Tứ Thư epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 7
ỐI CŨ - CON TRỜI
1. LỐI CŨ
Việc ra về của cậu nhân viên thực nghiệm khiến mọi người nhìn thấy ánh sáng và hy vọng, tất cả phạm nhân đều trở nên tích cực chủ động, nhanh nhẹn, mỗi người đều trẻ ra đến mười tuổi. Mọi người thức dạy, quét nhà quét sân, chủ động vào bếp bổ củi thổi cơm, dọn dẹp tường lò, sửa đường lò sập lở và xếp lại đống củi. Giáo sư tôn giáo và các phạm nhân khác, để tích cực làm thêm nhiều việc hơn người khác, không những đem các đồ sắt như rìu, cưa sau khi dùng giấu vào chăn và dưới gầm giường, để người khác muốn làm việc tốt tìm không ra dụng cụ, không thể không quanh quẩn trong sân, trong nhà.
Ai cũng biết khi nguyên liệu luyện gang thép không còn, cậu nhân viên thực nghiệm đã phát hiện ở chỗ sông Hoàng Hà đang có nguyên liệu nấu gang luyện thép lấy không bao giờ hết, nên được thưởng năm ngôi sao lớn, được về tự do. Cậu dẫn Con Trời đến bên sông Hoàng Hà, không biết kiếm đâu ra một hòn đá nam châm cũ nát như mảnh ngói, đặt nam châm lên từng vệt, từng mảng cát đen của bãi cát, những cát đen ấy như những đứa con thất tán lâu năm, nay tìm được bố mẹ đã tơi tới chạy đến với nam châm. Trên bãi sông, cát đen vốn nhỏ mịn từng hạt từng hạt, nhưng đến với nam châm thì đều dựng lên thành sợi thành dây như trẻ con đứng trên hai vai người lớn. Họ đã dùng nam châm hút cát gang màu đen lại, rồi bóc từng nắm từng vốc để lên một chiếc áo. Ở chỗ nước chảy trước kia, vào mùa hè, nước sông Hoàng Hà dâng lên, bên bờ có vô số dòng chảy và nhánh nhỏ, bây giờ sang mùa đông, Hoàng Hà thu hẹp ra giữa lòng sông, nhưng trên mép trên bờ nhỏ của những nhánh những dòng khô cạn, cát đen xối rửa ra, đọng lại từng cụm từng bó, giống như sợi thừng đen, vun vén cẩn thận những dây cát đen âý, có thể chất thành đống.
Cậu nhân viên thực nghiệm và Con Trời đã rất nhanh chóng kiếm được một đống cát gang đen.
Họ liền xây một lò luyện gang nhỏ bên bờ sông Hoàng Hà. Dùng đá dài phân cách lò luyện gang thép thành hai tầng, lấy bùn xoa phẳng phần giữa đá, đổ cát đen lên bùn, rồi lấy củi đốt bên dưới lò để lửa từ dưới bùn đá luyện cát gang, cũng từ khe hở chung quanh đất bùn, đốt nóng phần trên lò. Lửa cháy bừng bừng bốn ngày bốn đêm, sau khi tắt, quả nhiên luyện ra một cục gang gỉ lốm đốm bằng cái làn liễu nhỏ. Nó như một cái ổ màu đen to tướng từ trong lò lăn ra một cách khai thiên lập địa. Không biết lúc bấy giờ bên sông Hoàng Hà hoang vắng không một bóng người, cậu nhân viên thực nghiệm và Con Trời vui sướng như điên lên thế nào. Không biết lúc bấy giờ họ hẹn hò gì với nhau, về sau người của khu dục tân mới biết. Cậu nhân viên thực nghiệm và Con Trời vác cục gang khai thiên lập địa ấy, đi một ngày một đêm từ bờ sông Hoàng Hà về. Trở về, Con Trời không thưởng cậu hoa nhỏ, mà thưởng hẳn năm ngôi sao năm cánh. Trong khi cậu dán lên tấm biển gỗ năm ngôi sao năm cánh trong nhà Con Trời, thì Con Trời cũng vẫy đi nhờ một chiếc xe bò của khu bên cạnh chở gang thép lên thị trấn đi qua cổng. Gang thép trên xe bò của họ đều gói trong vải đỏ, không gói kín, thỏi nào cũng dán câu đối, vế trên viết: “Xung thiên náo địa, nhiều nhanh tốt rẻ”, vế dưới: “ Bẻ thiên, bắn mặt trời, đuổi Anh vượt Mỹ”. Con Trời cũng lấy vải đỏ gói cục gang do mình và cậu nhân viên thực nghiệm phát hiện luyện ra, đi nhờ xe bò lên Tổng bộ trên thị trấn.
Con Trời lên Tổng bộ báo hỉ lập công lĩnh thưởng.
Con Trời đi Tổng bộ nghỉ một đêm, khi về đến khu chín mươi chín, thì cậu nhân viên thực nghiệm đã đi khỏi khu được hai hôm. Con Trời trở về không chỉ đem theo một xe toàn là gạo ngon bột mì trắng tinh, không chỉ trước ngực Con Trời có hai bông hoa lụa đỏ to bằng cái bát, mà còn mang về cho cậu nhân viên thực nghiệm một bông hoa lụa đỏ to. Kế hoạch của Con Trời là học người khác tổ chức một cuộc họp biểu dương, gài hoa hồng lên ngực cậu, tuyên bố cậu đã trở thành con người mới. Nhưng Con Trời trở về thì cậu ấy đã gấp gáp ra đi.
Trong sân khu chín mươi chín, Con Trời và cấp trên không có bất cứ lời kêu gọi nào. Người ta quét dọn sân sạch sẽ, lau cửa ra vào và cửa sổ không còn một hạt bụi, lại còn dán hai câu đối đỏ khổng lồ ở cổng. Lời câu đối ý nghĩa còn hùng hồn bạo phổi hơn nhiều: “Xung thiên náo địa, biển là kho lương thực mỉm cười với các nước phương Tây. Bắn trăng hạ mặt trời, gang thép như núi kiêu hãnh dưới gầm trời”. Con Trời trở về đứng trước cổng, nhìn câu đối, hình như ngài đã hiểu, lại nhìn cửa gỗ dầy được rửa nước một lượt và lau khô, cả nền cát trước cổng quét sạch lại vẩy nước chống bụi, nước té chỗ dầy chỗ thưa, y như chiếc bản đồ riềm hoa vẽ ở cổng. Thì ra mặt đất vốn lồi lõm, bây giờ phẳng lì như gương, có hơi đất cát vàng rực và nước trong lạnh đè bụi. Ánh nắng vàng trong suốt, giữa giờ ngọ ấm áp như một lò sưởi thiên nhiên trên không. Con Trời đã trở về. Mọi người đều ra cổng đón, tự phát xếp thành hai hàng đón Con Trời, giống như đón một người cấp trên của cấp trên cao nhất. Hơn nữa khi cỗ xe ngựa vừa đổ còn vỗ tay nhiệt liệt. Con Trời hỏi mọi người:
- Nhân viên thực nghiệm đâu?.
- Đi rồi ạ – Có người trả lời – Hôm qua cậu ấy giơ cao năm ngôi sao ra đi rồi.
Một nét bất ngờ và không vui thoáng qua mặt Con Trời.
Trông cảnh tượng và sự đổi mới hoàn toàn trong sân và ngoài cổng, vẻ bất ngờ trên mặt Con Trời biến mất.
Từ xe ngựa Con Trời đứng lên, niềm hưng phấn trên mặt hoà trong ánh nắng mặt trời lúc đó.
- Đi rồi, thì cậu ấy không được gài bông hoa này.
Tiếc thay cho cậu nhân viên thực nghiệm, Ngài tươi cười huơ huơ bông hoa lụa đỏ to bằng miệng bát lên không trung, như con bướm hoa đỏ ẩn hiện trên mặt Ngài. Con Trời cười, quay nhìn người cầm cương và con ngựa hồng màu táo tầu chở gạo tẻ và bột mì, đi về nhà bưng ra một hộp gỗ nho nhỏ, lại leo lên đứng cuối xe ngựa hỏi:
- Ai quét cổng này?
Một giáo sư đứng tuổi đứng lên trước. Con Trời đưa cho ông hai bông hoa nhỏ.
- Ai đã quét sân khu doanh trại và cửa nhà ta?
Lại có một giáo sư đứng ra, Con Trời đưa cho ông ba bông hoa nhỏ.
- Ai đã viết dán câu đối mừng lớn dán ở cổng?
Nhà ngôn ngữ học 68 tuổi đứng ra. Nụ cười trên mặt ông rạng ngời và ngây thơ như thiếu niên nhi đồng. Khi đến trước mặt Con Trời, ông còn cúi gập đầu, lại quay nhìn những anh em phạm nhân bên cạnh, không ngờ mọi người đều nhìn ông đang cười, có những tiếng vỗ tay lẹt đẹt cổ vũ thiện chí vang lên. Lần này, Con Trời không cho nhà ngôn ngữ học hai, ba bông hoa hồng, mà trực tiếp cho ông hai bông hoa hồng loại vừa bằng bàn tay trẻ con, tương đương mười hoa hồng nhỏ. Khi nhà ngôn ngữ học nhận hai bông hoa hồng vừa, hai tay ông run run, định nói gì không nói ra, lấy răng cắn môi dưới, tiếng vỗ tay đằng sau lại nổi lên như sấm dậy, kéo dài không dứt.
Từ đó về sau, khu chín mươi chín hoàn toàn sôi động.
Bởi vì Con Trời và cậu nhân viên thực nghiệm phát hiện ra thuật luyện gang thép bằng cát đen, đã giải quyết không chỉ việc của khu chín mươi chín, mà còn cả việc luyện gang thép của khu dục tân toàn vùng Hoàng Hà, cho đến cả tỉnh, cả nước. Sự kiện này cần phải coi là tấm gương điển hình giới thiệu ra toàn huyện, toàn tỉnh, toàn quốc, để cho những con mắt lạnh lùng của toàn thế giới nhìn trí tuệ của phương Đông đã giải quyết nan đề bằng phương pháp thủ công như thế nào. Để hình mẫu này sáng chói huy hoàng nổi bật, việc đầu tiên cần phải giải quyết là cấp trên nhanh chóng chở đến một xe nam châm, hình tròn, hình vuông hoặc là nam châm móng ngựa hình chữ “U”. Có nam châm, khu chín mươi chín sẽ có thể đi đến bên bờ sông Hoàng Hà xây lò luyện, làm nhà ăn, nhà ở rải khắp chốn hoang vu ngoài tám mươi dặm, cứ dọc đê Hoàng Hà đào xây từng dẫy từng hàng lò luyện gang thép, khai thác vật liệu tại chỗ, chặt những cây liễu, cây dương, cây du, cây gai và cát đen, bắt đầu một sử thi luyện gang thép gây chấn động toàn quốc, toàn thế giới.
Trong những ngày chờ đợi nam châm, người của khu chín mươi chín đều viết thư quyết tâm và đơn kiến nghị lên Con Trời, ngày nào cũng cất giấu rìu, cưa, chổi và dụng cụ nhà ăn trong hòm hoặc trong chăn. Có những dụng cụ này, quét nhà quét sân sẽ được thưởng một bông hoa hồng nhỏ, lấy chậu sành ra bờ sông bưng nước vẩy lên đất đã quét cũng được một bông hoa. Giáo sư tôn giáo ra nhà vệ sinh, bởi không tìm thấy xẻng hót hố đầy phân, liền xắn quần nhảy xuống lấy hai tay bốc vét phân cho vào thùng gánh ra ruộng mạch, hố phân đã vét hết, ông ra bờ sông rửa chân tay, rồi dơ hai tay đỏ thấu, rét cóng, nhận một, hai bông hoa loại vừa to bằng bàn tay trẻ con của Con Trời ban thưởng.
Trong mấy ngày, đã có người vốn chỉ vài bông hoa nhỏ đã lên đến mấy chục bông, đã có người vì đầu giường, trước bàn không dán hết bông hoa nhỏ, đã đem đổi lấy mấy bông hoa vừa, hoặc một hai ngôi sao to năm cánh.
Trong lúc hoa hồng và sao năm cánh của mỗi người đều bội thu, đều được mùa, thì một bao tải nam châm cùng học giả và nữ nghệ sĩ được một xe ngựa chở về. Xe ngựa về khu chín mươi chín lúc mặt trời lặn. Tiếng cót ca cót két, lục cà lục cục vang trong không khí trong lành yên tĩnh của mùa đông từ xa xa vọng lại. Các phạm nhân đang thu dọn sân cổng đã cất tiếng gọi ra xa:
- Chở nam châm về cho chúng tôi phải không?
- Phải - Người đánh xe đáp to, đứng trước xe, vung roi kêu vun vút, vó ngựa bập bập bập đi vào khu chín mươi chín. Người nọ truyền người kia, đua nhau từ trong nhà ngoài sân ùa ra cổng. Khi xe ngựa đến, ai cũng nhìn thấy học giả và nữ nghệ sĩ ngồi sau xe. Hai người lần lượt ngồi ở hai bên xe, người nào cũng đội mũ cao có chóp nhọn hồ bằng giấy, trước mũ đều viết hai chữ “Tội nhân”, trước ngực còn treo hai tấm biển giấy một thước vuông. Biển nào cũng có ba chữ đen to “Tội thông dâm”, hơn nữa bên cạnh chữ còn vẽ tranh một nam một nữ ôm nhau làm bậy trên bãi cỏ. Nhìn kỹ thì đúng là giống học giả và nữ nghệ sĩ. Chỉ sơ sài mấy nét, mà có hình tượng, có hồn cốt mùi vị. Những chữ viết theo thể chữ Nhan ngang đều sổ thẳng, phong cách viết tháu cuồng loạn, như cây đầy cành lá bị gió thổi ngả hẳn về một bên. Trong khu dục tân có nhiều nhà thư pháp, họ đều là những thợ giỏi viết biểu ngữ, vẽ tranh tuyên truyền, như thợ cày giỏi, thợ đánh xe sành sỏi. Học giả và nữ nghệ sĩ đeo biển và đội mũ chóp cao có tranh chữ, để lâu năm sẽ có giá. Khi xe dừng ở trước cửa, hai ạnh chị ngẩng lên nhìn phạm nhân rất quen thuộc đứng lố nhố, Trong tay nữ nghệ sĩ cầm một lọ thước tím, mặt chị cũng xanh xao, vàng vọt, có mồ hôi thấm ra. Mái tóc chị rủ xuống dính trên mặt đổ mồ hôi, giống như một con điên chạy ra khỏi bệnh viện tâm thần. Chiếc áo đã từng có màu đỏ tươi sạch sẽ chỉnh tề, nay dính đầy bùn đất và bụi, còn có mấy lỗ thủng ở vai và ngực, mền bông bên trong lộ ra đen đen nhờ nhờ, vấy bẩn người chị. Trái lại, học giả không thế, quần áo ông không rách, nhưng trên mặt chỗ nào cũng bị đánh thâm tím và tụ máu. Ông mím chặt hai môi, giống như một vết dao rạch sâu vắt ngang mặt. Trên trán ông có hai cái bướu to, vì giá rét đã đông cứng, hơn nữa cổ tay trái ông bị gẫy phải buộc dây đay đang giấu sau tấm biển thông dâm.
Khi hai người bị diễu đấu ở các khu dục tân, các phạm nhân đứng xem đòi hai người diễn lại cảnh thông dâm trên sân khấu, bởi từ chối nên bị đánh. Nửa tháng trước, hai người còn lành lặn hẳn hoi, bây giờ trở về, họ không còn hình hài như trước. Nhìn mọi người, hai người nhẩy xuống xe. Nữ nghệ sĩ xuống trước. xuống rồi, chị đỡ học giả cùng xuống. Đến bây giờ, mọi người đều mới thấy học giả bị đánh què, đi bước nào cũng phải quỳ. Nhưng ánh mắt ông cứng cỏi, không một chút mềm yếu của kẻ chuộc tội, nhìn mọi người như nhìn đám học trò và bạn bè phản bội mình.
Từ đám đông, tôi lui về đằng sau, không hề để ánh mắt mình chạm vào ánh mắt của học giả và nữ nghệ sĩ.
Sau khi xuống xe, học giả và nữ nghệ sĩ đứng sóng đôi cạnh xe ngựa. Nữ nghệ sĩ cúi đầu, còn học giả vẫn ngẩng đầu, hình như rất khinh bỉ nhìn mọi người. Trông dáng vẻ, học giả đầy ngạo mạn và tự phụ như cậu nhân viên thực nghiệm lúc ra đi. Ai cũng tỏ ra rất khó hiểu, hỏi nhau, vì sao ông đã đi thông dâm, mà lại còn dám nhìn mọi người bằng ánh mắt như thế. Được cái khi nữ nghệ sĩ nhìn ánh mắt học giả, chị đã giật gấu áo ông. Ông vùng vằng cáu tiết vẫn còn muốn làm theo ý mình. Nhưng cuối cùng ông đã cúi xuống,Sau khi cỗ xe ngựa dừng lại hẳn, Con Trời mới ra khỏi nhà, Như một con chim sẻ, Ngài bay nhảy lên xe ngựa. Thấy người đánh xe chỉ vào bao tải đay trên xe, Con Trời liền mở ra, thấy trong bao tải chứa đầy nam châm thỏi dài và nam châm móng ngựa hình chữ U, nam châm mới hoàn toàn, đen bóng loáng, một cực sơn đỏ, một cực sơn xanh, trên sơn đỏ viết chữ “A”, trên sơn xanh viết chữ “B”.
Khi Con Trời trông thấy bao tải nam châm, nét mặt chợt bừng sáng, cầm một cục lên xem, song chúng hút chặt vào nhau không gỡ ra được, cuốí cùng Ngài đạp hai chân vào bao tải, hai tay kéo thật mạnh, mới lấy ra được một thỏi hình chữ U. Sau rốt, từ đống nam châm, Ngài lấy ra mấy cục chia cho từng người đứng trước xe ngựa. Cứ trao một thỏi, Con Trời lại hỏi một câu:
- Ngày mai xuất phát, chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi chứ?
Người nhận nam châm gật gật đầu, hoặc đáp to “Vâng!”
- Luyện thép lần này anh có quyết tâm không?
Có người cười đáp:
- Tôi chờ sốt ruột cả lên.
Cuối cùng, sau khi mỗi người nhận một cục nam châm vẫn còn đứng trước xe ngựa chờ một việc. Con Trời biết ý mỉm cười, về nhà lấy hộp gỗ, lại phát cho mỗi người một bông hoa hồng nhỏ, y như bố mẹ cho các con tiền mừng tuổi ngày tết. Sau khi ai nấy hồ hởi đem hoa nhỏ về nhà tập thể, Con Trời nhìn học gỉa và nữ nghệ sĩ vẫn đứng ở mép đường ngoài cổng, Ngài liền lấy trong bao tải thỏi nam châm cuối cùng đưa cho nữ nghệ sĩ.
2. LỐI CŨ
Sáng hôm sau, trời còn tối mù mù, khu chín mươi chín đã thức dậy, chuẩn bị đi đến bên bờ sông Hoàng Hà.
Bó hành lý, buộc ba lô, gói tạp vật, lại còn chất lên xe cải tiến nào nồi chảo, gầu chậu, muôi thìa, bát đĩa và dầu muối, tương dấm, gạo, bột mì. Khi đằng đông trắng lờ nhờ, bốn trung đội hơn một trăm hai mươi người,đều tập trung ở cổng. Nhưng khi sắp hành quân, chợt phát hiện trong hàng ngũ có nữ nghệ sĩ, nhưng không có học giả. Người ở cùng nhà với học giả báo cáo, hôm qua học giả từ Tổng bộ về không ăn cơm tối, cũng không nói chuyện với ai, suốt đêm không cởi quần áo, chỉ ngồi trên giường, hai mắt nhìn đi đâu đâu ở phía trước, mím hai môi thành một đường kẻ, cứ tưởng trong lòng oan ức, ngồi ở đầu giường suy nghĩ, nghĩ mệt sẽ đi ngủ. Nhưng sáng nay mọi người thức dậy, học giả vẫn ngồi tại chỗ, mắt nhìn thẳng phía trước.
- Anh không đi Hoàng Hà luyện gang thép sao?
Học giả im lặng.
Người ấy nói:
- Anh được bố trí ở lại coi doanh trại phải không?
Giáo sư cùng nhà hỏi.
Hai môi học giả vẫn mím thành một đường thẳng, y như khâu lại với nhau.
Vẫn im lặng.
Học giả ngồi ở đầu giường như một bức tượng đất.
Sau khi thổi còi ba tiếng, các phạm nhân đều không hỏi không nói, vội ra sân tập họp. Đến khi đội ngũ sắp đi, cuối cùng thấy học giả không có mặt, ai cũng ý thức đến vấn đề trời xa đất rộng, nghĩ đến chuyện học giả sẽ tự sát, vội vàng dẫn Con Trời đi sang dẫy nhà tập thể của trung đội ba.
3. CON TRỜI (Có lược bớt)
Học giả, ngồi ngay ngắn ở đầu giường, co hai chân, tựa lưng vào tường, ánh mắt nhìn chằm chằm ra cửa sổ có ánh sáng.
Con Trời bước vào hỏi:
- Có nhiều cơ hội giành hoa, bỏ lỡ sẽ bị tổn thất lớn.
Học giả im lặng.
Con Trời hỏi:
- Ngươi muốn ở lại coi doanh trại? Nhưng ở đây đồng hoang không người, khỏi cần canh giữ.
Học giả im lặng.
- Ngươi không đi luyện thép?
Học giả im lặng.
- Biết rồi, ngươi đang nghĩ, sau khi chúng ta đi sẽ tự sát. – Con Trời như tỉnh giấc – Ta biết, ngươi hận thuật luyện gang thép cát đen. Ngươi tự sát, khu chín mươi chín xảy ra sự cố, ta sẽ không được lên địa khu, lên tỉnh, tham dự đại hội.- không được vô số hoa hồng và bằng khen.
Học giả ngước nhìn Con Trời, tỏ vẻ thương hại.
- Vậy tại sao?
Con Trời rất thắc mắc, bước đến trước giường học giả nửa bước.
- Đi luyện đi, ta phát cho ngươi hoa hồng như thường, ngươi giành đủ một trăm hai mươi bông hoa, sẽ về nhà tự do.
Cuối cùng, học giả nhìn mặt Con Trời, nhìn thẳng ra hướng cửa sổ, cười gằn. - Bây giờ ta phát cho nhà ngươi năm bông hoa hồng được không?
Học giả im lặng.
- Phát cho nhà ngươi một bông hoa loại vừa bằng bàn tay trẻ con, coi như bằng năm bông hoa hồng nhỏ?
Học giả im lặng.
- Phát cho ngươi hai bông hoa vừa? Ba bông hoa vừa?
Học giả vẫn im lặng, không nhìn mặt Con Trời. Con Trời quay đầu nhìn trời bên ngoài cửa, tỏ ra bất lực. Lại đột nhiên nói to:
- Cho nhà ngươi bốn bông hoa vừa được không? Cho hẳn ngươi một ngôi sao năm cánh, có đi không? Nhà ngươi không nói, chính là định phá bỏ thuật luyện gang thép cát đen, phá bỏ gương điển hình của khu chín mươi chín, Ngươi phá bỏ gương điển hình, chẳng thà hãy cho ta ăn một nhát dao cầu cho xong, để ta học con bé không sợ chết. Bây giờ ta đi lấy dao cầu. Hoặc là ngươi cùng anh chị em đi đến bờ sông Hoàng Hà luyện gang thép, hoặc là ta vác con dao cầu ra đây để ngươi cắt cổ ta cho xong.
Con Trời nói rồi quả nhiên bước đi.
Người vây quanh né ra, giành lối đi cho Con Trời. Ngài đi như gió, y như một cơn gió thổi vào một ngõ phố. Nhưng khi ngài đi nhanh ra khỏi nhà ngủ trung đội ba, ánh sáng ở đằng đông xả tới trong như băng sạch như ngọc. Con Trời đi thoăn thoắt, định vác dao cầu ra, để học giả chém một nhát đứt cổ, cho Ngài được toại nguyện.
Con Trời đi vào nhà trong ánh mắt của đám đông.
Nhà văn cũng đi theo vào nhà.
Họ trao đổi với nhau nhiều chuyện.
Lát sau Con Trời đi ra tay không. Nét mặt căng cứng trắng bệch đã dịu bớt. Ngài đứng ở cổng, thổi còi đồng, gọi người đang tán loạn ra cổng tập trung trở lại. Con Trời nhìn nữ nghệ sĩ luôn luôn cúi gằm dưới trụ tường cổng, nói:
- Người lại đây, nghe ta, ta cho ngươi hoa hồng.
Vừa nói Con Trời lại vừa đi đến nhà ngủ trung đội ba. Nữ nghệ sĩ do dự, nhưng cuối cùng vẫn đi theo Con Trời.
Đằng đông nắng tươi hồng. Nữ nghệ sĩ theo Con Trời, đến nhà ngủ trung đội ba. Con Trời đứng ở cửa nói chĩa vào.
- Khỏi cần ngươi cắt cổ ta, ta biết ngươi khó ra tay. Cũng khỏi cần, ngươi hãy cùng anh chị em đến bờ sông Hoàng Hà luyện gang thép. Ta đã nghĩ, ngươi không nói, không cải tạo, nhưng việc ngươi phải làm, đều do nữ nghệ sĩ làm giúp. Dù sao thì hai người đã yêu nhau, ngươi không đi, chị ấy phải đi. Chị ấy đi, một người phải làm công việc của hai người, việc của ngươi, chị ấy sẽ làm thay.
Con Trời nói xong bỏ đi.
Để lại lời nói trong nhà, như giữ con tin, Con Trời đi ra cổng, nhìn sắc trời và đội ngũ, vừa thổi còi, vừa vẫy tay, dẫn đoàn người đi theo hướng bắc.
Quả nhiên, khi đội ngũ xuất phát, trẽ qua góc tường phía đông khu doanh trại, thì học giả đã đuổi theo sau. Chân anh què, như con chó bị gẫy cẳng đáng thương cũng cứ phải tập tễnh, lê lết bám theo chủ.
4. LỐI CŨ (Có lược bớt)
Khu chín trăm mười chín cách bờ sông Hoàng Hà hơn tám mươi dặm.
Trong hơn tám mươi dặm này, bãi đất chua mặn, mùa hè lầy lội, mùa đông khô cằn băng giá, trời chưa sáng đã thức dậy, khi mặt trời mọc, ánh nắng mới thật sự dọi vào bãi đất chua mặn. Mặt trời tròn vành vạnh như một vũng nước vàng đọng trên đường chân trời đằng đông, gắn trời đất dính kết lại với nhau. Trong bãi có tiếng chim hót màu sương thanh lạnh. Lúc đầu chỉ có một tiếng hoặc vài tiếng, sau khi ngọn lửa đằng đông chói mắt, tiếng chim mới từ thưa thớt rộ lên dòn tan.
Mặt trời cũng sáng láng hẳn một vùng.
Bãi chua mặn bằng phẳng cũng trắng xoá mênh mông.
Mồ hôi cũng toã ra trên mặt trên thân người.
Các giáo sư đều đeo chăn nệm, hành lý và chảo bát, dùng mấy xe cải tiến chở lương thực và mỡ muối, tiến đến bờ sông Hoàng Hà. Con Trời giống như chú chim lanh lẹn, bay lên trước nhất, men theo lối Ngài và cậu nhân viên thực nghiệm đã đi, lên thẳng phía bắc, vòng theo bãi chua phèn mùa hè là vũng nước, mùa đông khô cằn. Trong bãi trũng trơ trọi, thi thoảng có vài khóm cỏ hình tháp nổi trên đống đất. Trong cỏ cũng thỉnh thoảng có chim sẻ hoặc chim hoang khác bay lượn trên trời hoặc lao giữa trời đất, kêu the thé thanh dòn như đàn bà nhai phải ớt.
Đoàn người đi hàng một trong hoang vu mênh mômg, giống như một hàng én cô độc dưới gầm trời bao la. Mùi trắng mục của bụi cây hình tháp, mùi mằn mặn cuả muối kiềm, mùi gốc của cây gai, có cả mùi nắng ấm mặt đất lúc sáng sớm và mùi giá lạnh trong không khí, hoà quyện thành mùi lưu huỳnh kiềm vàng vàng trăng trắng hết sức độc đáo của đồng hoang vắng vẻ, không nhìn thấy nhưng rất nồng rất đậm lẫn trong không khí.
Đi trên cùng, một lá cờ đỏ cắm trên xe tung bay cuồn cuộn, kêu phần phật trong gió, như đội ngũ luôn luôn đi bên một dòng sông, mỗi mgười là một sợi kéo dài, ngoằn nghoeò, luôn luôn vang tiếng thúc giục róng riết “bám sát”, “nhanh lên” và “ai rớt sẽ bị trừ hoa hồng”, từ trên đầu truyền đến sau cùng. Học giả và giáo sư tôn giáo đi sau rốt. Học giả chống gậy, cứ bước một bước, đều như kéo lê một bao cát trên mặt đất. Giáo sư tôn giáo được giao giúp đỡ học giả, không được để học giả tụt lại sau, càng không được để học giả bất ngờ dừng lại.
- Anh học vấn cao hơn tôi, nghe kể, anh đã tham gia chỉnh sửa “Tư bản luận”. – Giáo sư tôn giáo nói – Anh có biết khi người Y-sơ-ra-en ra khỏi Ai cập, dọc đường theo Mosheh chịu khổ thế nào không?
Học giả cũng không nói gi, vừa nghe vừa đi lên trước.
- Dọc đường không biết chết đói bao nhiêu người, chết mệt cũng nhiều, hết ngày lại đêm, hết thu sang đông không đi ra khỏi Ai cập, không đến nổi Canaan; nhưng chúng ta – Giáo sư tôn giáo đổi hành lý từ vai trái sang vai phải, lại đi lên trước, xách cái túi màu xanh vải bạt của học giả trong tay mình - tám mươi dặm, khẩn trương lên một chút, trước khi trời tối sẽ đến bên sông Hoàng Hà.
Cuối cùng không ai rơi lại đằng sau, đến giờ ngọ, trong hoang dại đã nhìn thấy một ao nước chắn trước mặt, mặt nước đóng băng, cỏ nước và lau sậy ra hoa mùa hè khô héo trên mặt băng, giống như một mái tóc rối không chải bao giờ xoã ngả nghiêng. Vậy là họ ngồi quanh ao nghỉ ngơi, đập băng đun nước, sau khi ăn lương khô đoàn người lại lên đường theo hướng chính bắc. Có ai qủa tình không đi nổi, thì ngồi lên xe phía trước, chỉ ngồi song phải lấy một hai bông hoa của mình tạ ơn người kéo xe.
Thế là một ngày hối hả trôi qua, khi được nửa đường, có người rộp phồng chân, có người vứt bớt đồ không dùng trong hành lý. Nữ bác sĩ có tuổi lấy tai nghe và máy đo huyết áp luôn luôn giấu trong hành lý treo trên một cây gai cạnh đường, dù có người bệnh sắp chết chị cũng mặc.
Lúc sắp hoàng hôn, quay lại nhìn, có thể thấy giầy tất rơi trên đường, mũ rách, cán xẻng, cán búa vứt đi, còn có một chiếc quần mới nguyên của nữ giáo sư, Rõ ràng là đội ngũ đã không sao còn lê nổi, nhưng dọc đường lại không có tiếng thở dài và kêu oai oái, rõ ràng có người ngồi bệt xuống vệ đường không muốn đi nữa, nhưng phía trước chợt có tiếng vọng lại:
- Không thấy à, đường xam xám cao hẳn lên mặt đất trong ánh mặt trời lặn chính là con đê lớn Hoàng Hà!
Lời nói truyền về phía sau, truyền đến cuối cùng là một câu:
- Ai đến trước được thưởng năm bông hoa, ai đến sau phạt kẻ đó năm bông hoa, người đến cuối cùng không chỉ phạt hoa mà còn phải đắp bếp nấu cơm cho mọi người.
Bước chân của đoàn người bỗng nhanh hơn, những ai trẻ còn chạy lên phía trước, như lao về hướng đê sông Hoàng Hà trong hoàng hôn. Cỏ và cành cây kêu rào rào lạo xạo dưới chân. Anh chàng cầm cờ vừa chạy, vừa hô khẩu hiệu, vừa hát. Lá cờ như một búi lửa bay trên đầu. Sau đó ngay đến giáo sư tôn giáo cũng bỏ học giả lại, nhanh bước đuổi theo người đằng trước. Ông vừa chạy vừa nói với học giả một câu “xin lỗi”, liền đặt hành lý của học giả trên đất. Đàn ông và đàn bà, người lớn và người bé, giáo sư và giảng sư, y như bầy ngựa vượt lên giành thắng lợi, tiếng cười và tiếng gọi, hết đợt này đến đợt khác, cuồn cuộn trên đất bãi, phá vỡ cảnh tĩnh lặng hàng ngàn năm của đất bãi Hoàng Hà, khiến bờ bãi sông Hoàng Hà sôi động lên. Liền có ngay một giảng sư trẻ tuổi đến bên sông Hoàng Hà trước, đứng trên lò luyện của Con Trời và nhân viên thực nghiệm xây, giơ cao lá cờ đỏ tươi lên không trung vẫy mạnh, tiếng kêu ào ào phần phật, làm cho ánh chiều tà cũng nhạt đi, xa vời như bụi khói phủ trên đài đốt lửa. Còn học giả đi sau cùng kéo lê cái chân què đi lên trước, nhặt chiếc túi hành lý vải bạt của mình, nhìn đám người ngựa chạy, hô khẩu hiệu, hoan hô và cờ đỏ. Học giả đứng ngẩn người tại chỗ, lại mím chặt môi dưới, cảnh mờ mịt vô tận trùm lên khuôn mặt ông, như hơi mù mùa đông bao phủ trên bãi đất chua phèn.
Giữa lúc ấy, tôi cố ý rớt lại phía sau đội ngũ, cuối cùng có cơ hội bước đến nhận hành lý trong tay học giả, nói:
- Đến nơi rồi, đừng vội.
Học giả nhìn tôi, cười, rất cảm động nói ba tiếng:
- Cảm ơn anh!
Tôi không nhận ra ý châm biếm và không vui trong câu nói ấy. Xét cho cùng, thì học giả và nữ nghệ sĩ vẫn không biết họ bị bắt bởi tôi đã viết “Tội nhân lục” báo cáo về họ.
5. CON TRỜI (có lược bớt)
Ban đầu, Đức Chúa Trời tạo nên trời và đất, chia ra ngày và đêm.
Thì có như thế.
Con Trời nói:
- Các ngươi ở đây, nữ ở đằng kia.
Nam ở riêng, nữ ở riêng. Dưới vệ đê sông Hoàng Hà, trong bãi hoang, tuỳ theo địa hình, thế đất, gốc cây, họ làm nhà, dựng am, cắt cỏ tạp, lau sậy, cây gai mọc chỗ bờ ao, nơi đất trũng để che lợp. Thế là có nhà. Những lều bạt chở đến được căng lên, thế là có chỗ ở. Xây đá lên, nhóm củi nấu, thế là có cơm. Lấy nam châm hút cát đen, gom thành đống, thế là có cát gang.
Theo quy định, cứ năm người một lò nhỏ, liền có năm người. cứ mười người xây một lò to, liền có mười người.
Người đi trên đất, mặt đất đỡ chân người đi tìm cát đen. Đi tìm chỗ dòng nước chảy, giữ một đường cát đen dạt vào bờ, lấy nam châm hình chữ U và hình thỏỉ đặt lên cát đen trong bãi cát, đi nhẹ nhàng, dùng quần áo, dùng vải ba lô đựng cát, vác đến cạnh lò luyện, dăm ba hôm sau trong lò sẽ lăn ra một cục gang.
Đức Chúa Trời phán, khế ước vĩnh viễn Ta lập với các ngươi và các loại vật sống ở đây của các ngươi đều có ký hiệu. Ta đặt cầu vồng trong mây màu, đây là ký hiệu giao ước giữa Ta và trái đất. Ánh sáng giống như cầu vồng. Lửa giống như ánh sáng. Lửa trong lò từng mảng từng khối, cháy bập bùng hết đợt này đến đợt khác, suốt ngày suốt đêm, sưởi ấm trái đất và thế giới hoang lạnh, chiếu sáng đêm tối và băng giá. Những thỏi gang Con Trời xếp trước cửa, có màu đen, màu xanh, có cái tròn cái dẹt, cái cục cái khối, cứ xếp thành đống. Ban ngày, mầu của gang đỏ nhạt. Ban đêm gang có mầu trăng thanh sao sáng, bay men theo Hoàng Hà, bao phủ quanh nhà Con Trời, giống như hơi nước trên hồ làm trôi nổi con thuyền.
Con Trời ở vạt đất trũng xa cụm lò.
Trong đất trũng có cây. Lều dùng gậy căng lên. Bốn góc buộc vào gốc cây hòn đá. Đá và củi cỏ đè mép lều. Trong lều phủ cỏ dầy, Con Trời có lều bạt sưởi ấm che gió. Đèn bão treo ở nóc lều bạt. Gió thổi, trên lều có tiếng kêu vu vu như sáo, đèn bão lắc lư trên không, ánh sáng như nước chảy dưới ánh mặt trời. Nhà văn bước vào nộp quyển nhật ký “Tội nhân lục” anh viết, giấy ô vuông kẻ ngang, chữ nắn nót.
- Ngươi ngồi xuống – Con Trời nói.
Nhà văn ngồi dưới đèn, bóng lù ù, giống như cục gang đen dưới sáng trăng.
- Nói xem xem. – Con Trời đang dở lung tung một quyển sách. Vừa dở vừa nói, tay dừng trên trang sách.
- Hôm mới đến – Nhà văn nói - lại thấy học giả và nữ nghệ sĩ ở bên nhau. Chị ta còn giúp anh ta xách hành lý.
- Còn phát hiện - Nhà văn tiếp - không biết chị ta kiếm đâu ra ớt và dưa muối cho học giả ăn.
- Ngươi dám tin không?
Nhà văn nhìn mặt Con Trời.
- Giáo sư tôn giáo bề ngoài tốt, nhưng bên trong ông ta xem – Đánh chết cũng không dám tin - lại là cuốn “Tư bản luận”mà học giả đã từng tham gia dịch và chỉnh sửa theo ý trên, to thế này, dầy ngần này – Nhà văn ra hiệu, nói to hơn – Ông ta khoét quyển “Tư bản luận” to dày một lỗ nhỏ, giấu quyển “Thánh Kinh” bé xíu vào trong quyển “Tư bản luận”, ai cũng tưởng ngày nào không có việc ông ta xem sách qui định trong tài liệu, thực ra ông ta xem “Kinh Thánh” kẹp trong “Tư bản luận”.
Nét mặt Con Trời có vẻ ngạc nhiên.
- Sách giấu trong chăn ông ta gấp.
Nét mặt Con Trời có vẻ ngạc nhiên.
- Nữ bác sĩ là kẻ cắp. Hàng ngày trông thấy người khác thu thập cát đen để chỗ vắng, chị ta liền đến bốc một nắm bỏ vào túi bột mì chị ta xách.
Nét mặt Con Trời có vẻ ngạc nhiên.
Nhà văn nói:
- Những chuyện này tôi đều đã ghi vào trong “Tội nhân lục”
Con Trời ngớ người ra một lát:
- Hôm nay ngươi muốn ta thưởng cho ngươi mấy bông hoa hồng?
Nhà văn thèn thẹn:
- Tuỳ ngài!
Con Trời quay người, đi ra đầu giường, lấy hộp gỗ trong hòm gỗ, lấy ra ba bông hoa nhỏ, nhà văn giơ tay nhận. Hoa nhỏ đã nở trong tay nhà văn, còn có một quyển giấy nháp và lọ mực xanh.
Nhà văn được thưởng, đi ra khỏi chỗ Con Trời.
Con Trời cũng đi ra. Việc thế là thành. Con Trời giao hẹn với những người thu cát, mỗi người mỗi ngày phải nộp mười bát cát đen. Luyện gang thép năm ngày phải ra một lò. Số gang mỗi lò không ít hơn một làn liễu to, nặng 300 cân. Những người chặt cây không được để lò tắt lửa. Con Trời đi ra đứng trước lều bạt. Gió lạnh thổi vù vù, lò cháy sáng. Đê Hoàng Hà chắn không nổi tiếng nước chảy ầm ầm vượt qua. Mọi người đều nghỉ, nằm trong am trong nhà, Những lò đào xây theo đê lửa cháy rừng rực sáng đỏ nửa bầu trời và thế giới. Con Trời đứng trên một thỏi gang nhìn chỗ am xa xa. Sau khi trầm tĩnh, giáo sư Tôn giáo không biết từ đâu đến, đứng trong ánh sáng, cạnh thỏi gang, nghe Con Trời nói một câu:
- Nhà ngươi to gan!
Giáo sư tôn giáo sợ dúm người, nhìn Ngài.
- Mồm cứ xoen xoét đã nộp hết, nhưng ngươi đã giấu một quyển nhỏ trong quyển to, ngày nào cũng xem, cứ tưởng ta không biết phải không?
Giáo sư tôn giáo quỳ sụp xuống, môi run run, định nói, lại thôi.
- Xéo về, đem sách nộp.
Nói xong Con Trời trở về am.
Về trong am, ngài uể oải vươn vai, ngồi xuống ghế. Chỉ trong phút chốc giáo sư tôn giáo đã quay trở lại, đứng xo ro trước mặt Con trời một bước, thân vẫn còn run, hình như sẵn sàng quì sụp xuống một lần nữa. Con Trời nhận quyển sách to khổ 16, dầy như viên gạch, bìa cứng đen đỏ, đóng rất đẹp. Trên sách đề “Tư bản luận”, còn có cả tên tác gia dài dài. Quyển sách này, trong văn bản ra sức quảng cáo giới thiệu, yêu cầu ai ai cũng phải đọc. Quyển sách này quen thuộc, Con Trởi quen thuộc như cái bát mình ăn cơm. Nhưng Con Trời chưa từng đọc bao giờ, y như khi ăn cơm không khi nào nhìn bát. Ngài giở xem, sau hơn hai chục trang quả thật, trong quyển sách có khoét một cái lỗ rộng hai tấc dài ba tấc, có lỗ sâu một tấc, đặt vừa khít một quyển “Kinh Thánh” nhỏ, không có bìa, chỉ có ruột, chữ trong ruột nhỏ li ti như cứt ruồi, y như cát đen xếp hàng chỉnh tề xô đến với nam châm. Gập sách lại, Con Trời lườm giáo sư tôn giáo một cái, Ông ta hốt hoảng lại quì sụp xuống. Bên ngoài có tiếng người đi, gọi rõ to:
- Lò số 2, cho thêm củi.
Hết tiếng nói, lại yên tĩnh, ngoài tiếng lửa tí tách lép bép, và tiếng nước xa xa, vạn vật đều im phăng phắc.
- Nhà ngươi có hai tội - Con Trời nói - Một là xem trộm “Thánh Kinh”, đây là tội lớn. Hai là khoét lỗ trên quyển sách “Thánh” thật, cũng là tội lớn. Tội cộng thêm tội, đưa ngươi lên Tổng bộ, còn nặng hơn tội thông dâm của Học giả và nữ nghệ sĩ, bắn chết cũng đáng đời. – Nói đến đây, Con Trời dừng một lát, như để suy nghĩ, lại lấy tay mở quyển sách lớn. Sách lớn kèm theo tờ sách nhỏ kêu loạt soạt lại gập vào – Ta thấy ngươi thành thực không đưa ngươi lên trên chuộc tội nữa, nhưng theo ngươi ta nên phạt ngươi thế nào?
- Thế nào cũng được- Giáo sư tôn giáo gật đầu rối rít như được đại xá – Ngài muốn thế nào cũng được.
Con Trời lấy sách nhỏ trong sách to:
- Ngươi đứng dậy - Giáo sư tôn giáo đứng lên. Con Trời vứt quyển sách nhỏ trước mặt ông – Ngươi đái vào quyển sách này, đái một bãi, xong là xong tất.
Giáo sư tôn giáo lại một lần nữa đứng chết lặng, nét mặt trắng bệch.
- Ngài bắt tôi chết cũng được, xin ngài đừng đối xử với sách như vậy được không? Sách này cả nước chỉ còn một quyển, những quyển khác đều bị thu đốt sau khi thành lập nước. Quyển này, tôi dùng tình cảm và tài sản trong nhà đổi lấy quyển sách độc nhất còn lại trong thư viện quốc gia. Đốt quyển sách này, cả nước không có sách nữa.
Vừa nói môi giáo sư tôn giáo vừa run run. giống như chiếc lá lay trong gió. Đêm giá lạnh nhưng mặt giáo sư tôn giáo lại toát mồ hôi. Con Trời liếc nhìn ông, hắng một tiếng:
- Không đái hả? Xéo về đi, đem nộp ta tất cả hoa hồng, nhà ngươi có đến năm mươi mấy bông phải không? Còn một việc nữa, nếu ngươi không đái lên quyển sách đó, ngoài phạt ngươi giao nộp hoa hồng, ngày mai ngươi còn phải kéo một xe gang cùng ta đi lên Tổng bộ hiến gang.
Con Trời trừng phạt ông, ông sẽ phải chọn một trong hai, hoặc là đái lên sách, hoặc là giao nộp mọi hoa hồng, lại còn cùng Con Trời kéo một xe gang như con lừa đi lên thị trấn dâng lễ, cả đi lẫn về ba trăm dặm, đi liên tịch ba ngày đêm, huống hồ còn kéo hai ba thỏi gang đúc đen, nặng năm sáu trăm cân.
Nhưng giáo sư tôn giáo nhận làm việc thứ hai.
6. CON TRỜI
Con Trời dẫn năm người kéo gang cát đi hiến lễ. Tất cả ba xe. Giáo sư tôn giáo kéo riêng một xe, còn hai xe kia do bốn phạm nhân kéo. Giáo sư tôn giáo mắc tội, lẽ ra phải tự kéo một xe, chỉ có điều khi leo dốc hoặc gặp chỗ lồi lõm, Con Trời phải đẩy giúp. Ngày đầu tiên lên đường, hôm sau đến thị trấn, mới biết khu chín trăm mười chín hiến gang cát lên Tổng bộ, Tổng bộ hiến lên huyện, huyện hiến lên địa khu, địa khu hiến lên tỉnh, cứ từng cấp từng cấp, hiến đến tận Kinh Thành.
Đến Kinh Thành triển lãm.
Việc thế là thành. Vĩ đại và hoành tráng hơn ta tưởng. Con Trời dùng cát đen luyện gang không những là một sáng kiến mà còn là một tuyên chiến mạnh mẽ nhất, giáng cho tất cả các nước phản động trên thế giới một đòn chí mạng. Từ đó trở đi, nhà nước đã có thuật luyện gang thép cát đen, khỏi phải nhập khẩu gang thép của nước khác.
Con Trời lên thị trấn, năm ngày không trở về, chỉ có tin tức đưa về như gió. Tin thứ nhất nói, thỏi gang cát đen, coi là quả bom nguyên tử bắn ra thế giới. Tin này khiến khu chín trăm mười chín kinh ngạc. Tin thứ hai nói, Con Trời trở về mang theo tặng thưởng, ngoài hoa hồng to, còn có hẳn một xe lớn chở lương thực và thịt. Tin thứ ba nói, chỉ cần đưa gang cát đến Bắc Kinh, trong khu chín trăm mười chín, sẽ có một loạt con người mới, đều được tự do về nhà như cậu nhân viên thực nghiệm. Vốn chỉ là tin, nhưng ai ai cũng sướng phát điên lên, tích cát, chặt cây, luyện thép đại qui mô, không cần ai thúc giục, mọi người hăng hái tự giác làm. Đang mùa đông, trời chưa sáng ai nấy đã thức dậy, ra bờ ao rửa mặt, mỗi lò luyện để lại một người coi, còn lại đều vượt đê lớn thu gom cát gang đen.Con Trời lên thị trấn. Thị trấn cách bờ sông Hoàng Hà những một trăm năm mươi dặm. Một làng quê, hàng mấy trăm con người, mới có một đường phố chính, trên phố có các cửa hàng, còn có Tổng bộ dục tân ở tận cuối phố đầu thị trấn. Tổng bộ là một khu nhà lớn. Chung quanh xây nhà ngói màu đỏ, các phòng làm việc đều treo biển gỗ chính là Tổng bộ.
Trong sânTổng bộ xếp các loại gang, hình vuông, hình chữ nhật, hình bầu dục, mầu xanh, màu xám, màu xanh đen, màu tro. Có người đang cân, ghi trọng lượng gang đúc của các khu. Có xe tải đang xếp gang đúc lên xe, tiếng va choang choang vang trên đường phố thị trấn.
Vang hẳn một vùng.
Có người hỏi.
- Chở gang đúc đi đâu?
Người xếp xe đáp:
- Đến nhà máy thép.
- Làm gì?
- Đù mẹ, ngu thế, không biết nhà máy thép lại luyện gang đúc này thành cốt thép, thành ống thép hay sao?
Vậy là người biết tác dụng của gang này. Ban đầu, gang đúc xếp trong sân như trái núi, có hai xe tải chở hàng ngày, hiện giờ gang đúc đã ít đi, các khu dục tân đều hết nguyên liệu luyện thép, Trong nửa tháng, xe tải mỗi lần đều đợi trong sân ba ngày cũng không xếp đầy.
Nguồn gang đã hết.
Trong các thôn trang chẳng nơi nào có mùi gang, chỉ thấy lò không và đất bùn nung cháy sém, đứng lù lù ở đầu làng, cạnh đường.
Giữa lúc này, nhân viên thực nghiệm và Con Trời tìm ra cát gang đen, có thuật luyện thép cát đen. Nhân viên thực nghiệm học vật lý, vật lý học kim loại. Cậu có thuật luyện gang cát đen, được thưởng năm ngôi sao năm cánh vể nhà. Con Trời liền chở mẻ gang cát đầu tiên từ bờ sông Hoàng Hà đi hai ngày về tổng bộ cấp trên. Cấp trên sờ gang cát, xoa đầu Con Trời, Con Trời đỏ mặt. Cấp trên phán, tặng Con Trời bằng khen, lại còn đọc chữ trên bằng khen trước đám đông. Hai chữ “bằng khen” đọc rất chậm sau đó đọc nhanh “Trong công cuộc xây dựng nhà nước, Con Trời đã có cống hiến to lớn và nỗ lực đối với sự nghiệp gang thép, nay cấp bằng khen để đặc biệt động viên khuyến khích”.
Bên dưới lại đọc tên Tổng bộ và thời gian,Con Trời lên nhận bằng khen trong tiếng vỗ tay, cấp trên đã gắn hoa hồng lớn lên ngực Con Trời.
Con Trời đã trở thành danh nhân đỏ của toàn bộ khu dục tân. Buổi tối hôm ấy, cấp trên mời Con Trời dự tiệc, cơm tẻ, bánh bao bột mì trắng, rau thịt, gà hầm có cả rượu. Con Trời nói:
- Cho gọi mấy người cùng tôi chở gang đến cùng ăn được không?
Vậy là lại sắp ra một mâm bên cạnh, người đến, ăn cơm tẻ, bánh bao bột mì trắng, rau thịt, không có gà hầm và rượu.
Trên mâm, cấp trên hỏi Con Trời:
- Cậu chưa lên tỉnh thành phải không?
Con Trời gật đầu.
Cấp trên im lặng suy nghĩ rồi hứa: - Hôm nay cậu cho ba xe chở đến một tấn gang, chỉ cần trong một năm, cậu luyện được 100 tấn, chúng tôi hứa với cậu, không những cậu được đi dự Đại hội điển hình của địa khu, mà còn để cậu đi dự đại hội điển hình của tỉnh, của Bắc Kinh.
Việc có như thế, nét mặt Con Trời đỏ ửng:
- Mỗi tấn cho tôi một bằng khen, một bao bột mì trắng, hai hoa hồng to. - Một trăm tấn tôi sẽ đi dự đại hội điển hình của tỉnh.
Con Trời chưa lên tỉnh thành bao giờ. Con Trời ao ước được đi tỉnh thành. Trên thị trấn có một đường phố. Huyện lỵ có ba đường phố, thành phố của địa khu ít nhất có ba mươi đường to ngõ nhỏ. Còn tỉnh thành có bao nhiêu đường phố?
Đã biết thị trấn, huyện và địa khu, nhưng Con Trời không biết tỉnh thành như thế nào.
Con Trời mơ tưởng đi tỉnh thành.
Con Trời nghĩ, luyện đủ 100 tấn gang, giành 100 bằng khen, 200 bông hoa hồng to.Lúc ấy Con Trời sẽ phải ăn tết ở tỉnh thành. Khi từ thị trấn trở về bờ sông Hoàng Hà, giáo sư tôn giáo gò lưng kéo xe, Con Trời ngồi chễm chệ trên xe, Con Trời nhìn bầu trời suy nghĩ hồi lâu mới nói:
- Giúp ta tính thử, 150 cân cát đen luyện ra được 100 cân gang, một trăm tấn gang, sẽ phải dùng bao nhiêu cát đen để luyện? Chúng ta có hai mươi lò to nhỏ, bình quân năm ngày ra một lần, bao nhiêu ngày mới luyện được 100 tấn?
Giáo sư Tôn giáo đỗ xe giữa cánh đồng vắng vẻ, lấy que vạch trên đất, mồm lẩm nhẩm, 100 cân gang, là 150 cân cát đen, một ngàn phải dùng 1500 cân, mỗi tấn cần có 3000 cân cát gang đen. Nếu hai mươi lò, bình quân mỗi lần, luyện ra 300 cân gang, hai mươi lò, là 6000 cân gang, như vậy mỗi lò luyện sẽ phải luyện 35 lò gang, sẽ luyện được 105 tấn. Nếu năm ngày năm đêm luyện một lò, bình quân ba mươi lăm lò sẽ phải luyện một trăm bảy mươi lăm ngày, vừa đúng sáu tháng trời.
Nói xong tính xong giáo sư tôn giáo đứng dậy, mặt đất cạnh đường bị ông viết viết gạch gạch tứ tung, y như cua bò, niềm vui đi liền với đau khổ, nét mặt Con Trời tỏ ra mù mịt và thất vọng.
- Vậy cần hai ba ngày luyện một lò, bình quân mỗi lò đều là năm trăm cân hoặc tám trăm cân gang, lại xây thêm mấy lò, chẳng phải có thể luyện được một trăm tấn gang trước tết hay sao?
Con Trời tính rồi hỏi, nét mặt lại sáng lên.
Niềm vui cũng bừng lên.
Việc có như thế. Mặt trời lên, hai xe phía trước đi đã khá xa, ngồi nghỉ chờ hai người. Họ lại đi, Con Trời ngồi vắt vẻo trên xe, giáo sư tôn giáo gò lưng kéo. Con Trời nhìn ánh sáng cười bảo:
- Ta không đốt quyển “Kinh Thánh” của ngươi, chỉ phạt ngươi năm bông hoa nhỏ. Ta cũng không còn bắt ngươi đái lên quyển sách đó. Cuối năm ta sẽ đi lên tỉnh thành, ngươi về phải nói với mọi người chỉ cần luyện đủ 100 tấn gang, chắc chắn sẽ có ba mươi lăm phạm nhân được về nhà như nhân viên thực nghiệm.
Giáo sư tôn giáo ngạc nhiên quay lại nhìn.
- Sẽ có bốn mươi, năm mươi người tự do về nhà. – Con Trời nói – Trên sách của ngươi viết, Đức Chúa Trời phán, phải có ánh sáng là có ánh sáng. Đức Chúa Trời phán, phải có nước là có nước.
Giáo sư tôn giáo kéo xe chạy như con lừa. Mặt trời chiếu trên đầu giáo sư. Trái đất tràn ngập ánh sáng.
Tứ Thư Tứ Thư - Diêm Liên Khoa Tứ Thư