Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 9
racy tìm thấy không ít trang web nói về Andrea Strickland trên iPad của cô trong lúc Kins lái xe xuống núi. Do núi Rainier có một phần nằm ở quận Pierce nên đồn cảnh sát quận Pierce cũng có quyền can thiệp vào vụ mất tích của Andrea Strickland. Vụ án này đã khuấy động dư luận một thời gian. Các công tố đã thận trọng không gọi Graham Strickland là nghi phạm nhưng tất nhiên anh ta là một trong số đó. Anh ta là nghi phạm chính. Vụ án giết người phụ nữ mang thai Laci Peterson ở Modesto, California rầm rộ một thời là một ví dụ điển hình. Một sự thật đáng buồn là số lượng những người bị giết chết bởi người mà họ thân quen luôn nhiều hơn so với số bị chết dưới tay một kẻ sát nhân không thân thích nào đó. Stan Fields, điều tra viên từ Ban Trọng án của quận Pierce, nói với Tracy qua điện thoại rằng anh ta rất vui khi được nói chuyện với cô. Cô cảm nhận được rằng Fields cũng giống như kiểm lâm Glenn Hicks, chằng thích thú gì việc bị Andrea Strickland hoặc cũng có thể là cả hai vợ chồng cô ta che mắt.
Và Andrea Strickland đã lừa họ. Cô ta đã đánh lừa tất cả mọi người trong vòng ít nhất là sáu tuần. Tất cả mọi người ngoại trừ kẻ cuối cùng đã hạ sát cô ta.
Cái tôi của Fields dường như không chịu để cho anh ta thừa nhận là anh ta đã bị lừa. Không có điều tra viên nào thích thú khi phải thừa nhận điều đó. Đó là lý do tại sao trong suốt cuộc trò chuyện qua điện thoại với mục đích đáng lẽ ra là sắp xếp một cuộc hẹn gặp thì Fields lại cảm thấy buộc phải nói thêm rằng anh ta nghi ngờ mọi việc “không giống như vẻ bề ngoài”.
Khi Tracy cảm thấy cô đã đọc quá đủ những thông tin trong các bài báo đăng trên Internet, cô tắt iPad và cắm nó vào giữa ghế ngồi của cô và cái hộp số xe. Cô chộp lấy chai nước bằng nhựa và uống một hớp, nhưng nước đã bắt đầu chuyển sang âm ấm. Thậm chí đang ngồi trong xe ô tô có điều hòa, cô vẫn cảm thấy người nhớp nháp bởi cái nóng.
“Cô ta là một ứng viên tuyệt vời cho việc mất tích.” Cô nói, đặt chai nước trở lại vị trí dành cho nó. “Cha mẹ đã qua đời. Không có anh chị em. Không có ai nhớ tới cô ta.”
“Tất nhiên là ngoại trừ chồng cô ta.” Kins nói. Anh cựa quậy khi ngồi trên ghế lái, nhìn cũng có vẻ khó chịu, và chắc chắn anh cũng đang ao ước được cởi bỏ chiếc quần bò đang mặc ra và thay bằng cái quần soóc ngắn như của kiểm lâm Hicks. Quần bò xanh là trang phục bình thường Kins hay mặc khi không phải ra tòa, và nó dường như là một sự lựa chọn kì cục. Bốn năm trong đội bóng bầu dục của trường đại học và một năm trong đội bóng bầu dục quốc gia đã khiến cho bắp chân và đùi của anh phát triển quá mức, thậm chí là sau cả chục năm giải nghệ. “Tôi đoán là họ không có con?”
“May mắn là không.” Tracy nói.
“Đồng nghiệp thì sao?”
“Cô ta và chồng là chủ một cửa hàng bán cần sa ở trung tâm Portland. Chỉ có hai người họ làm với nhau.”
Oregon đã theo bước Washington và Colorado trong việc hợp pháp hóa cần sa, điều đó không gây nhiều ngạc nhiên cho những người nắm rõ tình hình chính trị của bang này. Dân chúng ở đây nhìn chung được đánh giá là tự do và hào phóng hơn ở Tây Washington nhiều, nếu không muốn nói là rất nhiều. “Như tôi đã nói rồi mà, sẽ chẳng ai nhớ tới cô ta.” Kins liếc nhìn gương chiếu hậu, xi nhan và cho xe rời khỏi đường cao tốc. “Họ làm gì trước khi bán thuốc phiện vậy?”
“Anh chồng là luật sư. Cô vợ làm việc cho một công ty bảo hiểm ở trung tâm Portland.”
Thông tin đó khiến Kins liếc nhìn sang Tracy. “Bảo hiểm sao?”
“Tôi đã ghi chú lại điều đó trong bảng câu hỏi mà chúng ta sẽ hỏi anh ta.”
“Vậy là cả hai người họ đều không phải kẻ ngốc.”
“Chắc chắn là không hề ngốc.” Tracy đồng tình. Cô gạt cửa điều hòa trên ô tô để làn hơi lạnh thổi lên cổ và ngực, và lấy áo để quạt phe phẩy.
Họ lái xe đi qua những con đường nóng nực nhất Tacoma, những người dân ở đây tìm chỗ trú ẩn trong những văn phòng điều hòa hoặc trong các cửa hàng mua sắm.
“Quận Pierce đã điều tra được những gì từ người chồng rồi?” Kins hỏi.
“Theo lời của điều tra viên và theo những bài báo mà tôi tìm được, công tố quận đã gọi anh ta là người thuộc diện được chú ý chứ không gọi là nghi phạm.” Tracy nói.
“Vậy thì anh ta là nghi phạm rồi.” Kins nói.
“Rõ ràng là thế.”
“Nhưng chưa bị tạm giữ sao?“
“Không tìm thấy thi thể nên có lẽ họ nghĩ họ chưa có đủ bằng chứng.” Tracy nói. “Chỉ có hai người biết chuyện gì đã xảy ra trên ngọn núi đó, và một trong hai người ấy được cho là đã chết. Cho nên mọi thứ chỉ là suy diễn mà thôi.”
“Hi vọng là anh chàng Fields đó có thể tìm thêm được điều gì đó.”
Stan Fields đã đề nghị rằng họ sẽ gặp mặt tại một nhà hàng tên là Viola trên đại lộ Pacific. Lần cuối cùng Tracy tới Tacoma, mười mấy năm trước đây, đại lộ Pacific là một thiên đường của gái mại dâm và những kẻ buôn bán thuốc phiện, những tòa nhà tràn ngập những hình vẽ graffiti, biểu tượng của các băng nhóm, và những con phố thì tràn ngập rác rưởi. Trung tâm Tacoma đã được chỉnh đốn đáng kể nhờ công của các nhà hoạt động cộng đồng và chủ của các công ty, doanh nghiệp, những người đã phát chán khi thành phố của họ bị xem như một đứa con ghẻ chuyên làm những việc lao động tay chân khi so sánh với Seattle và quan trọng hơn là họ đã quá chán sự pha trộn lẫn lộn nhiều thứ mùi hôi thối do công nghiệp tạo ra mà người ta vẫn gọi là “hương vị của Tacoma”. Đại lộ Pacific hẳn cũng là một phần trong công cuộc chỉnh đốn này. Những tòa nhà công nghiệp hai hay ba tầng xây bằng gạch và vữa đã được cải tạo lại và sơn mới toàn bộ. Quảng cáo phía trước mặt các cửa hàng cho thấy đây là những công ty kinh doanh lớn, các cửa hàng bán lẻ, cửa hàng quần áo và nhà hàng.
Kins tìm thấy một chỗ đỗ xe ở cách nhà hàng chừng nửa dãy nhà. Khi họ tiến lại gần, Tracy để ý thấy một người đàn ông đang đứng bên ngoài nhà hàng, hút thuốc dưới bóng cây. Người đàn ông đó nhìn theo cô, gật đầu và thở ra khói. “Cô là Crosswhite?” Anh ta nói.
Stan Fields nhìn như một người còn sót lại từ thập niên bảy mươi, với mái tóc màu xám đen cột gọn thành một cái đuôi ngựa ngắn ở đằng sau. Bộ ria mép rậm rạp rũ xuống ở hai khóe miệng như thể bị đè trĩu bởi cái nắng nóng. Fields mặc một chiếc áo phông có cổ màu xanh đậm, ở trên có biểu tượng của đồn cảnh sát dòng chữ “Đồn cảnh sát quận Pierce” được thêu bằng chỉ vàng cong cong phía trên hình ảnh của núi Rainier với đỉnh phủ đầy tuyết.
Tracy tự giới thiệu mình và Kins. “Tôi đã đặt bàn ở bên trong rồi.” Fields nói. Anh ta đưa điếu thuốc lá lên môi để rít nốt hơi cuối cùng thật dài trước khi phải tạm nghỉ trong vòng ít nhất là nửa giờ, rồi anh ta nhả khói lên bầu trời và ném mẩu thuốc lá đang cháy đỏ vào rảnh nước.
Viola có phần cửa kính có thể kéo mở được cho những khách muốn ngồi ngoài trời, mặc dù ngày hôm nay chẳng có ai muốn ngồi phơi dưới nắng bên những cái bàn và ghế mỹ thuật làm từ sắt. Những cánh cửa mở ra khiến cho cái nóng đặc quánh như siro tràn vào bên trong. Những cái quạt trần trên đầu trông có vẻ uể oải khi phải cố xua đi hơi nóng. Tracy tháo bỏ chiếc kính râm xuống. Mất một lúc mắt của cô mới quen được với căn phòng tối hơn so với bên ngoài. Fields dẫn họ tới bàn ăn ở chỗ gần bếp.
Tracy và Kins ngồi xuống băng ghế bằng da ở phía đối diện với Fields. Mồ hôi chảy ròng sau lưng Tracy sau chuyến đi ngắn ngủi ấy và khiến cho áo sơ mi dính vào người cô.
Fields gật đầu, nhìn về phía hai ly nước đặt ở phía bàn của hai người. “Tôi đã gọi nước cho anh chị tôi đoán là hai người đã khát khô sau chặng đường tới đây.”
Tracy và Kins cảm ơn anh ta. Cả hai đều uống một hơi dài. Tracy muốn được lăn cái li mát lạnh đó lên trán và kéo xuống cổ nhưng cô đã quyết định rằng nếu làm như thế thì sẽ rất thiếu chuyên nghiệp.
“Tôi chạy tới đây là để tránh nóng.” Fields nói, nghe có vẻ bất hợp lí. Hầu hết những người chuyển tới vùng Tây Bắc đều phàn nàn vì mưa nhiều và trời lúc nào cũng âm u. Thật lạ lùng khi lại có người phàn nàn về cái nóng - mặc dù những người dân Seattle sẽ nhanh chóng đỗ lỗi cho sự ấm lên của toàn cầu, hay như cách gọi của Faz là “trái đất rên rỉ”, đã gây ra sự thay đổi thời tiết này.
“Anh là người ở đâu?” Tracy hỏi.
Mùi tỏi và bơ và lá xô thơm bay ra từ trong bếp.
“Phoenix” Fields nói. “Nhưng khi còn nhỏ tôi di chuyển khá nhiều; bố tôi làm việc trong quân ngũ.”
“Mùa hè nóng nhất mà tôi từng trải qua là một mùa đông ở Phoenix.” Kins nói.
“Chắc chắn rồi.” Fields có thói quen giật nhẹ ở khóe miệng, khiến cho bộ ria mép động đậy như ria của một con chuột. Có lẽ anh ta mắc tật máy giật. “Công việc đầu tiên của tôi là đi tuần vùng biên ở phía dưới kia cùng với Cục Di trú và Nhập tịch, rồi sau đó chuyển qua đội Chống ma túy, chủ yếu là nằm vùng. Mất nhiều thời gian ăn nằm trong sa mạc săn đuổi bọn buôn lậu ma túy hơn mức tôi mong muốn.”
Fields có khuôn mặt dạn dày sương gió, một gương mặt đã bị nắng nóng thiêu đốt trong suốt vài năm trời. Cộng thêm mái tóc buộc đuôi ngựa và giọng nói khàn đặc vì khói thuốc, anh ta trông hợp với hình ảnh của một cảnh sát chống ma túy nằm vùng, và Tracy hiểu rằng cái thái độ tự phụ của những cảnh sát kiểu này là cần thiết để những kẻ buôn ma túy tin họ là một phần trong số chúng.
“Gian khổ…” Kins nói. “Bào mòn anh sau vài năm.”
“Chuẩn, anh từng làm qua sao?” Fields hỏi.
“Hai năm.” Kins đáp.
Kins đã từng nuôi tóc dài và một chỏm râu dê lưa thưa, và ai đó trong đội Chống ma túy đã đặt cho anh cái biệt danh là “Sparrow” sau khi loạt phim Cướp biển vùng Caribbean có Johnny Depp đóng chính ra đời. Cái biệt danh đó vẫn còn đến bây giờ. Nhưng khác với Fields, Kins đã vội vàng cắt phăng mái tóc và cạo râu gọn gàng ngay khi rời khỏi đội Chống ma túy.
“Anh chuyển tới Tacoma từ khi nào?” Kins vừa hỏi vừa vuốt ngón tay dọc theo những giọt nước đọng ngoài thành ly nước. Tracy cảm nhận được anh đang tạo cơ hội để họ bắt đầu bước vào chuyện chính và cũng là để hiểu thêm về Fields. Fields cũng có vẻ đang làm điều tương tự.
“Mới chừng một năm trước. Vợ tôi qua đời và tôi cần thay đổi môi trường một chút. Tôi đã chán ngán cái nắng nóng và mặt trời chói chang. Tôi muốn tìm chỗ nào có mưa, có sương. Seattle không cần thuê thêm điều tra viên, nhưng Tacoma thì có.”
“Tôi rất tiếc về chuyện của vợ anh.” Tracy nói.
Fields gật đầu gọn lỏn. “Cô ấy cũng là cảnh sát ngầm, tiếp cận quá gần. Có kẻ nào đó đã chỉ điểm. Chúng bắn cô ấy rồi vứt xác ở trong sa mạc.”
Thông tin mới đem đến cho Tracy một góc nhìn khác về Fields. Ấn tượng ban đầu về người đàn ông này không gợi lên nhiều sự đồng cảm cho lắm. Mất đi người bạn đời dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là một điều thật khủng khiếp, và mất đi người bạn đời trong lúc làm nhiệm vụ, bằng cái cách như thế có thể khiến một người sụp đổ hoàn toàn. Chẳng trách Fields lại rời khỏi Arizona.
“Họ bắt được những kẻ gây ra chuyện chứ?” Kins hỏi.
Fields lén liếc nhìn hai người họ, định nói rằng họ đã làm nhiều hơn là chỉ tóm gọn những kẻ giết người. “Ừm, đã tóm được.”
Cô phục vụ bàn xuất hiện, đôi mắt của Fields chuyển hướng, anh ta cười nhăn nhở với cô gái trẻ cao lớn như thể cô ta là một món ăn ngon lành trong thực đơn. “Cô mang thẻ công tác chứ?” Anh ta hỏi Tracy, ý là cô có thể trả tiền bữa ăn được không.
“Có.” Kins đáp.
“Vậy thì tôi sẽ lấy nửa lít bia nhạt và một suất mì sợi dẹt nấu với sò.” Fields nói mà không cần xem thực đơn. “Nói với đầu bếp tôi muốn thật nhiều tỏi, nhiều đến nỗi mèo phải tránh xa tôi trong một tuần ấy nhé.” Nói rồi anh ta nháy mắt với cô gái. Cô gái trẻ đáp lại với một nụ cười chẳng mấy thoải mái và nhanh chóng quay sang phía Tracy và Kins.
“Coke dành cho người ăn kiêng.” Kins nói. “Và một xô nước để tôi có thể giội lên đầu.”
Cô phục vụ mỉm cười.
Tracy nói rằng cô uống nước là đủ rồi.
Fields liếc nhìn theo mông của cô phục vụ bàn khi cô ta quay người rời đi. Anh ta ngang ngửa tuổi cha của cô gái đó, nhưng với kinh nghiệm của Tracy, điều đó cũng chẳng thể khiến đàn ông dẹp bỏ suy nghĩ rằng họ vẫn còn cơ hội.
Fields quay lại nói chuyện tiếp với Tracy. Không rõ anh ta có nhận ra là Tracy đã bắt gặp việc anh ta làm hay không, nhưng anh ta không thể hiện ra điều gì. Thật ra, cô có cảm nhận rằng anh ta thích bị bắt quả tang như thế. Kinh tởm làm sao.
“Không ăn gì sao?” Fields nói. “Đặc quyền tốt nhất của công việc này đấy.”
“Chúng tôi đã dừng xe để ăn trưa muộn tôi.” Tracy nói, cảm thấy buồn nôn.
Fields vòng tay gác ra sau lưng ghế. “Vậy là Andrea Strickland lại… chết lần nữa à?”
“Nhìn bề ngoài thì là như vậy.” Tracy nói.
Bộ ria mép giật giật. “Tôi đã đánh cược bằng thẻ ngành của mình rằng gã chồng đã đẩy nhẹ cô ta xuống sườn núi. Tôi đã chắc chắn là hắn giết cô ta. “
“Có thể vẫn là anh ta.” Kins nói.
“Có lẽ vậy.” Fields nói.
“Hãy kể cho chúng tôi nghe các anh đã điều tra được những gì, có được không?” Kins hỏi.
Cô phục vụ bàn đặt bia của Fields và Coke dành cho người ăn kiêng cho Kins ở mép bàn. Fields uống vài hơi rồi lấy giấy ăn lau đi chỗ bọt bia dính trên ria mép. “Câu chuyện của gã đó không đáng tin cho lắm.” Anh ta đặt cốc bia xuống và tựa người ra sau, rồi lại vòng tay ra sau lưng ghế một lần nữa. “Nhảm kinh người. Cô vợ thức dậy để đi vệ sinh, vậy mà hắn ta lại không thức dậy cùng cô ta? Hoặc thắc mắc xem cô ta đã đi đâu? Anh cứ thử nói chuyện với những người leo ngọn núi đó mà xem, họ sẽ kể cho anh nghe rằng họ ngủ không ngon, nhất là vào cái đêm trước khi họ leo tới đỉnh. Họ nằm xuống khi trời vẫn còn sáng, và hoóc môn hưng phấn cùng sự bồn chồn dồn dập dâng cao, vậy mà gã này lại nói rằng hắn ngủ say tới nỗi thậm chí còn không hề biết là cô vợ đã bỏ đi? Thôi đi, linh tính của tôi đã báo có điều gì không ổn trước cả khi tôi gặp hắn ta.” Anh ta nhìn sang Tracy, hai mắt liếc nhìn nhanh vào khe ngực của cô. “Và linh tính của tôi hiếm khi sai.”
“Anh đã tìm được những gì?” Tracy hỏi, da của cô sởn lên bởi những lý do chẳng liên quan gì tới cái nóng.
“Hóa ra người vợ đã mua bảo hiểm với tên anh ta là người thụ hưởng trước khi họ leo núi không lâu. Hai trăm năm mươi nghìn đô la đấy. Đó là điểm đầu tiên đáng nghi vấn nhé.”
“Anh ta có mua bảo hiểm để tên người vợ không?” Kins hỏi.
“Không hề.” Fields đáp. “Hắn ta nói rằng cô vợ có một tài khoản tín thác được cha mẹ cô ta để lại, và theo lời hắn ta nói, hắn ta và vợ phát hiện ra rằng nếu có chuyện gì xảy ra với gã chồng thì cô vợ vẫn ổn. Dù sao thì đó là câu chuyện một phía từ hắn. Còn tôi ấy hả? Tôi đang nghĩ rằng hắn đang nghĩ trong đầu: Tại sao lại phải mua bảo hiểm tận hai lần?”
“Chúng tôi được biết trước đây họ đã từng leo núi rồi.” Tracy nói.
“Có một lần, và lần đó không mua bảo hiểm.” Fields nói, và nói luôn những gì Tracy đang nghĩ. “Và trước khi mở tiệm bán cần sa, cô vợ làm việc cho một công ty bảo hiểm.”
“Vậy là cô ta nắm được những ngóc ngách trong cái nghề này?” Tracy hỏi.
“Cô ta làm chân phụ việc thôi, nhưng theo lời sếp cô ta thì cô ta thông minh, học hỏi rất nhanh.”
“Anh nghĩ là hai người họ thông đồng với nhau làm gì đó à?” Kins hỏi.
“Tôi nghiêng nhiều về giả thuyết hắn đã giết cô ta, nhưng tôi vẫn nghĩ có khả năng đó xảy ra.”
“Người chồng đã đòi được tiền bồi thường bảo hiểm chưa?”
“Vẫn chưa, hắn không thể làm vậy khi vụ án vẫn còn trong quá trình điều tra, nhưng hắn đã chẳng chần chừ mà nộp hồ sơ đòi quyền lợi bảo hiểm ngay khi xuống núi. Tôi đã gọi điện. Yêu cầu của hắn vẫn còn đang trong quá trình thẩm định. Có vẻ như sẽ mất một khoảng thời gian đấy.”
Tracy nhìn sang Kins. “Nếu hai vợ chồng họ thông đồng với nhau việc bị trì hoãn như thế này có vẻ là một điều mà họ không ngờ tới.”
“Hoặc cũng có thể gã chồng khiến cho người vợ tin rằng họ đang thông đồng với nhau nhưng sau đó lại hạ sát cô ta. Bởi vì theo lý thuyết, cô ta đã chết, nên sẽ không có ai đi tìm xác của cô ta trong một cái lồng cua, có trời mới biết được việc hắn đã làm.”
“Có thể như thế.” Tracy nói. “Nhưng nếu là như vậy, tại sao hắn không đẩy cô ta xuống núi? Tại sao lại phải đợi giết cô ta sau?”
“Gã chồng là một trong số những kẻ dễ khiến người khác không ưa - cô biết kiểu người đó chứ?” Fields nói lớn át đi tiếng nồi niêu xoong chảo va vào nhau và những tiếng người nói chuyện phát ra từ trong bếp.
Tracy hiểu. Cô đang ngồi đối diện một kẻ như thế đây. “Anh còn tìm được gì khác nữa không?” Cô hỏi.
“Có. Dự án kinh doanh mới của họ không được suôn sẻ cho lắm. Mà nói chính xác thì cũng đổ bể rồi.” Fields nói. “Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Gã chồng mở cửa hàng ở một trong những quận có giá thuê đắt đỏ nhất ở trung tâm Portland và nghĩ rằng họ có vị trí cao cấp và có thể đón đầu được thị trường dồi dào với những thằng luôn tin rằng phê cần giúp giải quyết hết mọi việc. Và thông tin thú vị ở đây là: hóa ra ở Portland, số nhà thuốc bán cần sa y tế nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trên đất Mỹ. Quá là ngạc nhiên, phải không? Và không bao lâu sau khi luật cho phép hợp pháp hóa cần sa có hiệu lực, một sắc lệnh của thành phố cho phép các hiệu thuốc cũng được bán lẻ cần sa. Có hai trong số hiệu thuốc đó nằm ngay sát cửa hàng của Strickland. Và thị trường chợ đen ở Portland thì cũng sôi động không kém - điều đó có nghĩa là những khu vực thị trường kém sôi động hơn cũng đã có một nguồn cung dồi dào mà giá lại rẻ hơn.”
“Chuyện đó tệ tới mức nào?“ Tracy hỏi.
“Nói chuyện với sếp của Andrea Strickland, tôi có cảm nhận rằng cô vợ khá là ngập ngừng trước ý tưởng kinh doanh đó, nhưng người chồng đã thuyết phục cô ta. Cô ta có một tài khoản tín thác lớn…”
“Lớn tới mức nào?” Tracy hỏi.
Fields mỉm cười. “Tiền gốc là nửa triệu đô la.”
“Bố khỉ.” Kins nói.
“Bố khỉ! Nhưng các điều khoản không cho phép cô ta sử dụng nó để kinh doanh.” Fields nói.
Kins huýt sáo.
“Tôi hiểu.” Fields nói. “Thế là họ đã vay ngân hàng một khoản hai trăm năm mươi nghìn đô la, và cả hai cùng kí bảo lãnh cá nhân cho cả khoản thuê nhà lẫn khoản vay ngân hàng. Hóa ra người chồng đã nói dối khi điền đơn xin vay.”
“Nói dối như thế nào?” Tracy hỏi.
“Hắn nói rằng hắn sắp trở thành luật sư cộng sự ở công ty luật, tiền lương của hắn chắc chắn sẽ tăng theo - thậm chí còn có cả một lá thư từ quản lý. Nhưng hóa ra hắn đã giả mạo lá thư đó. Công ty đã đá đít hắn.”
Cô phục vụ bàn đi tới, mang theo món mì Fields đã gọi. Anh ta hạ cánh tay xuống và hỏi xin thêm phô mai bào. Tracy ngồi nhìn theo ánh mắt của gã cảnh sát liếc nhìn ngực của cô bồi bàn đang bận bào nhỏ cục phô mai Pamersan. Mái tóc dài và bộ ria mép không phải là những thứ duy nhất Fields còn giữ lại từ những ngày làm cảnh sát ngầm; có vẻ một vài thứ nhơ nhớp khác đã ngấm vào anh ta. Tất cả sự đồng cảm mà cô dành cho anh ta vì mất đi người vợ đã nhanh chóng tan biến.
“Cảm ơn, cô bé.” Fields nói khi cô gái trẻ làm xong việc. Khi cô gái trẻ rời đi, có lẽ là đi dội một xô nước sôi nóng giẫy để tiệt trùng, Fields nhìn sang Kins và Tracy. “Hai người có chắc là không muốn ăn chút gì không? Đồ ăn ở đây ngon lắm. Tôi tới đây ít nhất mỗi tuần một lần.”
Các cô phục vụ bàn hẳn đã phải run lên vì kinh sợ.
“Chúng tôi ổn.” Kins nói.
Fields xoắn mì bằng chiếc nĩa và nhét vào miệng cả một cục to. Anh ta chẳng cần lo đến con mèo đâu. Dù anh ta ngồi ở bên kia bàn, mùi tỏi cũng đủ nồng để giết chết cả một con gấu xám.
“Anh còn gì để kể cho chúng tôi về người chồng không?”
Fields lấy giấy ăn lau miệng và nhấp một ngụm bia. “Tôi đã nói rồi đấy, nhìn hắn giống đại gia lắm. Đi xe Porsche và mặc những bộ vest bó sát như kiểu bị nhỏ hơn một số. Và tỏ ra thông minh hơn người, lúc nào cũng tìm kiếm những cơ hội lớn hơn ở ngay xung quanh, và tin rằng lợi nhuận sẽ đến, chỉ cần có thời gian. Đúng là một thằng khoác lác. Tôi nghĩ hắn đã thuyết phục cô vợ rằng đây là tấm vé đổi đời của họ. Họ đã gần như thanh lý hết toàn bộ tài sản chung và đổ hết vào cửa hàng. Thẻ tín dụng của họ cũng đã xài vượt hạn mức tín dụng và các chủ nợ đang bắt đầu đòi. Và như tôi đã kể, ngân hàng phát hiện ra lá thư từ công ty luật là giả mạo, cho nên hắn ta đang phải đối mặt với một vụ khởi tố hình sự, có thể sẽ phải ở tù ít lâu nếu không thể hoàn trả lại số tiền.”
“Vậy là anh nghĩ hắn đang nhắm tới tài khoản tín thác của người vợ?” Kins hỏi.
“Đúng thế.” Fields vừa nhai mì vừa đáp. “Có vẻ như khoản tiền đó đã biến mất khỏi tài khoản cá nhân của Andrea.”
“Biến mất đi đâu?” Tracy hỏi.
“Không biết nữa. Gã chồng thề là hắn không làm gì cả và cũng không biết tiền đi đâu mất.”
“Thế còn bên được ủy thác thì sao?”
“Cũng vậy. Không biết.”
“Anh nghĩ là có lẽ hai vợ chồng họ đang cố gắng che giấu khoản tiền đó khỏi các chủ nợ à?”
“Ừ. Cô nói rằng cô ta có bằng lái xe ở Washington với một cái tên khác?”
“Lynn Hoff.” Tracy nói.
“Vậy tôi dám cá đó là chỗ cô có thể tìm thấy tiền.”
Tracy nhớ lại tờ hóa đơn từ Liên hiệp tín dụng Emerald mà cô tìm thấy trong sọt rác ở phòng nhà nghỉ.
Fields tựa người ra sau với một nụ cười nhe nhởn. “Và còn một vấn đề nhỏ với cô bồ bé nhỏ nữa.”
“Tôi đoán là sẽ có chuyện đó.” Kins nói.
“Lúc nào mà chẳng xuất hiện một cô bồ bé bỏng. Tôi nói đúng không?” Fields lấy một miếng bánh mì lớn để quẹt sạch nước sốt trên dĩa.
“Anh nói chuyện với cô ta chưa?” Kins hỏi.
Fields lắc đầu. “Vẫn chưa xác định được cô ta là ai. Andrea nói với sếp của cô ta rằng cô ta nghĩ chồng mình đang lăng nhăng bên ngoài, nhưng lại không nói ra là lăng nhăng với ai.”
“Có bằng chứng nào chứng minh chuyện đó là thật không?” Tracy hỏi.
“Tôi vẫn đang tìm đây, nhưng rõ ràng đây không phải lần đầu. Hắn ta vẫn ăn nằm với một con nhỏ nóng bỏng cùng công ty luật trước khi kết hôn và tôi đoán hắn không nghĩ đám cưới có thể trói buộc hắn, ngăn hắn không làm mấy chuyện đó nữa.”
“Anh nói chuyện với cô ta rồi chứ?” Tracy hỏi.
“Tôi có phải tay mơ đâu, thưa điều tra viên.” Anh ta nhón một miếng bánh mì bỏ tọt vào miệng.
Tracy thực sự không ưa gì gã này.
“Cô ta nói rằng cô ta đã chấm dứt với hắn khi phát hiện ra hắn đã kết hôn. Vậy là rõ ràng hắn đã lén lút qua lại với cô ả đó trong vài tháng.”
“Một thằng bỉ ổi.” Kins nói.
“Ờ.” Fields gật đầu. “Cô vợ cũng kể với sếp của cô ta là cô ta sẽ xin tư vấn của luật sư để ly hôn.”
“Vậy sao?” Tracy hỏi.
“Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy cô ta đã làm thế.”
“Tôi nghĩ tôi nhìn thấy động cơ khiến cô ta muốn biến mất rồi.” Kins nói.
“Ly hôn không giúp cô ta thoát khỏi món nợ khi mà cô ta đã kí bảo lãnh cá nhân.” Fields nói. “Và bởi vì Oregon là một bang theo luật đồng sở hữu tài sản cho nên Andrea cũng có trách nhiệm pháp lý đối với toàn bộ các khoản nợ.”
“Cô ta lo lắng sẽ bị lấy mất tài khoản tín thác.” Tracy nói.
“Hắn ta tuyên bố phá sản, và chẳng có vấn đề gì lớn.” Fields nói. “Hắn ta đâu có gì khác ngoài những món nợ. Còn cô ta? Cô ta đang ngồi trên một đống tiền lớn mà các chủ nợ rất muốn bám theo.”
“Tại sao lúc đầu họ lại đi vay tiền?” Kins hỏi.
“Như tôi đã nói” Fields ăn thêm một miếng mì nữa “Cô ta không cho phép hắn dùng tiền ở tài khoản tín thác đó.”
Kins nhìn sang Tracy.
“Phải.” Fields nói, hiểu được ý nghĩa của cái nhìn đó. “Gã đó có đầy đủ động cơ để giết cô ta.”
“Trong trường hợp đó, đáng lẽ ra hắn nên đẩy cô ta từ trên núi xuống mới phải chứ.” Tracy nói. Cô nghi ngờ vẫn còn điều gì đó ẩn đằng sau.
“Đó là lý giải hoàn hảo nhất.” Fields nhún vai, nói. “Năm nào cũng có người chết trên ngọn núi đó. Tôi nghĩ đó là lý do vì sao chỉ có hai người bọn họ không có hướng dẫn viên. Người chồng nhất mực khẳng định cái chết của vợ là một tai nạn. Có trời mới biết thực hư ra sao.”
“Nhưng anh ta là một luật sư.” Tracy nói, vẫn chưa cảm thấy thuyết phục hoàn toàn. “Chí ít anh ta cũng phải nhận thức được rằng với chuyện phá sản, hợp đồng bảo hiểm và hôn nhân trục trặc, ấy là còn chưa kể đến chuyện bồ bịch, đó sẽ là những chứng cứ khá thuyết phục chứng tỏ đó không phải là tai nạn.”
“Hắn một mực khẳng định là mình không biết gì về hợp đồng bảo hiểm.” Fields nói. “Và phủ nhận cả chuyện bồ bịch.”
“Anh ta nói mua bảo hiểm là ý của cô vợ sao?” Tracy hỏi.
“Và cả chuyện đi leo núi nữa.” Fields nói. “Như tôi đã nói, tôi đã khẳng định là hắn giết cô ta. Và bây giờ thì? Có lẽ cô ta cũng chẳng vui vẻ gì, phải không?” Fields nói. “Vậy là có thể cô ta coi chuyến leo núi này là một cơ hội tuyệt vời để làm giả cái chết, thoát khỏi cuộc hôn nhân tồi tệ và vứt lại cho gã chồng một đống hóa đơn và một mớ bòng bong để giải quyết.”
“Và có thể là trừng phạt cô bồ của chồng vì những chuyện mà cô ta đã làm.” Kins nói.
“Không cơn giận dữ nào khủng khiếp hơn người phụ nữ bị phụ tình.” Fields nói, dùng giấy ăn lau sạch khóe miệng.
“Có thể.” Tracy nói. “Và cũng có thể cô ta nghi ngờ người chồng không có ý để cô ta có cơ hội xuống núi nên đã chơi trò gậy ông đập lưng ông.”
“Thế thì tại sao cô ta lại đi khi cô ta đã biết rằng người chồng sắp sửa tìm cách hạ sát cô ta?”
“Cô ta buộc phải đi nếu muốn làm giả cái chết và thoát khỏi cuộc hôn nhân cũng như món nợ.” Tracy nói.
Kins lắc đầu. “Đáng lẽ ra cô ta chỉ cần bỏ trốn là được.”
“Bỏ trốn không có nghĩa là cô ta đã chết.” Tracy nói. “Bằng cách này, cô ta sẽ giấu đi khoản tiền tín thác, gieo xuống vài manh mối chẳng hạn như hợp đồng bảo hiểm và kể với sếp rằng chồng đang lừa dối mình và cô ta muốn ly hôn. Rồi khi hắn ta ngủ say, cô ta bỏ đi, biết chắc rằng tất cả mọi người sẽ đổ hết tội lỗi lên đầu người chồng.” Cô nhìn sang Fields. “Bên kiểm lâm có nói rằng cô ta cần phải có người nào đó giúp đỡ thì mới xuống núi được.”
“Phải, tôi biết chuyện đó, nhưng tôi không biết người đó có thể là ai. Cha mẹ cô ta đã chết và người thân duy nhất còn lại của cô ta là người dì ở San Bernardino, mà bà ta thì không liên lạc gì kể từ khi Andrea chuyển đến Portland. Có số liên lạc lưu trong hồ sơ. Người chồng...”
“Chúng ta có thể loại bỏ anh ta.” Kins nói.
“… Còn sếp của cô ta và một người bạn.” Fields nói.
“Người bạn nào thế.” Tracy hỏi.
“Devin Chambers. Họ làm việc cùng nhau ở công ty bảo hiểm.”
“Anh đã nói chuyện với cô ta chưa?” Tracy hỏi.
Fields lại nhìn cô với ánh mắt đó. “Tôi đã nói rồi mà, tôi không phải tay mơ. Tôi đã kiểm tra cô ta. Cô ta nói Andrea có tâm sự với cô ta rằng người chồng đã thừa nhận chuyện có bồ và hắn đã đánh đập Andrea.”
“Cô ta nói rằng anh ta đánh đập Andrea sao?” Tracy hỏi.
“Cô ta nói như thế, nhưng trước khi cô hào hứng nghĩ rằng Chambers đã giúp Strickland thì để tôi nói cô nghe điều này, vào cái ngày cuối tuần mà họ đi leo núi, Devin Chambers đang ở ngoài bãi biển. Cô ta có hóa đơn thẻ tín dụng thanh toán khách sạn và nhà hàng.”
“Anh có thể xác thực được những thông tin đó không?”
Fields lại tiếp tục cái giọng giễu cợt khiến Tracy bắt đầu phát mệt. “Xác thực cái gì, rằng cô ta đi bộ tới nhà hàng, gọi món rồi để đó, lái xe sáu giờ đồng hồ tới núi Rainier để giúp người vợ biến mất, rồi lái xe quay trở lại ấy hả? Tôi có những hóa đơn chứng minh là cô ta đã ở lại ngoài biển.”
Kins xen vào. “Được rồi, bất luận là ai giúp cô ta, giờ thì sao? Hắn ta phát hiện ra là cô vợ đã chơi xỏ hắn, vì thế đã truy đuổi theo số tiền và hạ sát cô ta? Bởi vì cô ta đã chết, cho nên chỉ cần không ai tìm ra cái xác thì cũng chẳng có ai nhớ tới cô ta đó là điều lý giải cho cái lồng cua.”
“Hắn vẫn là kẻ tình nghi chính.” Fields nói. “Tôi sẽ vẫn theo đuổi hắn ta tới cùng, nhưng bây giờ các anh chị đã tìm được cái xác, cho nên tôi đoán vụ này sẽ là của các anh chị.”
“Hắn ta có luật sư không?” Kins hỏi.
Fields gật đầu. “Một luật sư giỏi ở Portland.”
“Họ kết hôn được bao lâu rồi?” Tracy hỏi.
“Sắp tròn một năm. Họ lấy nhau chỉ sau vài tuần quen biết. Cho nên tôi đoán là anh chị đang tự hỏi liệu hắn ta có chủ ý lựa chọn cô ta không, một người có tiền mà lại không có người thân. Tôi nghĩ đúng chứ?”
“Anh nghi ngờ là vậy à?” Tracy hỏi.
“Dĩ nhiên là tôi sẽ nghi ngờ như thế, nhưng tôi không tìm được thông tin gì trong quá khứ của hắn có thể chứng minh cho điều này. Đó là lần kết hôn đầu tiên của cả hai người họ. Thêm nữa, tôi không nghĩ cô ta là một cô gái nhỏ thơ ngây như những gì cô ta tự vẽ lên về bản thân mình. Những kiểu người như thế này thường có xu hướng tìm tới nhau, hiểu ý tôi muốn nói chứ?”
“Không còn kẻ tình nghi nào khác nữa à?” Tracy hỏi.
Fields uống nốt cốc bia. “Không cần thiết. Giống như sau vụ xét xử O.J. Simpson khi báo chí hỏi Gil Garcetti rằng liệu họ có theo đuổi để tìm ra kẻ giết người thực sự không, Garcetti nói rằng “Kẻ giết người vừa mới bước chân ra khỏi cửa”. Tôi đã tin rằng vụ này cũng như thế. Và đến bây giờ vẫn vậy.”
“Có dấu hiệu nào cho thấy hắn ta có sở hữu tàu hay thuyền không?” Tracy hỏi.
“Tôi không để ý chuyện đó. Ấn tượng của tôi về hắn là hắn không phải kiểu người đó.”
“Kiểu gì cơ?” Kins hỏi.
“Kiểu tự mình giơ đầu chịu báng ấy.”
“Nhưng anh nghĩ có khả năng hắn là kẻ giết người cơ mà?”
Fields đẩy cái cốc trượt từ mép bàn vào trong. “Tôi không nghi ngờ gì chuyện hắn có ý đồ như thế. Bây giờ có lẽ hai người có thể chứng minh những hành động phát sinh sau ý đồ đó được rồi.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt