĩ mình nên nhìn qua phòng tắm một chút. Trong tủ thuốc ở phòng tắm đó ông ấy đã tìm thấy một chiếc hộp chứa những viên nhộng dầu thầu dầu.”
Nói tới đây ông nhìn anh dò hỏi.
“Điều đó không nhất thiết là một chi tiết quan trọng, thưa ông. Tôi hiểu rằng loại thuốc đó khá phổ biến.”
“Cứ cho là vậy đi. Giả dụ như thế! Nhưng còn nữa. Ẩn sau lưng của chiếc kệ cạnh bồn rửa, ông ấy tìm thấy một cái lọ thủy tinh dung tích một ounce, trong đó một phần tư chai chứa đầy axit xyanhydric tinh khiết…
“Tôi nghĩ điều đó sẽ nện anh một cú ra trò,” thiếu tá Crow nói với vẻ hơi hài lòng. “Tôi biết vì tôi cũng bị vậy, đặc biệt là khi bây giờ anh lại nói với tôi rằng tất cả mọi người trong căn nhà này đều có bằng chứng ngoại phạm. Anh nên nhớ rằng, nó không phải là dung dịch kali xyanua yếu ớt. Nó là chất lỏng tinh khiết, chất độc gây chết người nhanh nhất Trái Đất. Ít nhất thì đó là điều mà chúng tôi nghĩ. West sẽ giúp chúng ta phân tích chất đó, nhưng lúc này ông ấy khá chắc chắn. Thực ra nó nằm ngay trên nhãn dán của cái chai, ‘Axit Xyanhydric, HCN’. Bostwick đã ngó qua và không thể tin nổi vào mắt mình. Ông ấy cũng mở nắp chai, nhưng ngay khi ngửi được mùi hương thoảng qua ông ấy liền đóng nắp lại với tốc độ nhanh nhất trong những hành động ông ấy từng làm trong đời. Ông ấy từng nghe rằng người hít sâu phải mùi axit xyanhydric cũng có thể mất mạng, và West nói đúng là thế. Hãy nhìn qua cái chai đẹp đẽ này đi.”
Ông cẩn thận đưa tay vào túi. Ông rút ra một cái chai nhỏ xíu có nút chai được đẩy xuống gần ngang tới cổ chai, và ông nghiêng nó để cho anh thấy chất lỏng không màu bên trong. Bên ngoài thân chai là một mảnh giấy được dùng keo gắn chặt, trên đó có dòng chữ “Axit Xyanhydric, HCN” được in bằng mực thô. Thiếu tá Crow đặt nó xuống bàn để điện thoại dưới cái đèn đứng và nhanh chóng lùi lại như thể ông vừa mới châm ngòi một khẩu đại bác đặc biệt nguy hiểm.
“Không tìm thấy dấu vân tay,” ông giải thích. “Đừng đứng gần nó quá,” ông căng thẳng nói thêm. “Thậm chí bây giờ anh có thể ngửi thấy mùi của nó không?”
Elliot có ngửi thấy thật.
“Nhưng thứ này được lấy từ đâu chứ?” anh nói. “Ông đã nghe bác sĩ West nói rồi đấy. Trên thực tế một người thường không thể tự chiết xuất axit xyanhydric tinh khiết được. Người duy nhất có thể có được nó là…”
“Tôi biết. Một kĩ thuật viên. Hay có thể nói là một nhà nghiên cứu hóa học. Nhân tiện, anh bạn Harding này đang làm gì ở đây?”
Dù là may mắn hay xui xẻo thì Harding cũng đã bước ra khỏi Phòng Nhạc.
Dường như anh ta đang ở trong một tâm trạng đặc biệt vui vẻ và sung sức khi Elliot bỏ lại anh ta trong căn phòng đó. Tâm trạng này có vẻ không giảm thiểu đáng kể lắm, mặc dù anh ta đứng khá gần cái chai đang đặt trên bàn và chắc chắn là có thể đọc được nhãn của nó. Anh ta chống một tay lên khung cửa, như thể định tạo dáng chụp ảnh. Sau đó anh ta bước lên với nụ cười mỉm đầy tôn trọng, và hướng đến cảnh sát trưởng.
“HCN?” anh ta hỏi, chỉ tay vào cái chai trước mặt.
“Đó là thứ mà cái nhãn nói, anh bạn trẻ.”
“Ông có phiền nếu tôi hỏi ông tìm thấy nó ở đâu không?
“Trong phòng tắm. Có phải cậu đã đặt nó vào đó không?”
“Không, thưa ngài.”
“Nhưng cậu sử dụng thứ này trong công việc của mình chứ, đúng không?”
“Không,” Harding dáp lại ngay. “Không, thành thật là không,” anh ta thêm vào. “Tôi sử dụng KCN – kali xyanua – và sử dụng rất nhiều. Tôi đang thực hiện một quy trình mạ điện làm bạc giả không khác gì so với bạc thật. Nếu tôi có thể bán nó ra thị trường, và có hậu thuẫn tài chính đầy đủ để không dính vào mấy kẻ lừa đảo, thì tôi sẽ cách mạng hóa toàn ngành.” Anh ta nói mà không hề có bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ mình đang khoe khoang, anh ta nói như thể đang nêu ra một thực tế. “Nhưng tôi không sử dụng HCN. Nó không tốt cho tôi.”
“Tốt, thành thật là thành thật,” thiếu tá Crow nói với vẻ hơi cứng nhắc. “Dù sao chăng nữa, cậu có thể điều chế ra HCN được, đúng không?”
