Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Chó Sói Cắn Chó Nhà
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 9
M
ột buổi sáng trời mưa tại Câu lạc bộ du thuyền Chernobyl, cầu tàu ghép bằng ván thưa trên sông Pripyat. Các tấm ván đều đã rơi rụng hết, để lại những lỗ thủng ngang dọc, Arkady cùng Vanko phải dùng xuồng nhôm có mái chèo mà Arkady thuê của Vanko để đi qua. Vanko đã đòi thêm một chai vodka cho công đi cùng và chỉ cho anh chỗ tốt để câu cá, nhưng Arkady không hề có ý định đi câu. Cần câu và ống cuộn chỉ để ngụy trang.
Vanko nói, “Anh chỉ mang những thứ đó thôi à? Không mồi câu?“.
“Không.”
“Mưa nhẹ thế này rất tuyệt để đi câu đấy.”
Arkady thay đổi chủ đề. “Thực sự đã từng có một câu lạc bộ du thuyền ở đây à?”
“Câu lạc bộ thuyền buồm. Họ bỏ đi sau thảm họa. Thuyền buồm được bán cho những người giàu ở biển Đen.” Ý tưởng này có vẻ khiến Vanko hài lòng.
Hơi nước lượn lờ quanh một đội thuyền tham quan và thương mại bị đắm hoặc mắc cạn, đang chuyển từ màu trắng sang màu đỏ rỉ sét. Dường như một vụ nổ lớn đã hất tung các con phà, tàu hút bùn, sà lan, tàu chở than cùng các phương tiện đường thủy lên khỏi mặt nước rồi ném bừa bãi dọc bờ sông. Điểm cuối cùng của bến tàu được chặn bởi một cổng khóa với biển cảnh báo ‘Mức phóng xạ cao!’ ‘Cấm bơi lội’ và ‘Cấm lặn’. Arkady cảm thấy đặt các biển cảnh báo cạnh nhau như vậy có vẻ thừa thãi.
“Eva sống ở đó trong một căn hộ nhỏ.” Anh ta chỉ ngang qua cầu về hướng một tòa chung cư bằng gạch. “Quay lại đi. Anh không bao giờ tìm thấy nó đâu.”
“Tôi cũng nghĩ thế.”
Vanko có chìa khóa mở cổng, giúp Arkady nhấc chiếc xuồng qua cửa xả và qua chiếc cầu bắc sang bờ phía bắc của dòng sông. Trước đó Arkady đã nhận thấy Vanko, với tính cách lãnh đạm và mái tóc cắt ngang như trẻ con, dường như có chìa khóa cho tất cả mọi thứ, như thể anh ta chính là người canh giữ thị trấn. “Chernobyl đã từng là một bến cảng sầm uất. Tất bật buôn bán ngược xuôi khi người Do Thái đến.”
Arkady thầm nghĩ nói chuyện với Vanko đôi khi không theo một chủ đề nhất định. “Vậy là, người Do Thái không còn ở đây kể từ khi chiến tranh xảy ra? Từ khi người Đức thảm sát họ hả?”
Họ trườn xuống nước. Vanko đẩy nhẹ chiếc xuồng, giữ chặt đuôi nó. “Đại loại như thế.”
Lúc Arkady leo lên xuồng với mái chèo, anh liếc mắt lần cuối vào các tấm biển cảnh báo. “Tình trạng nhiễm xạ của con sông này thế nào?”
Vanko nhún vai. “Nước tích tụ phóng xạ gấp một ngàn lần so với đất.”
“Ồ.”
“Nhưng nó lắng xuống đáy.”
“A.”
“Vì thế chỉ cần tránh ăn các loại tôm, cua, trai, sò, ốc thôi.” Vanko vẫn nắm chặt chiếc thuyền. “Nó khiến tôi nhớ ra. Anh được mấy người già mời tới ăn tối hả. Còn nhớ Roman và Maria sống ở ngôi làng đó không?”
“Còn.” Một bà già với đôi mắt xanh sáng rực và ông già cùng con bò.
“Anh có đến không?”
“Tất nhiên.” Ăn tối ở một ngôi làng cấm. Ai có thể bỏ qua chứ?
Vanko rất hài lòng. Anh ta đẩy mạnh. Arkady trượt mái chèo vào cọc và chèo mạnh nhát đầu tiên, rồi một nhát nữa và chiếc xuồng nhẹ nhàng trôi theo dòng chảy lờ đờ của sông Pripyat.
Anh không định câu cá, cũng chẳng có mồi câu. Anh ở đây bởi vì gã Thợ sửa ống nước đã giữ lời hứa, gọi lại vào buổi sáng với chỉ dẫn: Arkady phải đi một mình trên chiếc xuồng chèo tay đến giữa hồ làm mát phía sau nhà máy hạt nhân Chernobyl và mang theo một ngàn đô la Mỹ.
Quân phục và mũ của Arkady có khả năng chịu nước kha khá, khi đã ổn định được nhịp chèo, anh nhanh chóng hiểu rõ nguyên nhân của các vụ đắm tàu và tại sao cầu tàu lại mục nát. Anh nhúng tay vào nước. Nước trong vắt có pha lẫn ánh nâu do các lớp than bùn từ thượng lưu chảy xuống, gợn sóng lăn tăn hòa cùng làn mưa bụi. Vùng đất phía trước là vùng trũng, mấp mô bởi vô số mạch nước của một con sông cổ, trở nên mềm mại nhờ rừng thông và liễu. Từ cầu tàu của câu lạc bộ du thuyền, thêm bốn cây số nữa mới tới hồ làm mát. Arkady nhìn đồng hồ đeo tay. Anh có hai tiếng để đi tới chỗ hẹn và nếu có muộn chút xíu thì anh cho rằng gã Thợ sửa ống nước sẽ vẫn đợi vì một ngàn đô la Mỹ.
Arkady không có đủ số tiền đó, nhưng anh không thể bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ. Thực tế, số tiền thiếu có lẽ chính là vật đảm bảo an toàn cho anh nếu ý định duy nhất của gã ta là cướp của.
Sương mù bốc lên từ hai bờ sông, vương vào các cành cây rồi trôi nổi tự do. Ếch nhái từ các bụi rậm nhảy tõm xuống sông. Arkady nhận thấy động tác chèo thuyền như dẫn tới trạng thái bị thôi miên từ các vòng xoáy nước phía sau tạo ra bởi mái chèo. Một con thiên nga lướt qua, sắc trắng thình lình xuất hiện, hạ cố ngoái đầu về hướng Arkady. Có những cách tồi tệ để sống qua một ngày như Vanko từng nói.
Có đoạn con sông bồi đắp và mở rộng, có chỗ lại thu hẹp như một đường hầm tạo thành bởi cây cối và phần lớn thời gian anh tự hỏi mình đang làm gì. Anh không ở Matxcova, thậm chí không ở Nga. Anh đang ở một vùng đất mà nước Nga còn không nhớ tới. Nơi cái xác của một người Nga được lưu giữ nhiều tuần trong phòng lạnh. Nơi một ngôi làng u ám trở thành chỗ lý tưởng để ăn tối.
Một tiếng sau, Arkady đã rơi vào trạng thái khiến anh phải mất một lúc mới phản ứng được với một loạt biển cảnh báo phóng xạ cắm trên một bãi cát. Mục tiêu của anh. Anh dừng chèo, hướng xuồng vào bãi và nhảy xuống, kéo nó lên cát, đến đỉnh của đường đê đắp cao ngăn cách con sông với hồ làm mát nhân tạo. Hồ dài mười hai và rộng ba kilomet; nó cần rất nhiều nước để làm mát bốn lò phản ứng hạt nhân. Thời nhà máy vẫn còn hoạt động, Chernobyl có bốn lò phản ứng đi vào sản xuất và hai lò đang xây dựng, nước liên tục tuần hoàn từ hồ, chảy qua nhà máy hạt nhân theo mạng lưới kênh đào và trở lại hồ qua một cửa xả chính. Lúc này, nó là một khối nước đen như đá granite ẩn hiện trong sương mù.
Con đê đắp cao bị chắn bởi một chuỗi hàng rào cong về một phía như muốn nói, ‘Đi theo lối này’. Cây non bị bật rễ khỏi các phiến xi măng đã từng là thành hồ; ở một chỗ có chiếc áo sơ mi màu đỏ buộc vào thân cây để đánh dấu phiến xi măng bị trượt nghiêng, và do không được sửa chữa, chúng trở thành các bậc thang xuống mặt nước. Anh kiểm tra máy đo, nó đang tích tắc kêu như biểu hiện niềm thích thú tăng dần, rồi anh hạ xuồng xuống nước và đạp mạnh lúc bước lên đó.
Trong điều kiện thời tiết tốt, hồ làm mát có lẽ là một nơi hẹn hò thú vị. Bằng ống nhòm, gã Thợ sửa ống nước có thể chắc chắn rằng Arkady đi một mình, trong một chiếc xuồng chèo và không thể trông cậy ai giúp đỡ. Không nghi ngờ hẳn gã ta sẽ đi ra đó bằng xuồng gắn máy. Cho dù kế hoạch là gì, Arkady cũng không thích đến gần gã khi mình vẫn đang quay lưng về phía đó và cúi rạp trên mái chèo. Lúc này, mưa bắt đầu nặng hạt hơn; tầm nhìn giảm xuống còn một trăm mét và đang thu hẹp dần. Con người thường mắc sai lầm mỗi khi họ không thể nhìn rõ. Họ hiểu sai những gì mình nhìn thấy hoặc nhìn thấy những thứ không có ở đó. Anh biết gì về Thợ sửa ống nước? Từ cuộc trò chuyện ngắn ngủi qua điện thoại, gã không thể là một chuyên gia giàu kinh nghiệm được, mà giống một gã trung niên Ukraine nhếch nhác với hàm răng ố vàng. Có lẽ gã đã từng sống ở Pripyat và cách gã lựa chọn địa điểm hẹn gặp cho thấy rằng có thể gã đã làm việc ở nhà máy hạt nhân. Một người nhặt rác hơn là một tay săn trộm, một gã mang theo chiếc búa hơn là khẩu súng, nếu đó là điều an ủi.
Arkady lấy con đê làm mốc xác định phương hướng và kiểm tra đồng hồ để biết anh đã chèo được bao xa. Trong một thoáng anh nghĩ mình đã bắt được tiếng rung của động cơ xuồng máy trong màn mưa phía trước, nhưng anh không thể chắc chắn liệu mình nghe thấy nó từ hướng nào hoặc có thực sự nghe thấy không. Tiếng động mà Arkady chắc chắn nhất chính là tiếng mái chèo quạt nước của anh.
Anh đã chèo được nửa tiếng đồng hồ dọc theo con đê khi ngoái lại nhìn hai ống khói đỏ trắng ẩn hiện trong màn sương. Arkady đã kịp lấy các lò phản ứng làm mốc phương hướng mới dù sương mù đã che khuất con đê; chèo và xoay cho đến khi có được tầm nhìn; có lẽ nó sẽ hiệu quả. Gã Thợ sửa ống nước sẽ chầm chậm hiện ra và họ sẽ nói chuyện.
Arkady chèo đến điểm mà anh nghĩ là giữa hồ, dừng lại chờ đợi, quay chiếc xuồng mỗi một hoặc hai phút để có thể nhìn bao quát mọi hướng. Anh nhìn thấy nhiều thuyền bè ở phía xa xa nhưng chẳng chiếc nào tiến lại gần. Mười phút. Mười hai. Mười ba. Rồi đột nhiên anh thèm một điếu thuốc, rượu hoặc thứ gì đó.
Anh gần như sắp bỏ cuộc thì nghe thấy tiếng lách cách của kim loại và một con xuồng rẽ làn mưa hiện ra. Đó là một chiếc xuồng chèo bằng nhôm giống của anh với một động cơ nhỏ kẹp bên ngoài đuôi xuồng cùng một chuỗi quả lắc ở mui. Động cơ đã tắt máy. Một vỏ chai vodka rỗng lăn về phía trước lúc xuồng dừng lại. Không còn thứ gì khác, không đầu lọc thuốc lá, không cần câu, không mái chèo.
Arkady buộc chiếc xuồng trống vào đuôi xuồng của mình và tiếp tục chèo tới chiếc thuyền anh nhìn thấy bên rìa lò phản ứng cạnh hồ. Anh không thể tưởng tượng ngoài gã Thợ sửa ống nước hay Vanko lại có người ra ngoài trong thời tiết thế này, nhưng có lẽ họ đã gặp ai đó hoặc biết người chủ của chiếc xuồng trống. Anh vụng về kéo theo chiếc xuồng; mỗi nhịp chèo nó lại đâm vào xuồng của Arkady, tạo ra âm thanh như tiếng trống cái, cách than thở tuyệt vời cho một ngày bị lãng phí.
Có hai người đàn ông trên chiếc xuồng gần nhất, cách khoảng năm mươi mét, và cứ mỗi mười mét, mưa lại trở nên tầm tã hơn, che khuất chiếc xuồng ngay cả khi Arkady đang tiến đến gần. Anh em nhà Woropay. Dymtrus đứng, còn Taras thì ngồi, cả hai đều đang tập trung chú ý vào mặt hồ bên dưới xuồng của chúng cho đến khi Dymtrus quỳ xuống, kéo mạnh một người lên khỏi mặt nước. Đó là một phụ nữ có mái tóc dài màu đen. Làn da tím tái cho thấy cô ta đã bị ngâm lâu dưới nước, nhưng lại là một phụ nữ mảnh mai và có vóc dáng đẹp, khuôn mặt ngoảnh đi hướng khác, chiếc váy dính chặt vào tay cùng đường nét mềm mại trên lưng. Cô ta bất động một lát rồi giãy giụa đến nỗi gần như làm lật úp chiếc xuồng.
Taras tựa vào mép thuyền để giữ nó cân bằng. Cậu ta nhận ra Arkady qua màn mưa và hô to, “Cô ta thích đánh nhau.”
Arkady dừng chèo xuồng. Người phụ nữ đã biến mất, thay vào đó là con cá da trơn dài hai mét, nặng cỡ sáu cân, một con quái vật không vảy, trơn nhẵn đang giãy giụa kịch liệt rồi quay đầu cùng cặp mắt đông cứng như thạch sang phía Arkady. Chòm râu mọc từ mép và thứ gì đó trông như chỉ thêu ướt sũng rủ xuống nước.
“Các cậu quăng lưới được nó à?” Arkady hỏi.
“Nếu chúng không quá nặng để kéo lên bằng dây câu,” Dymtrus đáp.
“Loài vật khổng lồ của Chornobyl,” Taras lên tiếng. “Đột biến. Phát sáng trong bóng tối.”
“Vậy thì đừng bắt nó,” Arkady nhận thấy anh em Woropay có cánh tay lực lưỡng. Anh thấy mình thật may mắn vì chúng không bắt cá bằng lựu đạn. “Thả nó đi.”
Dymtrus thả tay ra. Con cá đập mạnh vào nước, cuộn mình trên bề mặt rồi chậm chạp chìm xuống, biến mất khỏi tầm mắt. “Thư giãn đi, chỉ để vui thôi mà. Xuôi xuống dưới còn nhiều con to hơn.”
Tara nói, “To gấp đôi.”
Hai anh em nở nụ cười chểnh mảng, đầy tính toán. “Chúng tôi không ăn,” Dymtrus nói. “Chúng nhiễm đủ loại phóng xạ.”
“Chúng tôi không điên.”
Arkady cảm nhận nhịp tim của anh bắt đầu chậm lại. Anh chỉ vào chiếc xuồng trống. “Tôi đang tìm kiếm người đi chiếc xuồng này.”
Anh em Woropay nhún vai và hỏi làm sao anh biết có người đã đi nó? Mọi người thường giấu xuồng quanh hồ làm mát. Có thể gió đã đẩy chiếc xuồng ra. Và từ khi nào thì chúng phải nghe lệnh của lũ người Nga chết tiệt? Và có lẽ chúng nên sử dụng một động cơ bên ngoài chết tiệt cho riêng mình? Chúng hỏi câu cuối cùng quá muộn, sau khi Arkady đã đổi xuồng, buộc lại dây và đẩy xuồng của Vanko ra xa theo hướng ngược chiều, một cơn gió đột ngột táp vào mặt, làm nguội mọi ý tưởng đuổi theo.
Tại chỗ con đê, Arkady lại đổi xuồng lần nữa để đưa xuồng của Vanko xuôi dòng về hạ lưu. Ít nhất lần này, anh còn được dòng nước hỗ trợ. Một con cò, với cái mỏ đỏ sắc lẻm như lưỡi lê cùng đôi cánh trắng viền đen, lao vút qua và một con khác đang chậm rãi lội dọc bờ sông, cẩn thận rình bắt con mồi. Đường phố Chernobyl trống rỗng nhưng dòng sông thì tràn đầy hơi thở của cuộc sống, hoặc giết chóc, mà đôi khi lại chính là một.
Tuy nhiên, đúng lúc anh bắt đầu chèo thì sương mù tan dần đủ để thấy các tòa nhà chung cư của Pripyat lờ mờ hiện ra như những tấm bia mộ khổng lồ. Chẳng phải Oksana Katanay đã mô tả căn hộ của gia đình cô ta ở Pripyat chính là tòa chung cư gần nhà ga và dòng sông nhất sao? Anh đột ngột quay ngược con xuồng.
Căn hộ nhà Katanay không khó tìm. Oksana đã nói cho anh địa chỉ và mặc dù căn hộ ở tầng tám nhưng cầu thang rõ ràng không có mảnh gạch vôi vỡ nát thông thường. Cửa đang mở, từ phòng khách nhìn thẳng ra nhà máy điện, dòng sông, các hố lỗ chỗ đen kịt, dấu hiệu của dòng sông cũ và bờ sông ướt đẫm sương mù. Arkady có thể hình dung ra hình ảnh Oleksander Katanay, trưởng phòng xây dựng, đứng sừng sững như người khổng lồ trước một bức tranh toàn cảnh như thế này.
Hẳn gia đình họ đã bí mật trở lại để lấy những đồ đạc họ không thể mang theo lúc di tản. Bức tường trống trơn đã từng được trang trí bằng một tấm thảm. Các kệ trống từng đựng sách hoặc bầy thú nhồi bông. Tuy nhiên, nhìn chung gia đình họ chỉ chọn lấy vài thứ và Arkady có cảm giác đám người cư trú bất hợp pháp và nhặt rác đã bỏ qua căn hộ của nhà Katanay. Sô pha và ghế vẫn nằm ngay ngắn ở phòng khách, hệ thống dây điện, đường ống nước vẫn nguyên vẹn. Ai đó đã dọn sạch tủ lạnh, dán lại cửa sổ bị vỡ, dọn giường, cọ sạch bồn tắm. Thực tế căn hộ như đang trong tình trạng sẵn sàng để ở, nếu bỏ qua sự nhiễm xạ.
Một phòng ngủ mà Arkady đoán là của người ông; dù đã bị dọn sạch nhưng vẫn còn vài thùng đựng chất tẩy da thú và keo dính cứng queo. Phòng ngủ thứ hai dán đầy các khuôn mặt tươi cười, ảnh ngôi sao điện ảnh và áp phích của nữ vận động viên thể dục dụng cụ đang hăng hái nhào lộn trên tấm thảm. Vài cái tên bơi ngược từ quá khứ: Abba, Korbut, Comaneci. Mấy con thú bông nằm trên giường. Arkady quét máy đo qua một con sư tử và gầm nhẹ một tiếng.
Phòng của Karel nằm ở cuối hành lang. Khi thảm họa xảy ra, chắc cậu ta khoảng tám tuổi nhưng đã là một tay thiện xạ. Mục tiêu bằng giấy đục lỗ ở giữa được dán vào tường, cùng một bộ sưu tập áp phích các nhạc cụ bằng kim loại và khuôn mặt được sơn vẽ. Trên kệ là một loạt xe tăng của Hồng quân, máy bay chiến đấu, răng cá mập và khủng long. Một chiếc gậy trượt tuyết gãy dựng trong góc. Một cọc giường treo đầy huy chương của nhiều môn thể thao như: khúc côn cầu, bóng đá và bơi lội. Phía trên giường dán bức ảnh chụp Karel cùng chị gái lớn nhất của cậu ta là Oksana ở một hội chợ; cô ta chưa quá mười ba tuổi với mái tóc thẳng sẫm màu buông dài tới eo. Ngoài ra còn một loạt ảnh Karel chụp lúc đi câu cá cùng ông nội, với một quả bóng và hai đồng đội cáu kỉnh: anh em nhà Woropay. Còn có những mảng sơn hình vuông bị bong ra do các bức ảnh bị bóc đi. Ở dưới gầm giường, Arkady tìm thấy vài tấm hình bị rơi: đội bóng đá của Kiev Dynamo, đội khúc côn cầu trên băng vĩ đại Fedorov, Mohamed Ali và cuối cùng là bức ảnh chụp vội cảnh Karel đang giơ nắm đấm tạo dáng với một võ sĩ quyền anh. Anh chàng võ sĩ đó mặc quần soóc, đeo găng tay, có lẽ khoảng mười tám tuổi - một cậu bé gầy gò với bờ vai xuôi, trắng như xà bông cùng dòng chữ ký nguệch ngoạc trên bức ảnh, “Tặng Karel, người bạn tốt của tôi, Anton Obodovsky. Có lẽ chúng ta sẽ luôn là bạn tốt.”
Roman giới thiệu với Arkady con lợn đang cọ xát vào thành chuồng với niềm sung sướng vô tận lúc ông ta đổ cám cho nó.
“Ỉn ỉn,” Roman gọi, “ỉn ỉn,” hai má ông ta đỏ rực như hai quả táo do ánh hoàng hôn và niềm tự hào về quyền sở hữu. Cũng có thể Roman đã uống một cốc rượu nhỏ trước khi khách mời của ông ta tới nhà. Alex cùng Vanko bám gót Arkady, trời đã tạnh mưa nhưng sân trại vẫn lầy lội, bùn ngập tới mắt cá chân. Cảnh tượng này nhắc Arkady nhớ đến một cuộc thanh tra chính thức từng diễn ra trong thời Xô Viết: ‘Bí thư Đảng thăm nông trường và cầu nguyện có thêm nhiều phân bón’. “Ỉn ỉn,” Roman gọi với giọng dí dỏm. Ông ta tỏ ra sung sướng khi được dẫn mọi người đi tham quan mà không cần sự giúp đỡ của vợ. “Người Nga nuôi lợn để lấy thịt, còn chúng tôi nuôi lấy mỡ. Nhưng chúng tôi đang cứu sống Sumo? Phải không Sumo?”
“Khỏi cái gì?” Arkady hỏi.
Roman đặt tay lên môi và nháy mắt. Bí mật. Bất chợt Arkady thấy hành động đó rất phù hợp với một người cư trú bất hợp pháp của Khu vực cấm. Roman dẫn đường tới chuồng gà. Trong cái lạnh lẽo sau cơn mưa, Arkady cảm nhận hơi ấm của đám gà mái đang ấp. Roman chỉ cho anh thấy ông ta buộc cửa chuồng kỹ như thế nào với vài vòng dây xoắn. “Lũ cáo rất thông minh.”
“Có lẽ ông nên nuôi một con chó,” anh gợi ý.
“Lũ sói ăn thịt chó.” Dường như cả làng đều đồng tình với quan điểm này, Arkady thầm nghĩ. Roman lắc đầu như thể ông ta đã xem xét vấn đề này rất nhiều lần. “Chó sói ghét chó. Sói săn lùng bọn chó vì cho rằng chúng là những kẻ phản bội. Nếu cậu đã từng nghĩ về điều này, chó chỉ là chó khi ở cùng con người, còn không thì tất cả chúng đều là sói, đúng không? Và chúng ta sẽ ở đâu khi lũ chó bỏ đi sạch? Đó chính là thời điểm kết thúc nền văn minh.” Ông ta mở cửa nhà kho với một dãy cuốc, xẻng, cào, hái, một cục đá mài, một cái ròng rọc treo trên thanh ngang, vài thùng khoai tây và củ cải. “Cậu đã gặp Lydia chưa?”
“Con bò hả? Rồi, cảm ơn ông.”
Một cặp mắt to ẩn sâu trong ngăn chuồng, cầu khẩn đoàn khách tham quan để nó được yên tĩnh một mình nhai cỏ. Ánh mắt đó khiến Arkady liên tưởng tới đại úy Marchenko lúc anh cảnh báo anh ta về khả năng có một cái xác đang trôi nổi trong hồ làm mát. Viên đại úy cho rằng một chiếc thuyền không người trôi dạt là chưa đủ thuyết phục để rời khỏi văn phòng khô ráo, còn chiếc hồ thì quá rộng để cho người tìm kiếm trong mưa gió hay đêm tối. Ngoài vỏ chai vodka rỗng, trên thuyền có vết máu không? Có dấu hiệu vật lộn không? Chuyên gia vẫn cứ là chuyên gia, chuyện này chẳng phải rất lãng phí thời gian sao?
Roman dẫn các vị khách ra ngoài ngang qua nửa căn nhà kho chứa củi chật đến nỗi không thể chèn thêm bất cứ thanh củi nào khác; Arkady nghi ngờ khi nghĩ đến việc dù Roman uống say đến nỗi không thể đứng vững thì ông ta vẫn có thể xếp củi một cách tỉ mỉ như vậy. Roman vẫy tay về phía vườn cây ăn quả gồm anh đào, lê, mận và táo.
Arkady hỏi Alex, “Anh có định cầm máy đo đi quanh sân không?”
“Để làm gì? Đây là cặp vợ chồng đã ở tuổi tám mươi và họ thà tự trồng thức ăn ở đây, còn hơn là chết đói trong thành phố. Đây là thiên đường. Một thiên đường độc hại nhưng dù sao vẫn cứ là thiên đường.”
Có lẽ, Arkady ngầm đồng ý. Ngôi nhà của Roman và Maria được sơn màu xanh nhạt, viền cửa sổ được chạm khắc, một góc tựa trên thân cây cụt theo kiểu truyền thống của nông thôn. Nó tỏa sáng giữa những ngôi nhà bị bỏ hoang đã trở nên đen thui như bị đốt cháy, với chuồng trại xiêu vẹo và vườn cây ăn quả um tùm cỏ gai. Một lối đi bằng đất từ căn nhà chạy thẳng đến trung tâm của ngôi làng, một lối khác dẫn tới hàng rào làm bằng sắt rèn cùng hàng Thánh giá trong nghĩa trang, chỉ vài bước ngăn cách giữa cuộc sống nghèo khổ và cái chết.
Trong nhà chỉ có một phòng duy nhất vừa làm bếp, lại vừa là phòng ngủ và phòng khách tập trung quanh một bếp lò xây bằng gạch, quét vôi trắng dùng để sưởi ấm ngôi nhà, nấu ăn, nướng bánh mì và - người nông dân thật tài giỏi! - vào những đêm lạnh giá, có thể đặt trực tiếp hai chiếc ghế ngủ lên bệ lò. Đèn và nến chiếu sáng bốn bức tường bao phủ bởi tranh thêu, thảm trang trí thêu cảnh rừng rậm, ảnh gia đình và lịch tường từ rất nhiều năm. Một khung ảnh chụp Roman và Maria thời trẻ hơn bây giờ, ông ta đeo tạp dề bằng cao su, còn bà vợ đang cầm một chùm tỏi lớn, cùng với một nhóm người đã bị đô thị hóa, hẳn là con trai họ cùng gia đình anh ta: Cô vợ nhút nhát và một bé gái gầy gò khoảng bốn tuổi. Một bức ảnh khác chụp mỗi mình cô bé, có lẽ là một năm sau đó, đội mũ chống nắng với hàng chữ ‘Câu lạc bộ Havana’ đã rỉ sét.
Maria đỏ mặt cho thấy có lẽ bà đã rất chải chuốt cho dịp này. Bà mặc áo sơ mi thêu, đeo tạp dề, quàng khăn có tua rua, và tất nhiên, cặp mắt xanh rực rỡ cùng nụ cười với hàm răng bằng thép. Bất chấp căn nhà đầy người, bà vẫn thoắt ẩn thoắt hiện khắp mọi nơi, đặt bát dưa chuột, nấm muối, dưa dầm mật ong, xúc xích mỏng và ngấy mỡ, salad táo, bắp cải dầm kem chua, bánh mì đen với bơ tự làm, ở giữa bàn đặt đĩa mỡ muối trắng như thạch cao.
“Đừng nghĩ về cái máy đo của anh nữa,” Alex thì thầm với Arkady.
“Anh có thường xuyên ăn ở đây không?”
“Khi nào tôi cảm thấy may mắn.”
Tiếng lạch cạch của bộ giảm thanh ô tô vang lên bên ngoài và một lát sau, Eva Kazka bước vào với một bó hoa. Cô quàng khăn. Nhưng cũng chẳng khiến cô trông mềm mại hơn.
“Renko, tôi không biết anh cũng tới đây,” Eva nói. “Có phải đây cũng là một phần trong cuộc điều tra của anh không?”
“Không. Hoàn toàn mang tính xã hội thôi.”
“Xã hội là xã hội.” Roman xếp một hàng cốc thấp dùng để uống nước quanh một chai vodka. Bữa tiệc mà không có vodka đã biến mất từ lâu, Arkady thầm nghĩ; Vanko trông như thể anh ta đã lê gối đến một vũng nước. Chủ nhà rót từng cốc đầy, sóng sánh đến miệng, và Maria quan sát với vẻ tự hào vì ông không làm rơi rớt giọt nào. “Chờ đã!” Roman nghiêm túc quẹt diêm, châm cốc rượu đầy của mình cháy như một ngọn nến, ngọn lửa màu vàng nhảy múa trên bề mặt chất lỏng. “Tốt. Được rồi.” Ông ta thổi tắt ngọn lửa và nâng cốc. “Vì Nga và Ukraine. Có lẽ chúng ta đang trên cùng một chiến tuyến.”
Arkady uống cạn cả cốc đầy và thở hổn hển, “Không phải vodka.”
“Samogon*.” Alex lau nước mắt. “Tự nấu từ đường lên men, nấm men và có lẽ là một củ khoai tây. Nó không thể nguyên chất hơn thế này.”
“Bao nhiêu độ?”
“Có lẽ là tám mươi.”
Samogon đã có tác dụng rõ rệt: Eva trông nguy hiểm hơn, Vanko có phẩm cách hơn, tai Roman đỏ rực, còn Maria thì trở nên lấp lánh. Một cảm giác ấn tượng ngấm sâu vào thức ăn trong lúc Roman rót đầy các cốc một lần nữa. Arkady thấy dưa muối giòn và chua, có lẽ do có chút Stronti. Roman hỏi anh, “Cậu đi câu cá bằng xuồng của Vanko à? Có bắt được gì không?”
“Không, tuy nhiên tôi đã trông thấy một con cá rất to. Quái vật khổng lồ của Chernobyl, mọi người bảo thế.” Anh để ý thấy Vanko cười tự mãn với Alex. “Anh biết loài cá này hả?”
Eva lên tiếng, “Cá da trơn à? Trò đùa của Alex.”
“Một con cá da trơn vẫn là cá da trơn,” Vanko đáp.
“Không hẳn,” Alex phản đối. “Người dân ở đây thường nuôi loài cá dài khoảng một hoặc hai mét. Ai đó, tôi không thể nhớ là ai, hình như đã nhập khẩu loài cá da trơn có thể dài tới năm mét hoặc hơn và nặng khoảng bốn trăm kilogram từ Danube. Đó là một con cá đáng nể.”
“Một câu chuyện đùa phát ốm,” Eva nói. “Alex muốn bệnh dịch lan tràn khắp châu Âu và giết hết mọi người để lấy chỗ cho những con vật ngu ngốc của anh ta.”
“Ngăn cản sự hiện diện của khách khứa, tất nhiên,” Alex đáp lại.
Maria bật cười. Bữa tiệc dường như có một khởi đầu tốt. “Chúng ta nên uống vì cái gì nhỉ?” Roman hỏi.
“Sự quên lãng,” Alex gợi ý.
Arkady đã có sự chuẩn bị tốt hơn cho cốc rượu thứ hai, nhưng anh vẫn phải lùi một bước trước tác động của nó. Eva than thở là cô cảm thấy nóng. Cô nới lỏng chiếc khăn nhưng không bỏ ra.
Maria mời Arkady ăn một lát mỡ muối. “Nó sẽ bôi trơn dạ dày cậu.”
“Thực ra tôi cảm thấy khá là trơn. Tấm ảnh cô bé đội mũ Câu lạc bộ Havana được chụp ở Cuba à?”
“Cháu gái của họ đấy,” Vanko nói.
“Maria, đời sau của tôi,” Maria đáp.
Alex xen vào, “Hàng năm, Cuba đều đưa bọn trẻ Chernobyl sang nước họ để chữa trị. Đó là một chốn tuyệt đẹp, nơi nơi đều là cọ và bãi biển, ngoại trừ thứ cuối cùng bọn trẻ cần là bức xạ mặt trời.”
Arkady nhận thấy một sự không thoải mái. Roman hắng giọng, “Chúng ta đang đứng. Thật không bình thường. Chúng ta nên ngồi xuống.”
Trong căn nhà nhỏ xíu này chỉ có hai chiếc ghế, đồng thời đủ chỗ cho hai chiếc giường hẹp và cứng. Alex kéo Eva ngồi vào lòng mình, còn Arkady thì đứng.
“Thật ra, việc điều tra đến đâu rồi?” Alex hỏi.
Arkady đáp, “Chẳng đi đến đâu cả. Tôi chẳng tiến thêm được bước nào.”
“Anh đã từng nói mình không phải là điều tra viên giỏi,” Eva lên tiếng.
“Vì thế, khi tôi nói rằng chẳng tiến thêm được bước nào, nó đồng thời cũng nói lên điều đó.”
“Và chúng tôi mong anh sẽ chẳng bao giờ tiến thêm được,” Alex nói. “Như thế anh sẽ ở lại với chúng tôi mãi mãi.”
“Tôi sẽ uống mừng vì chuyện đó,” Vanko nói đầy hy vọng.
Eva lại nói, “Chẳng ai trong chúng ta tiến thêm được, đó là đặc điểm của vùng đất này. Tôi sẽ không bao giờ chữa khỏi cho những người sống trong các căn nhà bị nhiễm xạ. Tôi cũng chẳng bao giờ chữa khỏi cho những đứa trẻ mà khối u của chúng chỉ xuất hiện sau mười năm tiếp xúc. Đây không phải một chương trình y tế, mà chỉ là một thử nghiệm. Nó chỉ là một thử nghiệm.”
“Chà, đó là một điều đáng tiếc,” Alex xen vào. “Chúng ta hãy quay lại với cái xác người Nga.”
“Tất nhiên,” Eva đáp và uống cạn cốc của cô.
Alex nói, “Tôi có thể hiểu tại sao một tài phiệt Nga lại bị cắt cổ, tôi chỉ không hiểu vì sao ông ta phải tìm mọi cách đến ngôi làng nhỏ bé này để chuyện đó xảy ra.”
“Tôi cũng đang tự hỏi như thế,” Arkady đáp.
“Chắc phải có rất nhiều người ở Matxcova sốt sắng giúp đỡ ông ta.”
“Tôi tin chắc là có.”
“Ông ta có cả đội vệ sĩ riêng, vậy là ông ta đã trốn khỏi đám vệ sĩ để rồi bị giết chết. Ông ta đến được đây thì hẳn là phải có người bảo vệ. Thế thì từ ai? Nhưng cái chết là không thể tránh khỏi. Giống như cuộc hẹn ở Samara. Cho dù đi đến đâu thì cái chết vẫn đợi ông ta.”
“Alex, đáng lẽ anh nên trở thành diễn viên mới phải,” Vanko lên tiếng.
Eva nói, “Anh ta là diễn viên mà.”
“Anh là nhà vật lý học trước khi trở thành nhà sinh thái học,” Arkady hỏi Alex. “Sao anh lại đổi nghề?”
“Câu hỏi ngu ngốc làm sao. Vanko là một ca sĩ.” Alex rót rượu cho mọi người. “Bây giờ tới phần giải trí cho buổi tối. Chúng ta đang ở trên một chuyến tàu đêm, samogon là nhiên liệu và Vanko là kỹ sư. Vanko, sàn diễn là của anh đấy.”
Vanko hát một bài hát dài, kể về một anh chàng Cozak* tham gia chiến tranh và người vợ vẫn còn trinh bạch của mình cùng con chim ưng luôn bay đi bay về đưa thư cho họ đến khi con chim bị một nhà quý tộc bắn chết do đố kỵ. Khi Vanko hát xong, mọi người liền vỗ tay nhiệt liệt đến nỗi toát cả mồ hôi.
“Tôi nghĩ câu chuyện hoàn toàn có thật,” Alex nói. “Nhất là đoạn từ tình yêu chuyển sang nghi ngờ, từ nghi ngờ sang ghen tuông và từ ghen tuông sang căm hận.”
“Đôi khi từ tình yêu có thể chuyển thẳng sang căm hận đấy,” Eva xen vào. “Điều tra viên Renko, anh đã kết hôn chưa?”
“Đã từng.”
“Ly hôn rồi à?”
“Vâng.”
“Chắc sẽ không lấy vợ nữa hả. Chúng tôi thường xuyên nghe nói các điều tra viên và thám tử khó khăn đến thế nào để duy trì một cuộc hôn nhân thành công. Bởi vì họ thường trở nên ít nói và trơ lỳ về mặt cảm xúc. Đó có phải là rắc rối của anh không, lạnh lùng và ít nói ấy?”
“Không, vợ tôi bị dị ứng kháng sinh. Một y tá đã tiêm nhầm và cô ấy mất vì sốc phản vệ.”
“Eva,” Alex lầm bầm. “Eva, sai lầm tồi tệ đấy.”
“Tôi xin lỗi,” cô bảo Arkady.
“Tôi cũng thế,” Arkady đáp.
Anh rời bữa tiệc một lát. Về mặt thể chất, anh có mặt và mỉm cười đúng lúc, nhưng tâm trí anh đang lang thang ở đâu đó. Lần đầu tiên anh gặp Irina là ở trường quay Mosfilm trong một buổi chụp ảnh ngoài trời. Cô là người phụ trách trang phục cho diễn viên và mỗi khi mặt trời chiếu sáng đôi mắt to và sâu thẳm của cô, những người khác dường như đều trở nên mờ nhạt. Đó không phải là mối quan hệ phẳng lặng, nhưng cũng chẳng lạnh nhạt. Anh không thể lạnh lùng mỗi khi ở cùng Irina, giống như cố gắng bị lạnh ngay bên cạnh đống lửa. Lúc anh nhìn thấy cô trên băng ca, đã chết, đôi mắt trống rỗng, anh nghĩ cuộc đời mình cũng đã chấm dứt. Tuy nhiên sau rất nhiều năm, anh vẫn ở đây, tại Vùng đất bị lãng quên này, mất mát và vấp ngã, nhưng vẫn sống. Anh đảo mắt quanh phòng để gạt bỏ mọi suy nghĩ và đột nhiên chú mục vào bức tranh treo cao trong góc nhà, Chúa Jesus ở góc tường bên trái, Đức Mẹ đồng trinh ở bên phải. Cả hai được lồng trong khung thêu sặc sỡ và chiếu sáng bằng nến tạ ơn đặt trên kệ. Chúa Jesus thực chất là một bức tranh, còn Đức Mẹ lại là một bức tượng thực sự, được làm từ gỗ theo phong cách Đức Mẹ đồng trinh thời đế quốc La Mã phương Đông, đội mũ trùm màu xanh có các ngôi sao màu vàng khác thường, ngón tay Người áp nhẹ vào nhau trong tư thế cầu nguyện. Trông Người giống hệt bức tượng anh đã nhìn thấy trên chiếc xe ba bánh của tên trộm. Nhưng bức tượng đã bị đưa qua biên giới sang Belarus rồi. Nó đang làm gì ở đây vậy nhỉ?
Vanko nói, “Người Do Thái ở đây.”
“Ở đâu?” Arkady hỏi.
“Chernobyl. Mọi nơi, ngược xuôi các con phố.”
Alex nói, “Cảm ơn, Vanko, chúng tôi đã được cảnh báo.” Anh ta nói thêm với Arkady, “Người Do Thái theo phong trào thần bí. Có một giáo trưởng nổi tiếng được chôn cất ở đây. Họ tới thăm và cầu nguyện. Tới lượt Maria.”
Sau vài lời từ chối cho có lệ, Maria ngồi thẳng trên ghế, nhắm mắt và đắm chìm trong bài hát. Rồi đột nhiên bà như hóa thành cô gái trẻ đang chờ đợi người yêu tại nơi hẹn hò lúc nửa đêm, với chất giọng cao vút khiến mành cửa sổ ngân vang rộn ràng như pha lê. Hát xong, Maria mở bừng mắt, nở nụ cười rạng rỡ khoe trọn hàm răng bằng thép, nhịp nhịp chân hài lòng. Roman cố gắng tranh tài bằng cách chọn kéo vĩ cầm nhưng dây đàn bị đứt và ông bị loại ra khỏi cuộc đua.
“Arkady?” Alex hỏi.
“Xin lỗi, tôi rất kém trong các loại hình giải trí.”
“Vậy thì đến lượt em,” Alex bảo Eva.
“Được.” Cô vuốt tóc như đang chải nó, nhìn thẳng vào Alex và bắt đầu: “Nơi đây, chúng ta đều là những kẻ say và gái điếm: Chúng ta mới bất hạnh làm sao…”
Lời thơ thô lỗ và thẳng thừng, tác phẩm của Akhmatove rất quen thuộc với Arkady, với bất kỳ người nào biết đọc, biết viết ở lứa tuổi trên ba mươi, trước thời kỳ thơ mới của Đồ ăn nhanh* và Kẹo chocolate*.
“Chiếc váy bó khoe đường cong mảnh mai của tôi. Khung cửa sổ khóa chặt. Ngăn cản điều gì? Sấm sét hay mưa đá? Tôi hiểu rõ ánh nhìn trong mắt anh, giống ánh mắt một con mèo thận trọng.”
Cô quét ánh mắt từ Alex sang Arkady và ngập ngừng quá lâu nên Alex buộc phải đọc nốt những dòng cuối, “Ôi, trái tim nặng trĩu, bao lâu trước khi tiếng chuông reo? Nhưng kẻ đang nhảy múa ở kia, chắc chắn sẽ mục rữa trong địa ngục!”
Alex kéo khuôn mặt Eva sát vào mặt mình và hôn say đắm cho đến khi cô đẩy ra, rồi tát anh ta một cái đau điếng đến nỗi Arkady cũng cảm thấy đau. Cô bật dậy, lao ra cửa. Chà, giống như bữa tiệc Nga, Arkady thầm nghĩ. Mọi người đều uống say, thú nhận tình yêu một cách thiếu thận trọng, bày tỏ những điều họ ghét cay ghét đắng, kích động, loạng choạng đi ra ngoài, bị kéo lại và hồi sinh bằng rượu mạnh. Nó không phải một cuộc họp văn nghệ kiểu Pháp.
Chuông điện thoại của Arkady reo vang. Là Olga Andreevna, giám đốc trại trẻ ở Matxcova.
“Điều tra viên Renko, anh phải trở về.”
“Đợi một giây, làm ơn.” Arkady ra hiệu xin lỗi Maria và bước ra ngoài. Eva không có ở bên ngoài mặc dù xe của cô vẫn ở đó.
Olga Andreevna hỏi, “Điều tra viên, anh vẫn đang làm gì ở Ukraine thế? Anh nên về đây ngay.”
“Tôi bị điều đến đây. Tôi đang điều tra một vụ án.”
“Anh nên có mặt ở đây. Zhenya cần anh.”
“Tôi không nghĩ thế. Tôi không thể nghĩ ra thằng bé chẳng cần ai hơn tôi.”
“Nó cứ đứng bên đường đợi anh, tìm kiếm xe của anh.”
“Có lẽ nó đang đợi xe buýt.”
“Tuần trước, thằng bé đã bỏ đi hai ngày. Chúng tôi tìm thấy nó đang ngủ trong công viên. Nói chuyện với nó nhé.”
Cô ta đưa điện thoại cho Zhenya trước khi Arkady kịp từ chối. Ít nhất, anh đoán rằng Zhenya đang cầm ống nghe; toàn bộ những gì anh nghe được chỉ là sự im lặng.
“Chào Zhenya. Cháu đang làm gì thế? Chú nghe nói cháu đã khiến mọi người ở trại trẻ lo lắng. Đừng làm như thế nhé.”
Arkady ngừng lại để xem Zhenya có phản ứng gì không. “Chú đoán sự việc chỉ có thế, Zhenya.”
Anh không có tâm trạng lẫn điều kiện để độc thoại với tượng thần lùn giữ của. Anh ngả ra sau để hít một hơi làn không khí lạnh lẽo, ngắm nhìn đám mây dần che kín mặt trăng, khiến cái bóng của ngôi nhà trượt dài rồi mất hẳn. Anh nghe tiếng con bò bồn chồn đi lại trong chuồng, tiếng cành cây gãy và tự hỏi có phải đêm nay là đêm bầy sói sẽ ra ngoài kiếm ăn không.
“Cháu vẫn đang nghe chứ?” Arkady hỏi. Không có tiếng trả lời, không bao giờ. “Chú đã gặp Baba Yaga. Thực ra, chú đang ở bên ngoài túp lều của bà ta. Chú không chắc hàng rào có phải được làm bằng xương không, nhưng chắc chắn bà ta có hàm răng thép.” Arkady nghe thấy hoặc cho rằng anh nghe thấy có sự chú ý ở đầu dây bên kia. “Chú không thấy mèo hay chó, nhưng bà ta có một con bò vô hình, nó phải vô hình để lẩn tránh bầy sói. Có lẽ bầy sói lang thang đến từ một câu chuyện khác, nhưng chúng đang ở đây. Và một con rắn biển. Trong ao của bà ta có nuôi một con rắn biển to như cá voi có chòm râu rất dài. Chú đã thấy nó nuốt chửng một người.” Có tiếng sột soạt không thể nhầm lẫn ở đầu dây bên kia và Arkady cố nhớ các chi tiết khác của câu truyện. “Ngôi nhà rất kỳ lạ. Nó được dựng hoàn toàn trên những cái chân gà. Lúc này, nó đang từ từ quay lại. Chú sẽ nói thật nhỏ, đề phòng nó nghe được. Chú không thấy cái lược có phép thuật của bà ta, thứ mà có thể biến thành một khu rừng, nhưng chú thực sự thấy vườn quả độc. Các ngôi nhà xung quanh đều đã bị đốt cháy, đầy bóng ma. Hai ngày sau, chú sẽ gọi lại. Trong lúc đó, quan trọng nhất là cháu phải ở trong trại trẻ, học tập và có thể kết bạn để phòng khi chúng ta cần giúp đỡ. Chú phải đi bây giờ, trước khi chúng nhận ra chú đã biến mất. Cho chú nói chuyện với giám đốc nào.”
Có tiếng ống nghe sột soạt và giọng Olga Andreevna vang lên. “Anh đã nói gì với nó thế? Thằng bé trông có vẻ khá hơn.”
“Tôi nói rằng nó là công dân của nước Nga mới tự hào và nên cư xử như thế.”
“Tôi chắc thế. Chà, dù anh nói gì thì nó cũng có tác dụng. Anh sắp về Matxcova chứ? Công việc của anh hẳn là đã kết thúc.”
“Không hẳn. Khoảng hai ngày sau tôi sẽ gọi lại.”
“Người Ukraine đang moi sạch mọi thứ của chúng ta.”
“Chúc ngủ ngon, Olga Andreevna.”
Lúc Arkady tắt điện thoại, Eva âm thầm bước ra từ vườn cây và vỗ tay.
“Con trai anh à?” cô hỏi.
“Không.”
“Cháu trai?”
“Không, chỉ là một đứa bé.”
Cô làm điệu bộ giống con mèo đang được vuốt ve. “Baba Yaga! Câu truyện khá hay. Tóm lại anh là một nghệ sĩ.”
“Tôi nghĩ cô đã về.”
“Không hẳn. Vậy là bây giờ, anh không sống cùng ai à? Một phụ nữ?”
“Không. Còn cô, cô và Alex đã kết hôn, ly thân hay ly dị?”
“Ly dị. Rõ ràng thế cơ à?”
“Tôi cho là mình khám phá được gì đó.”
“Phần còn lại của một thảm họa xa xưa, một hố bom là thứ anh đã phát hiện ra.”
Ánh sáng từ cửa sổ chiếu lên người cô mềm như nước, vải lanh phản chiếu khiến mắt cô trông sẫm hơn.
“Tôi vẫn còn yêu anh ấy. Không giống cách anh yêu vợ mình. Tôi có thể nói rằng anh đã có một trong những tình yêu chung thủy vĩ đại. Chúng tôi không có nó. Chúng tôi… khoa trương hơn, có thể nói thế. Không ai trong chúng ta là đồ bỏ đi cả. Anh không thể ở trong Khu vực cấm mà không bị ảnh hưởng. Anh định ở lại đây bao lâu?”
“Tôi không biết. Tôi nghĩ công tố viên muốn tôi ở đây mãi mãi.”
“Cho đến khi anh bị hủy hoại?”
“Ít nhất là thế.”
Điều khiến người ta lo lắng về Eva Kazka là sự kết hợp giữa tính tàn bạo của cô và, như cô đã nói, sự hủy hoại. Cô đã ở Chernobyl và Chechnya? Có lẽ sự hủy hoại chính là môi trường sống của cô. Nụ cười của cô cho thấy cô đang cho anh cơ hội thứ hai để nói về điều gì thú vị hoặc sâu sắc, nhưng Arkady chẳng nghĩ ra thứ gì. Anh đã sử dụng hết trí tưởng tượng của mình để kể câu chuyện về Baba Yaga.
Cánh cửa mở ra. Alex ngó ra bảo, “Đến lượt tôi.”
“Người bạn mới Arkady của chúng ta có lẽ không biết được toàn bộ sự thật. Những sự kiện quan trọng đáng lẽ ra không nên bị gạt sang một bên.”
“Anh uống say rồi,” Eva nói.
“Đó là điều đương nhiên. Arkady, anh có thích hài kịch không?”
“Nếu nó vui vẻ.”
“Đảm bảo. Đây là vở hài kịch của nước Nga,” Alex nói. “Diễn hài với samogon.”
Maria mở một chai mới, nó tỏa ra thứ mùi ngòn ngọt kinh khủng của đường lên men, rồi đi vòng quanh, rót đầy cốc cho từng người.
“Ngày 26 tháng 4 năm 1986. Cảnh mở màn: Phòng điều khiển của lò phản ứng số Bốn. Diễn viên: Mười lăm kỹ thuật viên cùng kỹ sư trực ca đêm, những người đã quyết định tiến hành một thử nghiệm: để xem xét liệu lò phản ứng có thể tự khởi động lại nếu nguồn điện bên ngoài máy móc bị cắt hay không. Thử nghiệm được tiến hành trước khi hệ thống an toàn được kích hoạt. Lần này, họ muốn thực tế hơn. Không nhà vật lý học nào có mặt, nhưng đây là một thử nghiệm sẽ nhận được tiền thưởng và giấy khen. Tuy nhiên, đánh bại hệ thống an toàn của một lò phản ứng là một vấn đề không đơn giản. Nó đòi hỏi sự kiên trì và chú tâm. Anh phải ngắt kết nối với hệ thống làm mát lõi hạt nhân khẩn cấp rồi đóng và khóa các van xả.” Alex nhanh nhẹn bước tới lui, tập trung vào các công tắc tưởng tượng. “Tắt hệ thống điều khiển tự động, khóa hệ thống kiểm soát hơi nước, vô hiệu hóa các thiết lập trước đó, ngắt thiết kế bảo vệ và máy phát điện khẩn cấp. Rồi bắt đầu kéo các thanh than chì từ lõi ra bằng cần điều khiển từ xa. Giống như đang cưỡi một con hổ, rất thú vị. Có tới một trăm hai mươi thanh tất cả, tối thiểu có ba mươi thanh được chèn thêm vào ở mọi thời điểm vì nó là lò phản ứng của Xô Viết, một mô hình quân sự không ổn định với hiệu suất thấp, tất nhiên, đó là bí mật của Nhà nước. Rồi nguồn điện sụt xuống.”
“Lúc nào thì đến đoạn hài hước?” Eva hỏi.
“Nó vốn đã buồn cười rồi, chỉ có hài hước hơn thôi. Hãy tưởng tượng sự nhầm lẫn của các kỹ thuật viên. Họ chuẩn bị từng chút một cho thí nghiệm vào ban đêm và hiệu quả của lò phản ứng đang giảm xuống dưới mức cho phép, lõi phản ứng tràn ngập phóng xạ Xenon và iot cùng với hydro và oxy dễ cháy. Và rồi bằng cách nào đó, họ quên mất đã đếm được bao nhiêu, họ quên mất! và kéo tất cả ngoại trừ mười tám thanh từ lõi phản ứng ra, mười hai thanh là dưới mức giới hạn. Đồng thời, có một bước tai hại cuối cùng. Họ có thể thay thế các thanh đó, bật hệ thống bảo vệ lên và đóng lò phản ứng. Họ còn chưa tắt các van tua bin và bắt đầu thử nghiệm thực sự. Họ vẫn chưa bấm nút cuối cùng.”
Alex bắt chước sự do dự.
“Chúng ta hãy dừng lại và xem xét cái gì sẽ bị nguy hiểm. Đó là tiền thưởng hàng tháng. Đó là tiền thưởng ngày Quốc tế Lao động, giấy khen và giải thưởng. Ngược lại, nếu họ đóng cửa lò phản ứng này, chắc chắn sẽ có các câu hỏi và hậu quả. Tức là tiền thưởng tương đương với thảm họa. Rồi giống như những công dân Xô Viết tốt bụng, họ tiến về phía trước, đẩy quả bóng của họ đi.”
Alex bấm nút.
“Lập tức, nước làm mát lò phản ứng sôi sùng sục. Phòng lớn của lò phản ứng bắt đầu rạn nứt. Một kỹ sư hoảng hốt ngắt công tắc điều khiển của các thanh than chì, nhưng rãnh chạy, thanh trong lò đã bị nóng chảy và các thanh bị kẹt lại, rồi trong vòng hai mươi giây, hydro bị đốt quá nóng thổi tung mái lò, ném lõi phản ứng, than chì cùng nhựa đường cháy lên bầu trời. Một quả cầu lửa màu đen sừng sững trên nóc và màu xanh nhẹ do i-on hóa thoát ra từ lõi bị hở. Năm mươi tấn nhiên liệu phóng xạ bị phóng ra, tương đương năm mươi quả bom nguyên tử Hiroshima. Nhưng điều đáng buồn cười vẫn tiếp tục. Những cái đầu lạnh trong phòng điều khiển không chịu tin rằng họ đã phạm sai lầm. Họ cử một người xuống dưới kiểm tra lõi lò. Anh ta đen sạm khi trở về do nhiễm phóng xạ, giống như một người vừa quan sát mặt trời, để báo cáo rằng không có lõi lò. Vì báo cáo đó không được chấp nhận, họ hy sinh thêm người nữa, anh ta cũng trở về trong tình trạng nghiêm trọng tương tự. Lúc này, tất nhiên, những người trong phòng điều khiển phải đối mặt với thử thách lớn nhất trong đời họ: cuộc gọi từ Matxcova.”
Alex nâng cốc rược samogon của mình lên.
“Và điều những anh hùng của chúng ta nói khi Matxcova hỏi, ‘Lõi lò thế nào?’. Họ đáp, ‘Lõi lò ổn, đừng lo lắng, lõi còn nguyên vẹn’. Matxcova nhẹ nhõm. Và đó là phần cuối của vở kịch, ‘Trên toàn thế giới lõi lò vẫn ổn’, và hãy nâng cốc, ‘vì những con người trong phòng điều khiển ở khắp mọi nơi!’. Không ai uống à?”
Roman cùng Maria chết lặng, ủ rũ, bàn chân lơ lửng trên sàn. Vanko nhìn đi chỗ khác. Eva nắm chặt tay đưa lên bụm miệng, rồi bật dậy, lao tới đấm Alex, không tát anh ta như lúc trước nhưng lại đấm rất mạnh vào ngực cho đến khi Arkady ôm chặt và kéo cô ra. Một hồi lâu, không ai buồn nhúc nhích, giống như những con rối mềm oặt, đến khi Eva lao ra cửa. Arkady nghe tiếng khởi động xe của cô.
Cốc rượu của Alex bị đổ. Anh ta rót đầy và nâng ly lần thứ hai. “Chà, dường như chỉ có mình tôi thấy buồn cười.”
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chó Sói Cắn Chó Nhà
Martin Cruz Smith
Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith
https://isach.info/story.php?story=cho_soi_can_cho_nha__martin_cruz_smith