Chương 7 - Cái Gông Vàng
hượng Hải ba mươi năm về trước, một đêm sáng trăng... Có lẽ chúng ta không kịp trông thấy vầng trăng của ba mươi năm trước. Người trẻ tuổi hẳn nghĩ vầng trăng của ba mươi năm trước là một quầng sáng ướt đẫm màu cam, to cỡ đồng xu, cũ kỹ và mơ hồ như giọt lệ rớt trên trang giấy viết thư Đóa Vân Hiên. Còn vầng trăng ba mươi năm trước trong ký ức của người già thì tươi vui, to, tròn và trắng sáng hơn vầng trăng hiện tại; thế nhưng sau chặng đường gian khổ ba mươi năm nhìn lại, ánh trăng dẫu có lung linh hơn thế nữa, cũng khó tránh khỏi mang chút thê lương.
Ánh trăng soi lên gối của Phượng Tiêu, cô a hoàn theo hầu mợ ba mới được gả vào Khương công quán. Phượng Tiêu mở mắt nhìn, chỉ thấy cánh tay xanh xao của mình gác trên tấm mền bông Cao Ly ngả cũ, thầm nghĩ: “Là ánh trăng đây sao?” Phượng Tiêu trải nệm trên sàn nằm ngủ dưới khung cửa sổ. Hai năm ấy chính quyền thay đổi xoành xoạch, nhà họ Khương công chuyển đến Thượng Hải tránh nạn binh đao, nhà không đủ ở, thành thử đám người làm phải nằm chung ngổn ngang trong gian nhà dưới này.
Phượng Tiêu giật mình nghe thấy đằng sau cái giường lớn có tiếng sột soạt, đoán chừng có người dậy đi vệ sinh, quay mình lại, quả nhiên thấy bức rèm được vén lên, một bóng đen loẹt quẹt bước ra, dường như là Tiểu Song hầu hạ mợ hai. Phượng Tiêu liền khe khẽ gọi “chị Tiểu Song”. Tiểu Song cười khì khì bước lại, đá nhẹ vào tấm nệm dưới đất, nói: “Chị đánh thức em à?” Hai tay Tiểu Song đút vào trong lớp áo kép lụa cũ màu lá sen, phía dưới xỏ một chiếc quần màu lục bóng. Phượng Tiêu thò tay ra giật giật gấu quần của Tiểu Song, cười nói: “Quần áo sặc sỡ kiểu này, giờ còn mấy ai mặc nữa. Người Hạ Giang đều chuộng màu nhã nhặn cơ mà.” Tiểu Song cười đáp: “Em không biết đấy thôi! Nhà mình sao bì được với các nhà bên? Bà nhà mình cổ lỗ quá, ngay cả các mợ, các cô còn chẳng tự chủ được, nữa là bọn a hoàn chúng mình? Cho gì thì mặc nấy, trông ai cũng như nông dân!” Tiểu Song lom khom ngồi bệt xuống tấm nệm, nhặt một chiếc áo khoác con ở ngay cạnh chân Phượng Tiêu lên, hỏi: “Tiểu thư nhà em đi lấy chồng, cho thêm hả?” Phượng Tiêu lắc đầu đáp: “Quần áo cả ba mùa, chỉ có hai bộ chị thấy ở ngoài kia là mới may, còn lại thì toàn lấy quần áo cũ của bề trên vá lại để mặc thôi!” Tiểu Song nói: “Cưới xin lần này, vào đúng lúc đảng cách mạng làm loạn, tiểu thư nhà em cũng thiệt thòi quá!” Phượng Tiêu thở dài: “Chị đừng nhắc nữa! Cứ cho là tiết kiệm một chút đi, nhưng gì thì gì cũng phải có giới hạn! Khóng thể quá sơ sài được. Mợ nhà em, ngoài miệng chẳng nói gì đâu, nhưng trong lòng chẳng lẽ lại không ấm ức?” Tiểu Song nói: “Chẳng trách mợ ba cứ không vui. Của hồi môn bên nhà em cũng còn tàm tạm, chứ tình hình bên chị, phải nói là thê thảm. Đến ngay cả cái năm cưới mợ hai nhà ta, cũng còn thảm hơn bận này!” Phượng Tiêu ngây người ra rồi nói: “Sao hả chị? Mợ hai nhà chị...”
Tiểu Song bỏ giày ra, bước qua người Phượng Tiêu, đi chân đất tới trước cửa sổ, cười nói: “Em dậy mà xem trăng này!” Phượng Tiêu nhổm người dậy, khẽ giọng hỏi: “Em muốn hỏi chị từ lâu rồi, mợ hai nhà chị...” Tiểu Song cúi xuống nhặt cái áo ngắn khoác cho Phượng Tiêu, bảo: “Cẩn thận nhiễm lạnh đấy!” Phượng Tiêu vừa cài cúc áo, vừa cười nói: “Không được! Chị phải nói cho em biết đấy!” Tiểu Song cười đáp: “Chị nói năng bộp chộp, kiểu này chuốc vạ rồi!” Phượng Tiêu trả lời: “Chị em mình đều là người một nhà, làm gì mà phải giữ ý giữ tứ như thế?” Tiểu Song rằng: “Chị nói em nghe, nhưng em không được kể cho tiểu thư nhà em biết đâu đấy! Nhà mợ hai chúng ta bán dầu mè.” Phượng Tiêu ồ lên một tiếng: “Bán dầu mè! Sao lại thế nhỉ? Như mợ cả nhà chị, cũng là tiểu thư con nhà công hầu, mợ nhà em tuy không so được với mợ cả, nhưng cũng không phải con nhà thấp kém...” Tiểu Song đáp: “Chuyện này đương nhiên có cái cớ của nó. Cậu hai nhà ta, em cũng gặp rồi đấy, là người tàn tật. Con gái nhà quan ai bằng lòng gả bán cho? Bà cũng hết cách, định bố trí cho cậu một hầu thiếp, mối mai tìm được cô họ Tào này, sinh vào tháng Bảy, nên gọi là Thất Xảo.” Phượng Tiêu đáp: “Ồ, là hầu thiếp à?” Tiểu Song nói tiếp: “Vốn là hầu thiếp, nhưng sau bà lại nghĩ, nếu không định lấy vợ cho cậu hai nữa, nhà cậu hai sẽ chẳng có con dâu gánh vác việc nhà, kể cũng không ổn, thà rằng cưới quách về làm vợ chính thức, cho cô ta một lòng một dạ phục vụ cậu.” Phượng Tiêu vin tay lên bậu cửa sổ, trầm ngâm: “Thảo nào! Tuy em mới đến, nhưng cũng cảm thấy ngờ ngợ.” Tiểu Song đáp: “Thì chẳng trách có câu, nòi nào giống ấy. Em còn chưa nghe cách nói năng của mợ ấy đấy! Trước mặt mấy tiểu thư, mợ ta chẳng kiêng dè gì cả. May mà nhà mình xưa nay kín cổng cao tường, mấy tiểu thư chẳng hiểu gì hết. Dù không hiểu, nhưng vẫn ngượng chín cả mặt!” Phượng Tiêu sặc cười: “Thật hả chị? Kiểu ăn nói chợ búa ấy chẳng hiểu mợ ấy học được từ đâu nhỉ? Ngay bọn a hoàn chúng mình...” Tiểu Song khoanh tay, nói: “Thì trông quán dầu mè mãi, đứng quầy quen đi rồi, đương nhiên là nghe nhiều biết nhiều thôi, chúng mình làm sao bì với người ta được?” Phượng Tiêu đáp: “Chị theo hầu mợ ấy gả về đây cơ mà?” Tiểu Song cười nhạt đáp: “Mợ ấy mà xứng! Chị vốn theo hầu bà lớn, cậu hai suốt ngày uống thuốc, làm gì cũng phải có người bên cạnh, trong phòng có mấy đứa a hoàn mà vẫn không đủ, thành thử chị bị điều sang. Sao thế? Em lạnh à?” Phượng Tiêu lắc đầu. Tiểu Song nói: “Trông em kìa, co ro rụt cả cổ rồi, yếu ớt quá!” Nói chưa dứt câu, Phượng Tiêu đã hắt xì hơi, Tiểu Song vội đẩy vai Phượng Tiêu nói: “Vào ngủ đi! Ngủ tiếp đi! Rúc vào chăn cho ấm!” Phượng Tiêu quỳ gối cởi áo khoác, cười đáp: “Chưa phải mùa đông, mà sao lạnh thế nhỉ?” Tiểu Song nói: “Em đừng tưởng cửa sổ đóng mà coi thường, gió luồn qua mấy cái khe này này!”
Hai người ai về chỗ nấy nằm ngủ, Phượng Tiêu lại khẽ tiếng hỏi: “Về đây cũng được bốn năm năm rồi nhỉ?” Tiểu Song đáp: “Ai cơ?” Phượng Tiêu trả lời: “Còn ai vào đây nữa?” Tiểu Song nói: “À, mợ ấy hả, thì cũng năm năm rồi đấy!” Phượng Tiêu nói tiếp: “Cũng sinh con đẻ cái đấy chứ, nào có chuyện gì để bàn ra tán vào đâu?” Tiểu Song đáp: “Ôi giời! Chuyện bàn ra tán vào nhiều lắm! Năm kia bà lớn dẫn cả nhà lên núi Phố Đà thắp hương, mợ ấy ở cữ không đi được, đành để mợ ở nhà trông nhà. Ông anh của mợ ấy cũng năng đến thăm em quá cơ, thế là nhà mình không dưng mất đồ.” Phượng Tiêu ngạc nhiên nói: “Có tra ra được ngọn ngành không?” Tiểu Song đáp: “Tra ra được gì đây? Cả nhà đều rất khó xử! Mấy món trang sức ấy dù gì thì sau này cũng thuộc về cậu cả, cậu hai, cậu ba. Cậu cả và mợ cả đều ngại cậu hai, chẳng muốn nói gì. Bản thân cậu ba ở ngoài tiêu tiền như nước, nợ nần quỹ chung đâu có ít, thành thử cũng chẳng mở miệng nổi.”
Hai người nằm nói chuyện cách nhau cỡ một trượng. Tuy đã cố gắng hạ giọng xuống hết mức, nhưng vẫn có dăm câu ba tiếng nói hơi to, làm vú Triệu đang nằm trên giường lớn thức giấc, vú Triệu gọi: “Tiểu Song!” Tiểu Song không dám ứng tiếng. Vú Triệu bảo: “Tiểu Song! Mày mà còn nói bừa, để người ta nghe thấy, thì ngày mai banh xác, nghe con!” Tiểu Song vẫn không ho he. Vú Triệu lại nói: “Mày đừng có tưởng vẫn ở trong thâm cung đại viện như trước, mà luyên thuyên thế nào cũng được nhé! Cái chỗ toàn tai mắt thế này, có chuyện gì giấu được ai đâu? Cẩn thận không ăn đòn con ạ!” Căn buồng bất chợt lặng thinh. Vú Triệu bị mù, trong gối có nhét lá hoa cúc, nghe nói có thể làm mát mắt. Vú nhấc đầu, cắm lại chiếc trâm bạc giắt ngang trên búi tóc, hơi xoay người sang bên, lá cúc kêu lạo xạo. Vú Triệu trở mình, kéo theo tiếng răng rắc phát ra từ khớp xương khắp người, vú lại thở dài một tiếng: “Chúng mày thì biết cái gì!” Tiểu Song và Phượng Tiêu vẫn không dám tiếp lời. Một lúc lâu sau không có người mở miệng, ai nấy đều mơ màng thiếp đi.
Trời sắp sáng. Mảnh trăng hạ huyền mỏng tang, thấp xuống một chút, thấp xuống một chút, rồi to hơn một chút, tựa như chiếc chậu rửa mặt bằng đồng dần dần chìm xuống. Trời ngả màu xanh mai cua lạnh ngắt, dưới gầm trời chỉ còn mảng tối của mấy căn nhà lúp xúp, vì vậy phóng mắt có thể nhìn ra rất xa. Sắc ban mai nơi đường chân trời cứ một lớp xanh, một lớp vàng, rồi một lớp đỏ, giống như quả dưa hấu được bổ ra, và vầng dương sắp ló mặt. Dần dần trên đường có tiếng xe con với xe kéo lăn bánh lộc cộc, tiếng vó xe ngựa nện kêu lóc cóc. Người gánh tào phớ cất tiếng rao ê a, chỉ nghe thấy tiếng cuối kéo dài thượt: “Phớ... đơi! Phớ... đơi!” Đi xa hơn chút nữa, chỉ còn nghe thấy: “Ớ... ơi!...Ớ... ơi!”
Trong phòng, bọn a hoàn, vú em cũng đã trở dậy, nhao nhao mở cửa phòng, rửa mặt mũi, gấp chăn nệm, cuốn màn, chải đầu. Phượng Tiêu hầu mợ ba Lan Tiên vận quần áo, Lan Tiên sà tới trước gương ngắm nghía một hồi, rút từ nách áo ra một chiếc khăn tay thêu hoa bằng lụa Hồ châu, lau phấn lên cánh mũi, nói với cậu ba còn đang nằm trên giường phía sau lưng: “Em ra thỉnh an bà trước đã. Đợi anh, thế nào cũng nhỡ việc.” Đang nói, mợ cả Đại Trân bước đến, đứng ở ngưỡng cửa cười nói: “Em ba! Mình cùng đi đi!” Lan Tiên vội ra đón mợ cả: “Em đang lo, chỉ sợ trễ, hóa ra chị dâu cả còn chưa đi. Không rõ chị hai thì thế nào?” Đại Trân cười: “Thím ấy thì còn phải rề rà một lúc nữa!” Lan Tiên nói: “Nựng anh hai uống thuốc ạ?” Đại Trân nhìn quanh, thấy không có ai, bèn cười nói: “Uống thuốc chỉ là thứ yếu thôi...” Mợ cả đặt ngón cái lên môi, ba ngón giữa gập lại, ngón út chĩa lên, khẽ hít hà hai tiếng. Lan Tiên ngạc nhiên: “Hai người đều hút cái ấy à?” Đại Trân gật đầu đáp: “Chú hai rành rành ra rồi, chứ còn thím hai thì giấu bà, bọn mình ở giữa đâm ra lại khó xử, việc gì cũng phải giấu giếm hộ thím ấy. Mà thực ra bà nhà mình có việc gì mà không biết? Bà cứ cố ý lờ đi, vẫn sai khiến thím ấy như thường, bắt phải làm những việc lặt vặt, chẳng qua là không muốn cho thím ấy hút thỏa thê mà thôi. Kể cũng thật là, còn trẻ như thế, có tâm sự nặng nề gì đâu mà phải hút cái thứ ấy giải sầu cơ chứ?”
Đại Trân, và Lan Tiên dắt tay nhau cùng bước lên lầu, phía sau mỗi người là một đứa a hoàn theo sát, đi vào gian phòng khách nho nhỏ sát vách phòng ngủ của bà lớn. A hoàn Lựu Hỷ của bà lớn ra tiếp đón, khẽ nói: “Bà chưa dậy đâu!” Đại Trân ngước đầu lên nhìn đồng hồ, cười: “Hôm nay bà dậy muộn quá.” Lựu Hỷ đáp: “Hai hôm trước bà bảo ngoài đường ồn quá, ngủ không yên giấc. Giờ chắc là bà quen rồi, hôm nay ngủ bù.” Chiếc bàn tròn nhỏ trăm tuổi bằng gỗ tử du phủ một tấm vải đỏ, nhị tiểu thư Khương Vân Trạch ngồi bên cạnh, đang cầm chiếc kìm nhỏ kẹp vỡ những quả hồ đào, thấy thế bỏ xuống, đứng dậy đón tiếp. Đại Trân đặt tay lên vai Vân Trạch, cười nói: “Đúng là em Vân nhà mình hiếu thảo thật, tối qua nhân lúc vui, bà bảo muốn ăn kẹo hồ đào, vậy mà em nhớ luôn.” Lan Tiên và Đại Trân bèn ngồi xuống quanh bàn, giúp Vân Trạch bóc vỏ hồ đào. Vân Trạch mỏi tay, đặt kìm xuống, Lan Tiên đón lấy chiếc kìm. Đại Trân nói: “Cẩn thận cái móng tay lá lan kìa! Nuôi dài thế này mà để gãy thì tiếc lắm!” Vân Trạch đáp: “Để em bảo bọn gia nhân lấy móng tay vàng đeo vào vậy.” Lan Tiên cười, rằng: “Cái thứ này cách rách quá, chẳng thà bảo bọn nó đem xuống dưới bếp bóc cho xong.”
Mọi người đang khúc khích nói cười, Lựu Hỷ vén rèm thông báo: “Mợ hai đến rồi ạ!” Lan Tiên, Vân Trạch đứng dậy nhường chỗ, Thất Xảo chưa vội ngồi xuống, một tay chống cửa, một tay chống nạnh, trong ống tay áo hẹp thõng xuống một chiếc khăn lụa nhàu màu tím nhạt, trên mình vận áo màu đỏ tươi viền xanh cùng chiếc quần Như Ý ống nhỏ màu tím nhạt ánh lam, khuôn mặt xương xương, môi đỏ, răng đều, mắt hình tam giác, nét mày cong cong. Chị ta nhìn xung quanh, cười nói: “Mọi người đông đủ rồi à! Hôm nay chắc tôi lại trễ rồi! Làm sao tôi không đến trễ cho được, phòng thì tối om om, chải cái đầu cũng phải lần mò! Ai bảo cái cửa sổ phòng tôi quay ngay ra sân sau cơ chứ? Đương không lại sắp riêng cái phòng ấy cho tôi, dù gì thì cái vị kia nhà tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa, mẹ con tôi đang đợi làm mẹ góa con côi đây... không bắt nạt mẹ con tôi thì bắt nạt ai?” Đại Trân dửng dưng không thèm đáp, Lan Tiên thì cười nói: “Chị hai quen sống căn nhà ở Bắc Kinh rồi, chẳng trách chê nơi này bí bách là phải!” Vân Trạch nói: “Hồi anh cả đi tìm nhà, vốn định tìm căn rộng rãi một chút, nhưng mà ở Thượng Hải, được căn nhà như thế này, cũng sáng sủa chán rồi.” Lan Tiên nói: “Đúng đấy! Nhà mình quả thực đông người quá, cũng hơi chật một chút thật…” Thất Xảo vén ống tay áo lên, nhét khăn tay vào trong chiếc vòng phỉ thúy, liếc Lan Tiên một cái, cười nói: “Thì ra thím ba cũng chê đông người cơ đấy. Ngay như anh chị đây còn hiềm nỗi người đông, chú thím lấy nhau còn chưa đầy một tháng, đương nhiên càng chê đông rồi!” Lan Tiên nghe câu này, còn chưa thấy làm sao thì Đại Trân đã đỏ mặt trước, đáp: “Đùa gì thì đùa, cũng phải có chừng mực, thím ba về nhà mình còn chân ướt chân ráo, cô định để thím ấy nghĩ chúng ta là loại người gì đây?” Thất Xảo kéo một góc khăn tay lên che môi, nói: “Biết các chị là tiểu thư con nhà gia giáo rồi, các chị cứ thử đổi vị trí cho tôi thử xem, sợ là một đêm thôi chị cũng chẳng ngủ quen ấy chứ.” Đại Trân phì một tiếng nói: “Tôi không thèm nói với nhà thím nữa, càng nói nhà thím càng cong cớn.” Thất Xảo liền phăm phăm tiến lên kéo lấy tay áo Đại Trân nói: “Tôi dám thề độc đấy, trong vòng năm năm tôi dám thề độc đấy! Chị dám thề không? Dám thề không?” Đại Trân cũng bật cười ha hả, khẽ buông một câu: “Thế sao thím vẫn có hai đứa?” Thất Xảo đáp: “Thật đấy! Đến tôi cũng chẳng hiểu sao lại đẻ ra hai đứa! Càng nghĩ càng không hiểu!” Đại Trân xua tay: “Thôi đủ rồi! Đủ rồi! Nói bớt vài câu đi! Dù thím coi thím ba như người nhà thím, nói năng không cần ý tứ, nhưng hẵng còn em Vân đứng đây, lát nữa em Vân mà mách tội thím trước mặt bà, thì thím cứ dờ hồn!”
Vân Trạch đã tránh xa từ nãy, đang chắp tay sau lưng đứng ở ban công, chúm môi ghẹo con hoàng yến. Ngôi nhà của họ Khương đang ở tuy mang phong cách Tây kiểu mới nhất thời kỳ đầu, cây trụ lớn có đắp gạch ngói màu đỏ hồng đỡ lấy vòm cửa đồ sộ, nhưng ban công trên lầu lại được lát gỗ. Sau dãy lan can làm bằng gỗ hoàng dương, có đặt mấy chiếc mẹt lớn, phơi măng khô. Ánh nắng cũ kỹ tràn ngập không gian như những hạt bụi vàng, thứ bụi vàng khiến ngươi ta hơi cay sống mũi, tràn vào mắt khiến mọi thứ nhòe nhoẹt. Người bán rong trên đường lắc trống bỏi từ xa, “cách tùng... cách tùng...”, trong tiếng trống mông lung có vô số ký ức của trẻ thơ đang lần lần già cỗi. Xe con rè rè phóng qua, thi thoảng cũng có vài tiếng còi xe hơi bim bim vang lên.
Bản thân Thất Xảo cũng biết người trong nhà này đều không coi mình ra gì, vì vậy có ý tỏ ra thân thiết với người mới đến. Thất Xảo dựa vào lưng ghế Lan Tiên ngồi, hỏi han bắt chuyện, hết cầm tay trái lại nâng tay phải của Lan Tiên, khen nức nở móng tay của cô một hồi rồi nói: “Năm ngoái tôi cũng nuôi móng ở ngón cái, còn dài hơn móng của thím cỡ nửa tấc, nhưng ngắt hoa nên gãy rồi.” Lan Tiên đã sớm hiểu rõ con người của Thất Xảo và địa vị của cô ta trong nhà họ Khương, chỉ nhoẻn miệng cười trừ, cũng không đáp lời. Thất Xảo chưng hửng, xoay sang ban công, nhấc đuôi tóc của Vân Trạch lên lắc lắc, giả lả bắt chuyện: “Ôi chao! Mái tóc của em sao lại mỏng thế này? Năm ngoái tóc còn dày bóng, chắc rụng đi nhiều đấy nhỉ?” Vân Trạch tránh người qua một bên che đuôi tóc: “Tôi có rụng một sợi tóc cũng chẳng cần chị bận tâm!” Thất Xảo vẫn mê mải ngắm cô bé, rồi gọi: “Chị dâu đến mà xem này, em Vân quả thực gầy đi nhiều quá, hay là em có tâm sự gì?” Vân Trạch hất tay Thất Xảo ra, kêu đánh bộp một tiếng, nổi giận: “Chị hôm nay điên thật rồi! Ngày thường vẫn chưa đủ đáng ghét sao?” Thất Xảo đút hai bàn tay vào trong ống tay áo, cười khì khì nói: “Tiểu thư nóng tính thế!” Đại Trân thò đầu ra gọi: “Vân ơi! Bà dậy rồi!” Mọi người vội vuốt vạt áo, chỉnh lại búi tóc, vén rèm đi vào trong phòng kế bên thỉnh an, hầu bà ăn bữa sáng. Bọn người ở bưng mâm từ phòng khách vào, đứa a hoàn trong phòng đỡ lấy bát đĩa, rồi tất cả người ở lui ra ngoài chầu chực như cũ. Trong buồng im phăng phắc, họa hoằn lắm mới có người cất lên một câu, chỉ nghe thấy tiếng lách cách nho nhỏ phát ra từ đầu đũa bạc. Bà lớn theo Phật, sau bữa ăn theo lệ thường phải tụng kinh hai tiếng, ai nấy lui cả ra ngoài, Vân Trạch nói thầm với Đại Trân: “Chị hai không mau về hút thuốc cho sướng đi, lại còn ở trong đó làm gì không biết?” Đại Trân đáp: “Chắc là có chuyện riêng muốn nói.” Vân Trạch bật cười: “Bà còn lâu mới nghe nổi lời của chị ấy.” Đại Trân cười nhạt đáp: “Cũng chưa chắc. Tâm lý của người già hay dao động lắm, cả ngày nghe tỉ tê bên tai, trong mười câu cũng tin một đôi câu, chưa biết thế nào.”
Lan Tiên ngồi bóc hồ đào, Đại Trân và Vân Trạch thuận bước ra ban công, tuy không cố tình nghe lỏm câu chuyện trong phòng chính, song bà đã có tuổi, tai hơi điếc, giọng nói có phần khá cao, nên dù vô tình hay hữu ý thì nhiều câu cũng lọt vào tai người đứng ngoài ban công. Vân Trạch giận tái mặt, thoạt tiên là bóp chặt nắm tay, sau rồi vung mạnh hai tay, vùng chạy về phía đầu kia của hành lang. Chạy được hai bước thì dừng lại, cúi về trước, bưng mặt khóc tu tu. Đại Trân chạy lên dìu em, khuyên nhủ: “Em nín đi! Mau nín đi! Đừng chấp cái loại người ấy làm gì! Có ai để lọt tai lời nó nói đâu!” Vân Trạch vùng ra, chạy thẳng về phòng mình. Đại Trân quay trở lại phòng khách, đập tay nói: “Lần này thì gây vạ lớn rồi!” Lan Tiên vội hỏi: “Sao thế chị?” Đại Trân đáp: “Thím hai nói với bà là gái lớn phải gả chồng, bảo bà viết thư cho nhà họ Bành, bảo họ sớm cưới em Vân qua đó đi. Thím xem, thế là cái kiểu gì?” Lan Tiên cũng ngớ người ra một lúc, nói: “Nhà gái mà nói ra như thế có khác gì tự vả vào mặt?” Đại Trân đáp: “Nhà họ Khương mất thể diện cũng chỉ là việc nhất thời, chứ em Vân mà gả qua đó, thím bảo nhà người ta coi em mình ra gì nữa? Cả đời này em ấy còn ngóc đầu thế nào dược!” Lan Tiên nói: “Bà là người sáng suốt, chưa chắc đã nghĩ như cái người kia đâu.” Đại Trân nói: “Ban đầu thì bà đương nhiên không thích nghe, bảo là con cháu trong nhà này, nhất định không có bụng ấy đâu. Thím ấy liền nói là: ‘Ôi dào! Con gái thời nay làm sao có thể đem ra so với cái thời ngày xưa của bà được? Thời thế thay đổi rồi, nếu không thì sao gọi là thiên hạ đại loạn cơ chứ?’ Thím biết đấy, người già chỉ thích nghe kiểu đó thôi, thím ấy nói đến mức bà cũng thấy hơi nghi hoặc.” Lan Tiên thở dài: “Trông cũng đứng đắn mà sao nghĩ ra toàn những chuyện đơm đặt thế cơ chứ?” Đại Trân chống hai cùi tay lên bàn, giơ ngón út miết lông mày, ngồi trầm ngâm một lúc, cười mỉa, rồi nói: “Thím ấy cứ làm như thím ấy quan tâm đến em Vân lắm ấy! Thím ấy mà quan tâm đến tôi như thế, tôi cũng chẳng chịu nổi!” Lan Tiên kéo tay Đại Trân: “Chị nghe xem... chắc không phải em Vân chứ?” Phòng phía sau đường như có người đang gào khóc thảm thiết, đạp rầm rầm vào thành giường bằng đồng, trong tiếng ồn ào nhộn nhạo hình như có người đang khuyên nhủ ở bên đó, nhưng khuyên mãi không được. Đại Trân đứng dậy nói: “Để chị ra xem sao. Chớ thấy cô tiểu thư này ngày thường hiền lành, một khi bị dồn ép quá, cũng không phải vừa đâu.”
Đại Trân vừa đi ra, Khương Quý Trạch, cậu ba nhà họ Khương dọc đường ngáp ngắn ngáp dài bước vào. Quý Trạch là gã trai tráng kiện, hơi béo, sau gáy buông thõng cái đuôi sam lớn bóng mượt tết lỏng lẻo theo kiểu chập ba, khuôn mặt hết sức đầy đặn, hai má hồng hào, hơi sệ xuống một chút, lông mi mượt mà, trong đôi mắt đen đẫm nước lộ ra vài nét chán chường, vận một chiếc áo dài chẽn tay màu cỏ úa, bên ngoài là một cái áo không tay khuy ngọc màu tím hồng, hỏi Lan Tiên rằng: “Ai xì xầm với bà trong ấy thế em?” Lan Tiêu đáp: “Chị dâu hai đấy!” Quý Trạch bĩu môi lắc đầu. Lan Tiên cười: “Anh cũng sợ chị ấy hả?” Quý Trạch chẳng nói chẳng rằng, kéo một chiếc ghế ra, xoay lưng ghế tựa vào thành bàn, vén cao vạt áo rồi ngồi ngược lên ghế, cằm gác lên mép lưng ghé, tay bốc nhân hồ đào ăn tì tì. Lan Tiên lườm Quý Trạch một cái rồi nói: “Người ta ngồi bóc cả buổi, là để dâng cho anh xơi đấy?” Đang nói thì Thất Xảo vén rèm bước ra, nhác thấy Quý Trạch liền bất giác đi lại, vòng qua sau lưng ghế của Lan Tiên, hai tay đặt lên cổ cô, hất hàm cười, nói: “Có được tân nương tài sắc hơn người này, chú ba còn chưa cảm ơn tôi đâu đấy! Nếu không phải tôi giục mọi người sớm hoàn thành việc này cho chú, cứ lần chần, đợi đánh nhau xong, có mà tám năm, mười năm không chừng! Lúc ấy chú lại chẳng rối rít cả lên!” Việc đáng tiếc lớn nhất trong đời Lan Tiên là hôm cưới lại rơi đúng vào thời kỳ biến động, thành thử hôn lễ tổ chức qua loa, mọi việc đều không chu toàn, thế nên vừa nghe thấy mấy lời chối tai này, khuôn mặt trái xoan của cô liền xị xuống. Quý Trạch liếc nhìn Lan Tiên, khẽ cười, nói: “Chị hai này! Xưa nay đúng là làm ơn mắc oán, chẳng ai hiểu cho lòng chị cả!” Thất Xảo nói: “Không hiểu cho cũng được! Tôi cũng quen rồi. Tôi vào cái nhà họ Khương này, những việc khác tôi không nói, riêng việc tôi trông nom anh hai chú bao năm nay, tất tưởi hầu hạ anh chú, kể cũng đã là người có công rồi... Đã có ai hiểu cho tôi đâu? Đã có ai rủ chút lòng thương cho tôi đâu?” Quý Trạch cười đáp: “Chị hễ mở miệng ra là y rằng cằn nhà cằn nhằn!” Thất Xảo thở một hơi dài thườn thượt, mân mê bộ xà tích vàng và chìa khóa đính trên vạt áo của Lan Tiên. Một lúc lâu, chợt nói: “Dù sao thì cả tháng nay chú cũng chưa ra ngoài gây sự. May có nàng dâu mới giữ được chân chú, chứ người xung quanh quỳ xuống van lơn cũng có giữ được chú đâu!” Quý Trạch cười đáp: “Thật sao? Chị đã giữ tôi bao giờ đâu, làm sao biết không giữ được?” Quý Trạch vừa cười, vừa đá mắt về phía Lan Tiên. Thất Xảo cười gập cả bụng, nói: “Thím ba này, thím phải trông chồng cẩn thận đấy! Chứ thằng khỉ này, tôi tận mắt trông nom nó lớn, giờ nó lại bắt bẻ cả tôi đấy!”
Thất Xảo ngoài miệng nói cười rôm rả, nhưng trong lòng phát nẫu cả ruột gan, luôn tay day miết, đấm vỗ Lan Tiên, chỉ mong có thể giày vò cô nàng tơi tả mới cam. Lan Tiên tuy rất nền nã, song cũng không nhịn được nữa, phát cáu lên, bóp hồ đào quá tay, khiến cái móng tay dài hơn hai tấc gãy tận gốc. Thất Xảo kêu ối lên một tiếng gọi: “Mau lấy kéo lại đây sửa cho mợ ba! Tôi nhớ trong phòng này có cái kéo con đấy.” Đoạn lại gọi: “Tiểu Song! Lựu Hỷ! Mau lại đây!” Lan Tiên đứng dậy nói: “Chị hai khỏi phải mất công, em tự về phòng mình gọt lấy.” Rồi nhoài người đi ra. Thất Xảo ngồi ngay xuống chiếc ghế của Lan Tiên, tay chống vào má, nhướn cao lông mày, liếc nhìn Quý Trạch nói: “Thím ấy giận tôi đấy à?” Quý Trạch cười đáp: Cô ấy giận chị làm gì?” Thất Xảo nói: “Tôi đang định hỏi thế... lẽ nào tôi nói sai câu gì chăng? Giữ chú ở nhà là xấu ư? Thím ấy lại bằng lòng để chú ra ngoài chơi sao?” Quý Trạch cười nói: “Cái nhà này từ anh cả, chị dâu cả trở đi, đều đồng lòng muốn quản giáo tôi, chẳng qua là sợ tôi tiêu lạm tiền quỹ chung thôi.” Thất Xảo đáp: “A Di Đà Phật! Tôi không dám chắc người khác có cái tâm ấy không, nhưng tôi thì chắc chắn không nghĩ thế. Dù chú thua trắng tay, phải cầm nhà bán đất, tôi mà chỉ hơi cau mày, thì tôi không phải chị dâu chú. Ai bảo chúng ta là cốt nhục một nhà? Tôi chẳng qua lo cho thân chú thôi.” Quý Trạch cười khì một tiếng đáp: “Tôi tự lo cho thân tôi, khỏi cần chị phải lo.” Thất Xảo nói với giọng run run: “Con người ta, sức khỏe là quan trọng nhất. Chú nom bộ dạng anh hai chú, còn ra dáng người không? Có thể coi anh ấy là người không?” Quý Trạch nghiêm mặt lại nói: “Anh hai không thể so với tôi được, anh ấy sinh ra đã thế, đâu phải tự hủy hoại mình. Anh ấy là người đáng thương, tất cả đều trông cậy vào chị săn sóc anh ấy thôi.” Thất Xảo đứng thẳng dậy, hai tay vịn vào bàn, mi mắt trễ xuống, nửa khuôn mặt phía dưới run lên như thể trong miệng đang ngậm một ngụm dầu sáp nóng bỏng, thẽ thọt nói hai câu: “Chú đi sang ngồi cạnh anh chú thử đi! Đi sang ngồi cạnh anh chú thử đi!” Thất Xảo thử ngồi xuống bên cạnh Quý Trạch, chỉ ké ở một góc ghế, đoạn đặt tay lên đùi anh ta, nói: “Chú đã chạm vào da thịt anh ấy chưa? Nó nhẽo và bì bì giống như chân người ta lúc bị tê, sờ lên trên thì cảm giác nó...” Mặt Quý Trạch biến sắc, song anh ta vẫn cười khẩy một cái, khom lưng xuống, thò tay miết vào chân Thất Xảo: “Phải xem xem chân chị giờ có tê không đã!” Thất Xảo đáp: “Giời ơi! Chú chưa sờ vào da thịt anh ấy, chú không biết cơ thể của người khỏe mạnh tốt đẹp đến nhường nào đâu...” Thất Xảo tuột khỏi ghế, quỳ xuống đất, mặt đè vào ống tay áo, không nghe thấy tiếng cô ta khóc, chỉ thấy viên kim cương lấp lánh ở đầu chiếc trâm cài trên búi tóc rung rung đầy kích động. Bên trong búi tóc có buộc một sợi tơ hồng, phản chiếu trong ánh sáng đỏ nhạt của viên đá kim cương. Cái bóng cô ả cứ khuỵu dần, khuỵu dần, rồi mọp hẳn xuống. Cô ả không giống đang khóc, mà đơn giản giống như đang nôn thốc nôn tháo.
Quý Trạch thoạt tiên ngẩn người ra, sau đó liền đứng dậy nói: “Tôi đi là được chứ gì. Chị không sợ ai, nhưng tôi thì sợ. Cũng phải giữ cho anh hai tôi một chút thể diện chứ!” Thất Xảo vịn ghế đứng dậy, thút thít nói: “Tôi đi!” Cô ả rút chiếc khăn trong ống tay áo ra thấm thấm lên mặt, rồi chợt nhoẻn miệng cười, nói: “Như vậy là chú bảo vệ anh hai chú!” Quý Trạch cười nhạt: “Tôi không bảo vệ anh ấy thì ai bảo vệ anh ấy?” Thất Xảo đi ra ngoài cửa, hắng giọng nói: “Chú thì tốt đẹp nỗi gì? Chẳng cần giả vờ trong trắng trước mặt tôi đâu! Tạm chưa nói đến việc chú phóng đãng thế nào ở bên ngoài, chỉ riêng trong cái phòng này... đến hạt cát cũng chẳng qua được mắt chị đây đâu! Đừng nói tôi là chị dâu chú, kể cả tôi là vú nuôi chú, có khi chú cũng chẳng ngần ngại.” Quý Trạch cười đáp: “Tôi vốn buông tuồng, tránh sao được bị chị bới móc!” Thất Xảo toan ra khỏi phòng, song lại áp lưng lên cánh cửa, khẽ giọng nói: “Tôi thật không hiểu, tôi có chỗ nào không bằng người ta? Có chỗ nào không ổn...” Quý Trạch cười: “Chị hai à, chị có chỗ nào không ổn vậy?” Thất Xảo cười một tiếng, nói: “Chẳng lẽ tôi ở với người tàn tật thì ám cái hơi tàn tật, đến động chạm cũng không dám sao?” Cô ả mở to mắt nhìn trân trối về phía trước, đôi khuyên tai nhỏ bằng vàng đúc trên vành tai giống như hai cái đinh đồng đính cô lên cánh cửa, tiêu bản của một con bướm nằm trong hộp kính, trông kiều diễm nhưng rất thê thảm.
Quý Trạch ngắm nhìn Thất Xảo, lòng hơi xao xuyến. Nhưng như vậy không được, cho dù là chơi bời, Quý Trạch luôn giữ nguyên tắc không động chạm vào người trong nhà, bởi một khi sự rạo rực nhất thời qua đi, thì sau đó có muốn trốn cũng không được, muốn bỏ cũng không xong, cả ngày cứ sờ sờ trước mắt, sẽ chỉ là một gánh nặng đèo bòng. Huống hồ, cái miệng của Thất Xảo lại ton hót như thế, tính khí lại bộp chộp như thế, làm sao mà giấu giếm được ai? Huống hồ, mối quan hệ của cô nàng này với mọi người không tốt, trong nhà từ trên xuống dưới chẳng ai muốn dây dưa với cô ta, có lẽ cô ta cũng mặc xác tất thảy, dẫu có gây ra chuyện rùm beng cũng bỏ mặc ngoài tai. Nhưng Quý Trạch thì lại trẻ trung phơi phới, đâu cần gì phải mạo hiểm như vậy, anh ta dõng dạc nói: “Chị hai ạ, tuy tôi sinh sau đẻ muộn, nhưng quyết không phải là đứa tùy tiện vô lối.”
Dường như có tiếng bước chân. Quý Trạch lập tức vén vạt áo, lẻn ngay vào buồng bà, trước khi đi còn vốc một nắm lớn nhân hồ đào. Thần trí Thất Xảo vẫn hơi mơ màng, mãi đến khi có người đẩy cửa, mới hoàn hồn lại, đành tương kế tựu kế nấp vào sau cánh cửa, thấy Đại Trân bước vào phòng, liền nhón chân ra vỗ vào sau lưng Đại Trân một cái. Đại Trân miễn cưỡng cười, nói: “Thím hứng chí thế!” Rồi ngó lên mặt bàn nói: “Ơ? Hồ đào còn mỗi ngần này thôi à, ăn gần hết rồi còn gì. Chắc lại là chú ba chứ còn ai vào đây nữa!” Thất Xảo dựa vào bàn, lặng đứng nhìn ra ban công. Đại Trân ngồi xuống, làu bàu: “Người ta vất vả bóc cả sáng, chú ấy lại ngồi ăn sẵn!” Thất Xảo siết một mảnh vỏ hồ đào sắc nhọn trong tay, hằn học cào lên tấm khăn trải bàn màu đỏ, hết cào trái, lại cào phải, tấm vải xồ lông lên như sắp rách. Cô ả nghiến răng nói: “Tiền với chả nong, cứ bảo chúng ta phải chi tiêu dè sẻn, nhưng mình dè sẻn, thì người ta cầm tiền ra ngoài vung tay quá trán! Tôi là tôi ức lắm!” Đại Trân liếc nhìn Thất Xảo, hờ hững nói: “Thì cũng hết cách rồi đấy thôi. Người đông nên nó thế, trước mặt mình thì người ta không đi, nhưng sau lưng mình thì chắc gì đã không đi, quản được việc này, nhưng làm sao mà quản dược việc khác.” Thất Xảo cảm thấy trong lời của Đại Trân có ý xỏ xiên, định dẩu mỏ móc lại, Tiểu Song vào phòng, rón rén bước tới trước mặt Thất Xảo, thì thào: “Mợ ơi! Cậu cả nhà mợ đến chơi!” Thất Xảo mắng: “Cậu cả nhà tao đến chơi, đâu phải việc gì mờ ám mà mày nói lí nha lí nhí như con kiến thế hả? Bộ trong cổ mày mọc mụn à?” Tiểu Song giật lùi lại một bước, không dám lên tiếng nữa. Đại Trân nói: “Cậu cả nhà mợ hai hóa ra cũng đã chuyển đến Thượng Hải rồi à. Họ hàng chúng ta đến đây đông đủ đấy nhỉ!” Thất Xảo cất bước ra khỏi phòng nói: “Không cho ông ấy đến Thượng Hải sao? Các vùng khác đánh nhau loạn xị, mạng người nghèo đều như cỏ rác!” Thất Xảo đứng giữa bậc cửa, hỏi Tiểu Song: “Đã báo bà chưa?” Tiểu Song đáp: “Chưa ạ!” Thất Xảo ngẫm nghĩ một lát, rốt cuộc cũng không dám vào phòng bà thưa chuyện, đành phải lẳng lặng xuống dưới nhà.
Đại Trân hỏi Tiểu Song: “Cậu cả nhà mợ hai đến một mình à?” Tiểu Song trả lời: “Cả bà vợ nữa, tay còn xách bốn chiếc cặp lồng gỗ.” Đại Trân cười khẩy: “Họ tốn kém quá cơ!” Tiểu Song đáp: “Mợ cả xót họ làm gì. Mang một lô xích xông đến, rồi lại khuân một lô xích xông về ấy mà. Khỏi nói nào vàng, nào bạc, cái tròn, cái dẹt mà làm gì, ngay đến mấy thứ đồng nát dép hỏng nhà mình cũng còn tốt chán!” Đại Trân cười nói: “Đừng có ăn nói thất đức như thế! Ngươi lui xuống đi! Người bên ngoại nhà mợ ấy đến đây cũng khó khăn, hầu hạ không chu đáo, lại nhặng xị lên đấy!”
Tiểu Song đuổi theo ra bên ngoài, Thất Xảo đang đứng ở đầu cầu thang vặn hỏi Lựu Hỷ xem bà có biết việc này không. Lựu Hỷ đáp: “Bà đang tụng kinh, cậu ba vịn cửa sổ ngắm cảnh, bảo là ngoài cửa lớn có khách. Bà hỏi là ai, cậu ba quan sát kỹ, rồi bảo không biết có phải là cậu cả nhà họ Tào không, bà không truy hỏi thêm nữa.” Thất Xảo nghe thấy vậy, đùng đùng nổi giận, giậm chân xuống đất liên hồi, lầm bầm chửi: “Chẳng lẽ mụ cứ giả vờ không biết là xong à! Đến vua còn có họ hàng nghèo nữa là! Giờ thì ra vành ra vẻ thế, sao ngày xưa còn mang sính lễ đến cưới tôi về đây làm gì? Dù gì thì cũng có dây mơ rễ má, đừng nói là hôm nay mụ giả chết, cho dù mụ chết thật ra đấy, người ta cũng không thể không đến lạy ba lạy trước quan tài mụ và mụ cũng không thể từ chối người ta được!” Cô ả vừa nói, vừa đi xuống dưới nhà.
Căn buồng của cô ả, vừa bước vào là có một đống tủ tre sơn vàng chắn cửa, chỉ chừa ra một lối đi cỡ mấy bước chân. Cô ả vén rèm lên, thấy bà chị dâu đang ngồi xổm dỡ từng ngăn cặp lồng xuống, kiểm tra lại thức ăn đựng trong mỗi ngăn xem có bị sánh ra ngoài không. Anh trai của cô ả là Tào Đại Niên chắp tay sau lưng, cúi xuống nhìn. Thất Xảo không nén được nỗi chua xót, tựa vào tủ tre, nép mặt lên lớp vải xanh đen bọc ngoài tủ, nước mắt cứ thế rơi lã chã. Bà chị dâu cuống cuồng đứng thẳng dậy, nhào về phía trước, hai tay nắm chặt lấy một tay cô ả, miệng liên hồi gọi “cô Xảo”. Tào Đại Niên bất giác cũng giơ ống tay áo thấm lên mắt. Thất Xảo đưa tay còn lại ra tháo nút thắt trên lớp vải bọc ngoài tủ, hết tháo rồi lại thắt, có điều không cất được nên lời.
Bà chị dâu quay lại đá mắt cho chồng, bảo: “Anh nói gì đi chứ! Ở nhà suốt ngày lèm bà lèm bèm, giờ gặp mặt em gái, sao cứ như ngậm hột thị thế kia!” Thất Xảo giọng run run: “Cũng chẳng trách anh ấy không nói được lời nào... anh ấy đâu còn mặt mũi nào đến gặp tôi!” Đoạn, cô ả nói với anh mình: “Tôi cứ nghĩ cả đời này anh không định bước vào cái cửa nhà này nữa! Anh hại tôi thảm lắm rồi! Anh phủi áo một cái là bỏ đi được, nhưng tôi đâu có bỏ đi được. Anh cũng chẳng thèm đoái hoài xem em gái anh sống chết thế nào.” Tào Đại Niên nói: “Cô nói kiểu gì vậy? Người ngoài nói vậy còn được, nhưng sao cô cũng nói thế! Cô không giấu giếm cho anh cô, cái mặt cô cũng rạng rỡ lắm đấy!” Thất Xảo lên giọng: “Tôi không nói, nhưng tôi không cấm được người khác nói. Chính vì anh, tôi tức phát điên cả người. Hôm nay anh lại còn định nói chẹn họng tôi phải không!” Bà chị dâu vội nói: “Là lỗi của anh ấy! Là lỗi của anh ấy! Cô phải chịu ấm ức quá rồi. Mà cô ấm ức đâu phải có mỗi chuyện này, thôi tốt xấu gì thì cũng nhịn đi vậy, thế nào cũng có ngày nở mày nở mặt.” Câu nói “cô ấm ức đâu phải có mỗi chuyện này” của bà chị dâu đã xoáy sâu vào tâm khảm cô ả. Thất Xảo khóc rống lên ai oán, bà chị dâu cuống quýt, xua tay lia lịa: “Đừng làm ầm lên, kẻo đánh thức chú, cô ơi!” Trên chiếc giường lớn làm bằng gỗ tử nam nơi góc phòng tối tăm, tấm màn the vẫn rủ xuống trong thinh lặng. Chị dâu Thất Xảo lại nói: “Chú vẫn đang ngủ hả cô? Đánh thức chú, chắc chú giận đấy!” Thất Xảo cao giọng: “Thằng cha ấy mà biết tức giận, thì đã mừng!” Chị dâu cô ả sợ hãi, vội bịt miệng cô ả lại: “Chớ chớ bà cô ơi! Người bệnh nghe được, trong lòng khó chịu lắm đấy!” Thất Xảo nói: “Thằng cha ấy khó chịu, còn tôi thì dễ chịu lắm đấy?” Bà chị dâu nói tiếp: “Chú ấy vẫn bị cái bệnh loãng xương đấy à!” Thất Xảo trả lời: “Thế còn chưa đủ sao, còn định mắc thêm bệnh gì nữa? Cái nhà này đều kiêng không dám nói đến từ ‘bệnh lao’, nhưng nói thẳng toẹt ra, không phải bệnh lao xương thì là bệnh gì?” Bà chị dâu nói: “Cả ngày nằm đấy, có lúc nào ngồi dậy được một lát không cô?” Thất Xảo cười khanh khách: “Ngồi dậy, xương cột sống nó mà sụm cho, thì thằng cha ấy chẳng cao bằng thằng con ba tuổi của tôi.” Bà chị dâu nhất thời không nghĩ ra câu gì khuyên nhủ, cả ba người đều đứng ngây ra một lúc. Thất Xảo giẫm mạnh chân xuống đất, nói: “Thôi anh chị về đi! Về đi! Anh chị đến đây, chỉ khiến tôi thêm hổ nhục vì những chuyện trước kia. Tôi không chịu nổi sự giày vò này đâu! Anh chị mau về đi cho tôi nhờ!”
Tào Đại Niên nói: “Cô nghe anh nói một câu! Cho dù bây giờ lòng cô bứt rứt thế nào, có nhà ngoại đến thăm, ít nhiều cũng đỡ đi, cũng là ngày cô nở mày nở mặt, chứ cái nhà họ Khương này là danh gia vọng tộc, bề trên thì hễ động một tí là vu oan giá họa cho người khác, còn bọn bằng vai phải lứa thì đứa nào cũng như hùm như hổ, có ai dễ động vào đâu? Anh nghĩ cho cô, tính ra cô cũng cần có người trợ thủ. Sau này, còn nhiều lúc còn phải cần đến anh và cháu!” Thất Xảo phì ra một tiếng, nói: “Tôi mà cần đến anh giúp thì tôi xúi quẩy quá rồi! Tôi rõ cái loại anh quá đi chứ, đấu lại người ta, thì anh đến gặp tôi tính công đòi nợ, đấu không lại người ta, thì anh ngả luôn về bên ấy. Gặp phải quan nha thì mất cả hồn vía, co đầu rụt cổ, bỏ mặc tôi sống chết.” Đại Niên đỏ cả mặt, cười nhạt: “Đợi đến lúc tiền vào tay cô để cô phải lo chia cho anh cô thì giờ hẵng còn sớm chán!” Thất Xảo đáp: “Anh đã biết tiền còn chưa vào tay tôi, sao cứ nhằng nhẵng đến chỗ tôi làm gì?” Đại Niên dằn dỗi: “Không quản đường sá xa xôi đến đây thăm cô, hóa ra là anh chị sai! Về! Chúng ta về! Nói thật nhé, anh có dùng một hai đồng của cô, cũng là đáng thôi, ngày xưa anh mà tham tiền hám của, anh đã đòi nhà họ Khương thêm mấy trăm lạng bạc, bán đứt cô về làm con hầu cho nhà họ rồi.” Thất Xảo nói: “Thì bây giờ làm vợ cả cũng có khác gì con hầu đâu? Anh thả con săn sắt, bắt con cá rô chứ gì!” Đại Niên định vặc lại, vợ liền ngăn, nói: “Anh nói bớt một câu đi! Sau này còn có ngày gặp mặt nhau nữa đấy! Về sau, khi nào bà cô này nhớ đến anh, lúc ấy mới biết mình có mỗi ông anh ruột thôi!” Đại Niên hối thúc vợ sắp xếp lại cặp lồng, xách lên định ra về. Thất Xảo nói: “Tôi thèm vào! Đợi lúc tôi có tiền rồi, tôi chẳng lo là anh không đến, tôi chỉ sợ có đuổi anh cũng chẳng đi thôi.” Tuy mồm nói cứng, nhưng không thể nén nổi tiếng khóc tấm tức, tiếng nào rõ tiếng ấy, một bầu uất nghẹn cả buổi sáng nhân dịp này phát tiết hết ra ngoài.
Bà chị dâu thấy cô ả rõ ràng còn chút lưu luyến, bèn cố sống cố chết khuyên chồng, một mặt vừa ôm vừa dìu cô em ngồi xuống cái ghế hoa lê, phân trần hết nhẽ, Thất Xảo dần dần nín khóc. Anh trai em gái, chị dâu em chồng hàn huyên mấy chuyện nhà. Tình hình miền Bắc coi như đã tạm lắng, cửa hàng dầu mè của nhà họ Tào vẫn kinh doanh như trước. Vợ chồng Đại Niên đến Thượng Hải lần này là vì anh con rể chưa cưới chính thức đang làm quản gia cho nhà người ta, vào thời kỳ Quang Phục thì vừa khéo ở ngay Hồ Bắc, sau đó lại cùng ông chủ loanh quanh một hồi rồi tới Thượng Hải, bởi thế Đại Niên phải đích thân đưa con gái đến đây để thành hôn, nhân tiện qua thăm Thất Xảo. Đại Niên hỏi thăm nhà họ Khương từ trên xuống dưới, rồi lại muốn tham kiến bà lớn, Thất Xảo đáp: “Không gặp cũng chẳng sao, em đang phát bực lên với mụ ấy đây.” Vợ chồng Đại Niên nghe vậy đều ngạc nhiên, Thất Xảo nói tiếp: “Sao không bực cơ chứ? Cả cái nhà này, đứa nào cũng đạp lên đầu em, em mà dễ bắt nạt, em đã bị chúng nó giẫm chết từ lâu rồi, dẫu là như thế, nhưng em vẫn điên hết cả người!” Chị dâu cô nói: “Cô Xảo dạo này có còn hút không, thuốc phiện vừa mát gan lại vừa dẫn khí, chẳng loại thuốc nào bằng. Nhưng cô phải tự giữ sức khỏe đấy, anh chị không ở bên, biết lấy ai quan tâm săn sóc?”
Thất Xảo dốc hòm lấy ra mấy vuông vải loại mới tặng cho chị dâu, kèm theo một chiếc vòng vàng nặng bốn lạng, một đôi trâm cài đầu có hình sen lẩn trong mây, một ruột chăn bông, các cháu gái mỗi đứa được một chiếc móc ráy tai bằng vàng, các cháu trai thì hoặc là một thoi vàng, hoặc là một chiếc mũ ấm bằng da chồn, ngoài ra còn tặng cho anh trai một chiếc đồng hồ quả quýt Cảnh Thái Lam hình con ve vàng, anh chị cô ả nhận quà, cứ cảm ơn rối rít. Thất Xảo nói: “Anh chị đến không đúng lúc, nếu vào lúc chuẩn bị chuyển đi ở Bắc Kinh, những thứ không cầm theo được phải chia ra làm mấy hòm đem cho bọn bảo mẫu a hoàn, bọn ấy đâm ra lại vớ bở.” Nói ra khiến hai vợ chồng ông anh cứ xuýt xoa. Trước lúc ra về, bà chị dâu nói: “Anh chị bận làm xong việc của cháu, rồi sẽ quay lại thăm cô!” Thất Xảo cười đáp: “Không quay lại cũng được, em chẳng tiếp nổi đâu!”
Vợ chồng Đại Niên ra khỏi cửa nhà họ Khương, bà vợ bèn nói: “Cái cô nhà mình sao cứ như biến thành người khác thế không biết? Lúc chưa lấy chồng chẳng qua chỉ hơi cứng đầu một tẹo, nói năng lèm bèm một chút, sau đó đến thăm cô ấy thì tuy có nóng nảy hơn ngày xưa, nhưng cũng vẫn còn có chừng mực, chứ chẳng điên điên dở dở như hôm nay, ăn nói không ra đâu vào đâu, chẳng có chỗ nào nghe thuận tai.”
Thất Xảo đứng ở trong phòng, khoanh tay nhìn hai đứa a hoàn Tiểu Song và Tường Vân khiêng hòm đặt về chỗ cũ, chồng từng cái lên nhau. Câu chuyện ngày xưa lại ùa về: Trước mắt là cửa hàng dầu mè thơm phức trên con phố rải đá răm, tủ quầy đen bóng, trong thùng tương mè cắm một cái muôi gỗ, trên chum dầu treo mấy chiếc thìa sắt to, nhỏ. Cái phễu được cắm vào chiếc bình của người mua dầu, một muôi lớn và hai thìa nhỏ là vừa đầy một bình cân rưỡi. Người quen thì tính một cân bốn lạng. Thi thoảng cô ả cũng ra đường đi chợ, quần vải thô màu lam hạ, may kép một lớp lụa hoa bóng. Sau một dãy móc câu đồng san sát treo những tảng thịt lợn, cô ả trông thấy Triêu Lộc đứng bán thịt trong quầy. Triêu Lộc gọi nịnh cô ả là Tào Đại cô nương. Thi thoảng hắn gọi là chị Xảo, cô ả liền đập lòng bàn tay lên các sống móc, vô số móc câu không văng về phía trước như móc vào mắt của Triêu Lộc, Triêu Lộc gỡ một tảng mỡ lợn to cỡ một thước trên móc xuống, thảy mạnh lên mặt phản thịt, một luồng gió âm ấm phả lên mặt cô, thứ mùi xác chết tanh tưởi... Cô ả cau đôi mày. Người chồng của cô ả đang nằm ngủ trên giường cũng là một tảng thịt không còn sự sống...
Gió lọt qua song cửa, tấm gương dài chạm trổ hoa văn liên hoàn bị thổi đung đưa, va lách cách vào tường. Hai tay Thất Xảo giữ lấy tấm gương. Trong gió, bức rèm trúc và bộ bình phong sơn thủy vàng lục ánh qua gương vẫn rung rinh như cũ, nhìn hồi lâu, liền có cảm giác như say sóng. Khi định thần nhìn lại, sắc xanh của rèm trúc đã nhạt màu, thay cho bức bình phong sơn thủy vàng lục là tấm ảnh thờ của người chồng quá cố, người trong gương cũng đã già đi chục tuổi.
Năm ngoái cô ả đội tang chồng, năm nay mẹ chồng lại mất. Giờ thì chính thức phải đưa ông chú Chín đứng ra chia nhà cho họ, hôm nay là ngày hội tụ mọi thứ ảo tưởng kể từ sau khi cô ả được gả đến nhà họ Khương. Bấy nhiêu năm nay, cô ả đeo đẳng một thứ gông bằng vàng, có điều đến mép vàng cô ả cũng chưa từng cắn tới được, nhưng từ nay về sau thì khác rồi. Thất Xảo vận áo lụa vân trắng, váy đen, song khuôn mặt lại như được đánh phấn, từ khóe mắt hoen đỏ tới gò má nóng bừng. Thất Xảo đưa tay vuốt mặt, khuôn mặt nóng giãy, nhưng người lại lạnh run. Cô ả gọi Tường Vân mang tới một cốc trà. (Tiểu Song đã đi lấy chồng từ lâu, Tường Vân cũng được gả cho một tên người ở). Hớp trà đưa vào miệng, trôi xuống lồng ngực một cách nặng nhọc, quả tim đập thình thịch trong nước trà nóng. Thất Xảo ngồi quay lưng vào tấm gương, hỏi Tường Vân: “Ông Chín cả chiều đến giờ, vẫn ngồi trong phòng lớn kiểm kê cùng Mã sư gia phỏng?” Tường Vân “dạ” một tiếng. Thất Xảo lại nói: “Cậu mợ cả với cậu mợ ba đều không ở đấy?” Tường Vân lại “dạ” một tiếng. Thất Xảo nói: “Còn vào phòng những ai nữa?” Tường Vân đáp: “Còn loanh quanh trong thư phòng của các anh nữa ạ.” Thất Xảo nói: “May mà đống sách của anh Bạch nhà ta không ngại để họ kiểm tra... Năm nay thằng bé này cũng thiệt thòi, bố và bà nội lần lượt qua đời, nó mà còn có tâm trí đọc sách, thì nó không phải là người!” Cô ả uống nốt chén trà, dặn Tường Vân xuống xem xem trong phòng lớn người nhà mợ cả, mợ ba đã đến đủ chưa, kẻo mình đến sớm, tỏ ra sốt sắng quá người ta lại chê cười. Phòng mợ cả cũng vừa khéo sai một đứa a hoàn ra thăm dò, gặp ngay phải Tường Vân.
Cuối cùng Thất Xảo chậm rãi bước xuống dưới lầu. Trong gian phòng lớn đặt tạm một chiếc bàn ăn rộng làm bằng gỗ mun, bên trên là một mặt kính, ông Chín ngồi riêng ở một phía, trước mặt ngổn ngang một đống sổ sách bìa vải xanh, nhãn phớt đỏ, và một chiếc bát uống trà sọc dưa. Xung quanh, ngoài Mã sư gia ra, còn đặc biệt mời thêm một người “họ hàng công tâm”, gần với tính chất của một vị bồi thẩm viên. Mỗi nhà chỉ phái một người đàn ông ra làm đại diện, nhà cả có cậu lớn, nhà thứ cậu hai mất thì mợ hai đứng ra, nhà út thì là cậu ba. Quý Trạch biết là cái ngày tổng kiểm kê này chẳng có ích lợi gì với anh ta, vì thế anh ta đến muộn nhất. Song dù sao thì cũng đã đến rồi, anh ta hoàn toàn không muốn để lộ ra vẻ mặt sốt sắng hay ảo não gì. Trên mặt vẫn là nụ cười đỏ hồng, béo tốt. Trong ánh mắt vẫn là vẻ bất cần đầy phóng túng.
Ông Chín đằng hắng lên một tiếng, thông báo vắn tắt một lượt về tình hình kinh tế của nhà họ Khương, đoạn lại lật sổ sách ra đọc những nhà cửa đất đai trọng yếu hiện có cùng thu nhập hằng năm. Thất Xảo đan chéo hai tay đặt trước bụng, người ngả về phía trước, cố gắng tự mình giải thích từng câu nói của ông Chín, đối chiếu với từng mục trước nay cô ả điều tra được. Nhà ở Thanh Đảo, nhà ở Thiên Tân, đất ở ngoại thành Bắc Kinh, nhà ở Thượng Hải... trong sổ công nợ, khoản nợ của cậu ba kếch xù, sau khi trừ đi một phần thừa kế, anh ta vẫn còn nợ sáu vạn, thế mà nhà mợ cả và nhà mợ hai cũng đành phải chịu, bởi anh ta đã trắng tay. Căn biệt thự kiểu Tây, thứ duy nhất anh ta còn, là mua cho bà dì, cũng đã được đem ra cầm cố. Kỳ dư cũng chỉ còn đồ trang sức hồi môn của bà lớn khi được gả về đây, được chia đều cho ba anh em, phần của Quý Trạch cũng chẳng tiện sung công, bởi đó là chút đồ kỷ niệm mẹ để lại. Thất Xảo đột nhiên kêu lên: “Ông Chín ơi! Chúng con thiệt thòi quá!”
Trong gian phòng lớn vốn im phăng phắc, giờ lại có tiếng xì xào, cứa vào lỗ tai, giống như tiếng lạo xạo sắt gỉ của máy lồng tiếng phim sau khi hỏng. Ông Chín mở tròn mắt nhìn Thất Xảo nói: “Sao? Ngay mấy món trang sức mẹ nó để lại cũng không nỡ cho nó hử?” Thất Xảo đáp: “Huynh đệ tương thân, nợ nần sòng phẳng, anh cả và chị dâu cả đành rằng không lên tiếng, nhưng con thì không thể không vác cái mặt dày này ra nói vài câu được. Con không so được với anh chị cả... Ông chồng quá cố nhà con giá như có tài cán ra làm quan độ hai nhiệm kỳ, của nả dư dả một tí thì con cũng vui vẻ thoải mái thôi, kể cả có xóa hết các khoản nợ của chú ấy hồi trước cũng được. Nhưng ông chồng tội nghiệp nhà con hom hem bệnh tật cả đời, nào có một đồng một cắc nộp quỹ, giờ thì bỏ lại mẹ góa con côi chúng con, trông vào một hai cái đồng tiền tuất sống qua ngày. Con nửa đường đứt gánh, Trường Bạch lại chưa đầy mười bốn, con đường phía sau còn nhọc nhằn lắm ông ạ!” Nói đoạn thì nước mắt ngắn nước mắt dài. Ông Chín nói: “Vậy theo nhà chị thì phải làm sao hử?” Thất Xảo nức nở nói: “Con đâu được phép đưa ra ý kiến gì? Chỉ mong ông Chín cầm cân nảy mực giúp chúng con thôi!” Quý Trạch mặt lạnh như tiền, không lên tiếng, tất cả mọi người trong phòng đều cảm thấy không tiện mở lời. Ông Chín không nén được cơn bực dọc trong lòng, “hừ” một tiếng rồi nói: “Ta phân xử giúp nhà chị đây, chỉ sợ nhà chị không thích nghe! Nhà thứ có ruộng đất nhưng chẳng có người quản lý, nhà ba có người nhưng lại không có đất, ta định kêu anh ba sang quản hộ nhà chị, nhà chị trả cho người ta ít nhiều, chỉ sợ nhà chị không cần chú ấy thôi!” Thất Xảo cười nhạt nói: “Con theo cái ý của ông, chỉ e ông quá cố của con không nghe thôi! Người đâu! Tường Vân đâu! Mau tìm anh Bạch đến đây! Trường Bạch ơi, bố con số khổ lắm! Mới sinh ra đã bệnh tật đầy người rồi, cái đời ông ấy đã ngày nào được sống sung sướng thoải mái đâu, chết đi còn bỏ lại chút máu mủ này, nhưng người ta nào có coi con ra gì, lại còn bày ra trăm mưu ngàn chước tước đoạt của cải của con! Trường Bạch ơi, ai bảo bố con chuốc cho lắm bệnh vào người làm gì, lúc sống thì người ta bắt nạt mình, đến lúc chết rồi thì người ta bắt nạt vợ góa con côi nhà mình! Mẹ thì chẳng hề gì vì mẹ còn sống được mấy năm đâu? Cùng lắm mẹ đến trước linh cữu của bà nói cho rõ ràng mạch lạc, rồi liều cái mạng này là xong. Nhưng Trường Bạch con ơi, con còn nhỏ tuổi, dẫu có ăn đói mặc rách cũng phải sống con nhé!” Ông Chín cáu tiết, đập bàn nói: “Ông mặc kệ! Chúng bay van lơn nài nỉ ông đến đây, chứ ông thích chuốc phiền phức lắm đấy phỏng?” Nói đoạn liền đứng phắt dậy, đá tung chiếc ghế đang ngồi, cũng chẳng đợi ai đến đìu đỡ, ông đã biến mất tăm mất dạng như một luồng gió, mọi người ngơ ngác nhìn nhau, ai nấy lẳng lặng chuồn đi cả. Duy có Mã sư gia còn bận thu gom sổ sách, ra chậm hơn một bước, thấy mọi người trong phòng đã đi sạch, chỉ còn lại mỗi mình mợ hai đang ngồi đấm ngực khóc rống lên, thấy mình cứ thế chuồn đi, coi như không có việc gì xảy ra thì e là không tế nhị cho lắm, đành phải bước lên phía trước, chắp tay khom người nói: “Bà hai! Bà hai!... Bà hai!” Thất Xảo cứ thế lấy ống tay áo che mặt, Mã sư gia lại không tiện gỡ tay cô ra ra, luống cuống gỡ chiếc mũ da xuống quạt cho ráo mồ hôi.
Sự căng thẳng này kéo dài mấy hôm, rốt cuộc người ra vẫn âm thầm chia của theo kế hoạch đã định. Mẹ góa con côi đâm ra vẫn bị bắt nạt.
Thất Xảo dắt con trai Trường Bạch và con gái Trường An ra ngoài thuê một căn nhà ở, rất ít qua lại với người nhà họ Khương. Sau đó mấy tháng, Khương Quý Trạch bỗng nhiên tìm đến nhà. Khi nghe bà người ở thông báo, Thất Xảo có tật giật mình, nghĩ bụng hôm chia nhà đã đắc tội với gã ấy, không biết gã đang định giở trò gì. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, làm sao phải sợ hắn cơ chứ? Thất Xảo vận chiếc áo lụa xanh ngày thường vẫn mặc, lại thắt vào chiếc váy lụa đen có dây sắt, bước từ trên lầu xuống. Trái ngược hẳn với sự phỏng đoán của cô, Quý Trạch đứng dậy niềm nở hỏi thăm chị dâu, lại hỏi cháu Bạch đang ở trong thư phòng phải không, chứng phát ban của cháu An đã đỡ chưa. Trong lòng Thất Xảo lại ngờ rằng gã đến vay tiền, càng cảnh giác, bèn ngồi xuống cười nói: “Chú ba dạo này lại phát tài rồi phỏng?” Quý Trạch cũng cười: “Trông tôi giống kẻ vô tư lự hơn.” Thất Xảo cười đáp: “Người có phúc tự nhiên thấy thong thả thôi! Mà chú từ xưa đến nay có bao giờ vướng bận điều gì đâu.” Quý Trạch cười nói: “Đợi tôi bán nhà xong, tôi còn không vướng bận nữa.” Thất Xảo nói: “Cái căn chú đem ra cầm cố ấy đúng không? Chú định bán?” Quý Trạch đáp: “Hồi xưa lúc mới xây, cũng phải bỏ công bỏ sức một chút, những chỗ bài trí toàn là kiểu mình yêu thích cả, đương nhiên chẳng nỡ bán đi. Về sau chị cũng biết đấy, mảnh đất ấy rất được giá, năm kia cho chuyển thành dãy nhà trọ, đi thu tiền thuê từng nhà một, làm việc với cái bọn nhà nghèo, tôi thật sự thấy phiền toái lắm, đâm ra định bán đứt nó đi cho rảnh nợ.” Thất Xảo nghĩ thầm trong bụng: “Chỉ được cái to mồm! Tôi chẳng biết thừa cái trò vặt của chú, lại còn giả vờ ra vẻ đại gia trước mặt tôi nữa chứ!”
Tuy Quý Trạch không than nghèo kể khổ với Thất Xảo, song hễ nhắc tới tiền bạc, cô ả cứ cảm thấy có gì đó nguy hiểm, bèn lảng sang chuyện khác: “Cô ba khỏe không? Bệnh đau lưng còn tái phát không?” Quý Trạch cười đáp; “Tôi cũng lâu lắm rồi không gặp cô ấy.” Thất Xảo nói: “Nói vậy là sao? Cô chú cãi nhau à?” Quý Trạch cười nói: “Lâu nay chúng tôi cũng chẳng cãi nhau lần nào. Bất đắc dĩ gặp nhau nói vài câu cũng là hiếm khi lắm rồi, chẳng rỗi hơi mà đi cãi nhau.” Thất Xảo nói: “Làm sao đến nông nỗi ấy? Tôi chẳng tin!” Quý Trạch đặt hai cùi chỏ lên hai tay vịn ghế mây, đan mười ngón tay vào nhau, tì lên trán, che cặp mắt tối sầm, thở một hơi thật dài. Thất Xảo cười nói: “Còn nguyên nhân nào khác, ngoài việc chú chơi bời quá trớn ở bên ngoài. Mình làm sai, lại còn thở vắn than dài cứ như ai làm hại không bằng. Họ Khương nhà chú chẳng có ai tốt đẹp cả!” Vừa nói, cô vừa giơ cao chiếc quạt tròn màu trắng, làm bộ định đánh. Quý Trạch chầm chậm đưa mười ngón tay đang đan vào nhau xuống dưới, hai ngón cái chặn trên bờ môi, hai ngón trỏ từ từ vuốt sống mũi, để lộ ra đôi mắt ướt đẫm nước. Đôi mắt ấy chính là viên đá cuội đen nằm dưới đáy lọ hoa thủy tiên, phía trên thì ngập nước, phía dưới thì lạnh băng, không một chút biểu cảm. Chẳng thể đoán được anh ta đang nghĩ gì. Thất Xảo nói: “Tôi phải đánh cho chú một trận!” Trong ánh mắt của Quý Trạch chợt hiện lên một vẻ bỡn cợt, Quý Trạch nói: “Chị đánh đi! Đánh đi!” Thất Xảo chực đánh, thì rụt tay về, lấy lại can đảm, nói: “Tôi đánh thật đấy!” Đoạn, giơ tay lên cao, bổ chiếc quạt xuống, song lại dừng ở giữa lưng chừng, cất tiếng cười ngặt nghẽo, Quý Trạch vừa cười vừa nhún vai, đứng dậy nói: “Chị đánh tôi một cái đi nào! Cả người tôi ngứa ngáy khó chịu, làm sao ấy!” Thất Xảo giấu chiếc quạt ra sau lưng, lại càng cười nắc nẻ.
Quý Trạch chuyển hướng ghế, ngồi quay mặt vào tường, ngả người vào lưng ghế, hai tay bịt chặt mắt, lại thở dài đánh thượt một cái nữa. Thất Xảo cắn cán quạt, liếc nhìn anh ta nói: “Chú hôm nay làm sao thế? Cảm nắng à?” Quý Trạch đáp: “Chị đâu biết được?” Một lúc lâu, Quý Trạch mới khẽ nói rành rọt từng từ: “Chị có biết vì sao quan hệ giữa tôi với nhà tôi không được tốt không, vì sao tôi ra bên ngoài mặc sức chơi bời, để rồi khuynh gia bại sản không, chị có biết tất cả điều đó là vì ai không?” Thất Xảo bất giác cảm thấy ớn lạnh, liền đi ra xa, tựa lưng bên bếp lò, sắc mặt từ từ biến đổi. Quý Trạch bước theo. Thất Xảo cúi đầu, gác khuỷu tay vào thành lò, chiếc quạt tròn cầm trên tay, sợi ngù vàng hoa hạnh trên quạt buông theo một bên trán. Quý Trạch dừng lại trước mặt cô, khẽ nói: “Là vì chị đấy... chị Thất Xảo ạ!”
Thất Xảo quay mặt đi, cười nhạt: “Tôi tin lời chú mới lạ!” Quý Trạch cũng liền bước tránh ra, nói: “Cũng được. Chị làm sao có thể tin tôi được cơ chứ? Từ ngày chị đến nhà tôi, tôi không thể ở nhà một giây một phút nào được, chỉ muốn ra ngoài. Trước lúc chị tới, tôi có bao giờ buông tuồng như vậy đâu, những chuyện sau này đều là để tránh gặp chị! Lấy Lan Tiên rồi, tôi càng chơi bời hơn, tránh chị là một chuyện và còn để tránh cả cô ấy nữa. Mỗi lần gặp chị, nói chẳng được dăm câu, tôi đã chỉ chực xung lên... chị đâu có biết trong lòng tôi khổ sở thế nào? Chị càng đối tốt với tôi, trong lòng tôi lại càng khó chịu... Tôi luôn phải khống chế bản thân... Tôi không thể đương không hủy hoại cuộc đời chị được. Nhà mình nhiều người, lắm tai mắt, tôi là đàn ông thì chẳng ngại, chứ chị thì không thể được!” Tay Thất Xảo run bần bật, chùm ngù vàng hoa hạnh trên cán quạt run rẩy cọ lên trán. Quý Trạch nói: “Chị tin cũng được! Không tin cũng dược! Mà tin thì rồi sao? Dù gì thì chúng ta cũng đã qua nửa đời người rồi, có nói gì đi nữa cũng chỉ phí lời. Tôi chỉ mong chị thông cảm cho nỗi lòng này của tôi. Bao khổ sở tôi phải gánh chịu vì chị cũng coi như không uổng.”
Thất Xảo cúi đầu, đắm mình trong dòng ánh sáng, tiếng nhạc khe khẽ, niềm vui khe khẽ... Bấy năm nay, cô với Quý Trạch như chơi trò đuổi bắt, chỉ có điều không gần nhau được, rốt cuộc cũng có ngày hôm nay! Chẳng phải đấy sao, nửa đời người đã hết rồi... tuổi hoa niên đã trôi đi mất rồi. Đời con người ta rắc rối phức tạp, vô lý như vậy đấy. Khi xưa cô về làm dâu nhà họ Khương vì điều gì? Vì tiền ư? Không phải, là vì muốn gặp Quý Trạch, vì số phận đã an bài, cô và Quý Trạch phải yêu nhau. Cô khẽ ngẩng đầu lên, Quý Trạch đứng trước mặt cô, hai tay nắm lên chiếc quạt của cô, má áp lên mặt quạt. Anh ta cũng đã già đi chục tuổi, nhưng con người suy cho cùng vẫn là con người ấy! Lẽ nào anh ta lại bỡn cợt cô? Anh ta nhằm vào tiền bạc của cô, mấy đồng tiền cô phải bán đứt cả đời mình để đổi lấy? Ý nghĩ xoay chuyển khiến cô liền nổi giận đùng đùng. Cứ cho là cô trách nhầm anh ta đi nữa, nhưng những gì anh ta chịu đựng vì cô đâu có thấm tháp gì so với sự khổ sở cô phải gánh chịu vì anh ta? Khó khăn lắm cô mới nguôi ngoai được, vậy mà anh ta lại tới khơi gợi lại, cô hận anh ta. Anh ta vẫn đang nhìn cô. Ánh mắt của anh ta... tuy đã cách mười năm rồi, nhưng con người vẫn là con người ấy! Cứ cho là anh ta lừa phỉnh cô đi nữa, giá cô phát hiện ra điều đó chậm hơn một chút có hơn không? Cho dù biết rõ rằng đó chỉ là một sự lừa lọc, nhưng anh ta quả là giỏi diễn kịch, trông cũng gần như thật?
Không được! Cô không thể để người ta cầm đằng chuôi được. Người nhà họ Khương đều rất ghê gớm, tiền của cô e là không giữ nổi. Cô phải làm rõ xem anh ra có thật lòng không đã. Thất Xảo định thần lại, nhìn ra phía ngoài cửa, khẽ kêu lên: “Có người!” Đoạn liền ba chân bốn cẳng chạy ra ngoài cửa, xuống phòng dưới dặn bà Phan làm chút điểm tâm cho cậu ba, rồi mau đem lên, nhân tiện cầm theo chiếc quạt ba tiêu vào quạt cho cậu. Thất Xảo trở lại phòng cố ý cau mày nói: “Đáng ghét thật đấy, cái bà người ở đứng ngoài cửa dòm dòm ngó ngó, thấy tôi quay đầu ra là chạy, tôi đuổi theo kêu dừng lại. Nếu mà đóng cửa, nói được hai câu, có khi đã có điều ong tiếng ve rồi đấy! May mà ở nhà riêng, chẳng có ai nhiễu sự.” Bà Phan đưa điểm tâm và canh chua vào, Thất Xảo tự tay cầm đũa gạt những hoa hồng và mơ xanh trên lớp mật của chiếc bánh điểm tâm, đoạn nói: “Tôi nhớ là chú không thích ăn mấy cái sợi xanh đỏ này.” Có người ở trước mặt, Quý Trạch không tiện nói gì, chỉ mỉm cười. Thất Xảo dường như cố gợi chuyện, liền hỏi: “Chú bán nhà, người ta trả thế nào rồi?” Quý Trạch vừa ăn vừa đáp: “Có người ra giá tám vạn rưỡi, tôi còn chưa muốn bán đấy!” Thất Xảo trầm ngâm: “Mảnh đất ấy cũng được.” Quý Trạch nói: “Ai cũng đều bảo tôi đừng bán vội, bảo là cần tăng giá lên nữa.” Thất Xảo lại hỏi một vài chuyện lặt vặt, rồi nói: “Tiếc là trong tay tôi không có khoản tiền mặt như thế, không thì tôi cũng muốn mua.” Quý Trạch nói: “Thực ra, căn nhà này tôi cũng chẳng cần bán gấp, song cái đám ruộng phần chị ở dưới quê mình, cứ sớm bán đi thì hơn. Từ khi chuyển sang thời Dân Quốc, chiến sự liên miên, có năm nào ngơi đâu, mặt đất bị giày xéo trông chẳng còn ra bộ dạng gì nữa, mình ở giữa lại còn bị thu tô, bọn nha lại ác bá hết lớp này đến lớp khác bòn rút, chưa kể hai năm nay hết lũ lụt lại hạn hán, cho dù là năm được mùa, cũng chẳng được mấy khoản thu nhập đến lượt mình hưởng đâu.” Thất Xảo trầm tư, nói: “Tôi cũng tính toán rồi nhưng từ trước đến giờ vẫn chưa làm. Biết trước mà bán nó đi, thì độ này muốn mua nhà, cũng đâu đến nỗi không gom được tiền.” Quý Trạch nói: “Đám ruộng của chị nếu muốn bán phải tranh thủ bán ngay bây giờ, nghe nói vùng Trực Lỗ lại sắp khai chiến rồi đấy.” Thất Xảo đáp: “Trong lúc gấp rút thế này chú bảo tôi phải bán cho ai đây?” Quý Trạch ngập ngừng nói: “Tôi đi hỏi giúp chị, cũng được.” Thất Xảo nhươn nhướn lông mày, cười nói: “Thôi khỏi, trong cái đám mèo đàng chó điếm bạn chú, làm gì có tay nào đáng tin đâu?” Quý Trạch chấm trên cái đĩa con một chút giấm cho viên sủi cảo đang cắn dở, thong thả nói ra hai cái tên có thể tin cậy được, Thất Xảo cẩn thận vặn hỏi kỹ lưỡng, anh ta quả nhiên trả lời đâu ra đấy, rõ ràng đã có chuẩn bị từ trước.
Thất Xảo tuy ngoài mặt tươi cười, nhưng trong miệng khô khốc, vành môi trên dính vào lợi, không nhả xuống được. Cô ả nhấc chén lên, mở nắp nhấp một ngụm trà, liếm lưỡi quanh môi, đột nhiên sầm mặt lại, nhảy dựng lên, ném vụt cái quạt trong tay vào đầu Quý Trạch, Quý Trạch hơi nghiêng sang trái, cái quạt đập vào vai, làm đổ cái cốc thủy tinh, canh chua hắt ướt đẫm cả người gã. Thất Xảo mắng nhiếc: “Chú bảo tôi bán ruộng để mua nhà chú? Chú muốn tôi bán ruộng? Tiền vào tay chú rồi, còn nói gì được nữa? Chú bỡn cợt tôi... chú dùng những lời lẽ ấy bỡn cợt tôi... chú coi tôi là con ngốc...” Cô ả đứng đầu bên kia bàn nhoài người ra đánh Quý Trạch, song đã bị bà Phan ôm chặt lại. Bà Phan hô hoán lên, bọn Tường Vân đều chạy tới, mỗi người một tay một chân giữ lấy Thất Xảo, khẩn khoản van xin. Thất Xảo vừa giãy giụa, vừa chửi bới, song trái tim cô ả vẫn như đang rụng xuống, cô ả biết rất rõ rằng hành động này của mình quá xuẩn ngốc, quá xuẩn ngốc, cô ả đã làm bẽ mặt anh ta trước đám người ở đây.
Quý Trạch cởi chiếc áo dài lụa trắng bị ướt xuống, bà Phan vắt khăn lau cho gã, gã chẳng thèm đoái hoài, vắt áo vào cánh tay rồi cứ thê ngênh ngang ra khỏi cửa, trước khi đi còn nói với Tường Vân rằng: “Đợi anh Bạch tan học, bảo nó đi mời thầy thuốc về khám cho mẹ nó nghe chưa!” Tường Vân sợ xanh mặt, luôn mồm vâng dạ, liền bị Thất Xảo tát cho một cái.
Quý Trạch đi rồi. Bọn vú già, con ở cũng đều bị Thất Xảo mắng đuổi đi cả. Nước canh men theo bàn rỏ xuống từng giọt từng giọt, chậm rãi như một chiếc đồng hồ đo bằng nước, một giọt, một giọt... một canh, hai canh... một năm, một trăm năm. Dài thật, khoảnh khắc cô liêu này. Thất Xảo ngẩng đầu, đứng dậy, quay người, túm váy, hốt hoảng, lập cập chạy lên gác, không để ý va phải bờ tường vôi xanh u ám, cái áo Phật thanh bị dây một mảng hụi vôi nhạt. Cô ả muốn đứng bên cửa sổ ở lầu trên ngắm nhìn anh ta một lần nữa. Dẫu có thế nào, trước kia cũng đã từng yêu anh ta. Tình yêu đã đem lại sự đau khổ vô cùng cho cô ả. Chỉ riêng điểm này, khiến Thất Xảo cảm thấy đáng níu kéo. Biết bao lần, vì kìm nén bản thân mình, cô đã vùng chạy tới khi gân cốt khắp người rệu rã. Hôm nay hoàn toàn là do lỗi của cô. Anh ta không phải là người tốt, điều này không phải Thất Xảo không biết. Cô ả muốn có được anh ta, lẽ ra phải vờ khờ dại, phải dung thứ sự xấu xa của anh ta. Sao lại phải bóc mẽ anh ta? Sống ở đời, chẳng phải như vậy sao? Suy cho cùng, điều gì là thật? Điều gì là giả?
Thất Xảo đến trước song cửa, vén bức rèm kiểu Tây màu xanh sẫm bên trên có đính các quả cầu bằng nhung lên, Quý Trạch đang từ trong ngõ bước ra ngoài, chiếc áo dài vắt trên cánh tay. Dưới bầu trời quang tạnh, gió như một đàn bồ câu trắng bay luồn vào quần áo lụa của anh ta, len lỏi khắp nơi, không ngừng vỗ cánh phần phật.
Trước mắt Thất Xảo dường như rủ một bức rèm ngọc châu lạnh buốt, một làn gió nóng thổi tới, bức rèm dính chặt vào mặt, gió đi rồi, lại hút tấm rèm trở ra, còn chưa kịp thở, gió lại thổi tới, vây quanh cô vô hình... từng cơn nóng, lạnh, Thất Xảo chỉ rơi lệ.
Góc trên của ô cửa kính thấp thoáng hắt ra hình ảnh thu nhỏ của một viên tuần cảnh đang vung vẩy chậm rãi bước đi trong ngõ. Một chiếc xe kéo lặng lẽ lăn qua người viên tuần cảnh. Đứa bé con nhét áo vào cạp quần, vừa đi vừa đá cầu, chạy ra khỏi viền cửa. Người đưa thư vận quần áo màu lục đi xe đạp, in chồng lên người viên quân cảnh, trong chớp mắt lướt vụt qua. Tất cả đều là những bóng ma, bóng ma của nhiều năm trước, những bóng ma không được đầu thai nhiều năm sau... Điều gì là thật? Điều gì là giả?
Qua mùa thu lại là mùa đông, Thất Xảo mất đi sự tiếp xúc với hiện thực. Tuy cô ả vẫn nóng nảy, vẫn đánh a hoàn, đổi nhà bếp, nhưng luôn có một chút gì đó thờ thẫn vô hồn. Anh trai và chị dâu có đến Thượng Hải thăm cô hai bận, ở không đến chục ngày, rốt cuộc vẫn mãi là những chuyện kể lể không thể nào chịu được đối với cô, thế nhưng trước lúc họ đi, các món đồ cô tặng họ cũng không thiếu một thứ nào. Cháu trai của cô là Tào Xuân Hy lên thành phố tìm việc, tạm ghé lại ở nhà cô. Xuân Hy tuy là một chàng trai đầu óc cục mịch, song cũng rất biết trên biết dưới. Con trai của Thất Xảo là Trường Bạch, con gái là Trường An, cũng đã mười ba mười bốn tuổi, có điều vóc dáng gầy nhỏ, đâm ra trông cứ tưởng mới bảy tám. Tết năm ấy, một đứa mặc áo dài lụa chần bông màu lam, một đứa mặc áo dài gấm chần bông màu lục, quần áo quá dày, cồm cộm lên ở hai cánh tay, hai khuôn mặt trắng mỏng quẹt, đứng xếp hàng trông cứ y như người phất bằng giấy. Sau bữa trưa, Thất Xảo còn chưa ngủ dậy, Tào Xuân Hy chơi xúc xắc ăn tiền với hai đứa em, Trường An thua hết tiền mừng tuổi, vẫn không chịu ngừng tay. Trường Bạch vồ lấy mấy đồng xu trên bàn, cười nói: “Không chơi với anh nữa!” Trường An nói: “Mình lấy mứt sen ra thay tiền vậy!” Xuân Hy trả lời: “Mứt sen bỏ vào túi sẽ bẩn quần áo.” Trường An nói: “Lấy hạt dưa cũng được, trên nóc tủ còn có một lọ đấy.” Nói đoạn bèn dịch một chiếc tràng kỷ tới, leo lên ghế lấy lọ hạt dưa. Xuân Hy cuống quýt kêu lên: “An cẩn thận ngã đấy, anh không chịu trách nhiệm đâu nhé!” Xuân Hy chưa nói hết câu, Trường An đã ngã ngửa ra phía sau, nếu không có Xuân Hy đỡ, chắc đã bổ chửng rồi. Trường Bạch đứng bên cạnh vỗ tay cười lớn, Xuân Hy thì lầm bầm mắng, song cũng không nhịn nổi cười, cả ba người đều cười rộ lên. Xuân Hy bế em An xuống đất, bỗng liếc thấy trong tấm gương thay quần áo trên cái tủ gỗ gụ, Thất Xảo đang đầu bù tóc rối, chống nạnh đứng trước cửa, bất giác sững người, vội buông Trường An xuống, quay lại nói: “Cô dậy rồi ạ!” Thất Xảo hùng hổ chạy lại, đẩy Trường An ra sau lưng mình, Trường An đứng không vững, ngã uỵch xuống đất. Thất Xảo chỉ cốt lấy thân mình chắn cho con gái, gằn giọng nói với Xuân Hy: “Mày là cái đồ lòng lang dạ sói! Tao đem cơm ngon rượu ngọt ra thết đãi cái loại lòng lang dạ sói nhà mày, có chỗ nào bạc mà mày định lừa lọc con gái tao? Mày lòng lang dạ sói, tưởng tao không biết được chắc? Mày đừng tưởng dạy hư con gái tao, là tao có thể nhắm mắt nhắm mũi gả nó cho mày, để mày cưỡng đoạt gia sản nhà tao! Cái loại khốn nạn nhà mày chắc cũng chẳng nghĩ được chủ ý này đâu, chắc là bố mẹ mày nhúng tay vào mách nước! Đúng là hai đứa già mà khốn nạn, bụng dạ xấu xa, vong ơn bội nghĩa! Rắp tâm lấy tiền của tao, trò này không xong, lại bày trò khác!” Xuân Hy tức trợn trắng mắt, đang định phân bua, Thất Xảo lại nói tiếp: “Mày còn mặt mũi nào mà ăn nói với tao! Không mau cút đi cho khuất mắt, đừng để bà phải lấy gậy đuổi mày!” Nói đoạn, xô đẩy hai đứa con ra ngoài, bản thân cũng thở hổn hà hổn hển, tay vịn vào đứa a hoàn đi ra. Xuân Hy suy cho cùng cũng trẻ người nóng tính, lửa giận tràn hông, lập tức rời khỏi nhà họ Khương.
Thất Xảo trở về phòng khách, nằm trên sập hút. Trong phòng tối om, chiếc rèm cửa bằng nhung cũng được kéo lại. Thi thoảng gió luồn qua khe cửa sổ thổi tới, chiếc rèm lay động, mới thấy le lói một chút màu trời xù xì dưới mấy quả cầu nhung đen lục, ngoài ra chỉ còn ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ bàn đèn thuốc phiện và hỏa lò đã gầy lửa. Trường An chưa hết sững sờ, ngồi ngây trên chiếc ghế con bên lò lửa. Thất Xảo nói: “An lại đây!” Trường An biết sẽ bị mẹ đánh, chỉ muốn kéo dài thêm thời gian, bèn giở đi giở lại chiếc áo sơ mi kẻ ca rô đỏ phơi trên tấm vỉ bằng sắt tây cạnh lò, nói: “Sắp cháy rồi mẹ ạ!” Chiếc áo sơ mi bốc lên mùi sợi nóng rực.
Thấc Xảo lại không hề tỏ vẻ muốn đánh mắng con, chỉ trách mắng một hồi, rồi nói: “Qua Tết năm nay con cũng đã mười ba tuổi rồi, cũng phải hiểu đời một tí. Anh họ con tuy không phải người ngoài, nhưng đàn ông trên đời này đều khốn nạn như nhau cả. Bản thân con phải biết thận trọng, chẳng có đứa nào không lăm le tiền của con đâu?” Một cơn gió thổi lại, lộ ra sắc trời lạnh băng màu trắng giữa những quả cầu nhung trên rèm cửa, bóng tối nóng ấm trên phòng bị khoét lên một hàng lỗ nhỏ. Ngọn lửa trong bàn đèn vừa tạt xuống, cái bóng trên mặt Thất Xảo dường như đậm thêm một lớp. Cô ả đột nhiên ngồi nhỏm dậy, hạ giọng nói: “Đàn ông... kể cả chạm vào cũng không được! Đứa nào chẳng lăm le tiền của con? Mấy đồng tiền của mẹ không phải dễ kiếm, cũng không dễ giữ đâu con ạ! Đến khi vào tay các con, mẹ cũng không thể ngây mắt ra nhìn các con mắc lừa được, mẹ bảo An về sau phải đề phòng hơn, An đã nghe rõ chưa?” Trường An rủ đầu xuống đáp: “Nghe rõ rồi ạ!”
Một chân Thất Xảo hơi tê, bèn cúi người xuống bóp bóp bàn chân. Chỉ trong tích tắc, trong mắt chợt nhen nhóm lên một nhúm ký ức đẹp dịu dàng. Cô nhớ đến người đàn ông lăm le tiền của mình.
Chân Thất Xảo từng bị bó, trong chiếc giày lụa thon nhỏ được nhét bông, vờ như một đôi chân tân thời cỡ nhỡ. Cô ả nhìn đôi chân ấy, chợt chột dạ, liền cười nhạt một tiếng, nói: “Ngoài miệng thì con vâng dạ, nhưng mẹ đâu có biết trong lòng con hiểu rõ thật hay vẫn lơ mơ? Mà An cũng lớn chừng này rồi, bàn chân lại to, đi đâu chẳng được? Dù mẹ quản được con, thì cũng không hơi đâu theo dõi con cả ngày được. Kể ra năm nay con mười ba tuổi, bó chân cũng đã muộn rồi, phải trách mẹ làm lỡ việc. Nhưng giờ lập tức bó chân ngay cũng vẫn còn kịp!” Trường An nhất thời không nói lên lời, song mấy bà người ở đứng bên cạnh lại cười nói: “Giờ chân nhỏ không còn là thời thượng nữa rồi, chỉ sợ sau này chị An nhà mình gặp rắc rối lúc lấy chồng.” Thất Xảo nói: “Đừng có nói linh tinh! Tôi chẳng lo con gái tôi không ai thèm lấy, không phiền mấy bà phải lo! Không ai lấy thật thì tôi nuôi nó cả đời cũng được!” Thất Xảo quả nhiên bó chân cho Trường An thật, con bé đau quá khóc rống lên thảm thiết. Bấy giờ ngay cả những người thủ cựu ở nhà họ Khương, người từng bó chân cũng đã đều bỏ ra cả, chứ đừng nói đến những người chưa bó chân, thành thử họ đều lấy chuyện Trường An bó chân ra làm trò cười. Trường An bó chân hơn một năm, cái hứng nhất thời của Thất Xảo qua đi, lại thêm bà con họ hàng khuyên nhủ, dần dần không bắt Trường An phải bó chân nữa, song bàn chân của Trường An thì không thể nào trở lại hình dạng ban đầu được.
Con cái của nhà cả và nhà út họ Khương đều vào học ở trường Tây, Thất Xảo luôn rắp tâm ganh đua với họ về mọi mặt, thành ra cũng bắt Trường Bạch thi vào. Trường Bạch ngoài đánh bài ra, chỉ thích chạy tới phòng tập hý kịch, dụng công luyện giọng cả ngày ở đó, chỉ sợ vào trường rồi sẽ trễ nhác buổi tập, nên không chịu đi. Thất Xảo không còn cách nào, đành đưa Trường An tới trường nữ sinh Trung học Sư phạm Thượng Hải, nhờ người xin xỏ, chen ngang vào lớp. Trường An đổi sang mặc đồng phục may bằng vải Ái quốc màu lam của trường, chưa đến nửa năm, sắc mặt cũng hồng hào lên, cánh tay cổ chân cũng to ra hơn một vòng. Học sinh nội trú phải thay quần áo đem đi giặt, theo lệ thì phải gửi tới phòng giặt giũ của trường. Trường An không nhớ rõ số của mình, thường đánh mất các đồ lặt vặt như vỏ gối, khăn mùi soa. Thất Xảo liền làm ầm lên, đòi tìm gặp hiệu trưởng nói chuyện. Hôm được nghỉ học về nhà, Trường An kiểm tra đồ đạc, lại phát hiện ra mất một tấm ga giường. Thất Xảo nổi giận lôi đình, tính ngày mai sẽ đích thân tới trường làm ầm lên. Trường An luống cuống, cất tiếng can ngăn, Thất Xảo bèn mắng: “Cái đồ phá nhà! Mày coi tiền như cỏ rác ấy hả. Mày tưởng tiền của mẹ mày dễ kiếm lắm đấy hả? Sau này mày lấy chồng, mày xem mẹ còn gì cho mày nữa! Có cho mày cũng như không!” Trường An không dám lên tiếng, cứ khóc thút thít cả đêm. Cô bé không thể mất mặt trước đám bạn của nó được. Với một thiếu nữ mười bốn tuổi, đây dường như là một việc tày trời. Mẹ nó mà đến làm um lên ở trường, sau này nó đâu còn mặt mũi nào nhìn ai? Trường An thà chết cũng không muốn quay lại trường nữa. Các bạn của nó, giáo viên âm nhạc nó hàng yêu quý, chẳng mấy chốc sẽ quên mất rằng đã từng có cô bé này, đến được nửa năm, rồi lẳng lặng ra đi vô duyên vô cớ. Ra đi êm ái. Cô bé cảm thấy sự hy sinh của nó là một cử chỉ đẹp đẽ nhưng thê lương.
Nửa đêm, cô bé bò ra khỏi giường, thò tay ra khỏi song cửa dò dẫm, tối om om, vừa mưa sao? Không có hạt mưa. Từ bên cạnh gối, cô bé lấy ra một chiếc harmonica, ngồi khom lưng len lén thổi. Ngập ngừng, điệu nhạc Long Long Ago dịu nhẹ lan tỏa trong màn đêm rộng ngợp, không thể để ai đó nghe thấy được. Vì gắng sức kìm nén, tiếng harmonica u u chợt có chợt không, giống như tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Cô bé không lấy nổi hơi nữa, bèn nghỉ một lúc lâu. Ngoài song cửa, mặt trăng ló ra khỏi đám mây. Trời tối đen như mực, mấy đốm sao mờ, một vầng trăng nhạt, giống như hình vẽ in thạch bản, phía dưới áng mây trắng vần vũ, trên ngọn cây lọt ra vệt sáng tròn nhạt của đèn đường. Trường An lại thổi harmonica. “Người gợi cho em chuyện năm xưa rất ngọt ngào, đã xa xôi rồi, đã xa xôi rồi...”
Ngày hôm sau cô bé đánh bạo nói với mẹ: “Mẹ! Con không muốn đi học nữa!” Thất Xảo trừng mắt nói: “Vì sao?” Trường An đáp: “Bài vở con không theo kịp, ăn uống lại quá khổ, con không sống quen.” Thất Xảo trút một chiếc hài ra, tiện tay lấy gót hài đánh con bé một cái, chì chiết: “Bố mày đã chẳng bằng ai, mày cũng chịu thua kém sao? Mẹ nuôi mày đâu có chỗ nào không chu đáo, mày lại không chịu giúp mẹ mở mày mở mặt là sao!” Trường An đan tay sau lưng, cụp mắt lại, không nói năng gì. Mấy bà người ở già đứng bên cạnh bèn khuyên: “Chị An cũng đã lớn rồi, trong trường hỗn tạp, quả cũng có nhiều cái bất tiện. Thực ra không đi học cũng chẳng sao mà!” Thất Xảo trầm ngâm nói: “Dù gì cũng phải nghĩ cách lấy lại học phí. Chẳng lẽ cho bọn nó vớ bở à?” Liền toan dắt Trường An cùng đi đòi tiền, Trường An thà chết không chịu đi, Thất Xảo liền đem theo hai bà người ở đi một chuyến rồi về, theo lời kể lại của cô ả, tuy không lấy lại được tiền, nhưng cũng khiến viên hiệu trưởng hổ nhục một vố. Trường An về sau gặp bạn trên đường, mặt thoắt đỏ thoắt tái, chẳng biết chui xuống lỗ nẻ nào, đành vờ như không nhìn thấy, rảo bước đi qua. Bạn bè gửi thư đến nhà, cô bé cũng không dám bóc thư, cứ nguyên đai nguyên kiện gửi về địa chỉ cũ, cuộc đời học sinh của cô bé Trường An thế là chấm dứt từ đây.
Đôi lúc Trường An cảm thấy sự hy sinh của mình có gì đó không đáng, cô bé thầm hối hận, nhưng cũng không kịp cứu vãn nữa. Dần dần cô bé vứt bỏ tất cả mọi tư tưởng cấp tiến, bắt đầu an phận thủ thường. Cô bé học thói bới móc thị phi, giở trò vặt vãnh, can thiệp vào mọi việc trong nhà. Cô có lúc cáu kỉnh với mẹ, song từ lời nói đến cử chỉ thì lại ngày một giống mẹ mình. Mỗi khi nhìn cô mặc quần dài, ngồi giạng chân, hai tay chống lên mặt ghế nhô ra giữa háng, nghiêng đầu, nhìn người đối diện một cách thương hại, quai miệng nói: “Nhà nào cũng có nỗi khổ riêng của nhà ấy, bà chị ạ, nhà nào cũng có nỗi khổ riêng của nhà ấy!”... Ai cũng nói Trường An là bản sao của Thất Xảo. Cô nàng còn tết một cái đuôi sam, mắt mũi biểu cảm đều giống hệt bà mẹ năm xưa, có điều cái miệng nhỏ nhắn của cô nàng quá móm, dường như trông hơi già một chút. Cô nàng có trẻ trung hơn nữa, bất quá cũng chỉ là một cây cải non nớt, đã được đem đi muối dưa.
Cũng có người đến mai mối cho cô. Nếu là nhà có gia cảnh hơi kém, Thất Xảo liền nghi ngờ người ta hám của nhà mình. Nếu là nhà có tiền có thế, thì họ lại không quá nhiệt tình, nhan sắc của Trường An cũng chỉ thuộc loại trung bình, mẹ cô nàng xuất thân đã kém, lại có tiếng là không hiền thục, nghĩ hẳn cũng chẳng phải là nhà gia giáo. Bởi vậy cao không tới, thấp chẳng xong, sự việc cứ thế gác lại hết năm này qua năm khác. Hôn sự của Trường Bạch lại không thể gác lại thêm nữa. Trường Bạch ở bên ngoài đánh bạc, ghẹo con hát, Thất Xảo còn chưa nói gì, sau đó dần dần lại theo chú ba Khương Quý Trạch của nó đi chơi nhà thổ, Thất Xảo mới hoảng người, cuống quýt bắt con cưới vợ, lấy một cô tiểu thư nhà họ Viên, tên là Chi Thọ.
Hôn lễ tổ chức theo kiểu bán tân thời, khăn trùm đầu đỏ được lược bỏ, cô dâu đeo cặp kính màu lam, đội voan hồng, mặc chiếc váy thêu hoa màu hồng, bước vào phòng tân hôn, tháo kính, ngồi khép nép sau bức màn màu xanh biếc. Những người vào trêu cô dâu chú rể thích thú vây xung quanh, Thất Xảo chỉ ngó một cái rồi đi ra. Trường An chạy ra đến cửa thì đuổi kịp mẹ, nhoẻn miệng cười nói: “Da dẻ thì sạch sẽ trắng trẻo đấy, có điều môi dày quá!” Thất Xảo chống tay vào cửa, rút một cây ngoáy tai bằng vàng ra gãi gãi lên đầu, cười nhạt: “Còn phải nói! Cặp môi của chị dâu mày cắt ra cũng phải được một đĩa to đấy!” Một bà đứng bên cạnh liền nói: “Nghe bảo người môi dày thì phúc hậu đấy!” Thất Xảo hừ lên một tiếng, lấy chiếc ngoáy ráy tai bằng vàng gí vào bà lão kia, đoạn nhướn một bên lông mày, nhếch môi cười khẩy: “Phúc hậu thì có gì hay hớm. Mà trước mặt mấy đứa đàn bà con gái, tôi cũng không tiện nhiều lời... chỉ mong là anh Bạch nhà ta không chết yểu vì nó!” Thất Xảo có một chất giọng lanh lảnh bẩm sinh, giờ đã già nua đi ít nhiều, không còn sắc nhọn như trước, song tiếng the thé ấy vẫn khiến người chung quanh cảm thấy đau buốt, như thể một lưỡi dao lam. Hai câu nói vừa rồi không quá vang, cũng chẳng đủ khẽ khàng. Khuôn mặt và bộ ngực cứng đờ của cô dâu giữa đám người đột nhiên rung rung, có thể là do ánh lửa trên cây nến long phượng chập chờn.
Sau ba ngày cưới, Thất Xảo đã chê con dâu đần, những việc không vừa ý, nhất nhất lôi ra kể lể với họ hàng. Có người khuyên lằng: “Mợ ấy còn trẻ người non dạ, thím hai phải mất công dạy dỗ mới được. Mà ai bảo con bé lại thẳng như ruột ngựa thế cơ chứ!” Thất Xảo phì nước bọt: “Bà đừng tưởng mợ trẻ nhà này thật thà... Vừa gặp mặt Trường Bạch là nó mót ngay được! Thật đấy! Thím có tin không?” Câu ấy lọt đến tai Chi Thọ, Chi Thọ tức muốn chết. Song lúc đấy cưới chưa được đầy tháng, Thất Xảo còn giữ chút ý tứ, về sau, những lời kiểu này bắt đầu nói thẳng trước mặt, Chi Thọ dở khóc dở cười, nếu cứ trơ mặt ra vờ như không nghe thấy, Thất Xảo liền đập bàn ca cẩm: “Ăn được miếng cơm trước mặt nàng dâu cũng khó quá đấy! Hơi một tí là ra cái bộ khó coi!”
Tối hôm ấy, Thất Xảo nằm hút thuốc, còn Trường Bạch chình ình trên chiếc ghế sô pha đặt trước phản, cắn hạt dưa, trên đài vang lên lời hát của một vở hý kịch độc diễn, Trường Bạch bưng tập kịch bản Kinh kịch, ngâm theo từng từ một, ngâm đến cao hứng, liền hất một chân sang bên, vắt lên lưng ghế, đung đưa chân gõ nhịp phách. Thất Xảo thò chân ra đá cậu ta một cái, nói: “Anh Bạch ra đây nhồi cho mẹ hai ống.” Trường Bạch đáp: “Tạm đốt nốt thuốc đi đã, mẹ thì chỉ thích sai con thôi! Làm như trên tay con có mật không bằng?” Anh chàng vừa nói, vừa vươn vai, uể oải chuyển sang cái ghế con đặt trước bàn đèn, đoạn xắn ống tay áo lên. Thất Xảo cười nói: “Ta truyền cho loại nô tài bất hiếu nhà ngươi! Sai ngươi đấy, là cất nhắc ngươi đấy!” Bà ta lim dim nhìn con trai mình. Bấy nhiêu năm nay trong cuộc đời bà chỉ có một người đàn ông này thôi. Chỉ có thằng này là bà không sợ nó lăm le tiền của bà, bởi dù thế nào đi nữa, của nả cũng đều là của nó. Song le, vì nó là con trai của bà, nên nó còn chẳng bằng một nửa... giờ thì ngay cả một nửa người ấy, bà ta cũng không giữ nổi nữa, nó đã lấy vợ. Trường Bạch là gã trai trẻ gầy gò trắng trẻo, lưng hơi gù, đeo cặp kính dát vàng sợi, đường nét trên mặt đâu ra đấy, thường mỉm cười bâng quơ, hễ mở miệng là lóe ra một thứ ánh sáng, chẳng rõ là do quá nhiều bọt mép hay là do cái răng vàng của gã. Anh ta phanh cổ áo để lộ tấm lót lông dê màu ngọc trai và chiếc áo trắng bên trong. Thất Xảo gác một chân lên vai con trai, liên tục đá nhẹ vào cổ nó, hạ giọng nói: “Ta truyền cho loại nô tài bất hiếu nhà ngươi! Từ khi nào mà hóa ra hỗn hào đến thế?” Trường An ngồi kế bên đáp: “Lấy vợ rồi là quên mẹ ấy mà!” Thất Xảo nói: “Nói linh tinh! Anh Bạch nhà ta không phải cái hạng người như thế! Tao cũng không đẻ ra cái thằng con như thế!” Trường Bạch chỉ cười trừ. Thất Xảo liếc mắt nhìn con, cười nói: “Nếu anh vẫn là anh Bạch ngày xưa của mẹ, thì giờ anh phải đốt thuốc thâu đêm cho mẹ!” Trường Bạch cười đáp: “Thế thì có khó gì!” Thất Xảo nói: “Anh mà ngủ gật là mẹ cho ăn đấm đấy!” Chiếc rèm ở gian phòng khách được dỡ xuống đem đi giặt giũ. Qua lớp cửa kính phóng mắt nhìn ra, ánh trăng trong đám mây đen mờ ảo thoắt đen, thoắt trắng, giống như những khuôn mặt nanh ác thay đổi liên tục trong vở Kinh kịch. Từng chút, từng chút một, mặt trăng từ từ ló ra khỏi làn mây, dưới nền mây đen bắt đầu lọt ra một đường ánh sáng lấp lánh, đó là con mắt lẩn sau mặt nạ. Bầu trời có màu xanh thẫm của một cái động không đáy. Nửa đêm đã qua từ lâu. Trường An đi ngủ từ sớm, Trường Bạch ngồi vê thuốc, dần dần cũng ngủ gà ngủ gật. Thất Xảo rót một chén trà đặc cho con trai, hai người vừa ăn kẹo mứt, vừa tán dóc về chuyện đời tư của hàng xóm láng giềng, Thất Xảo bỗng cười tủm tỉm hỏi: “Anh Bạch nói xem, vợ anh có được không?” Trường Bạch trả lời: “Chuyện này có gì đáng nói đâu?” Thất Xảo nói: “Không có gì đáng chê thì tức là được rồi phải không?” Trường Bạch cười trừ. Thất Xảo nói tiếp: “Được thì cũng phải nói rõ được ở chỗ nào chứ!” Trường Bạch đáp: “Ai bảo cô ấy được?” Thất Xảo nói: “Nó không được à? Có điểm nào không được? Nói mẹ nghe xem!” Trường Bạch lúc đầu còn trả lời ậm ừ, khiến Thất Xảo cứ vặn hỏi năm lần bảy lượt, cuối cùng dành phải thổ lộ ít nhiều. May bà người ở đứng bên cạnh tiếp trà nước cứ quay mặt đi cười khúc khích, bọn a hoàn đều bụm miệng nhịn cười lánh ra ngoài. Thất Xảo khi thì nghiến răng, khi thì cười, lúc lại lầm bầm chửi rủa, vặn tẩu thuốc ra hằn học dỗ tro bên trong, gõ thành một chuỗi âm thanh cồm cộp. Trường Bạch líu cả lưỡi, cứ thế tuôn ra hàng tràng, nói suốt một đêm.
Sáng tinh mơ ngày hôm sau, Thất Xảo dặn bà ở lấy hai tấm thảm cho anh Bạch ngủ lại trên phản thuốc. Lúc này Chi Thọ cũng đã dậy, tới phòng thỉnh an bà. Thất Xảo cả đêm không chợp mắt song tinh thần hưng phấn bội phần, bèn mời mấy người chị em họ tới đánh bài, bà thông gia cũng nằm trong số đó. Trên bàn mạt chược, bà ta kể tuốt tuột bí mật về cô con dâu do chính miệng thằng con trai bà đã khai ra, và như một sự đương nhiên bà ta không quên thêm mắm giặm muối để câu chuyện thêm phần sinh động. Mọi người đã gắng sức nói lảng ra, nhưng cứ chỉ tào lao được dăm câu, Thất Xảo lại hỉ hả quay lại câu chuyện về cô con dâu mình. Bà mẹ của Chi Thọ mặt mũi tím tái, cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại con gái, vứt bộ bài xuống, lên xe con đi về.
Thất Xảo liên tục bắt Trường Bạch đốt thuốc cho bà ta hai đêm. Chi Thọ nằm chỏng chơ trên giường, hai cánh tay đặt trên sườn co quắp giống như đôi chân của một con gà chết. Cô biết bà mẹ chồng lại đang vặn hỏi chồng mình, cô biết chồng mình lại đang kể lể vài việc gì đó ở đằng ấy, nhưng có trời mới biết anh ta còn chuyện mới mẻ gì nữa để mà kể! Ngày mai anh ra sẽ lại vác cái mặt rỏ dãi bước đến trước mặt cô. Có lẽ anh ta đã lường trước việc cô sẽ trút một bầu oán hận lên người mình, liều mạng với anh ta thì cô không có gan rồi, cùng lắm sẽ chỉ vặn hỏi vài câu, rồi làm ầm ĩ lên một trận. Hẳn anh ta đã chuẩn bị cao giọng phủ đầu, mượn rượu vờ say, kiếm cớ gây chuyện, đạp đổ dăm ba món đồ. Cô biết tính của anh ta. Cuối cùng, anh ta sẽ ngồi ở mép giường, nhún vai và luồn tay vào trong chiếc áo dài lụa trắng gãi ngứa, sau cùng sẽ bất ngờ cười phá lên. Một đốm sáng khẽ nhấp nháy trên cặp kính dát vàng sợi, một đốm ánh sáng khẽ nhấp nháy trong miệng, không biết do bọt mép hay do răng vàng. Anh tháo gọng kính xuống... Chi Thọ đột nhiên ngồi phắt dậy, kéo xoẹt tấm màn ra. Đây là một thế giới điên loạn, chồng không ra chồng, mẹ chồng càng chẳng ra mẹ chồng. Không phải họ điên, mà là cô điên. Trăng tối nay đẹp hơn bất cứ hôm nào khác, một vầng trăng đầy đặn trên cao, muôn dặm không một gợn mây, trông như một vầng dương trắng trên nền trời tối sậm. Bóng trăng xanh phủ khắp mặt đất, trên nóc màn cũng có bóng xanh, đôi chân cô cũng sa vào trong cái bóng im lìm chết chóc ấy.
Chi Thọ đang định cuốn màn lên, đưa tay rờ móc màn, một cánh tay bám lên chiếc móc đồng, mặt dựa vào vai, bất chợt khóc thút thít. Tấm màn tự động buông xuống. Trong bức màn u ám, ngoài cô ra không còn ai khác, vậy mà cô vẫn giật thót mình, cuống quýt treo màn lên lần nữa. Ngoài cửa sổ vẫn là ánh trăng sáng dị thường khiến người ta toát mồ hôi hột, một mặt trời chói chang, nhỏ và trắng trên nền trời đen sậm. Trong phòng có thể nhìn thấy rõ mồn một cái bàn phủ khăn thêu màu đỏ tía, bức bình phong đỏ rực với hình năm con phượng bằng vàng sánh bay, đôi câu đối bằng lụa mềm màu hồng phấn có thêu chữ Triện cách điệu kiểu hoa tròn. Trên bàn trang điểm, đăng ten màu xanh đỏ trùm lên những hộp phấn bằng bạc, chậu súc miệng bằng bạc, lọ hoa bằng bạc, bên trong đựng đầy bánh trái từ hôm cưới; vạt màn vén cong phía trước, bên trên rủ xuống nào là quả cầu hoa, giỏ hoa, ngọc như ý, bánh chưng nhỏ xíu làm bằng nhung năm màu đính kim tuyến, bên dưới treo lủng lẳng những hạt thủy tinh to cỡ đầu ngón tay và chùm dây ngù màu đào dài gần một thước. Cả một căn phòng lớn chật cứng hòm xiểng, chăn ga gối đệm, chẳng trách Chi Thọ không tìm thấy vuông vải nào để có thể treo cổ, cô lại ngã vật xuống giường. Dưới ánh trăng, chân cô như cắt không còn giọt máu, thứ màu sắc của xác thân nguội lạnh, xanh xao, tím tái. Cô muốn chết, cô muốn chết. Cô sợ ánh trăng này, nhưng lại không dám bật đèn. Sớm mai bà mẹ chồng sẽ lại nói: “Anh Bạch đốt thêm cho tôi hai điếu, báo hại cho mợ trẻ nhà này mất ngủ cả đêm, giữa canh ba còn dậy chong đèn đợi chồng về... không thiếu được nó mà!” Nước mắt của Chi Thọ không ngừng chảy xuôi theo gối. Cô không lấy khăn dụi mắt, lỡ mà mắt sưng lên, bà mẹ chồng sẽ lại nói: “Anh Bạch cả đêm không về phòng ngủ, mợ trẻ nhà này khóc, mắt mọng như quả đào ấy!”
Tuy Thất Xảo miêu tả con trai và con dâu mình như một đôi yêu đương nồng cháy như vậy, song Trường Bạch lại không hề vừa lòng với Chi Thọ, Chi Thọ cũng nghiến răng căm hận Trường Bạch. Vợ chồng lục đục, Trường Bạch dần dần lại tìm đến chốn ngõ liễu tường hoa. Thất Xảo chọn một đứa a hoàn tên là Quyên Nhi làm lẽ cho anh ta, nhưng cũng vẫn không giữ được chân. Thất Xảo lại đổi cách dụ con trai mình hút thuốc. Trường Bạch xưa nay thích hút chơi vài hơi, chẳng qua chưa nghiện, giờ hút nhiều rồi, cũng chán không hay ra ngoài nữa, chỉ ở nhà với mẹ và cô vợ lẽ mới.
Cô em gái, Trường An, năm hăm bốn tuổi bị bệnh kiết lỵ, Thất Xảo không mời thầy thuốc về bốc thuốc cho con mình, chỉ khuyên con hút hai ống thuốc phiện, quả nhiên đỡ đau hơn nhiều. Sau khi khỏi bệnh, cô nàng cũng bị nghiện luôn. Nhưng Trường An lại khác xa Trường Bạch, Trường An là con gái chưa chồng, chẳng có thú tiêu khiển nào khác, cắm đầu cắm cổ hút thuốc, lượng thuốc hút còn hơn Trường Bạch rất nhiều. Cũng có người khuyên ngăn, Thất Xảo nói: “Sợ cái gì! Nhà họ Khương tao còn ăn còn chơi được chán, kể cả hôm nay tao bán hai thửa ruộng đi cho anh em nó hút thuốc, thì liệu có đứa nào dám hé răng nửa lời? Con gái tao hôm nào lấy chồng, cái của hồi môn này cũng chẳng thiếu phần cho nó. Nó ăn cơm của nó, uống nước của nó, thằng rể dẫu không đành lòng, cũng chỉ có thể khuất mắt trông coi mà thôi!”
Tuy nói là nói vậy, nhưng dù sao chuyện gả bán của Trường An cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Những người đến làm mối vốn dĩ đã chẳng nhiều nhặn gì, giờ thì gần như mất bóng cả. Đến khi Trường An đã gần ba mươi, Thất Xảo thấy con gái mình chắc sẽ làm bà cô rồi, mới lại đổi sang luận điệu khác, bảo rằng: “Bản thân nó chẳng xinh xắn gì, không ai lấy, nó lại trách tôi làm lỡ việc của nó! Cả ngày nó cứ vác cái mặt sưng sỉa kia ra, làm như tôi nợ nó hai trăm tiền không bằng. Tôi giữ nó ở trong nhà cho ngồi mát ăn bát vàng, chứ không phải giữ nó để làm tôi tức chết!”
Hôm sinh nhật tròn hai mươi tuổi của Trường Hinh, cô con gái của Khương Quý Trạch, Trường An đến chúc mừng cô em họ nội của mình. Khương Quý Trạch tuy đã nghèo, nhưng may mà anh ta giao du rộng, cũng vẫn còn xoay xở sinh sống được. Trường Hinh lén bảo với mẹ rằng: “Mẹ nghĩ cách giới thiệu ai đó cho chị An đi, trông chị ấy đáng thương lắm. Chưa đả động gì tới tình hình nhà bên ấy, mắt chị đã đỏ hoe rồi!” Lan Tiên cuống quýt xua tay: “Thôi! Thôi! Mẹ chẳng dám làm mối đâu! Cái tính khí của mợ hai nhà con dễ gần lắm đấy?” Trường Hinh trẻ người, hiếu sự, làm sao hiểu được? Bẵng đi một thời gian, một lần tình cờ nói đến chuyện này với mấy người bạn học, vừa khéo một người bạn có ông chú họ mới du học ở Đức về, cũng là người miền Bắc, dò hỏi kỹ thì hóa ra cũng có chút dây mơ rễ má với nhà họ Khương. Người đó tên là Đồng Thế Phương, tính ra thì lớn hơn Trường An mấy tuổi. Trường Hinh tự mình quyết định, sắp xếp tất cả mọi việc, mẹ của người bạn kia sẽ đứng ra mời cơm. Bên này, Trường An giấu cả nhà, kín như bưng.
Thất Xảo xưa nay vẫn rắn rỏi, chỉ vì cô con dâu Chi Thọ bị lao phổi, bà nghi cô giả vờ giả vịt, hết ăn cái này rồi lại ăn cái khác, làm như mệt lắm không bằng, dường như còn sung sướng hơn ngày thường nhiều, tự bản thân bà ta tức tối liền cũng đổ bệnh. Thoạt đầu mới chỉ là khí huyết hư nhược, cả nhà đã bị sai bảo như chong chóng, còn hơi đâu săn sóc cho cả Chi Thọ? Sau đó Thất Xảo ốm thật, nằm liệt giường, cả nhà lại càng nháo nhác. Trường An nhân lúc cả nhà rối loạn bèn lẻn đi, gọi thợ may về nhà chú ba cắt một bộ cánh mới theo ý của Trường Hinh. Buổi tối hôm đi dự tiệc, Trường Hinh dẫn cô nàng tới hiệu cắt tóc để kẹp nóng làm quăn, các lọn tóc quăn nhỏ, dày đặc từ trán xuống hai mai, trên tai toòng teng một đôi bảo tháp bằng pha lê phỉ thúy dài hai tấc, phía trên lại vận áo cài khuy chéo bằng vải georgette màu xanh táo, cổ áo cao tròn, ống tay viền lá sen, phía dưới eo là chiếc váy xếp nếp pha kiểu Tây. Một chị giúp việc quỳ xuống đất cài cúc lại cho Trường An, Trường An ngắm mình trong gương, không kìm được nhẹ buông lỏng hai cánh tay, đá nhẹ váy lên, làm dáng một tiên nữ hái nho, đoạn quay đầu lại bật cười nói: “Em hóa trang cho chị trông cứ như tiên nữ rắc hoa í nhỉ!” Trường Hinh nhìn vào gương, đá mắt với chị người làm, hai người cùng lúc bật cười. Trường An trang điểm xong, liền ngồi ngay ngắn lên trên ghế cao. Trường Hinh nói: “Em ra gọi điện kêu xe đến!” Trường An nói: “Còn sớm mà!” Trường Hinh nhìn đồng hồ nói: “Hẹn tám giờ đấy chị ạ, đã tám giờ năm rồi!” Trường An nói: “Muộn nửa tiếng chắc cũng chẳng sao!” Trường Hinh đoán là bà chị mình rắp tâm làm cao, trong bụng vừa tức vừa thấy nực cười, bèn mở chiếc túi da xách tay cẩn bạc, kiểm lại một lượt, lấy cớ là quên mang gương trang điểm, một mình quay vào phòng mẹ đẻ, ngồi kể lể một hồi, rồi nói: “Tối nay có phải là anh họ Đồng ấy mời cơm đâu, chị ấy làm cao với ai cơ chứ? Con cũng chán khuyên chị ấy rồi, chị ấy thích thì sáng mai hẵng đến, chẳng liên quan đến con nữa.” Lan Tiên bảo: “Con xem con có lẩm cẩm không! Người hẹn là con, mai mối cũng là con, con không liên quan thế nào được? Mẹ đã trách con bao lần rồi... đáng lẽ con cũng phải sớm hiểu chứ, cái kiểu nửa mùa, dở dở ương ương của chị An con giống y như của mẹ nó. Chốc nữa hay dở gì thì người ta cũng bảo đó là chị con, con có mất mặt cũng đáng đời, ai bảo con dính vào cái chuyện thị phi này làm gì, vơ vào người rồi lại điên đầu lên?” Trường Hinh bặm môi ngồi lại trong phòng mẹ hồi lâu. Lan Tiên cười nói: “Tình hình này, chắc chị con đợi có người giục mới đi đây.” Trưởng Hinh đáp: “Con còn lâu mới đi giục chị ấy!” Lan Tiên nói: “Ngốc ạ, con giục thì có tác dụng gì? Chị con đang đợi điện thoại đầu dây bên kia kìa!” Trường Hinh cười phá lên: “Có phải cô dâu đâu mà phải giục năm lần bảy lượt mới lên kiệu!” Lan Tiên nói: “Dù gì thì con cứ gọi một cú điện thoại đến nhà hàng bảo họ gọi điện lại, chẳng phải xong xuôi hay sao? Sắp chín giờ rồi, cứ nấn ná thêm thì chắc hỏng việc mất!” Trường Hinh đành phải làm theo lời mẹ, bên này mới chịu lên đường.
Ngồi trong xe hơi, Trường An vẫn còn hào hứng, nói cười tíu tít, vậy mà vào trong quán thì đột nhiên căng thẳng, nép sau Trường Hinh, rón rén bước vào phòng, rụt rè cởi chiếc áo choàng có mũ chùm bằng lông đà điểu màu xanh táo xuống, cúi đầu ngồi ngay ngắn, nhón lấy một quả hạnh nhân, cứ cách hai phút lại khẽ cắn một phần mười, nhai từ tốn. Cô nàng đến đây là để cho người ta ngắm mà lại. Trường An cảm thấy cách ăn vận từ đầu đến chân của mình không có chỗ nào hớ hênh để mà chê bai, cho dù người ra có săm soi cũng không ngại, nhưng cơ thể cô nàng lại mới chính là thứ thừa ra, muốn rúm lại cũng chẳng biết rúm vào đâu, từ đầu chí cuối chỉ ngồi nín lặng ăn hết bữa cơm. Đợi đến khi đồ ngọt được mang lên, Trường Hinh mới kéo chị họ tới bên cửa sổ ngắm cảnh đường phố, rồi kiếm cớ đi chỗ khác, anh chàng Đồng Thế Phương kia bèn chậm rãi đến bên cửa sổ, hỏi: “Khương tiểu thư đến đây lần nào chưa?” Trường An lí nhí trả lời: “Dạ chưa!” Đồng Thế Phương nói: “Tôi cũng mới đến lần đầu, đồ ăn ở đây cũng không đến nỗi tệ, nhưng tôi vẫn không ăn quen.” Trường An hỏi: “Không ăn quen?” Thế Phương đáp: “Thì rõ là vậy! Đồ ăn ngoại quốc tương đối thanh đạm, đồ ăn Trung Quốc thì mỡ màng quá. Tôi vừa về, họ hàng bè bạn đã mời cơm đến mấy hôm liền, dễ đau bụng lắm.” Trường An cứ ngắm đi ngắm lại ngón tay của mình, dường như chăm chú đếm thử xem tất cả có mấy vân tay xoáy, mấy vân tay ngang...
Phía trên cửa kính, chẳng hiểu vì sao nảy ra một đốm hoa sáng từ đèn nê ông, phản chiếu lại từ bên trong cửa hàng đối diện, nhụy xanh cánh đỏ, là bông hoa sen tế thần sông Nile, và là tấm huy chương hình hoa loa kèn của hoàng gia nước Pháp...
Nhiều năm rồi, Thế Phương không nhìn thấy con gái ở quê nhà, thấy Trường An toát lên chút vẻ mỏng manh tội nghiệp, nên cũng thấy hơi thinh thích. Trước khi đi du học anh đã được định hôn ước, chỉ vì yêu một cô bạn cùng lớp, nên đã phản đối kịch liệt cuộc hôn nhân do gia đinh sắp đặt, đường sá xa xôi, lời qua tiếng lại tốn không biết bao nhiêu giấy mực, gần như đã từ mặt nhau, bố mẹ anh từng có một dạo cắt đứt nguồn tiếp tế, khiến anh phải chịu không ít khổ sở, rồi mới thuận theo ý anh hủy bỏ hôn ước. Không may cô bạn học của anh lại yêu người khác, bỏ rơi anh, trong cơn thất tình anh đã vùi đầu vào việc học tận bảy tám năm trời. Anh tin chắc rằng người vợ theo kiểu truyền thống vẫn hay hơn, đó cũng là phản ứng tâm lý dễ hiểu.
Sau khi Thế Phương gặp mặt Trường An, cả đôi bên đều tình trong như đã. Trường Hinh định bụng đã giúp thì giúp cho trót, nhưng bản thân dẫu có nhiệt tình hơn nữa, cũng không đủ tư cách để đứng ra nói chuyện với mẹ của Trường An, đành phải nhờ đến Lan Tiên. Lan Tiên một mực không chịu, bảo: “Con có phải không biết, bố con với mợ hai coi nhau như kẻ thù, xưa nay có nhìn mặt nhau đâu. Tuy mẹ và mợ ấy chưa từng có va chạm gì, nhưng dẫu cho tốt đến mấy cũng có giới hạn, sao phải tự chuốc lấy sự khó chịu làm gì cho khổ hả con?” Trường An gặp Lan Tiên, chỉ biết khóc, Lan Tiên cũng mềm lòng, đành phải nhận lời đến gặp mẹ Trường An một chuyến. Chị em dâu gặp nhau, thăm hỏi một hồi, Lan Tiên mới bắt đầu nói rõ nguồn cơn. Thất Xảo thoạt nghe, hóa ra cũng phấn khởi liền nói: “Vậy thì trăm sự nhờ thím ba nhé! Tôi thì cứ ốm quặt quẹo, chẳng lo được cho cháu, đành phải phiền tới thím ba vậy. Cái con ranh này chính là nỗi đau lòng của tôi. Tôi là mẹ nó, cũng không thể nói là có lỗi với nó được, làm theo kiểu cũ thì tôi bó chân cho nó rồi, mà làm theo lối mới thì tôi cho nó đi học... còn muốn thế nào nữa? Đứa con mà tôi hết lòng hết dạ nuôi dạy, chỉ cần nó không mù không điếc không sứt sẹo, lẽ nào lại chẳng ai thèm ngó ngàng? Chỉ có điều con ranh này từ nhỏ đã ẽo à ẽo ợt, làm tôi cứ phải quát tháo suốt; tôi giờ nhắm mắt mặc kệ, trai khôn dựng vợ gái nhớn gả chồng, mặc cho số giời vậy!”
Bàn bạc ổn thỏa đâu đấy, Lan Tiên đứng ra mời khách để hai bên gặp gỡ nhau. Trường An và Đồng Thế Phương làm ra vẻ chưa gặp nhau bao giờ, mới hội ngộ lần đầu tiên. Thất Xảo nằm trên giường bệnh, không ra mặt, bởi vậy Trường An đã đính hôn trong bầu không khí yên bình. Trong bữa tiệc, Lan Tiên và Trường Hinh gắng kéo tay Trường An đặt vào tay của Thế Phương, Thế Phương trao nhẫn cho Trường An trước mặt mọi người. Nhà gái cũng đáp lễ lại, tuy bỏ lối tặng giấy bút mực nghiên, nhưng vẫn thay bằng một hộp bút nhung kiểu mới và thêm một chiếc đồng hồ đeo tay.
Sau khi đính hôn, Trường An lén lút ra ngoài đi riêng với Thế Phương mấy lần. Dưới nắng thu, hai người sánh bước trong công viên, rất kiệm lời, quần áo và bước chân đang chuyển động của đối phương để ý trong đuôi mắt, mùi phấn hương của cô gái, mùi thuốc lá phảng phất của chàng trai, ấn tượng dung dị mà đáng yêu này chính là hàng rào của họ, thứ hàng rào ngăn cách họ với mọi người. Trên thảm cỏ xanh thoáng đãng, có bao nhiêu người tung tẩy, nói, cười, nhưng họ chọn đi trong cái hành lang xinh xắn, lặng lẽ, một hành lang lặng lẽ dài vô tận. Không nói câu gì, nhưng Trường An không hề cảm thấy có bất kỳ sự hẫng hụt nào. Cô nàng cho rằng cách giao tiếp giữa nam và nữ kiểu mới cũng chỉ cần đến vậy mà thôi. Còn Đồng Thế Phương thì sao? Bởi đã có những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ, đối với việc trao đổi suy nghĩ anh vẫn giữ nguyên một thái độ hoài nghi. Có một người ở bên cạnh là anh cũng đã mãn nguyện rồi. Trước kia, anh cực ghét thứ đàn ông tiểu thuyết rởm, muốn sống chung với người đàn bà thì chỉ nói: “Hãy cho anh một niềm an ủi!” An ủi là an ủi thuần túy về mặt tinh thần thôi, ở đây nó lại ngầm thay cho cả ham muốn xác thịt. Song giờ đây anh biết rằng giới hạn giữa vật chất và tinh thần không thể nào phân chia rạch ròi như vậy được. Lời nói suy cho cùng vẫn là vô ích. Cầm tay nhau thật lâu, chính là một niềm an ủi mang tính thỏa hiệp, bởi vì người biết ăn nói vốn đã ít, người thật sự có lời để nói lại càng ít hơn.
Có lúc bất chợt gặp mưa trong công viên, Trường An bật ô, Thế Phương cầm che. Cách lần vải ô mờ đục màu lam, muôn vàn hạt mưa lấp lánh, như một bầu trời sao. Một bầu trời sao theo họ đi khắp nơi, trên kính xe vỡ òa những giọt trắng xóa, ô tô vọt qua những đèn đỏ, đèn xanh, liệu có phải đó là một chùm sao đỏ, rồi một chùm sao xanh đang bay vù qua ngoài cửa kính?
Trường An mang theo giấc mộng rối bời dưới ánh sao trở về nhà, người trở nên âm thầm một cách kỳ lạ. Chốc chốc lại cười tủm tỉm. Thất Xảo nhìn thấy đâm ra khó chịu, liền nói lạnh lùng: “Bấy nhiêu năm nay, lỡ dở việc của cô, chả trách cô hiếm khi cười thế. Bận này thì nhảy ra khỏi nhà họ Khương rồi, vừa lòng rồi nhé, mà có sung sướng ấy, cũng đừng có trưng nó ra trên mặt... người ta nhìn vào đến não cả lòng!” Với tính cách như mọi ngày của Trường An, thế nào cô cũng cãi lại, nhưng Trường An dạo này như biến thành con người khác, nghe rồi cô cũng chẳng so đo, cứ lẳng lặng tự mình cai thuốc. Thất Xảo cũng chẳng làm gì được.
Hôm Trường An đính hôn, mợ cả Đại Trân không đến, cách mấy hôm sau mới đến chúc mừng. Thất Xảo khẽ gọi tiếng “Chị dâu cả ạ” rồi nói: “Tôi thấy ta cứ ra ngoài nghe ngóng xem thế nào, việc này không thể liều được! Hôm trước tôi nghe phong thanh, rằng dưới quê có vợ rồi, bên Tây cũng có một cô nữa.” Đại Trân nói: “Cái cô ở dưới quê còn chưa cưới đã hủy hôn ước rồi. Cô bên Tây cũng thế, nghe đâu bảo làm bạn mấy năm rồi, chẳng hiểu sao lại không thành.” Thất Xảo nói: “Thế thì vẫn còn cái nguyên do tại sao nữa? Lòng dạ đàn ông ấy mà, bảo thay đổi là thay đổi ngay, mối lái đàng hoàng còn phủi tay, nữa là cái loại con gái vớ vẩn đó? Đã biết thằng ấy có bồ bên Tây chưa không biết? Tôi chỉ có một đứa con gái này thôi, không thể nhắm mắt làm bừa mà hại việc cả đời của nó được, bản thân tôi cũng từng gánh chịu nỗi khổ của việc mối lái đây.”
Trường An ngồi một bên, móng tay bấm vào lòng bàn tay, lòng bàn tay đỏ tấy, còn móng tay gập lại ngả sang trắng đục. Thất Xảo đưa mắt nhìn con, rồi chửi: “Cái con ranh mặt trơ trán bóng này, mày còn ngồi đấy vểnh tai lên nghe nữa! Những lời vừa rồi mày nghe rõ chửa? Hồi bọn tao còn là thiếu nữ, hễ nhắc đến nhà chồng là lẩn như trạch. Họ Khương nhà mày mang tiếng là dòng dõi thư hương, chỉ e mày còn phải về nhà bà ngoại có cái quán dầu mè ấy mà học thêm tí nề nếp nhá!” Trường An vừa khóc vừa chạy ra ngoài. Thất Xảo vỗ gối, “hứ” một tiếng, nói: “Con gái con đứa sốt sắng lấy chồng, bảo tôi phải làm gì đây. Thứ thối tha thì lại mang về nhà. Tiếng là thím ba nó tìm cho, thực ra lấy thím ba nó ra làm chiêu bài thôi. Chắc là gạo nấu thành cơm rồi mới lôi thím ba ra làm mối hử. Cả bọn xúm vào lừa một mình tôi... ừ thì lừa bịp cũng được! Nói trắng ra, cái mặt làm mẹ, làm anh biết để đi đâu?”
Lại một hôm, Trường An kiếm cớ lẻn ra ngoài, khi trở về, chẳng đợi Thất Xảo tra hỏi, đang định báo cáo mình đã đi những đâu, Thất Xảo đã xỉa xói: “Được rồi, được rồi, mày nói bớt vài câu đi! Đứng trước mặt tao còn định giở trò quái gì? Để hôm nào tao bắt tận tay day tận mặt cho thì... Hừm! Đừng có tưởng mày nhớn rồi, đính rồi hôn rồi, là tao không đánh được mày nhé!” Trường An rối rít nói: “Con đi đưa cho em Hinh cái mẫu giày, là sai sao? Mẹ không tin mẹ hỏi thím ba ấy!” Thất Xảo nói: “Thím ba mày tìm cho mày một thằng đàn ông về, là thành cha mẹ tái sinh của mày đấy! Tao chưa bao giờ thấy cái loại chưa vỡ bọng cứt đã đòi bay bổng như mày! Sểnh mắt cái là đã không thấy mày đâu rồi. Nhà mày cúng dàng mày bao nhiêu năm nay, chỉ thiếu nước chưa mua lấy thằng đầy tớ về để nó hầu hạ mày mà thôi, chứ đã có chỗ nào không phải với mày mà mày không ngồi yên ở nhà được một khắc hả con?” Trường An đỏ mặt, nước mắt rơi lã chã. Thất Xảo ngừng một lát, lại nói: “Ngày trước bao nhiêu thằng khá khẩm thì chối đây đẩy, giờ lại rước cái thằng chẳng ra gì, đồ thừa của người ta, chẳng phải tự vả vào miệng mình hay sao? Thằng ấy mà ra cái giống người thì sao sống đến ba mươi mấy tuổi đầu, đi đây đi đó, tít tắp mù khơi cả rồi mà vẫn chẳng lấy được con vợ nào?”
Vậy mà Trường An vẫn một mực chấp mê không tỉnh. Bởi tuổi tác đôi bên đều chẳng còn ít ỏi gì, đính hôn chưa được mấy tháng, nhà trai bèn cậy nhờ Lan Tiên sang bàn ngày thành hôn. Thất Xảo chỉ vào Trường An nói: “Sớm không lấy, muộn không lấy, lại lấy đúng vào cái năm tiền bạc túng bấn này! Năm sau nếu ruộng thu hoạch khá hơn, của hồi môn cũng sẽ đầy đặn hơn chút.” Lan Tiên nói: “Giờ chúng nó lấy nhau theo kiểu mới, cũng chẳng coi trọng mấy thứ này nữa đâu. Cứ theo cách mới, tiết kiệm một chút cũng được.” Thất Xảo nói: “Cách mới cách cũ cái gì? Cách cũ chẳng qua hoành tráng hơn, cách mới thì thực dụng hơn, cách nào thì nhà gái cũng xúi quẩy cả!” Lan Tiên đáp: “Chị hai thấy làm thế nào được thì làm, lẽ nào đến lượt cái An nó đòi nhiều chê ít hay sao?” Cả nhà đều cười ồ lên, Trường An bất giác cũng nhoẻn miệng cười. Thất Xảo ngoạc miệng ra mắng: “Không biết xấu hổ! Trong bụng mày có cái gì rồi hay là làm sao? Nước đến chân mới sốt sắng định nhảy khỏi cửa chứ gì! Không cần của hồi môn... mày bằng lòng, người ta chắc gì đã bằng lòng? Mày có chắc nó không toan tính với mày không? Mày không biết tự lượng sức mình con ạ! Mày có cái thá gì cho người ta lọt mắt? Đừng có tự lừa gạt mình con nhá! Thằng họ Đồng kia cũng chẳng phải nhằm vào dòng dõi nhà họ Khương đâu! Đừng tưởng nhà mày oai phong lẫm liệt, công hầu khanh tướng gì, kỳ thực chẳng có cái chuyện đó đâu! Từ lâu rồi chỉ còn được cái mã ngoài thế thôi, hai năm nay đến cái mẽ ấy còn giữ chẳng nổi nữa là. Người thì đời nào cũng xấu xa giống nhau, trong mắt đâu có còn trời đất vua tôi gì? Cái lũ thiếu gia thì chẳng biết cái gì, còn đám tiểu thư thì chỉ biết thèm tiền khát giai... chẳng bằng chó lợn! Nhà mẹ đẻ tao năm xưa lẽ ra có chết cũng không nên làm thông gia với nhà họ Khương mới phải, chôn vùi cả đời tao, tao đang định nói cho cái thằng họ Đồng kia biết để nó đừng có bị lừa giống như tao!”
Từ sau khi sự việc rùm beng, Lan Tiên liền buông xuôi, bỏ mặc hôn sự này. Bệnh tình của Thất Xảo dần dần thuyên giảm, cũng đã rời khỏi giường đi lại được một chút, thành ra ngày nào cũng ngồi ở bậc cửa nói với vào căn phòng của Trường An: “Cô thích cái ngữ đàn ông mọi rợ ấy thì cô cứ việc đi tìm, chỉ có điều cô đừng có rước nó về nhà nhận tôi làm mẹ vợ, để tôi phải uất chết! Tôi chỉ mong tai không phải nghe, lòng không phải nghĩ, cô ạ. Cho tôi sống thêm được hai năm nữa, thì đội ơn cô lắm rồi!” Lải nhải mãi mấy câu, ầm ĩ đến mức cả phố đều nghe thấy. Đương nhiên đám họ hàng cũng đem việc này đi bàn tán khắp nơi.
Thất Xảo lại gọi Trường An đến trước mặt, bỗng nhiên rơi nước mắt nói: “Con ạ, mày có biết ngoài kia người ta bàn tán này nọ về mày, dè bỉu mày không đáng một xu không hả con! Mẹ mày từ ngày bị gả về nhà họ Khương đến giờ, từ trên xuống dưới có đứa nào không có thế lực đâu, mắt chó thì nhìn ai chẳng thấp, mẹ phải chịu đựng biết bao tủi nhục vì chúng nó rồi. Ngay cả bố mày, ông ấy có cái gì cho mẹ hưởng mà mẹ phải chịu cảnh góa bụa vì ông ấy nào? Mẹ chịu khổ chịu sở suốt mười hai năm nay, chẳng qua cũng là vì trông mong hai anh em con khôn lớn nên người, cho mẹ nở mày nở mặt. Chứ đâu có mong cái ngày hôm nay, ôm lấy kết cục như vầy!” Nói đoạn liền tu tu khóc.
Trường An nghe mấy lời này, tựa như sét đánh ngang tai. Dẫu rằng mẹ bảo cô không nên người, dẫu rằng người ngoài bảo cô không nên người, cô cũng chẳng hơi đâu để ý. Chỉ có Đồng Thế Phương... anh ấy... anh ấy nghĩ thế nào? Anh ấy còn muốn lấy cô không? Lần trước lúc gặp mặt, thái độ của anh ấy hơi thay đổi phải không? Rất khó nói... cô đang rất vui sướng, không thể chú ý đến những thay đổi nhỏ nhặt... Trong thời gian cai thuốc, nỗi đau đớn về thể xác và vô số sự dằn vặt cùng lúc tấn công cô, Trường An từ lâu đã cảm thấy hơi quá sức chịu đựng, song gắng gỏi thì cũng vượt được qua, giờ cô đột nhiên cảm thấy xương cốt khắp người đều rệu rã, có nên giải thích với anh không? Anh không phải là anh trai cô, cũng không phải con của mẹ cô, chắc chắn không thể nào hiểu rõ ràng về con người của mẹ cô được. Nếu cả đời này anh không phải gặp mẹ cô, thì hay biết mấy, có điều anh sớm muộn cũng sẽ phải biết bà. Đây là cả một câu chuyện dài, chỉ có nghìn năm làm trộm, chứ làm gì có chuyện phòng trộm nghìn năm, cô biết mẹ cô sẽ còn tung ra thủ đoạn gì đó nữa? Sớm muộn cũng sẽ ầm ĩ lên, sớm muộn cũng sẽ đổ vỡ. Đây là quãng thời gian tươi đẹp trọn vẹn nhất của đời cô, chẳng thà để cô sớm tự kết thúc nó, còn hơn để người khác chắp vào nó một cái đuôi kinh tởm. Một cử chỉ đẹp đẽ nhưng thê lương... Cô biết cô sẽ nuối tiếc, cô biết cô sẽ nuối tiếc, nhưng cô hơi nhướn lông mày, ra điều mặc kệ, nói: “Mẹ đã không bằng lòng với hôn sự này, để con đi hủy hôn với họ là xong.” Thất Xảo đang khóc, bỗng nhiên nín bặt, ngập ngừng một lát, rồi lại khóc òa lên.
Trường An trấn tĩnh lại, ra gọi điện cho Đồng Thế Phương. Thế Phương hôm ấy không rảnh, hẹn trưa hôm sau gặp. Trường An sợ nhất là cái đêm xen giữa này, một phút, một khắc, rồi một khắc, cứ thế gặm nhấm dần vào trái tim cô. Ngày hôm sau, ở chỗ cũ trong công viên, Thế Phương mỉm cười bước ra đón, không chào cô, đối với anh, như thế là một biểu hiện thân mật. Hôm nay dường như anh đặc biệt chú ý đến cô, khi sánh vai đi bên nhau, anh nhiều lần nhìn mặt cô. Ánh nắng chiếu chói chang, Trường An càng cảm thấy mí mắt sưng lên, không tài nào ngẩng lên được. Nhân lúc anh không nhìn cô, cô nói hết đi vậy. Cô nghẹn ngào khẽ gọi một tiếng “anh Phương”, nhưng Đồng Thế Phương không nghe thấy. Vậy thì, nhân lúc anh đang nhìn cô thì nói hết đi vậy. Cô ngỡ ngàng, trên mặt cô vẫn mím được nụ cười, nói khẽ: “Anh Phương này, em nghĩ... chuyện của chúng mình có lẽ... có lẽ để sau hẵng hay anh ạ! Em thực sự xin lỗi!” Cô tháo nhẫn ra nhét vào tay anh, chiếc nhẫn lạnh ngắt, bàn tay lạnh ướt. Cô rảo bước bước đi, anh đứng sững ra một lúc rồi đuổi theo, hỏi: “Vì sao? Anh có chỗ nào chưa vừa lòng em sao?” Trường An nhìn thẳng về phía trước, lắc đầu. Thế Phương nói: “Vậy thì tại sao chứ?” Trường An đáp: “Mẹ em...” Thế Phương nói: “Mẹ em còn chưa từng gặp anh.” Trường An đáp: “Em đã nói với anh rồi, không phải vì anh. Hoàn toàn không liên quan gì đến anh. Mẹ em...” Thế Phương đứng hẳn lại. Đây là một lý do hết sức tròn trịa ở Trung Quốc? Anh chỉ hơi chần chừ như thế, cô đã đi xa rồi.
Khu vườn phơi trong những ngày cuối thu hết sáng lại chiều, giống như trái chín mõm mòm rơi xuống đất, rơi xuống, và tỏa ra hương thơm. Trường An mơ màng nghe thấy tiếng kèn harmonica, dìu dặt thổi bài Long Long Ago... “Người gợi cho em chuyện năm xưa rất ngọt ngào, đã xa xôi rồi, đã xa xôi rồi.” Đây là thực tại, chớp mắt cũng sẽ biến thành chuyện đã xa xôi rồi, mọi thứ đều đã hết. Trường An như bị ma nhập, cứ thế đi tìm người thổi harmonica... đi tìm bản thân mình. Đón ánh nắng bước đi, đi đến dưới gốc cây, một cậu bé mặc chiếc quần vàng ngắn ngồi đung đưa trên một chạc cây, thổi harmonica, nhưng khúc nhạc cậu bé thổi là một khúc nhạc khác, cô chưa bao giờ nghe thấy. Một thân cây không lớn, những chiếc lá ngô đồng thưa thớt rung rinh trong nắng như những chiếc chuông vàng. Trường An ngẩng mặt lên nhìn, trước mắt tối sầm lại, như có một cơn dông bão, những giọt nước mắt nối tiếp nhau tuôn đầy mặt. Thế Phương tìm được cô, lẳng lặng đứng cạnh cô một hồi lâu, rồi nói: “Anh tôn trọng ý kiến của em.” Trường An quơ túi da của mình lên che ánh nắng rọi trên mặt.
Họ tiếp tục qua lại một thời gian. Thế Phương muốn biểu thị rằng mục đích của việc kết thân với bạn gái của người thời nay không chỉ giới hạn trong việc chọn bạn đời, vậy nên tuy anh đã hủy bỏ hôn ước với Trường An, nhưng vẫn mời cô đi chơi như thường, về phía Trường An, khi đi chơi cùng Thế Phương, cô vẫn ấp ủ một hy vọng đầy mâu thuẫn nào đó mà chính bản thân cô cũng chẳng biết, có biết chắc cũng chẳng chịu thừa nhận. Lúc còn đính hôn, đường đường chính chính đi với nhau mà cả hai còn phải giấu giếm gia đình, nay lại càng thành ra chuyện hẹn hò lén lút. Thái độ của Thế Phương từ đầu chí cuối vẫn hết sức bình thản. Tuy rằng, cô có hơi làm tổn thương đến lòng tự trọng của anh, đồng thời anh cũng ít nhiều cảm thấy nuối tiếc cô, thế nhưng “đàn ông thì lo gì không có vợ?” Sự tán thưởng long trọng nhất của người đàn ông dành cho người đàn bà chính là sự cầu hôn. Anh chấp nhận vứt bỏ đi sự tự do của anh, và tặng cô món quà hậu hĩnh đó, dẫu rằng cô đã hoàn trả lại, nhưng anh cũng đã làm trọn với lòng mình. Việc đó là ban ơn mà đâu có mất gì.
Bất kể quan hệ giữa hai người có lấn bấn hay tế nhị thế nào đi chăng nữa, thì họ vẫn làm bạn với nhau một cách thành thật. Họ thậm chí bắt đầu nói chuyện. Những câu nói ngây ngô, chưa từng trải của Trường An luôn khiến Thế Phương bật cười, và nói: “Em thú vị thật!” Trường An dần dần cũng phát hiện ra bản thân mình hóa ra cũng là người rất “thú vị”. Cứ như vậy, sự tình sẽ còn đi đến đâu nữa, ngay cả bản thân Thế Phương cũng còn thấy kinh ngạc.
Thế rồi chuyện phong thanh vẫn truyền đến tai Thất Xảo. Thất Xảo giấu Trường An, dặn Trường Bạch gửi thiệp mời Đồng Thế Phương tới dùng bữa cơm nhạt. Thế Phương đoán nhà họ Khương định cảnh cáo anh một câu, không cho anh và tiểu thư nhà họ được phép “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”, song trong căn phòng ăn cao rộng âm u, anh và Trường Bạch ngồi uống hai vò rượu, nói chuyện một hồi, hết chuyện thời tiết, thế sự, lại bàn đến vùng đất con người, nhưng không có bất kỳ một từ nào dính dáng đến Trường An. Đồ nhắm được dọn đi, đột nhiên Trường Bạch chống tay lên bàn đứng dậy. Thế Phương quay đầu lại thì thấy ở phía cửa, một lão bà vóc người thấp nhỏ đang đứng ngược sáng, mặt nom không rõ, vận một chiếc xường xám lụa màu xanh ghi thêu hình rồng cuộn tròn, hai tay bưng chiếc túi nước nóng màu đỏ rực, dìu hai bên là hai cô người hầu cao lớn. Ngoài cửa ánh chiều đã vàng vọt, trên cầu thang trải một lớp thảm vải sơn ca rô màu lục, từng bậc từng bậc đi lên, dẫn vào nơi không còn ánh sáng. Thế Phương linh cảm theo trực giác đó là một người điên, chẳng hiểu vì sao, anh thấy sởn gai ốc, Trường Bạch giới thiệu: “Đây chính là mẹ tôi.”
Thế Phương đẩy ghế đứng dậy, khom lưng cúi chào. Thất Xảo đặt tay mình lên cánh tay của bà người ở, chậm rãi bước vào, sau khi khách sáo vài câu, liền ngồi xuống mời rượu tiếp cơm. Trường Bạch nói: “Trường An đâu hả mẹ? Khách đến mà cũng không ra giúp anh đón tiếp.” Thất Xảo nói: “Nó hút hai ống nữa rồi xuống thôi.” Thế Phương sững người, tròn mắt nhìn bà già. Thất Xảo vội giải thích nói: “Cái con bé này, khổ nỗi khi sinh ra đã mang bệnh, vừa mới chào đời đã phải xông mũi. Sau này cũng vì chữa bệnh nên phải hút cái thứ này. Tiểu thư đài các, thế có bất tiện không cơ chứ! Cũng không phải là chưa cai lần nào, nhưng cơ địa nó yếu, cũng lại do quen thói, bảo bỏ mà có bỏ được đâu! Cai rồi lại hút, hút rồi lại cai, cũng phải đến chục năm giời.” Mặt Thế Phương liền biến sắc, Thất Xảo có sự cẩn trọng, cơ trí của một kẻ điên. Bà ta biết, nếu không cẩn thận, người ta sẽ đem ánh mắt ngờ vực và chế giễu ra cắt đứt lời bà rồi, bà đã quen với nỗi đau khổ này rồi. Bà ta sợ nói nhiều, sẽ bị người ta phát hiện chân tướng. Bởi vậy vội kiềm chế bản thân mình, hối thúc thêm rượu, bày thức ăn. Một lát sau, khi nhắc đến Trường An, bà ra vẫn nói gần nói xa mấy câu đó thêm một lần nữa. Cái giọng bèn bẹt mà sắc lẹm của bà cứ thế cứa vào người ngồi chung quanh như một miếng dao lam.
Trường An lẳng lặng bước xuống lầu, đôi hài thêu hoa đen láy cùng đôi tất trắng dừng lại trên cầu thang vàng vọt ánh chiều. Dừng một lúc, rồi lại đi lên, từng bậc từng bậc, đi về nơi không còn ánh sáng.
Thất Xảo nói: “Trường Bạch, con uống thêm hai chén nữa với Đồng tiên sinh đây, mẹ lên nhà trước.” Đứa người ở bê lên một chiếc nồi cỡ lớn, đổi vò rượu Trúc diệp thanh mới hâm nóng vào đó. Một đứa a hoàn sốt sắng đứng trước cửa gọi thằng người ở đang hầu hạ cơm nước ra, thì thầm một hồi, thằng người ở kia lại chạy vào trong rỉ tai Trường Bạch mấy câu, Trường Bạch hốt hoảng đứng dậy, rối rít xin lỗi Thế Phương, nói: “Tiên sinh tạm ngồi một mình vậy, tôi đi một lát rồi quay lại ngay!” Nói đoạn, ba chân bốn cẳng chạy vọt lên trên lầu, chỉ còn lại mỗi mình Thế Phương ngồi độc ẩm. Tên người ở cũng cảm thấy áy náy, liền hạ giọng nói: “Cô Quyên nhà con sắp sinh rồi!” Thế Phương hỏi: “Cô Quyên là ai?” Tên người ở đáp: “Là vợ hai của thiếu gia.”
Thế Phương bưng cơm lên ăn chập chuội vài miếng, không tiện bỏ bát xuống về ngay, đành phải ngồi đợi trên chiếc giường sưởi hoa lê, rượu ngấm ngà ngà, bỗng cảm thấy uể oải lạ thường, liền ngả người nằm xuống. Chiếc giường sưởi hoa lê hình mây cuốn, mùi hương mát lạnh của hoa bưởi và ruột cây Hoàng Đằng phảng phất... cô vợ lẽ ấy đã sinh em bé rồi. Đây chính là Trung Hoa cổ xưa mà anh vẫn luôn hoài niệm... Cô khuê nữ Trung Quốc đài các, trong trắng lại hút thuốc phiện! Anh ngồi dậy, hai tay bưng đầu, cảm giác sự thê lương đến tột độ.
Anh lấy mũ bước ra khỏi cửa, nói với tên người ở: “Lát nữa phiền cậu nói với bề trên một câu, hôm khác tôi đến cảm ơn sau!” Anh đi xuyên qua giếng trời lợp bằng ngói, chính giữa sân trồng cây cối, một cành cây khô cao vút in lên nền trời xanh nhạt, giống như vết nứt trên đồ sứ. Trường An lẳng lặng theo sau tiễn anh, trên chiếc áo xường xám dài tay màu tím than có những bông cúc chi màu vàng nhạt. Hai tay cô đan lại, trên mặt hiện lên vẻ dịu dàng hiếm thấy. Thế Phương quay người lại nói: “Khương tiểu thư...” Cô dừng lại cách một quãng xa, chỉ cúi đầu. Thế Phương hơi khom lưng, rồi quay người đi. Trường An cảm thấy cô đang đứng ở một khoảng cách thích hợp nhìn sân nhà trong ánh nắng chiều, từ trên lầu cao nhìn xuống, rõ ràng, thân thiết, mà không thể nào chạm tới; giếng trời, cây cối, hai con người với cái bóng kéo dài héo hắt, không một lời nào... Chút ký ức không mấy nhiều nhặn ấy, sau này sẽ là thứ được cất giữ trong chiếc lọ thủy tinh để ngắm nâng niu, tình yêu đầu tiên và cũng là cuối cùng của cô.
Chi Thọ nằm chỏng chơ trên giường, hai cánh tay đặt trên sườn co quắp giống như đôi chân của một con gà chết. Bức màn móc lên một nửa. Bất kể đêm ngày, cô không cho bọn người ở tháo màn xuống cho mình, cô sợ.
Ngoài kia người ta đang loan tin cô Quyên đã sinh ra một cậu thiếu gia nhỏ. Con a hoàn cũng vứt luôn siêu thuốc đang sôi sùng sục xuống, chạy ra góp vui. Cửa phòng mở toang hoác, một luồng gió thổi lại, móc màn đập lanh canh, chiếc màn tự động buông xuống, nhưng Chi Thọ cũng không phản kháng được nữa. Đầu cô hơi ngoẹo về bên phải, trật ra khỏi gối. Nhưng cô chưa chết, phải nửa tháng sau mới chết.
Cô Quyên lên chức bà cả, trở thành vật thế thân cho Chi Thọ. Làm bà cả chưa tròn năm, cô đã nuốt thuốc phiện sống tự sát. Trường Bạch không dám tục huyền nữa, chỉ qua lại nhà thổ. Còn Trường An đã dứt bỏ ý định lấy chồng từ lâu.
Thất Xảo cứ nửa tỉnh nửa mê nằm trên sập hút. Ba mươi năm nay bà ta đeo cái gông tiền bạc. Bà ta đã dùng cái cạnh gông nặng nề ấy bổ chết mấy người, kẻ chưa chết thì cũng thoi thóp. Bà ta biết con cái căm hận bà, người nhà chồng căm hận bà, người nhà ngoại cũng căm hận bà. Bà ta rò rẫm chiếc vòng ngọc màu cánh trả trên cổ tay, từ từ đẩy chiếc vòng lên trên theo cẳng tay gầy nhẳng như que củi, đẩy mãi lên đến tận nách. Bản thân bà Thất Xảo cũng không tin hồi còn trẻ mình từng có một cánh tay đẫy đà. Ngay đến cả mấy năm sau khi lấy chồng, cũng chỉ có thể nhét được một chiếc khăn tay vải Tây vào vòng. Hồi còn là thiếu nữ mười tám, mười chín tuổi, vén cao cánh tay áo vải màu lam hạ lên, để lộ ra đôi cổ tay trắng nõn, ra chợ mua rau. Người mê cô Thất Xảo có cậu Triều Lục hàng thịt, có anh Đinh Ngọc Căn, Trương Thiếu Tuyền, những người anh em kết nghĩa với anh ruột cô, cũng lại có cả anh con trai của bác Thẩm thợ may. Mê cô, có lẽ chỉ là thích đùa cợt với cô mà thôi. Vậy mà nếu như cô chọn lấy một trong số họ, sau này ngày rộng tháng dài, sinh con đẻ cái rồi, người đàn ông ít nhiều cũng sẽ có phần nào đó thật lòng với cô. Thất Xảo dịch chiếc gối con viền lá sen dưới đầu ra, để lại gần mặt xoa nhẹ, còn một giọt nước mắt rớt xuống một bên, bà cũng ngại lau đi, cứ để mặc nó vương trên má, dần dần tự khô.
Sau khi Thất Xảo qua đời, Trường An và Trường Bạch chia nhà dọn ra ngoài ở. Con gái của Thất Xảo không khó giải quyết chuyện của mình, theo lời đồn đại thì cô cùng một người đàn ông đi trên phố, dừng lại trước một quầy hàng, anh ta đã mua cho cô một cặp dây móc bít tất. Có lẽ cô dùng tiền của cô, song bất luận thế nào cũng là tiền rút ra từ túi của người đàn ông kia... Đương nhiên đây cũng chỉ là lời đồn đại mà thôi.
Ánh trăng của ba mươi năm trước đã lặn xuống từ lâu, người của ba mươi năm trước cũng đã chết, vậy mà câu chuyên của ba mươi năm trước vẫn chưa đến hồi kết thúc, mà cũng chẳng thể nào kết thúc được.
(Nguyên đăng trên Tạp chí kỳ 2, 3 số 12, Thượng Hải tháng 11, 12 năm 1943)
Trần Quang Đức dịch
Chuyện Tình Giai Nhân Chuyện Tình Giai Nhân - Trương Ái Linh Chuyện Tình Giai Nhân