T
ửu lượng của Dự Thân Vương cực cao, một vò rượu đã cất lâu năm chôn ở dưới gốc cây mai trong phủ của Duệ Thân Vương kia, uống đi năm sáu phần rồi, vậy mà vẫn còn tỉnh táo không có đến nửa phần hơi men. Tiệc rượu bày bên cái ao sen, gió mát thong thả, ngà ngà như cũng muốn say. Duệ Thân Vương miệng đầy hơi rượu cùng Dự Thân Vương bàn đôi chuyện gió trăng, thảo luận xem nhà ai vương công dạy dỗ ca kỹ, nhà ai dây đàn gánh hát, mà Dự Thân Vương lâu nay vốn chẳng bận tâm đến mấy cái đó, ngồi nghe chàng ta nói thao thao bất tuyệt, thỉnh thoảng cũng chỉ đáp đôi lời. Duệ Thân Vương đưa hai con mắt đánh giá Dự Thân Vương, chợt nói: “Lão Thất, chi bằng để ta làm mai mối giúp đệ đi.” Vừa vặn đúng lúc Dự Thân Vương mới nuốt một ngụm rượu đến họng, nghe thế lập tức sặc sụa, ho liên tục, mãi nửa ngày mới hoàn hồn lại. Duệ Thân Vương cười to, nói: “Đệ đây quả nhiên là con người đứng đắn, vừa mới nghe thấy mấy chuyện này đã lập tức hồn vía lên mây.” “Lục ca cứ đùa.” Dự Thân Vương nhìn trên mặt ao đầy lá sen mềm mại như cuốn, hoàng hôn bóng xế, dải ráng chiều như ai hắt xuống, đọng trên phiến lá màu xanh thạch bích, chẳng khác nào vàng điểm trên ngọc, đẹp đến động hồn người. Chàng lạnh nhạt nói: “Ta quả thực chưa hề có cái tâm tình này.” Duệ Thân Vương gật gật đầu: “Đệ cũng chẳng vội, có điều, trong nhà chỉ thui thủi một mình, nhìn vào cũng không thấy được hình ảnh của một gia đình, ôi, đáng tiếc tiểu thư nhà họ Nguyễn, cũng không biết lưu lạc chốn nào.”(???) Nói một câu đã đụng đến nỗi khổ riêng trong lòng, vẻ mặt Dự Thân Vương không khỏi sầu não. Đột nhiên, Duệ Thân Vương hưng trí bừng bừng đứng bật dậy: “Vương công đại thần trong kinh thành, trong nhà nữ nhi thích hợp cũng không thiếu, chỉ cần đệ ưa người nào, ta lập tức sẽ có người đi giúp đệ nói chuyện.” ” Lục ca.” Trong giọng nói đã đượm vài phần lạnh lẽo: “Ta tới đây là có chuyện muốn nói cho Lục ca.” Duệ Thân Vương phất tay, toàn bộ ca kỹ trong gác lập tức thối lui sạch, Dự Thân Vương nâng chén lên, chợt than thở: “Lục ca, hai chúng ta đã bốn, năm năm liền cũng chưa cùng nhau uống được một chén rượu.” Lông mày Duệ Thân Vương bất giác nhướng lên, trong con ngươi thâm thúy cơ hồ nhìn không rõ thần thái gì, khóe môi chỉ khẽ gợn một nụ cười nhạt: “Bốn năm.” Lần uống rượu cùng nhau trước, là khi Dự Thân Vương chinh chiến Hồi Hột trở về, Thái tử làm chủ trì, muốn vài vị hoàng tử bày tiệc thết đãi chàng, mà giờ đây thế sự đã đổi, cảnh tượng như thế sẽ không bao giờ còn diễn ra nữa. Trong nháy mắt hai người đều trầm mặc. Bọn họ tuy là anh em, nhưng cùng cha khác mẹ, thuở nhỏ trong cung cũng không thân thiết. Song một quãng thời gian tươi đẹp ngắn ngủi đó, luôn luôn cùng khắc sâu vào trong trí nhớ cả hai, hóa thành một vầng sáng lung linh nhạt màu, giống như hương sen nhè nhẹ cuộn lên dưới ánh trăng, thấm đẫm làn hơi nước mát thơm, phút chốc không một tiếng động ngấm vào người. Tiếc thay sự ấm áp mềm mại này đây cũng chỉ như bóng trăng tản mạn vô hình, thời gian xa cách, theo những năm tháng dữ dội trôi qua cuối cùng dần dần tan rã. Chuyện xưa cũng chỉ là cát bụi phù phiếm, sóng lớn dồn dập, chỉ còn lại một mảnh sắc vụn không thể cướp đoạt, cuối cùng tường đồng vách sắt cạn khô trở lại kiên cố. Trên mặt nước, bóng trăng lưỡi liềm vừa lên, như nửa miếng ngọc còn sót lại, giữa bầu trời màu mực lam, tỏa vầng sáng lạnh lùng trong trẻo, ẩn hiện ánh ngọc xanh thanh khiết. Một ao sen này mượn được ý trăng, bóng lá sen tựa như tấm ngọc lưu ly nhẹ mà mỏng phản chiếu trên mặt hồ bàng bạc gợn sóng, tách ra thành vô số những hạt thủy ngân bé li ti, nháy mắt biến dạng, xuôi chảy không ngừng. Trong mắt Duệ Thân Vương dường như cũng điểm những luồng sáng bạc nho nhỏ như thế, biến hóa thất thường, giọng nói đã mang vẻ lười biếng của ngày thường: “Đệ vừa bảo có chuyện muốn nói cho ta, chuyện gì?” Ngón tay Dự Thân Vương mân mê chén rượu, bạch ngọc thượng hạng, trơn nhẵn như một mảng da dê ấm áp, lại phảng phất có hơi lạnh. Thanh âm của chàng như đám sương mù nhàn nhạt mới hiện trên mặt hồ, vẫn còn vấn vương hơi nước ẩm ướt trong sạch: “Mộ gia có một phương pháp cất rượu gia truyền, gọi là “Mật nhưỡng”, Lục ca còn nhớ chăng?” Thứ rượu kia nghe nói là phải tìm mật ong đem chưng cất, vào miệng vị cực thanh, một khi ngấm vào cổ họng thì lại đốt người ta nóng bỏng, cứ như một thanh đao sắc bén vô song, đâm thẳng một mạch từ cổ họng vào trong ruột. Mộ thị trăm năm giàu sang phú quý, đem việc làm rượu mà nói, là bí quyết cất rượu độc nhất vô nhị, rất có tiếng tăm, bao năm qua hầm rượu cả trăm vò, phiên vương quan lại các kiểu vẫn thường được biếu tặng. Duệ Thân Vương nhấp một ngụm rượu nhỏ, nói: “Dĩ nhiên là nhớ. Phương pháp cất rượu bí truyền của Mộ thị, nghe đồn chỉ truyền con trai không truyền con gái, hiện tại Mộ thị đã tuyệt hậu, phỏng chừng về sau cũng chẳng còn được thưởng thức mật nhưỡng.” Dự Thân Vương nhàn nhạt nói: “Mộ Duẫn còn sống, đã trốn sang biên giới Kỷ Nhĩ Mậu.” Hoàng tử ngày xưa chú ý nhất là vẻ mặt, Duệ Thân Vương thuở nhỏ được vua cha dạy dỗ, phong độ lại càng vững vàng, tuy rằng thập phần ngoài ý muốn, nhưng vẫn chưa hề lộ ra vẻ thất kinh, chỉ làm như đăm chiêu nói: “Cửa ải Định Lan hùng vĩ hiểm trở hơn thường, còn được gọi là thiên hạ đệ nhất, tường thành đều cao hơn mười trượng, trừ phi đó là chim, còn không thì đừng mơ vượt qua được.” “Mộ Duẫn là có người tiếp ứng, giả vờ giết chết sau đó đào tẩu. Người tiếp ứng hắn, trên đường bảo vệ, ở Cung Châu bị người của doanh trại phía đông phát giác hành vi, chặn lại giao chiến, sáu người chết ba người bị thương. Ba kẻ này mặc dù bị thương nặng, nhưng còn chưa kịp để ép hỏi khẩu cung, đã lập tức nuốt độc tự sát. Những người này, tất cả đều là tử sĩ đã qua huấn luyện nghiêm ngặt. Mật báo ở Cung Châu sáu ngày đến nơi, thì ngày thứ bảy lại nhận được tin, đông doanh tại sông Thụ lại có giao chiến, lần này đối phương chết năm, trong đó tử sĩ giả trang Mộ Duẫn, bị trúng ba tên, vẫn còn nằm sấp trên lưng ngựa cưỡi đi hơn hai mươi dặm, dẫn dụ truy binh. Ngày thứ chín, đến ngày thứ mười một, mười hai đều có giao đấu, đông doanh điều một lực lượng hùng hậu vây diệt, nhưng lại không có lần nào thành công. Bên đối phương người chết là hai mươi lăm, có thể đưa Mộ Duẫn đến được tới trước ải Định Lan cũng không quá ba người. Bốn người này trên đường đổi ngựa cấp bách đến chỗ cửa ải, Mộ Duẫn cải trang làm gián điệp, dùng lệnh bài giả để mở cổng thành, vượt qua ải. Truy binh đuổi theo ba người kia, tại núi Mật La giằng co hỗn loạn một ngày hai đêm, cuối cùng tên cũng bắn hết cả, dùng đá chọi lên. Đợi đến lúc đông doanh rốt cuộc tiến sát lên núi, té ra ba người kia đã sớm ăn độc dược, độc ngấm vào mạch máu, chém thử một kiếm, thấy máu chảy tựa như rượu mật trong chén này, từ mũi kiếm dần già ăn mòn lên thân kiếm.” Dự Thân Vương không nhanh không chậm nói tiếp: “Nếu không phải đối phương là mưu đồ phản nghịch, ta quả thực là bội phục những tử sĩ này.” Duệ Thân Vương phỏng chừng bị tác động bởi khung cảnh máu me đầm đìa, hơi hơi nhíu mày, lại nhấp một ngụm rượu. Giọng điệu của Dự Thân Vương như thấu suốt tất cả: “Hai mươi lăm tính mạng đổi lấy một cuộc đào thoát của Mộ Duẫn, không biết vị chủ mưu kia rắp tâm làm gì. Mộ thị bao đời thống lĩnh quân đội, binh pháp đệ nhất thiên hạ, Kỷ Nhĩ Mậu nhiễu loạn biên giới nhiều năm, Mộ Duẫn trốn thoát ra ngoài, nếu cùng nhau kéo bè kết cánh, kết cục có ngày sẽ thành mối họa cho xã tắc.” Duệ Thân Vương nhẹ nhàng bâng quơ nói: “Nếu ngay cả một đông doanh quân đội tinh nhuệ do chính tay Thất đệ đào tạo ra mà cũng chẳng ngăn nổi hắn, không chừng người này mệnh là không thể chết.” Dự Thân Vương cười nhạt, hỏi: “Lẽ nào Lục ca lại là một người tin vào thiên mệnh?” Duệ Thân Vương cười ha ha, nói: “Thiên mệnh là thế, chả nhẽ không tin?” Thờ ơ đưa tay nhấc cái ấm, cao giọng gọi người: “Người đâu, rượu lạnh rồi, hâm nóng lại đi, đổi bát to tới đây, ta hôm nay muốn cùng Thất đệ uống một phen cho thật sảng khoải.” Dự Thân Vương đứng dậy nói: “Đa tạ rượu ngon của Lục ca, ngu đệ không thắng nổi sức mạnh của rượu, đã say. Chỉ đành ngày khác lại nhận ban tặng của Lục ca, hôm nay xin Lục ca thứ lỗi, ngu đệ còn chút việc vặt vãnh, muốn thỉnh Lục ca cho cáo lui.” Duệ Thân Vương cũng không giữ lại nữa, tiễn chàng đi ra. Sau khi quay lại Thủy các, đuổi lui mọi người, tự mình nhấc ấm lên, rót vào một ly rượu lạnh, chậm rãi uống cạn, qua thật lâu sau, mới lầm bầm lầu bầu: “Một chiêu rút dây động rừng này của lão Thất, là có ý gì đây?” Từ sau tấm bình phong bằng lụa khung gỗ đàn dát vàng vẽ cảnh núi non sông nước, Mạnh Hành Chi không một tiếng động thong thả bước ra, nói: “Bốn chữ “rút dây động rừng” này của Vương gia quả là tuyệt diệu, theo như hiểu biết nông cạn của tại hạ, Dự Thân Vương quả thực đến để rút dây động rừng. Hắn rõ ràng đã nghi ngờ Vương gia phái người giải cứu Mộ Duẫn, cho nên đem toàn bộ sự việc thuật từ đầu tới cuối cho Vương gia nghe, ý là, hắn đã biết được động tĩnh của Vương gia, muốn cảnh cáo Vương gia hãy thôi làm việc thiếu suy nghĩ.” Duệ Thân Vương im lặng trầm ngâm, Mạnh Hành Chi lại tiếp: “Tại hạ thực muốn chúc mừng Vương gia.” Duệ Thân Vương chớp động con mắt, Mạnh Hành Chi nói: “Dự Thân Vương rõ là e sợ Vương gia, mới muốn Vương gia thu liễm. Hắn bỗng nhiên có một cử chỉ này, cũng liền chứng minh rằng một chiêu của Vương gia, hẳn là đã đi đúng rồi.” Duệ Thân Vương nói: “Con người này đối với lão Tứ một mực trung thành tận tâm, hắn tất vì có điều cố kỵ, cho nên mới tới để cảnh cáo ta, xem ra hắn đã biết rõ cái chiêu kia chính là do ta bố trí.” Mạnh Hành Chi mỉm cười: “Biết thì làm được cái gì? Giết chính là giết, đó là bởi đã biết trên tay có một lưỡi dao sắc bén vô song, đối phương không thể làm được gì, chỉ đành trơ mắt giơ thân đón lấy.” Thanh âm của gã cực nhẹ, song từng chữ từng chữ lọt vào trong tai: “Vương gia, rốt cuộc cũng không uổng công Mộ phi ra đi.” Đêm khuyu sương nặng hạt, ánh trăng càng rõ ràng, trong trẻo như nước. Sương như tuyết vương áo người, Duệ Thân Vương uống càng nhiều, càng cảm giác say nặng nề. Bên ngoài lan can bằng ngọc có cây hoa thược dược, vào tiết tháng tư hương thơm nồng nàn, hoa ở ngoài lan can đã tàn một nửa, có một mảnh bị gió đêm cuốn bay, vừa vặn rơi ở trên ống tay áo chàng, chàng đưa tay nhặt lên. Nàng luôn luôn thích trâm cài thược dược, có một loài hoa thược dược gọi là “Kim tuyết ngân tuyết”, trên cánh hoa trắng muốt có điểm tơ vàng, cây trâm cài lên mái tóc mây đen mượt, trông vô cùng kiều diễm. “Lục ca.” Thuở nhỏ nàng vẫn thường gọi chàng như thế. Trên mặt bấy giờ không có một chút huyết sắc, chỉ nói: “Ta đi.” Hai tiếng cực nhẹ, từ trong môi nàng phát ra, lại như nặng cả ngàn cân, trong phút chốc ép chàng muốn ngạt thở, bản năng muốn quay mặt đi, chỉ thấy một bên nàng cài đóa hoa thược dược cánh ve. Một câu tàn nhẫn như vậy, không đừng được hỏi: “Muội đi? Muội có biết tương lai sẽ như thế nào hay không?” Trên mặt nàng ý cười không rõ: “Ta biết, nhưng vì Lục ca, ta nguyện ý. Ta biết ở bên cạnh Nghị Thân Vương vẫn chưa có một người nào đắc lực của Lục ca, hiện thời hắn đến cầu hôn, quả thực là cơ hội hiếm có.” Nhớ hồi đó mười lăm tuổi, nàng cũng chỉ mới mười hai tuổi, chính mình dẫn nàng chuồn ra ngoài Mộ phủ, đi hội hoa mùa xuân ở Đại Minh Tự xem hoa thược dược. Nàng mặc áo xanh, buộc tóc, bộ dạng y chang một thằng nhóc sai vặt, mình đứng ở nơi cửa, trái tim trong lồng cứ đập thình thịch. Mãi đến lúc lên ngựa, nàng bỗng nhiên ngồi trên yên ngựa mà cười vang, làm bản thân lại thấy buồn bực giận dỗi, kêu tên tục của nàng, hỏi: “Lâm Nguyệt, muội cười cái gì hả?” Nàng thúc ngựa quay vòng trở lại, khoảng cách gần nhau như vậy, hơi thở như hương lan phả ra ngưa ngứa ngay dưới tai, giọng nói trong trẻo mới dễ nghe làm sao: “Lục ca, té ra là huynh vẫn còn nhát gan hơn cả ta.” Chàng hừ một tiếng, quay mặt đi, thực ra chàng không phải sợ, mà đúng ra là lo. Mộ thị danh gia vọng tộc, gia giáo cực nghiêm, bản thân mặc dù là đệ tử của Mộ đại tướng quân, nhưng thân là hoàng tử, nếu chuyện chuồn ra bị lộ, Mộ đại tướng quân cũng chẳng trách phạt mình, nhưng còn nàng thì e sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc của phụ thân. Một cậu thiếu niên choai choai thuở ấy, không buồn phân bua nhiều, chỉ giương mặt lên, bày ra cái vẻ ta đây lão làng, nói: “Ta chẳng thèm sợ.” Mộ Lâm Nguyệt làm mặt quỷ, khuôn mặt nàng vẫn còn đậm nét trẻ con, song dường như thấp thoáng đâu đó đã có một vẻ ngọt ngào tao nhã của cô thiếu nữ, nghiêng đầu cười, sóng mắt đong đưa uyển chuyển như có thể làm say lòng người. Cậu bé buột miệng thốt lên: “Không uội cười nữa.” Một đôi hàng lông mi dài rợp như cánh bướm chớp làn, hỏi: “Vì sao chứ?” Cậu nói: “Muội cười, người ta sẽ biết ngay muội là con gái.” Nàng nói: “Ta đây không cười nữa.” Một câu còn chưa nói xong, lại không nhịn được cười khanh khách, má trái mờ mờ ẩn hiện một cái lúm đồng tiền, xinh xắn đáng yêu vô cùng. Cậu bé không biết làm sao, chỉ đành che che khuôn mặt nói: “Người ta nếu biết muội là con gái thì sẽ liên lụy đến ta, ta chẳng đưa muội đi cùng nữa.” Nói xong làm bộ giơ rọi lên toan thúc ngựa đi, nàng vội vàng túm lấy ống tay áo của cậu, liên tục nói: “Lục ca, Lục ca, ta không cười nữa mà.” Ở Đại Minh Tự khách đến hành hương nườm nượp, biển người nhộn nhịp, trẩy hội, thắp nhang, bán nhang, bán đồ ăn, mướn kiệu, đưa lư,... náo loạn ầm ĩ y như cái nhà bếp. Một đôi con ngươi của nàng đen tuyền như nước sơn, hiếu kỳ liếc bên nọ ngó bên kia. Cậu sợ mình và nàng sẽ bị dòng người xô đẩy thất lạc, luôn miệng dặn nàng phải giữ chặt ống tay áo của mình, bọn họ chen lên phía trước chùa, toàn thân đều ra đầy mồ hôi. Người ở trong đền lại càng nhiều hơn, tượng Phật bằng vàng trang nghiêm quý báu, vô số người ở khắp các chốn đều đang cúi rạp người dưới đất, kính cẩn lễ bái. Trước tượng Phật hương biểu chất thành đống như núi, lửa cháy lách tách, đưa làn hương hỏa túa ra khắp các ngóc ngách, cay nóng đến nỗi mọi người hầu như không mở mắt nổi. Trong làn khói hương bay lững lờ, nàng tò mò hỏi: “Lục ca, bọn họ đều đang cầu xin cái gì thế?” Thật ra thì cậu mù tịt, nhưng vẫn đáp bừa nàng: “Cầu tài cầu phúc, hẳn là đều cầu những gì mà bọn họ chưa có.” Đôi mắt sáng của nàng ánh lên như hai ngọn sao băng rự rỡ: “Ta đây chẳng cần phải cầu, cái gì cũng đều có cả rồi. Ta có phụ thân thương ta, có các ca ca thương ta, còn có huynh nữa nè.” Nghe được nàng liệt mình vào trong danh sách người thân của nàng, trong lòng dâng lên một cảm xúc khác thường, nhưng ngoài miệng lại lầm bầm: “Nếu ta không dẫn muội tới đây, hẳn muội sẽ chẳng chịu nói được đôi lời bùi tai như thế.” Rồi lại nói với nàng: “Chúng ta đi ngắm hoa thược dược đi.” Đại Minh Tự xưa nay vốn tự hào về hoa thược dược nổi danh khắp nơi, hằng năm qua thường mở hội hoa thược dược mùa xuân, lại càng chứng tỏ là đệ nhất Tây Trường kinh. Người đến kinh thành chẳng qua chỉ là mượn hoa xem tên, du ngoạn viếng chùa, kỳ thực là muốn dự hội chợ. Thậc lòng muốn thưởng thức hoa thược dược, ngoài tú tài văn nhân, cũng chỉ có loại phú hào đọc qua được vài quyển sách rồi cũng học đòi văn vẻ lòe người. Bọn họ theo lối tắt đi ra phía sau chùa, dọc đường đi, quả nhiên là khách thưa thớt dần, ai dè đến được trước chỗ vườn hoa thược dược rồi, lại bị một hòa thượng trong chùa cản lại, nói là nữ quyến lục gia trong kinh thành thủ phủ hôm nay đều đến ngắm hoa, cho nên mấy bọn tạp dịch đều phải chờ hôm khác. Định Trạm từ lúc mới chín tuổi đã được phong tước thân vương, thuở nhỏ lại được phụ hoàng cưng yêu vô cùng, hơn mười năm qua, cho tới bây giờ mới lần đầu tiên bị người ta gọi là “đồ tạp dịch” như thế, vừa ăn một quả bực bội vì bị cấm cửa, lại gặp phải mấy ông hòa thượng mặt mũi ton hót, thái độ thì kiêu căng hết nói, trong lòng lập tức nổi xung lên. Nhưng sau nghĩ lại, mấy tên sư cọ này đã ngu dốt thế rồi, nếu mình mà đụng đến, bản thân thì không hẳn đã chịu thiệt, nhưng Lâm Nguyệt thì khó mà yên ổn. Huống chi chính mình đã rủ nàng chuồn ra ngoài, nếu làm loạn lên, thân phận mà bị bại lộ, thì cũng phiền đã chết. Mộ Lâm Nguyệt cũng sợ cậu cáu, giật nhè nhẹ ống tay áo cậu, nói: “Lục ca, chúng mình tốt hơn là đừng xông vào.” Ở trên bức tường hoa ngăn cách có cái lỗ mắt cau, ghé mắt vào là thấy được trong vườn cả một biển hoa dào dạt, như gấm như vóc. Cứ như vậy mà quay về, thật đúng là không cam lòng. Ý nghĩ của cậu vừa chuyển, lập tức trong đầu đã nảy ra một kế, thuận theo nàng đáp một tiếng, lập tức cùng nàng xoay người bỏ đi. Đi được một đoạn đủ xa, nhìn xung quanh hai bên thấy không có ai để ý, liền nói: “Đi theo ta!” Hai người men theo chỗ ngoặt bên tường, lẳng lặng đi một mạch đến phía sau Sơn phòng (khuôn viên) yên tĩnh. Chỗ này chính xác là ở ngay cuối vườn hoa, rất ít người lảng vảng, ngoài bờ tường có một gốc cây du đại thụ, to chừng một vòng ôm, chạc cây vươn ngang, đệm lá xanh mướt. Cậu quay đầu hỏi Mộ Lâm Nguyệt: “Muội có biết trèo cây không? Nếu không thì để ta cõng.” Mộ Lâm Nguyệt đã hiểu cậu định làm gì, cảm thấy việc này thật thú vị, đã sớm nóng lòng muốn thử: “Đừng coi thương người ta nhé. Nữ nhi của Mộ đại tướng quân, đừng nói là trèo cây, xông trận giết địch cũng thừa sức.” Nói xong liền xắn ống tay áo lên, để lộ ra một đoạn cổ tay trắng muốt như sương, trên cổ tay còn đeo một chuỗi bạch ngọc, màu da trong suốt tạc cùng màu ngọc xanh lơ kiều diễm vô ngần, tựa hồ chẳng phải cổ tay mà cũng chẳng phải bạch ngọc. Nàng chỉnh lại nam trang, quên bẵng việc phải cất cái vòng tay đi, đến lúc vén tay áo lên mới phát hiện, “ái chà” một tiếng, nói: “Đây là của bà ngoại tặng cho, không thể làm nó bị sứt mẻ được.” Tháo chuỗi xuống, đem giắt vào đai lưng. Thân hình của nàng khéo léo linh hoạt, thoáng chốc đã thuần thục leo lên cây, ngồi trên một cành ngang, vẫy tay gọi Định Trạm: “Lục ca!” Động tác của Đinh Trạm lại càng lưu loát hơn, khẽ đạp một cái bên trái cây du, tay phải đã giữ chặt một nhánh cây, mượn lực vọt lên, nhẹ nhàng khoan thai đáp xuống trên một cành du. Mộ Lâm Nguyệt không khỏi vỗ tay khen ngợi: “Một chiêu “tiểu khởi thủ” này của Lục ca trông còn đẹp hơn cả đại ca muội nữa.” Định Trạm giơ ngón tay đặt giữa môi, “suỵt” một tiếng. Mộ Lâm Nguyệt bấy giờ mới biết mình thất ý, may mà chưa có ai nghe thấy. Định Trạm nhảy xuống trước, lúc hai chân đã tiếp đất vững vàng thì quay lại dang hai tay về phía nàng, Mộ Lâm Nguyệt cười nói: “Phải tiếp cho đúng, không được quẳng người ta đi đâu đấy.” Rồi như một con én nhỏ, từ trên đầu tường nhanh nhẹn nhảy xuống, ai dè nhánh cây móc vào mũ của nàng, lúc nàng nhảy xuống, mái tóc dài tung bay trong gió như thác nước. Mặc dù nàng gan lớn, nhưng nhảy xuống từ trên tường cao như vậy, vẫn có chút sợ, bất giác nhắm tịt mắt lại. Định Trạm chỉ cảm thấy có một lực va chạm rất mạnh ép xuống, ôm chặt lấy nàng, loạng choạng lùi mấy bước, cuối cùng vẫn “bịch” một cái ôm nàng ngã ngồi ở trong đám hoa thược dược, chỉ cảm thấy một hương thơm dịu mát tràn ngập cõi lòng, bốn phía đỏ, hồng, vàng, tím, đều là cây hoa thược dược, rực rỡ như một bức gấm thêu, bao quanh một vòng. Thật nhiều hoa và lá bay tung lên, nhấn bọn họ vào trong một biển hoa. Trong mắt hiện lên một nhan sắc chói lòa, có thể thấy được dung mạo của nàng gần trong gang tấc, tựa như một đóa hoa thược dược trắng nở rộ, trong trẻo xinh đẹp làm sao, thanh thoát tựa làn mây. Hơi thở của nàng ngọt ngào, cậu nghe được cả âm thanh quả tim mình đập mạnh, thình thịch. Con ngươi nàng sáng long lanh, chẳng khác nào hai viên thủy ngân đen nháy tròn vo, một ngày trời xanh cao thẳm, có một đám mây thong thả bay qua, ánh mắt của nàng dường như mang cả ý mây, trôi nổi khó nắm bắt, mà cậu dĩ nhiên đã quên mất chuyện phải buông tay. Tóc nàng vờn trên mặt ngưa ngứa, nhịn không được hắt xì liền hai cái. Hai cái hắt hơi ấy vang lên, ngay tức khắc có người quát hỏi: “Ai ở đó?” Hai người lập tức chột dạ. Hai đứa nhỏ vốn được sống trong an nhàn sung sướng, chưa từng phải trải qua cái hoàn cảnh như vậy. Mộ Lâm Nguyệt hoảng hốt nói: “Đi mau! Đi mau thôi!” Định Trạm cũng sợ bị người ta bắt được, vội nói: “Ta cõng muội trèo tường, muội đi trước.” Ngồi xổm xuống để cho nàng giẫm trên đầu gối mình, bước lên đầu vai, nâng nàng trèo qua tường. Mộ Lâm Nguyệt ở trên đầu tường thấy xa xa có ba bốn vị tăng chạy về phía này, cảm thấy khẩn trương, luôn miệng giục: “Lục ca, mau lên.” Định Trạm trong lúc vội vàng vẫn khom người ngắt hai cành hoa thược dược, ngậm ở trong miệng, xông lên trước, dựa vào thế tường liên tiếp đạp hai bước, đã nhảy lên đầu tường. Hai người từ trên cây đại thụ nhảy xuống, Định Trạm dắt tay nàng, co cẳng chạy. Hai người chạy một mạch ra tận cổng chùa, nhưng lại thấy trước chùa đoàn người chật ních, đẩy cũng chẳng suy suyển được nửa bước, mới dừng chân được chút, Mộ Lâm Nguyệt lại bị cậu kéo chạy như điên, đến lúc này thở hổn hà hổn hển, thắt lưng đau đến nỗi đứng thẳng lên không nổi. Định Trạm vừa mệt vừa buồn cười, giao hai đóa hoa thược dược cho nàng, nói: “Được có hai cành hoa này, thực bõ công.” Thấy mái tóc dài của nàng tán loạn, lại nhìn ra phía sau mấy vị tăng đuổi theo nãy giờ đang ngó nghiêng tứ phía không ngừng, sợ bị phát hiện, rút từ trong áo một cái khăn tay bằng lụa, nói: “Muội mau buộc tóc vào đi.” Mộ Lâm Nguyện nhận lấy cái khăn tay, buộc gọn lại tóc lần nữa, nhón lấy hai đóa hoa, ngửi ngửi nhụy hoa, buồn bã thở dài: “Hoa đẹp như thế, lại chẳng có hương thơm, mới thấy trên đời này vạn sự chẳng như ý.” Định Trạm nói: “Thật đúng là nhóc con, có mùi hoa, có hương hoa hay khong, với việc đời như ý hay không như ý thì có liên quan gì?” Mộ Lâm Nguyệt thản nhiên cười, nụ cười còn xinh đẹp hơn cả những ngón tay của nàng nữa, Định Trạm không dám nhìn tiếp, nói: “Đi thôi.” Rồi cùng nàng ra ngoài tìm ngựa, lên ngựa quay trở về phủ. Lúc về đến nơi đã là hoàng hôn, nàng lặng lẽ luồn theo cửa nách đi vào, con bé a hoàn đứng đợi nàng đã sớm cuống cuồng, thấy nàng về, vội vàng chạy đến, nói: “Phu nhân đã hỏi mấy lần rồi, em giấu giếm không được.” Lâm Nguyệt đang muốn đi theo nàng, chợt nhớ một việc, đưa tay sờ sờ thắt lưng, kêu lên thất thanh: “Chuỗi ngọc của ta đâu mất rồi.” Định Trạm vốn đã đi được vài bước, nghe nàng nói vậy, quay lại thấy mặt nàng trắng bệch, đoán là đã rơi ở Đại Minh Tự, vội an ủi: “Không sao, ta đi tìm giúp muội.” Qua mấy ngày, rốt cuộc có cơ hội gặp được nàng, nhân dịp nàng chưa hỏi đến đã nói ngay: “Ta tự mình ra vườn hoa tìm hai lần mà vẫn chẳng thấy, nói không chừng đã rơi ở trên đường, bị người ta nhặt mất rồi.” Nàng khẽ đáp: “Không tìm đươc, cũng đành thôi.” Thế nhưng trong mắt lại hiện lên một thần sắc hiếm thấy ở các cô gái nhỏ, làm cho người ta cảm giác buồn bã vô hạn.