Harding nói với cái miệng run rẩy mãnh liệt và dữ dội khi anh ta tạo thành chữ, đến nỗi Elliot tự hỏi liệu có phải anh ta bẩm sinh đã bị chứng nói lắp hay không, một chứng bệnh mà có vẻ như những bất lợi khác, anh ta đã vượt qua được. Harding nói:
“Dĩ nhiên tôi có thể điều chế nó. Bất kì ai khác cũng thế thôi.”
“Đừng đánh đồng mọi người với cậu, chàng trai trẻ.”
“Thôi được, nghe này! Ông cần gì để sản xuất HCN? Tôi sẽ nói với ông. Ông sẽ muốn (cần nghe được hơn là muốn) có muối xyanua của kali cacbonat, không hề độc, có thể mua ở bất kì đâu. Ông sẽ muốn dầu sunfat, thứ phổ biến với tên gọi axit sunfuric, có thể lấy nó từ bình ắc quy của động cơ xe hơi gần ông nhất, ai chả biết điều đó? Ông cũng cần nước lọc bình thường nữa. Đặt ba nguyên liệu này vào cùng nhau chưng cất, quá trình chưng cất mà bất kì đứa bé tóc vàng nào cũng có thể xoay xở thực hiện trong căn bếp của bà ngoại, và ông sẽ có thứ trong chiếc bình kia. Bất kì ai, với một cuốn sách hóa học sơ cấp mở ra trước mặt, cũng có thể làm được điều đó.”
Thiếu tá Crow liếc nhìn Elliot một cách khó chịu. “Và đó là tất cả những gì cậu cần làm để tạo ra axit xyanhydric sao?”
“Đó là tất cả. Nhưng đừng tin tưởng tôi hoàn toàn, vấn đề là… Chà, thưa ngài, có gì đó không đúng ở đây. Ông có phiền nói với tôi điều này không: ông nói rằng ông tìm thấy thứ đó trong phòng tắm. Tôi không ngạc nhiên lắm. Nếu là hồi trước thì tôi cũng có thể ngạc nhiên. Nhưng có phải ý ông là ông chỉ lấy nó trong phòng tắm, như là một tuýp kem đánh răng hay thứ gì đó tương tự như thế không?”
Thiếu tá Crow giơ hai tay ra. Ông cũng có ý nghĩ giống như anh ta.
“Căn nhà này đã cũ kĩ lắm rồi,” Harding nói trong khi nghiên cứu cái sảnh đẹp đẽ và lịch thiệp. “Nó trông ổn cả, nhưng nó có gì đó sai lầm về phương diện hóa học. Tôi là một người ngoài. Tôi có thể nói vậy. Và giờ, nếu mọi người thứ lỗi cho tôi, tôi đang đến phòng ăn để uống một li whisky, và tôi đang cầu nguyện với các thánh rằng rượu sẽ không có vấn đề hóa học gì cả.”
Tiếng bước chân của anh ta kêu lọc cọc rất lớn trên sàn gỗ trần, bất chấp bây giờ đã là nửa đêm. Vùng ánh sáng đang run rẩy cạnh cầu thang, vạt thuốc độc rùng mình trong chiếc chai nhỏ, trên cầu thang một người đàn ông bị chấn động não đang lẩm bẩm như thầy tu, còn dưới cầu thang hai nhân viên điều tra nhìn nhau dò hỏi.
“Không dễ,” thiếu tá Crow nói.
“Không dễ thật,” Elliot thừa nhận.
“Anh có hai manh mối, thanh tra. Hai manh mối vững chắc và rõ ràng. Ngày mai Emmet trẻ tuổi có thể sẽ tỉnh lại và có khả năng kể cho anh nghe về chuyện đã xảy ra cho cậu ta. Anh cũng có cuộn phim – tôi sẽ rửa ra cho anh trước chiều mai; có một gã ở Sodbury Cross chuyên làm mấy việc như thế – và anh sẽ có thể biết chính xác những điều đã xảy ra trong suốt buổi trình diễn. Ngoài ra, tôi không biết anh có gì, và hãy chú ý rằng tôi nói là ‘anh’. Tôi có công việc riêng của tôi cần giải quyết. Ngày mai, tôi hứa với anh một cách danh dự, tôi sẽ không tham gia vào vụ này sâu hơn. Đây là vụ án của anh, và tôi mong anh vui mừng về điều đó.”
Elliot không hề thấy vui, vì vài lí do cá nhân. Nhưng về khía cạnh công việc, vụ án đã được ép xuống thành một vấn đề rõ ràng như thể dấu vân tay hai màu đen trắng:
Kẻ giết Marcus Chesney có thể liên quan đến ai đó trong căn nhà này.
Tuy nhiên tất cả mọi người trong căn nhà này đều có chứng cứ ngoại phạm vững vàng.
Do đó, ai là kẻ phạm tội? Và phạm tội như thế nào?
“Tôi có thể thấy rõ tất cả những chuyện đó.” cảnh sát trưởng đồng tình. “Nên hãy đi con đường mà anh thấy đúng đắn và làm rõ ràng vấn đề này. Cũng tương tự như thế, bản thân tôi có bốn vấn đề mà tôi sẵn sàng trả hai mươi pound để nhận được câu trả lời, ở đây, ngay lúc này, và không trì hoãn thêm phút nào nữa.”
“Vâng, thưa ngài?”
Thiếu tá Crow đã cư xử bớt trịnh trọng hơn. Giọng ông to lên một cách ai oán.
“Tại sao những cái hộp sô cô lại đổi từ xanh lá qua xanh dương? Có gì sai với cái đồng hồ chết tiệt đó? Chiều cao thật sự của gã đội mũ chóp là bao nhiêu? Và tại sao, tại sao Chesney lại dựng lên trò lừa với một chiếc phi tiêu ống thổi Nam Mỹ mà chưa ai từng nhìn thấy?”
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh