VIII - Chiếc Hộp Của Những Trò Chơi Khăm
lliot chẳng biết giáo sư Ingram có hút được điếu thuốc nào không. Bởi vì lời giải đáp cho trò tráo đổi này đã đột nhiên đến với anh mà không hề báo trước.
“Xin lỗi. Xin tạm ngừng một chút,” anh nói. Và, vòng qua chiếc piano, anh bước ra ngoài qua một trong những chiếc cửa sổ kiểu Pháp.
Khi đang suy nghĩ, anh đóng những tấm rèm nhung dày sau lưng mình lại. Ở đây, trên lối đi hẹp bằng cỏ nằm giữa căn nhà với một dải những cây hạt dẻ vàng, không khí lạnh hơn rất nhiều. Trời cũng tối tăm hơn, hiện giờ ánh điện đã mờ đi và chỉ có một bóng đèn tròn loại thường đang sáng trong phòng làm việc của Marcus. Anh cảm thấy ảnh hưởng của khoảng thời gian chết giữa đêm khi nhận ra dường như cơ bắp và xương trong cơ thể mình đang kêu răng rắc mệt mỏi. Anh cũng nghĩ mình nghe thấy tiếng chuông ngân vang đâu đó. Nhưng anh không chú ý tiếng chuông đó, sự chú ý của anh được tập trung vào đống đồ đạc của bác sĩ Nemo đang la liệt cạnh những cái cửa sổ nằm ngoài phòng làm việc.
Chiếc giỏ đeo vai màu đen đó.
Giờ thì anh đã biết tại sao sự xuất hiện của chiếc giỏ đó lại khiến anh mơ hồ cảm thấy quen thuộc rồi. Nó có kích thước lớn hơn túi thuốc của bác sĩ, mặc dù có hình dạng tương tự và không to bằng chiếc vali bình thường. Một chiếc giỏ tương tự như vậy là một trong những hiện vật được trưng bày trong Bảo tàng Đen của Scotland Yard.
Anh quỳ xuống bên cạnh chiếc giỏ đang nằm gần chiếc mũ và cái áo mưa. Nó làm bằng da bóng, và trông vẫn còn mới. Tên của bác sĩ Nemo được sơn ở một bên, trông khá thô sơ với lối in hoa. Elliot sử dụng khăn tay để mở chiếc giỏ ra. Bên trong có một chiếc hộp sô cô la caramel Henry khối lượng hai pound, bìa hộp có thiết kế in hình những bông hoa xanh lá sáng màu.
“Chính là nó,” anh nói lớn.
Chiếc giỏ này là người bạn của những tên trộm trong cửa hàng bán kẹo. Anh nhấc cái giỏ lên và nhìn vào bên trong. Chiếc giỏ này ban đầu được dùng cho những màn ảo thuật giải trí, sau đó những tên trộm đã sử dụng nó để tấn công những cửa hàng bách hóa, những tiệm trang sức, hay bất cứ cửa hiệu nào có chứa hàng hóa giá trị được trưng bày công khai.
Bạn chỉ cần bước vào một cửa hàng, mang theo chiếc giỏ trông có vẻ vô hại này. Bạn ngẫu nhiên đặt nó xuống quầy, trong khi bạn nhìn vào một món hàng nào đó khác. Nhưng bạn đặt chiếc giỏ xuống ngay trên thứ bạn muốn lấy cắp. Đáy của chiếc giỏ được trang bị một loại dụng cụ “quặp lò xo” của những ảo thuật gia, dụng cụ này sẽ chộp vào túi những thứ nằm bên dưới nó. Sau đó, bạn chỉ cần không tỏ ra đáng ngờ, nhấc chiếc giỏ lên và rời cửa hiệu đó là được.
Như vậy hành động thiên tài của bác sĩ Nemo sẽ trở nên vô cùng rõ ràng. Hắn ta đã bước vào phòng làm việc, đặt chiếc giỏ lên bàn, và trong khi làm thế, hắn xoay lưng về phía khán giả. Hắn đặt cái giỏ đeo vai có quặp lò xo xuống, không phải ở trước chiếc hộp màu xanh lá cây, mà là phía bên trên nó. Chiếc túi sẽ có thể mang được những đồ vật nặng hơn một hộp sô cô la tương đối nhỏ và nhẹ. Sâu trong túi áo mưa hắn ta có một chiếc hộp sô cô la bạc hà màu xanh dương. Trong lúc cúi xuống để đặt chiếc giỏ lên bàn, hoặc trong khi cúi người nhấc nó lên lại, hắn đã luồn chiếc hộp này ra phía sau cái giỏ và tận dụng tấm lưng quay lại với khán giả để che giấu hành động đó. Trước những khán giả đang kinh ngạc và kích động, việc ấy không đòi hỏi kĩ năng gì nhiều. Và tất cả những hành động này được thực hiện với sự giúp đỡ của Marcus Chesney, theo hướng dẫn của Marcus Chesney, như một phần kế hoạch của Marcus Chesney nhằm lừa các nhân chứng bất cứ khi nào họ chú ý đến…
Nhưng phát hiện trên giúp giải quyết vụ án này, hoặc vụ án tại cửa hàng đồ ngọt như thế nào? Có phải như vậy nghĩa là chiếc hộp sô cô la tại cửa hiệu của bà Terry đã được thay thế hoàn toàn bằng một cái hộp khác không?
“Này!” có một giọng thì thầm đột ngột vang lên.
Elliot nhảy dựng một chút. Đó là một giọng nói thầm, khàn khàn hơi gay gắt, và nó vọng xuống từ ngay phía trên đầu anh. Elliot ngẩng lên, và nhìn thấy khuôn mặt của bác sĩ Joseph Chesney đang nhìn xuống từ một cửa sổ tầng trên. Bác sĩ Joe đang nghiêng người rất xa khỏi khung cửa sổ, đến nỗi Elliot băn khoăn không biết liệu khối thịt nặng nề đó có thể sụp xuống như túi đồ giặt ủi hay không.
“Dưới đó mọi người điếc hết à?” bác sĩ Joe thì thầm. “Mấy người không nghe thấy tiếng chuông cửa reo hay sao? Sao chẳng có ai trả lời hết vậy? Nó reo được năm phút rồi. Của đáng tội, tôi không thể một mình lo liệu hết tất cả mọi thứ được. Tôi có một bệnh nhân ở đây đấy…”
Elliot tỉnh táo lại. Đó dĩ nhiên là những người đến từ sở cảnh sát: bác sĩ khám nghiệm tử thi, người chụp hình và người lấy dấu vân tay. Họ đã được triệu tập đến từ cách đây mười hai dặm.
“Và này!” bác sĩ Joe gầm lên.
“Vâng?”
“Để Marjorie lên đây được không? Anh ta đang gọi con bé.”
Elliot nhanh chóng nhìn lên. “Anh ấy có ý thức rồi à? Tôi có thể gặp anh ấy không?”
Một nắm tay rậm lông giận dữ thò ra ngoài tay áo lủng lẳng, lắc về phía anh từ cửa sổ. Từ ánh sáng hắt lên ở phía dưới, bộ râu hoe đỏ của bác sĩ Joe có phần nào đó trông gần giống như Mephistophelean.
“Không, chàng trai, cậu ta không có ý thức. Không phải kiểu ý thức mà anh muốn. Và anh không thể gặp cậu ta tối nay được, ngày mai cũng không, hoặc vài tuần hay vài tháng nữa vẫn chưa được. Hiểu chứ? Và nói Marjorie lên đây ngay. Mấy cô giúp việc không tốt tí nào. Một trong số họ làm vỡ đồ, và người còn lại đang trốn sau giường. Ôi, lạy Chúa!”
Sau đó cái đầu lùi lại vào trong.
Elliot thu thập đồ đạc của bác sĩ Nemo một cách rất chậm rãi. Tiếng chuông đã không còn vọng lại từ đằng xa nữa. Một cơn gió lạnh đang bắt đầu thổi xoáy trong đêm khuya tĩnh lặng. Nó di chuyển những chiếc lá cũ rụng đầy mặt đất. Nó mang theo mùi đất nồng và mục nát của mùa thu. Và sau đó, do sự nhấn nhá của cơn gió hoặc do một cánh cửa đã được mở ra, nó lại mang đến một mùi khác ngọt ngào hơn. Mùi ấy ngửi giống như mùi hương mờ nhạt dường như đã thấm đẫm vào căn nhà theo thời gian. Sau đó Elliot đột nhiên nhớ ra, ở nơi nào đó gần đây, có một nhà kính rộng nửa mẫu Anh đang nằm im lìm trong bóng tối. Đó là mùi hương của cây đào, cây hạnh nhân, những loại cây có quả chín từ tháng Bảy đến tháng Mười, cho ra loại quả mà mùi của nó đã ám vào Bellegarde ngay lúc này.
Anh mang đồ đạc của bác sĩ Nemo vào trong phòng làm việc, ngay lúc đó cánh cửa phòng làm việc (dẫn đến sảnh lớn) mở ra, và sĩ quan Bostwick mang hai người khách mới, theo như ông giới thiệu là bác sĩ West và trung sĩ Matthews, bước vào. Thiếu tá Crow theo ngay phía sau họ. Matthews nhận được các chỉ dẫn về vân tay và hình ảnh, và bác sĩ West cúi xuống xem xét xác của Marcus Chesney.
Thiếu tá Crow nhìn Elliot hỏi.
“Sao rồi, thanh tra?” Ông ấy hỏi. “Tại sao anh lại quyết định ra ngoài bất ngờ như vậy? Anh đã tìm thấy gì rồi?”
“Tôi đã tìm ra cách hắn tráo đổi những hộp sô cô la, thưa ngài,” Elliot nói, và giải thích về chiếc giỏ ảo thuật.
Người kia bị ấn tượng mạnh. “Gọn gàng,” ông thừa nhận. “Gọn gàng một cách hiểm độc. Nhưng nghe này, dù thế, Chesney lấy đâu ra một chiếc giỏ xách lừa đảo như vậy chứ?”
“Ông có thể mua chúng tại một số nhà cung cấp dụng cụ ảo thuật ở London.”
“Cậu nghĩ rằng ông ta đã đặc biệt đặt mua chiếc giỏ đó?”
“Có vẻ đúng là thế, thưa ngài.”
Thiếu tá Crow bước qua và kiểm tra cái giỏ. “Điều đó nghĩa là,” ông suy nghĩ lại, “ông ấy đã có ý định thực hiện màn trình diễn này một thời gian trước rồi. Cậu biết không, thanh tra”, thiếu tá Crow dường như đang cố kìm nén bản thân không đá một cái thật mạnh vào cái giỏ trước mặt, “chúng ta càng điều tra xa hơn, màn trình diễn chết tiệt này lại càng trở nên quan trọng. Và dường như nó lại càng chẳng giúp ích được chúng ta gì cả. Chúng ta đang ở đâu đây? Chúng ta có gì trong tay rồi?… Khoan đã! Có phải vẫn còn thêm vài câu hỏi nữa trong danh sách của Chesney không?”
“Đúng vậy, thưa ngài. Ba câu nữa.”
“Vậy thì vào đó và tiếp tục đi,” cảnh sát trưởng nói với cái liếc mắt đầy cay đắng hướng về hướng những cánh cửa đôi đóng kín. “Nhưng trước khi anh đi, tôi muốn hỏi xem liệu anh có chú ý đến điều đã đặc biệt kẹt trong đầu tôi giữa mớ hỗn độn này không?”
“Vâng?”
Thiếu tá Crow chỉnh lại tư thế và hướng đứng của mình. Ông duỗi xương cổ tay và ngón trỏ như thể đang cố đe dọa ai đó. “Có trò lừa phỉnh gì đó trong chiếc đồng hồ,” ông tuyên bố.
Họ nhìn vào chiếc đồng hồ. Bác sĩ West đã bật bóng đèn trắng sáng rực để nghiên cứu cái xác, và một lần nữa, mặt đồng hồ trắng bóc đầy nhạo báng với đồ trang trí bằng đồng và cái khung cẩm thạch lại nhìn chằm chằm vào họ từ trên bệ lò sưởi.
Thời gian trên đó chỉ hai giờ kém hai mươi.
“Này! Tôi sắp phải về nhà rồi,” thiếu tá Crow đang nhìn thì đột nhiên nói. “Nhưng dù sao cũng hãy nhìn nó đi. Giả như Chesney đã thay đổi cái đồng hồ đó thì sao? Có thể ông ấy đã thực hiện điều đó trước buổi trình diễn. Sau đó, khi màn diễn kết thúc (mọi người nhớ không?) ông ấy đã đóng cánh cửa đôi lại trong đó, và không đi ra Phòng Nhạc cho tới khi Ingram gõ cửa bảo ông ấy ra ngoài để hạ màn. Suốt thời gian đó ông ấy có thể đã thay đổi chiếc đồng hồ trở lại đúng giờ, đúng không?”
Elliot khá nghi ngờ chuyện đó.
“Tôi cho ông ấy có thể làm điều đó, thưa ngài. Nếu ông ấy muốn.”
“Dĩ nhiên là ông ta có thể chớ. Không thể nào dễ dàng hơn.” Thiếu tá Crow đi đến chỗ bệ lò sưởi, len người vào phía sau cái ghế của người chết. Ông quay chiếc đồng hồ, hơi va mạnh vào nó một chút, cho tới khi lưng nó đối diện với tầm mắt họ. “Anh thấy hai bộ phận đó không? Một cái là chìa khóa để lên dây đồng hồ. Thứ còn lại là đầu một cái chốt nhỏ bạn xoay vòng để đổi vị trí các kim đồng hồ. Ồ!”
Ông nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ, cúi xuống gần hơn, và Elliot cũng tham gia với ông. Đúng là, ở đó, có một cái chìa khóa nhỏ bằng đồng ở mặt sau chiếc đồng hồ. Nhưng họ không thấy chiếc chốt hay trục quay còn lại, chỉ có một cái lỗ tròn nhỏ ở đó thôi.
“Nó đã bị rơi ra,” Elliot nói, “và rơi vào phía bên trong lớp vỏ ngoài của chiếc đồng hồ.”
Anh cúi xuống gần hơn. Bên trong cái lỗ tròn cực nhỏ đó anh chỉ có thể thấy một mẩu nhỏ xíu sáng màu, và có một vết xước còn mới nằm quanh cái lỗ, ngay trên lớp kim loại hơi xỉn của cái đồng hồ.
“Nó mới bị hư gần đây thôi,” anh giải thích. “Đó có thể là ý của cô Wills khi nói rằng cô ấy chắc chắn là chiếc đồng hồ chạy đúng. Ngài thấy không, thưa ngài? Cho tới khi thợ đồng hồ đến, không ai có thể thay đổi vị trí các cây kim dù có cố gắng cách mấy đi chăng nữa.”
Thiếu tá Crow nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ.
“Vớ vẩn,” ông nói. “Không gì dễ hơn, chỉ cần làm thế này.”
Ông quay chiếc đồng hồ lại lần nữa với mặt số hướng ra ngoài.
Sau khi mở lớp kính tròn bảo vệ mặt đồng hồ ra, ông tìm cách xếp lại hai cây kim đồng hồ.
“Tất cả những việc anh cần làm,” ông tiếp tục, “chỉ đơn giản là đẩy thôi…”
“Mong ngài bình tĩnh!” Elliot nói.
Thậm chí cả thiếu tá Crow cũng phải bỏ tay ra, và chấp nhận thua cuộc. Những cây kim bằng kim loại này rất mỏng mảnh. Cách duy nhất để đẩy chúng xê dịch là bẻ cong hoặc gỡ chúng ra. Rõ ràng là, vị trí của hai cây kim không thể bị dịch chuyển đi dù chỉ là một phần giây. Elliot đứng lùi lại. Anh bắt đầu bật cười dù biết hoàn cảnh hoàn toàn không phù hợp. Những cây kim tiếp tục quá trình chế nhạo của chúng, cái trục kim loại giữ chúng nháy mắt nhanh với anh, và tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ chạm đến tai anh như thể một hợp âm trầm sâu sắc của trò tiêu khiển, tất cả những điều đó khiến anh gần như bật cười ngay trước mặt cảnh sát trưởng. Đây là một biểu tượng. Anh đang nhìn vào cơn ác mộng của những nhà viết tiểu thuyết — một chiếc đồng hồ không thể nào bị can thiệp vào được.
“Ra là thế,” anh nói.
“Đó không phải là thế,” thiếu tá Crow nói.
“Nhưng, thưa ngài…”
“Có một trò bịp trong chiếc đồng hồ đó,” người kia tuyên bố bằng giọng nhấn mạnh, chậm rãi và khẳng định chắc nịch như đang đưa ra một lời thề. “Tôi thừa nhận tôi không biết trò đó là gì. Nhưng anh sẽ thấy nó được chứng minh sớm thôi.”
Ngay lúc này cái bóng đèn dùng để chụp ảnh, sau khi sáng bùng lên chói chang và bốc khói dày đặc, đột ngột tự động tắt ngúm. Chuyện đó làm tất cả bọn họ giật mình, và ngược lại, cái bóng đèn có chụp đèn màu xanh lá ở trong góc phòng giờ đây trông lại có vẻ ảm đạm đi hẳn. Nhưng bác sĩ West đã quay lại. Ông là một người đàn ông lớn tuổi đeo kính không gọng, và trông có vẻ mệt mỏi.
“Anh muốn tôi nói gì về vụ này đây?” ông nói với thiếu tá Crow.
“Chà, thứ gì đã giết chết ông ấy?”
“Là axit xyanhydric hoặc một chất nào đó trong nhóm xyanua. Sáng mai tôi sẽ khám nghiệm tử thi và cho anh biết rõ hơn.”
“Một chất trong nhóm xyanua sao? Bác sĩ Joe Chesney nói rằng đó là xyanua mà.”
Bác sĩ West có vẻ đang tự biện giải cho mình. “Có lẽ anh đang nghĩ về kali xyanua. Đó là một chất trong nhóm muối xyanua có nguồn gốc từ axit xyanhydric. Mà tôi đồng ý nó là chất độc phổ biến nhất trong nhóm này.”
“Hãy để tôi thừa nhận sự thiếu hiểu biết của mình,” thiếu tá Crow nói. “Tôi có nghiên cứu về chất strychnine cho một vụ án khác, nhưng tôi không có nhiều kinh nghiệm trong những tình huống thế này. Chà, cho rằng ai đó đã giết Chesney bằng axit xyanhydric hay một chất trong nhóm xyanua đi. Vậy chất đó đến từ đâu? Và làm thế nào để có được nó?”
“Tôi có vài ghi chú ở đây,” người bác sĩ nói với ông, mò mẫm trong túi theo kiểu chỉ có thể gọi là sự vội vàng một cách chậm rãi. Ông lên tiếng với vẻ thỏa mãn khiêm nhường. “Chúng tôi không thường xuyên có cơ hội tiếp xúc với một vụ đầu độc bằng axit xyanhydric, anh biết đấy. Nó hiếm, rất hiếm. Tôi đã ghi chú lại vài điều trong vụ án của Billy Owens, và tôi nghĩ tốt hơn tôi nên mang chúng theo cùng.”
Ông tiếp tục nói với vẻ đầy biết ơn:
“Axit xyanhydric nguyên chất (HCN) là chất mà người thường gần như không thể tiếp xúc được. Mặt khác, bất kì nhà hóa học giỏi nào cũng có thể dễ dàng chiết xuất nó ra từ những chất không chứa độc (Ý tôi là chiết xuất một cách bất ngờ, không được định trước là sẽ ra danh sách chất độc ấy). Muối của nó, kali xyanua (KCN), thì thường được sử dụng trong nhiếp ảnh, như mọi người có lẽ đã biết. Đôi khi nó cũng được sử dụng như thuốc trừ sâu cho những loại cây ăn quả…”
“Cây ăn quả,” thiếu tá Crow lẩm bẩm.
“Nó được sử dụng để mạ điện nữa. Người ta cũng dùng nó trong chai độc nữa”
“Chai độc là gì?”
“Trong ngành nghiên cứu về côn trùng,” bác sĩ nói, “thì chai độc là thứ dùng để bắt bướm. Chai độc không gây đau đớn chứa 5% KCN, người ta có thể mua chúng ở cửa hàng nhồi xác động vật. Nhưng để mua được những thứ đó, dĩ nhiên, người mua sẽ phải kí vào một hồ sơ xác nhận độc dược.”
Elliot xen vào. “Tôi có thể hỏi ông một câu được không, bác sĩ? Có đúng là trong hạt đào có chứa axit xyanhydric không?”
“Có, đúng vậy,” bác sĩ West xác nhận, lấy tay xoa xoa trán.
“Và bất cứ ai cũng có thể chưng cất axit xyanhydric bằng cách nghiền nhỏ hạt đào và nấu sôi chúng lên, đúng thế không?”
“Tôi đã được hỏi câu đó trước đây rồi,” bác sĩ West nói, xoa trán mạnh hơn. “Hoàn toàn đúng. Nhưng tôi ước tính rằng để sản xuất một liều thuốc độc đủ gây chết người từ hạt đào sẽ cần hạt của khoảng năm nghìn sáu trăm quả đào. Điều này khó mà khả thi được.”
Sau một lúc im lặng, sĩ quan Bostwick nặng nề nói. “Chất độc phải đến từ một nơi nào đó,” ông chỉ ra.
“Đúng vậy. Và lần này các anh sẽ phải lần theo dấu nó,” cảnh sát trưởng nói. “Chúng tôi đã để lỡ chất strychnine nhưng chúng tôi sẽ không bỏ qua xyanua dù có phải lục tung mọi cuốn sổ xác nhận độc dược ở nước Anh này lên. Đó là công việc của anh, sĩ quan. Nhưng, tiện đây, bác sĩ, ông có biết những viên nhộng màu xanh lá cây đó không, những viên nhộng thầu dầu ấy?”
“Có, nhưng sao?”
“Giả sử như ông định cho một liều xyanua vào một trong những viên nhộng ấy. Làm sao ông nhét thuốc độc vào một viên nhộng được. Dùng một chiếc kim tiêm dưới da à?”
Bác sĩ West đáp lại. “Đúng, nghe khá khả thi. Nếu không đưa vào đủ nhiều, lớp vỏ gelatin và chất dầu sẽ vững vàng bảo vệ chất độc. Chúng cũng sẽ che giấu mùi và vị của xyanua. Chỉ 0,9 grain axit xyanhydric khan là đã gây tử vong rồi. Dược phẩm chứa kali xyanua, tất nhiên, sẽ yếu hơn. Nhưng tôi cảm thấy hợp lí khi nói, hai hay ba grain cũng sẽ mang lại hiệu quả tương tự.”
“Và mất bao lâu nó mới gây chết người?”
“Tôi không biết chính xác liều lượng,” bác sĩ West nhìn với vẻ có lỗi. “Thường thì tôi đoán các triệu chứng sẽ xuất hiện trong vòng mười giây. Tuy nhiên, ở đây, lớp gelatin cần phải tan chảy, và dầu thầu dầu cũng sẽ làm chậm quá trình hấp thu chất độc. Ta có thể nói sẽ mất đến hai phút thì các triệu chứng mới xuất hiện rõ rệt được. Với phần còn lại, mọi thứ phụ thuộc vào liều lượng của chất độc. Tình trạng kiệt sức hoàn toàn sẽ nhanh chóng theo đến. Nhưng việc đó có thể xảy đến trong ba phút, hoặc cả nửa giờ sau nạn nhân vẫn chưa cảm thấy gì.”
“Được rồi, nó khớp với những gì chúng tôi biết,” thiếu tá Crow nói. Ông thực hiện một hành động thể hiện sự bực bội. “Dù sao, thanh tra, tôi đề nghị anh trở vào và làm việc với đám người đó lần nữa.” Ông gật đầu một cách ám chỉ về phía những cánh cửa đôi đóng kín. “Hãy tìm hiểu xem liệu họ có chắc thứ mình nhìn thấy là một viên nhộng thầu dầu hay không. Viên nhộng đó có thể là một phần của cái bẫy nào đó. Tìm ra… Không, lột trần sự thật ra khỏi tất cả trò hề đó, và rồi chúng ta sẽ biết mình đang ở đâu.”
Elliot, vui mừng vì có cơ hội được làm việc một mình, đi vào Phòng Nhạc rồi đóng những cánh cửa lại sau lưng mình. Ba đôi mắt đang dán chặt vào anh.
“Tối nay tôi sẽ không giữ mọi người lại lâu hơn nữa,” anh nói với họ một cách thân thiện. “Nhưng đó là nếu các bạn không phiền làm sáng tỏ những vấn đề còn lại.”
Giáo sư Ingram chăm chú nhìn anh. “Đợi chút,” ông đề nghị. “Anh đã làm sáng tỏ vấn đề kia chưa, thanh tra? Anh đã tìm ra những hộp sô cô la thực sự đã bị đánh tráo như cách tôi nói rồi chứ?”
Elliot do dự gật đầu. “Đúng vậy, thưa ông, tôi không ngại nói với ông rằng quả đúng là như vậy.”
“A!” Giáo sư Ingram nói, với vẻ thỏa mãn mang thêm phần tự đắc. Ông ngồi trở lại vào ghế, trong khi Marjorie và George Harding nhìn ông một cách khó hiểu. “Tôi đang hi vọng điều đó. Rồi thì chúng ta sẽ sẵn sàng trên con đường hướng tới lời giải cho vụ án này.”
Marjorie đang định lên tiếng, nhưng Elliot không cho cô ấy cơ hội.
“Đây là câu hỏi thứ chín của ông Chesney, về người đàn ông đội mũ chóp cao. Anh ta đã đưa tôi nuốt thứ gi? Tôi mất bao lâu để nuốt thứ đó? Tất cả các bạn đều đồng ý rằng đó là một viên nhộng thầu dầu, đúng không?”
“Tôi khẳng định,” Marjorie trả lời. “Ông ấy mất hai hay ba giây để nuốt nó.”
“Chắc chắn là nó có hình dạng viên nhộng thầu dầu,” giáo sư Ingram trả lời thận trọng hơn. “Và ông ấy đã gặp một chút khó khăn khi nuốt xuống.”
“Tôi không biết bất cứ điều gì về những viên nhộng đó hết,” Harding nói. Khuôn mặt anh ta trắng bệch, có vẻ bồn chồn và không chắc chắn, Elliot tự hỏi tại sao. “Tôi cho rằng đó là một quả nho, một quả nho xanh, và tôi đã tự hỏi tại sao ông ấy không bị nó làm cho nghẹt thở. Nhưng nếu cả hai người nhận ra là viên nhộng, thì được rồi. Tôi đồng ý.”
Elliot chuyển sang chế độ tấn công. “Chà chúng ta sẽ trở lại câu hỏi đó sau. Giờ là một câu hỏi vô cùng quan trọng. Anh ta đã ở trong phòng trong bao lâu?”
Anh hỏi rất nghiêm túc, và vẻ trào phúng đã bắt đầu lan rộng trên khuôn mặt của Ingram, còn Marjorie thì lại có vẻ do dự.
“Có cái bẫy nào trong câu hỏi đó không?” cô hỏi. “Ý anh là từ lúc hắn ta bước qua cánh cửa sổ kiểu Pháp đến lúc hắn bước ra mất bao lâu đúng không? Chắc chắn là không lâu lắm. Hai phút, tôi nghĩ thế.”
“Hai phút rưỡi,” Harding nói.
“Hắn ở trong phòng,” giáo sư Ingram nói, “chính xác là ba mươi giây. Cứ lặp lại hết lần này đến lần khác, với sự đều đều đến mức nhàm chán như vậy, con người sẽ cho là thời gian đã rất lâu. Thực ra, Nemo khá mạo hiểm. Anh gần như không có cơ hội để quan sát anh ta, mặc dù anh nghĩ là có. Nếu anh muốn, thanh tra, tôi sẽ cho anh toàn bộ lịch trình thời gian của màn trình diễn, bao gồm cả những hành động của Chesney. Tôi có nên làm thế không?”
Khi Elliot gật đầu, giáo sư Ingram nhắm mắt lại.
“Hãy bắt đâu với thời điểm khi mà Chesney lẻn qua những cánh cửa đó và tôi tắt hết đèn trong đây. Sau khi tôi tắt đèn, khoảng hai mươi giây sau thì Chesney mở cửa ra và bắt đầu buổi diễn. Có đúng một phút trôi qua trước khi Nemo xuất hiện. Phần của Nemo kéo dài trong ba mươi giây. Sau khi hắn ta đi, Chesney ngồi thêm ba mươi giây nữa, rồi ông ấy ngã về phía trước giả vờ chết. Sau đó ông ấy đứng lên và lại đóng những cánh cửa lại. Tôi gặp vài khó khăn trong quá trình bật đèn: tôi luôn luôn mò sai hướng bất cứ khi nào đụng đến cái công tắc chết tiệt đó. Mất hai mươi giây nữa. Nhưng toàn bộ màn trình diễn, từ lúc tắt đèn đến khi bật đèn lại, tốn khoảng hai phút hai mươi giây.”
Marjorie tỏ ra hoài nghi, và Harding chỉ nhún vai. Họ không mâu thuẫn với nhau, nhưng rõ ràng họ không mấy tán đồng. Cả hai trông đều trắng bệch và mệt mỏi. Marjorie run lên một chút, và đôi mắt của cô thì vô cùng căng thẳng. Elliot biết rằng đêm nay là một đêm áp lực hơn bình thường rất nhiều.
“Và câu hỏi cuối cùng,” anh nói. “Đây rồi. Ai hay những ai đã lên tiếng? Họ đã nói gì?”
“Tôi thấy mừng vì đây là câu hỏi cuối cùng,” Marjorie quan sát và nuốt nước miếng. “Và lần này ít nhất tôi biết mình không thể sai được. Thứ trong chiếc mũ chóp cao không hề nói lời nào.” Cô quay mặt nhìn giáo sư Ingram với vẻ quyết liệt. “Bác không phủ nhận điều đó, đúng không?”
“Không, cháu thân mến, ta không phủ nhận điều đó.”
“Và bác Marcus chỉ nói một lần. Đó là ngay sau lúc thứ đội mũ chóp cao vừa đặt chiếc giỏ xách đen lên bàn và bước qua góc tay phải của cái bàn. Bác Marcus đã nói, ‘Giờ anh đã làm những gì cần làm trước đó rồi, anh còn định làm gì nữa?’ ”
Harding gật đầu. “Đúng vậy. ‘Giờ anh xong những gì cần làm trước đó rồi, anh còn định làm gì nữa?’ Hoặc điều gì đó tương tự như thế, dù sao thì, tôi không đảm bảo thứ tự câu chữ chính xác được.”
“Và đó là toàn bộ những điều đã được nói ra?” Elliot kiên nhẫn hỏi.
“Toàn bộ mọi thứ.”
“Tôi không đồng ý,” giáo sư Ingram nói.
“Ôi, chết tiệt!” Marjorie gần như hét lên. Cô dậm mạnh chân. Elliot giật mình và khá sốc với cách mà khuôn mặt mềm mại của cô, một khuôn mặt gần như bình thản của thời Victoria, lại có thể thay đổi đến mức đó. “Quỷ tha ma bắt bác đi!”
“Marjorie!” Harding la lớn. Sau đó anh ho khan, và bắt đầu thực hiện một cử chỉ xấu hổ về phía Elliot, như một người lớn đang muốn đánh lạc sự chú ý của em bé bằng cách làm mặt hề.
“Không cần phải cư xử như thế, cháu yêu,” giáo sư Ingram nhẹ nhàng nói với cô gái. “Bác chỉ đang cố giúp cháu thôi. Cháu biết điều đó mà.”
Marjorie đứng lưỡng lự trong một lúc. Sau đó nước mắt bắt đầu dâng lên trong đôi mắt cô, và màu sắc trên khuôn mặt khiến cô có vẻ đẹp rất chân thật mà thậm chí sự co giật của cái miệng cũng không át đi được.
“Cháu x-xin lỗi,” cô nói.
“Ví dụ như,” giáo sư Ingram tiếp tục theo đuổi lời nói của mình, như thể chẳng có gì xảy ra cả, “nói rằng không có điều gì khác được nói trong suốt buổi trình diễn thì không đúng theo nghĩa đen.” Ông nhìn Harding. “Cậu đã lên tiếng, cậu biết đấy.”
“Cháu đã lên tiếng?” Harding lặp lại.
“Đúng. Khi bác sĩ Nemo vào phòng, cậu đã di chuyển lên phía trên để canh tầm nhìn tốt hơn cho máy quay phim của cậu, và cậu nói. ‘Suỵt! Người Vô Hình!’ Tôi nghĩ điều đó đúng phải không?”
Harding đưa tay chà chà mái tóc đen cứng rắn của mình. “Đúng vậy, thưa bác. Cháu có thể đã cố tỏ ra vui nhộn. Nhưng mẹ kiếp! Câu hỏi không liên quan đến điều đó. Nó chỉ liên quan đến những điều mà những người trên sân khấu nói thôi chứ, không phải sao?”
“Và cháu,” giáo sư Ingram tiếp tục nói với Marjorie, “cháu cũng lên tiếng, hoặc là thì thầm. Khi Nemo cho bác cháu nuốt viên nhộng thầu dầu đó, và buộc ông ấy nghiêng đầu ra sau cho đến khi nó xuống họng, cháu đã thốt ra một loại tiếng thét hay tiếng phản đối. Cháu đã nói hay thì thầm là, ‘Đừng! Đừng!’ Nó không lớn, nhưng nó rất dễ nhận ra.”
“Cháu không nhớ có nói điều gì cả,” Marjorie trả lời, chớp mắt. “Nhưng mấy điều đó để làm gì?”
Tông giọng của giáo sư trở nên dễ chịu hơn.
“Ta đang chuẩn bị cho cháu chống lại sự tấn công tiếp theo của thanh tra Elliot đây. Ta đã cố nói với cháu từ lúc nãy lâu rồi: Anh ta luôn băn khoăn không biết liệu có phải một trong ba chúng ta đã lẻn ra khỏi đây và giết bác của cháu trong hai phút khi đèn tắt không. Bây giờ, ta đang thề rằng ta đã nhìn và nghe cháu nói, cả hai đứa bây, trong suốt thời gian khi Nemo đang ở trên sân khấu. Ta có thể thề rằng hai người chưa bao giờ rời căn phòng này. Nếu hai đứa cũng ở thế có thể làm điều tương tự cho ta, chúng ta sẽ bày ra giá trị của bộ ba chứng cứ ngoại phạm mà dù có là Scotland Yard cũng không thể phá vỡ. Hai đứa có ở vị trí có thể thề không? Các cháu nói gì?”
Elliot chuẩn bị tinh thần. Anh biết rằng, vài phút tiếp theo sẽ mang mình đến điểm mấu chốt của vụ án.
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh