Truy Tìm Dracula epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 7
hiều tuần lễ sau cha đó, không rời khỏi Amsterdam, vàsuốt thời gian này tôi cảm thấy cha đã để mắt theo dõi tôi theo một kiểu cách mới.Một ngày kia, sau khi tan học, tôi về nhà trễ hơn thường lệ một chút và thấy bàClay đang nói chuyện điện thoại với cha. Bà chuyển máy cho tôi ngay. "Con đã ởđâu vậy?" cha hỏi. Cha gọi từ phòng làm việc ở Trung tâm vì Hòa bình và Dânchủ. "Cha đã điện thoại lần thứ hai và bà Clay vẫn không thấy con. Con đã làmcho bà ấy lo sốt vó lên đấy."
Cha lo sốt vó thì có, tôi có thể nói thế, dù cha đã cố gắnggiữ giọng bình thản. "Con ngồi đọc sách tại một quán cà phê mới mở gần trường,"tôi trả lời.
"Được rồi," cha tiếp tục. "Vậy lần sau nhớ gọi điện báo chobà Clay hoặc cha biết nếu con về trễ, thế nhé."
Tôi chẳng muốn đồng ý với ý kiến đó chút nào nhưng vẫn trảlời là sẽ gọi. Đêm đó, cha về nhà sớm để dùng bữa tối và đọc cho tôi nghe cuốnNhững kỳ vọng vĩ đại. Sau đó, cha lấy ra một vài album ảnh và chúng tôi cùngxem: Paris, Luân Đôn, Boston, đôi giày trượt patanh đầu tiên, lễ tổngkết cuối năm lớp ba của tôi, rồi lại Paris, Luân Đôn, Rome. Bao giờcũng chỉ có tôi, đứng trước Điện Pantheon hoặc trước cánh cổng thánh đường ChaLachaise, bởi chỉ có hai chúng tôi và cha là người chụp hình. Chín giờ, chakiểm tra tất cả cửa nẻo rồi để tôi đi ngủ.
Lần kế tiếp, khi về nhà trễ tôi đã gọi điện báo cho bà Clay,giải thích là tôi và vài người bạn cùng lớp sẽ cùng làm bài tập với nhau tronggiờ uống trà. Bà bảo thế thì được. Tôi gác máy và một mình đến thư viện trườngđại học. Bác Johan Binnerts, người thủ thư chuyên về các bộ sưu tập thời Trungcổ ở Amsterdam, giờ đã quen với sự có mặt của tôi, tôi nghĩ vậy; ít ra bác cũngnở một nụ cười nghiêm nghị mỗi lần tôi ghé qua với một câu hỏi mới, bác luônhỏi thăm xem mấy bài tiểu luận lịch sử của tôi tiến triển thế nào rồi. BácBinnerts đã tìm được cho tôi một đoạn trong một văn bản thế kỷ thứ mười chín màtôi vô cùng vui mừng khi nhận được và đã bỏ thời gian ra chép lại nó. Hiện tạitôi đã có văn bản đó, trong phòng làm việc ở Oxford - vài năm sau, tôi lại tìmthấy cuốn sách đó trong một hiệu sách: cuốn Lịch sử Trung Âu của Huân tướcGelling. Bao nhiêu năm qua, tôi vẫn tha thiết gắn bó với cuốn sách, dù chưa baogiờ mở nó ra mà không mang theo mình một cảm giác trống rỗng, ảm đạm. Tôi nhớnhư in cảnh tượng bàn tay của chính mình, bàn tay mềm mại và trẻ trung, chépnhững đoạn văn trong đó vào cuốn sổ học trò:
Ngoài việc biểu lộ tính độc ác tột cùng, Vlad Dracula cònrất can đảm. Một bằng chứng về sự táo bạo của ông ta: năm 1462, Dracula đã vượtsông Danube và tiến hành một cuộc đột kích ban đêm bằng kỵ binh vào ngay doanhtrại nơi Quốc vương Mehmed II và quân đội của ông ta tập kết hòng tấn côngWallachia. Trong cuộc đột kích này, Dracula đã tàn sát hàng ngàn chiến binh ThổNhĩ Kỳ, và vị Quốc vương Hồi giáo chỉ thoát chết trong gang tấc khi lực lượngvệ binh đế quốc Ottoman đẩy lui được quân Wallachia.
Tuy có thể thu thập được một số lượng tương đương các tưliệu liên quan đến tên tuổi của bất kỳ vị đại lãnh chúa phong kiến nào trongthời đại của họ - lắm khi còn nhiều hơn trường hợp này, và ở một số ít trườnghợp khác, số lượng tư liệu còn có thể vượt xa, nhưng điều vô cùng kỳ lạ về mảngthông tin có được về Dracula là tính bất tử của nó - tức là hắn đã không chịuchết đi như một nhân vật trong lịch sử, huyền thoại về hắn vẫn tiếp tục tồn tạidai dẳng. Một vài nguồn thông tin có giá trị ở Anh quốc đã trực tiếp hoặc giántiếp đề cập đến những nguồn tư liệu mà sự đa dạng của chúng hẳn sẽ khiến bất kỳnhà sử học nào cũng đều phải nổi tính tò mò. Dracula có vẻ như đã khét tiếng ởchâu Âu ngay thuở sinh thời của hắn - một thành tựu tuyệt vời trong những ngàymà châu Âu vẫn còn là một vùng rộng lớn và, theo tiêu chuẩn hiện tại của chúngta, còn bị phân mảng chia cắt nặng nề, một thế giới mà các chính quyền phảiliên lạc với nhau bằng những kỵ mã sứ giả và thuyền vận tải đường sông, ở vàothời điểm mà tính tàn bạo kinh hoàng là một đặc trưng bình thường của tầng lớpquý tộc. Sự khét tiếng của Dracula không kết thúc cùng cái chết bí ẩn của hắnvà vụ mai táng kỳ lạ năm 1476, nhưng hình như nó cũng vẫn tiếp diễn không hềsuy giảm cho đến khi tự tàn lụi trong ánh sáng rực rỡ của Thời Đại Khai Sáng ởphương Tây.
Mục viết về Dracula chấm dứt ở đó. Dù đã có khối việc liênquan đến lịch sử để lo nghĩ cả ngày, tôi vẫn lang thang đến bộ phận chuyêntrách văn học tiếng Anh và vui sướng khi phát hiện ra thư viện có một cuốnDracula của Bram Stoker. Thực ra sau đấy tôi còn lui tới đó đôi lần để đọc cuốnsách. Tôi không biết có được phép mượn sách ở đó mang về nhà hay không, nhưngdù được tôi cũng không muốn mang cuốn sách đó về nhà, vì chắc chắn tôi sẽ rấtkhó chọn lựa giữa việc giấu kín và việc thận trọng công khai cuốn sách trongnhà. Thay vì vậy, tôi đã ngồi đọc cuốn Dracula trên một chiếc ghế trượt, bêncạnh cửa sổ thư viện. Nếu thò đầu ra ngoài, tôi có thể nhìn thấy một trongnhững dòng kênh ưa thích của mình, kênh Singel, cùng với khu chợ hoa trên kênh vànhững người đang mua bánh mì cá trích ở một quầy hàng nho nhỏ. Đó là một vị trírất ít người qua lại, sau lưng một kệ sách che khuất tôi khỏi tầm nhìn của cácđộc giả khác trong phòng.
Ở đó, trong chiếc ghế đó, tôi để mặc những câu chuyện kinhdị phong cách Gothic và tình ái phóng túng thời Victoria của Stokerthay phiên nhau xâm chiếm tâm hồn mình. Tôi không chắc lắm mình muốn gì từ cuốnsách; theo cha, giáo sư Rossi cho rằng cuốn sách này hầu như không phải là mộtnguồn thông tin hữu ích về nhân vật Dracula có thực. Tôi nghĩ, dù không giốnggì nhiều với Vlad Ţepeş nhưng Bá tước Dracula lạnh lùng trong cuốn tiểu thuyếtlà một nhân vật hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng chính giáo sư Rossi lại tin chắc rằngDracula đã biến thành ma cà rồng, khi còn sống - trong suốt tiến trình lịch sử.Tôi băn khoăn tự hỏi liệu một cuốn tiểu thuyết có đủ năng lực làm cho mộtchuyện nào đó vô cùng kỳ quái biến thành có thực hay không. Xét cho cùng, giáosư Rossi đã tiến hành công việc tìm tòi của mình rất lâu sau ngày cuốn Dracula đượcxuất bản. Vlad Dracula, mặt khác, lại là một thế lực độc ác sống ở cái thờicách gần bốn trăm năm trước khi Stoker ra đời. Quả thực rất phức tạp.
Và chẳng phải giáo sư Rossi cũng từng nói rằng Stoker đãmang lại thêm rất nhiều thông tin có giá trị cho những người quan tâm tới ma càrồng hay sao? Tôi chưa bao giờ xem một phim về ma cà rồng nào - cha không thíchsự kinh dị dù dưới bất cứ hình thức nào - nên đối với tôi, những tập tục màStoker kể thật mới lạ. Theo Stoker, ma cà rồng chỉ có thể tấn công nạn nhân củamình trong khoảng thời gian giữa hoàng hôn và bình minh. Ma cà rồng gần như bấttử, thích hút máu người và bằng cách đó biến họ thành quỷ như chính nó. Ma càrồng có thể mang hình dạng của dơi, chó sói hoặc sương mù; có thể xua đuổichúng bằng cách sử dụng tỏi hoặc cây thánh giá; có thể tiêu diệt chúng bằngcách xuyên một cọc nhọn vào tim hoặc nhét đầy tỏi vào miệng chúng khi chúng ngủtrong quan tài suốt thời gian ban ngày. Một viên đạn bạc bắn vào tim cũng cóthể giết chết ma cà rồng.
Chẳng có gì trong cuốn sách đó làm cho tôi sợ hãi, bản thâncác tình tiết thì không; tất cả đều có vẻ quá xa xôi, quá hoang đường, quá kỳquặc. Nhưng có một khía cạnh của câu chuyện luôn ám ảnh tôi sau mỗi chương, khitôi đã đặt cuốn sách trở lại ngăn kệ và cẩn thận đánh dấu trang sách mà tôidừng lại. Ý tưởng đó cũng bám theo tôi khi tôi bước xuống những bậc cầu thangthư viện rồi băng qua những chiếc cầu trên dòng kênh, cho đến khi tôi về đếntận cửa nhà. Nhân vật Dracula trong trí tưởng tượng của Stoker có một loại nạnnhân mà hắn rất ưa thích: những cô gái trẻ.
Chưa bao giờ cha muốn về thăm phương Nam để thưởngthức nét đẹp của mùa xuân nơi đó như lúc này, cha thổ lộ; cha cũng muốn tôinhìn ngắm cảnh đẹp ở đó. Chẳng bao lâu kỳ nghỉ của chúng tôi cũng đến, dù các cuộchội họp ở Paris có làm cha chậm trễ vài ngày. Tôi đã học được cáchkhông hối thúc cha, cả trong chuyện du lịch lẫn đòi nghe chuyện kể; khi cha đãsẵn sàng thì việc gì đến sẽ đến, nhưng không bao giờ, không bao giờ vào nhữnglúc chúng tôi ở nhà. Tôi tin rằng cha không muốn mang cái linh hồn hắc ám ấyvào thẳng nhà mình.
Chúng tôi đáp xe lửa đến Paris và sau đó đi ô tôxuôi về hướngNam, tới rặng núi Cévennes. Vào các buổi sáng, tôi tiếp tục làmhai hoặc ba bài luận bằng thứ tiếng Pháp ngày càng tiến bộ hơn của mình và gửichúng về trường. Thậm chí bây giờ, sau hàng chục năm trời, tôi vẫn còn giữ đượcmột trong các bài luận đó; việc mở ra xem lại nó thường gợi lại trong tôi cáicảm giác còn vẹn nguyên về vùng trung tâm nước Pháp trong những ngày tháng Năm,mùi hương cỏ - không phải cỏ bình thường mà là l’herbe 1, có thể ăn sống được,tựa như tất cả các loại thực vật của nước Pháp đều có thể nấu nướng thành nhữngmón ngon tuyệt vời, trở thành các thành phần của món xa lát hoặc là thứ gì đóđể trộn cùng pho mát.
Tại các nông trại dọc đường, mà chúng tôi dừng lại để mua đồăn rồi dùng bữa luôn ngoài trời, đồ ăn ở đó ngon hơn bất kỳ món ăn nào mà nhàhàng có thể phục vụ: những bao dâu tươi ửng đỏ dưới ánh mặt trời và có vẻ chẳngcần rửa lại; những thỏi pho mát dê hình trụ nặng nề như những thanh tạ, bao bọcphía ngoài chúng là một lớp vỏ xù xì màu xám, như thể chúng vừa được lăn quasàn một hầm rượu. Cha uống loại rượu vang màu đỏ sậm, không nhãn hiệu và giáchỉ vài xu, sau mỗi bữa ăn cha đóng nắp chai rượu, mang theo cùng nó một lythủy tinh nhỏ, gói cẩn thận trong một cái khăn ăn. Về món tráng miệng, chúngtôi ngốn sạch những ổ bánh mì mới nướng mua ở một thị trấn gần đó, nhét đầy sôcô la đen miếng vuông. Bao tử tôi reo lên vì thích thú còn cha thì rầu rĩ nói chắchẳn phải ăn kiêng trở lại khi quay về với cuộc sống thường nhật.
Con đường dẫn chúng tôi xuyên qua miền Đông Nam vàkhoảng một hoặc hai ngày sau sẽ lên cao, vào vùng rừng núi lạnh hơn. "TỉnhPyrénées- Orientales - Mạn Đông rặng Pyrénées," cha nói với tôi, khi trải tấmbản đồ đường sá ra, trong lúc dùng bữa ăn ngoài trời. "Từ nhiều năm qua, chavẫn mong muốn trở lại nơi này." Dùng ngón tay vạch theo lộ trình, tôi phát hiệnra chúng tôi đã ở gần đất nước Tây Ban Nha đến độ không ngờ. Phát hiện này - vàcái từ đẹp đẽ Orientales - Mạn Đông - đã làm tôi ngây ngất. Chúng tôi đang đếngần những vùng biên của thế giới mà tôi vẫn hằng biết rõ, và lần đầu tiên tôinhận ra rằng một ngày nào đó mình có thể đi xa hơn và xa hơn nữa ra ngoài thếgiới ấy. Cha nói muốn tham quan một tu viện đặc biệt. "Cha nghĩ tối nay chúngta có thể tới thị trấn và đến mai sẽ cuốc bộ lên tu viện đó."
"Nó cao không cha?" tôi hỏi.
"Ở lưng chừng núi, chính yếu tố này đã bảo vệ tu viện tránhđược nhiều cuộc xâm lăng. Nó được xây dựng đúng vào năm 1000. Thật không thểtin được - cái nơi chốn nhỏ bé này như được tạc vào một khối đá, rất khó đếnđược, ngay cả đối với những khách hành hương nhiệt thành nhất. Nhưng con cũngsẽ thích cái thị trấn bên dưới không kém đâu. Đó là một thị trấn cổ kính, cósuối nước khoáng. Thực sự hấp dẫn." Cha cười khi nói câu đó, nhưng cha có vẻbồn chồn, hấp tấp xếp tấm bản đồ lại. Tôi có cảm giác chẳng bao lâu cha sẽ kểcho tôi nghe một câu chuyện khác; lần này có thể tôi không cần phải yêu cầu.
Khi chúng tôi lái xe vào Les Bains vào buổi chiều hôm đó,tôi thực sự thích nơi này. Đó là một làng lớn, xây dựng bằng đá màu vàng cát,nằm trải ra trên một chỏm núi nhỏ. Rặng Pyrénées hùng vĩ như treo lơ lửng bêntrên, phủ bóng lên tất cả, chỉ trừ những con đường nằm rộng nhất chạy về hướngnhững thung lũng sông và những nông trại bằng phẳng, khô ráo phía bên dưới.Những cây tiêu huyền bụi bặm, được cắt tỉa vuông vắn bao quanh một loạt các máihiên cũng bụi bặm, chẳng tỏa chút bóng mát nào cho những người dân thị trấnđang thong thả tản bộ, những cái bàn nơi những phụ nữ lớn tuổi bày bán các loạikhăn ren trải bàn và những chai tinh chất hoa oải hương. Từ nơi đó, chúng tôicó thể nhìn lên ngôi nhà thờ bằng đá mà ngày mai sẽ đến thăm ấy, dập dìu bóngchim nhạn, nằm trên đỉnh thị trấn, và nhìn ngắm tháp chuông của nó bồng bềnhgiữa bóng núi đồ sộ như một đỉnh chóp ảm đạm chực đổ xuống từng con đường làngkhi mặt trời lặn.
Chúng tôi ăn một bữa tối ngon lành với món xúp gì đó giốngnhư xúp Gazpacho, sau đó là món sườn bê trong một nhà hàng ở tầng một của mộttrong các khách sạn kiểu thế kỷ mười chín trong thị trấn. Viên quản lý nhà hànggác một chân lên thanh ngang bằng đồng của quầy rượu bên cạnh bàn chúng tôi vàhỏi han bằng giọng điệu thờ ơ nhưng lịch sự về cuộc hành trình của chúng tôi.Ông ta là người khá thô, mặc toàn một màu đen, mặt choắt và nước da xanh tái.Ông ta nói thứ tiếng Pháp giật cục, thêm mắm giặm muối cái gì đó mà tôi chưanghe bao giờ, tôi hiểu được quá ít so với cha. Cha phải dịch lại cho tôi.
"À, dĩ nhiên rồi… tu viện của chúng tôi," viên quản lý nhàhàng lên tiếng, trả lời câu hỏi của cha. "Các vị có biết mỗi mùa hè tu việnThánh Matthieu thu hút được khoảng tám ngàn khách thăm viếng chứ? Vâng, đúngvậy. Nhưng tất cả bọn họ đều rất dễ chịu và trật tự, ngoài ra có rất nhiều tínđồ Thiên Chúa giáo ngoại quốc cũng leo bộ lên đó, thật đúng là một cuộc hànhhương. Sáng dậy họ tự dọn chỗ ngủ, nên chúng tôi hầu như không biết họ đến rồiđi lúc nào. Dĩ nhiên, nhiều người khác chỉ đến để les bains - tắm suối nướckhoáng. Các vị sẽ tắm chứ?"
Cha đáp là chúng tôi phải quay về miền Bắc sau hai đêm ở đâyvà dự định sẽ dành cả ngày mai để thăm tu viện.
"Các vị biết đấy, có rất nhiều truyền thuyết nói về nơi chốnđó, một số rất đáng lưu ý, và tất cả đều có thực," viên quản lý nhà hàng tiếptục kể, mỉm cười, nụ cười bất chợt làm cho khuôn mặt loắt choắt của ông ta trởnên dễ nhìn hơn. "Cô gái trẻ này hiểu chứ? Có lẽ cô quan tâm muốn biết nhữngtruyền thuyết đó."
"Je comprend, merci," 2 tôi lịch sự trả lời.
"Tốt. Tôi sẽ kể một chuyện. Các vị không phiền chứ? Xin mời,hãy dùng món sườn đi chứ - món này dùng nóng mới ngon." Ngay lúc đó, cánh cửanhà hàng mở ra, một cặp vợ chồng già tươi cười bước vào, chọn một bàn, hẳn họlà cư dân địa phương. "Bon soir, buenas tardes," 3 tay quản lý khách sạn nóiliền một hơi. Tôi nhìn cha dò hỏi, cha chỉ cười.
"Vâng, ở đây chúng tôi pha trộn lung tung," viên quản lýcười, giải thích. "Chúng tôi là món xa lát, trộn lẫn mọi văn hóa. Ông nội tôinói tiếng Tây Ban Nha rất cừ - tiếng Tây Ban Nha hoàn hảo đấy nhé - lúc về giàông vẫn còn tham gia cuộc nội chiến của họ. Ở đây, chúng tôi yêu chuộng mọingôn ngữ. Ở chỗ chúng tôi, không có bom đạn, không có khủng bố, không như nhữngngười xứ Basques 4. Chúng tôi không phải là bọn tội phạm." Ông nhìn quanh, vẻphẫn nộ, tựa như có ai đó vừa bài bác lại mình.
"Sẽ giải thích cho con sau," cha thì thầm nói.
"Vậy, tôi sẽ kể cho các vị nghe một câu chuyện. Tôi tự hàonói rằng người ta gọi tôi là sử gia của thị trấn này. Các vị ăn đi chứ. Như cácvị đã biết, tu viện của chúng tôi được xây dựng vào năm 1000. Thực ra là năm999, bởi vì các tu sĩ đã chọn địa điểm này để chuẩn bị cho Ngày Tận Thế sắpđến, các vị biết đấy, trong thiên niên kỷ. Họ đã trèo lên những ngọn núi này đểtìm kiếm một địa điểm xây nhà thờ. Sau đó, một người trong bọn họ đã nằm mơthấy Thánh Matthieu hiển linh, đặt lên chỏm núi phía trên họ một bông hồngtrắng. Ngày hôm sau họ leo lên đó và tôn vinh ngọn núi bằng những bài kinh cầunguyện. Rất đẹp - các vị sẽ thích nó. Nhưng đó chưa phải là huyền thoại haynhất. Đó chỉ là chuyện sáng lập nên nhà thờ.
"Như thế, khi tu viện và ngôi nhà thờ nhỏ được đúng một trămtuổi, một trong các tu sĩ sùng đạo nhất, người chuyên giảng dạy cho các tu sĩtrẻ hơn, đã chết một cách bí ẩn ngay giữa độ tuổi trung niên. Ông ta tên Miguelde Cuxa. Người ta vô cùng thương tiếc và đã an táng ông ấy trong hầm mộ nhàthờ. Các vị biết đấy, hầm mộ đó đã làm cho vùng này trở nên nổi tiếng, bởi đólà kiến trúc kiểu La Mã cổ nhất châu Âu. Đúng vậy!" Ông ta gõ các ngón tay dàivà vuông lên quầy rượu một cách tự tin. "Vâng! Một số người nói vinh dự nàythuộc về thị trấn Saint- Pierre, nằm ở phía ngoài thành phốPerpignan, nhưng đóchỉ là chuyện bịa nhằm thu hút khách du lịch mà thôi.
"Dù sao chăng nữa, học giả vĩ đại này đã được an táng tronghầm mộ nhà thờ, và chẳng bao lâu sau một tai họa đã ập đến với tu viện. Nhiềutu sĩ đã chết vì một bệnh dịch kỳ lạ. Người ta tìm thấy xác của từng người mộttrên các hành lang - hành lang rất đẹp, các vị sẽ thích chúng cho mà xem. Chúngđẹp nhất châu Âu. Thế đấy, người ta thấy các tu sĩ khi họ đã chết, trắng bệchnhư ma, tựa như họ không còn chút máu trong người. Mọi người nghi ngờ là dothuốc độc.
"Sau cùng, một tu sĩ trẻ - học trò cưng của vị tu sĩ quá cố- đã đi xuống hầm mộ mở quan tài vị thầy ra, bất chấp sự phản đối của cha tuviện trưởng, vốn là người rất yếu bóng vía. Và họ phát hiện vị tu sĩ vẫn cònsống, nhưng không thực sự sống, liệu các vị có hiểu ý tôi. Một xác chết sống.Ban đêm, ông ta trỗi dậy để giết các tu sĩ đồng liêu. Để linh hồn tu sĩ khốnkhổ ấy được yên nghỉ, người ta đã mang nước thánh từ một nơi linh thiêng trongdãy núi và lấy về một cái cọc thật nhọn…" Ông ta vung tay vẽ vào khoảng khôngmột hình thù đầy ấn tượng, để tôi có thể hình dung được độ bén nhọn của chiếccọc kia. Tôi tập trung hướng chú ý khỏi con người và thứ tiếng Pháp của ông ta,nỗ lực tối đa để ghép những mẩu chuyện của ông ta lại với nhau trong đầu. Chađã ngừng không thông dịch cho tôi nữa, và ngay lúc đó, nĩa của cha rớt xuốngđĩa lanh canh. Khi nhìn lên, tôi thấy mặt cha trắng bệch như chiếc khăn trảibàn, nhìn chăm chăm vào người bạn mới của chúng tôi.
"Liệu chúng tôi có thể…" Cha hắng giọng, dùng chiếc khăn ănchùi miệng một hai lần. "Liệu chúng tôi có thể dùng cà phê được chưa?"
"Nhưng các vị chưa dùng món xa lát kia mà." Vị chủ nhà hàngtrông có vẻ không vui. "Hiếm có lắm đấy. Chiều tối nay chúng tôi còn có poiresbelles- Hélène 5, một loại pho mát rất ngon, và một cái bánh ngọt cho quý côtrẻ tuổi đây nữa."
"Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi," cha vội vàng tiếp lời."Vâng, thì mang hết tất cả các món đó lên cho chúng tôi."
Quảng trường thấp nhất trong số các quảng trường đầy bụi bặmcủa thị trấn vang dội tiếng nhạc phát ra đều đều từ loa phóng thanh khi chúngtôi xuất hiện; vài vở diễn địa phương đang được mười hoặc mười hai đứa trẻtrong những trang phục gợi nhớ đến vở kịch Carmen biểu diễn. Các cô bé đứngrung tại chỗ, làm cho những lớp viền đăng ten vàng bóng từ hông đến mắt cá chânrung xào xạc, những cái đầu đung đưa duyên dáng dưới những tấm khăn choàng viềnren. Các cậu bé thì giậm chân rồi quỳ xuống, hoặc xoay tròn quanh các cô bé,mặt ra vẻ khinh khỉnh. Mỗi cậu đều mặc áo khoác đen ngắn, quần chẽn bó sát vàđội mũ nhung. Chúng tôi có thể nghe được tiếng nhạc thỉnh thoảng dội lên, kèmtheo là âm thanh giống như tiếng roi quất, càng đến gần nghe càng vang to hơn.Một vài du khách khác đang đứng vòng quanh xem các cô cậu bé vũ công cùng mộtdãy các bậc cha mẹ ông bà ngồi trên ghế xếp bên cạnh hồ phun cạn nước, vỗ taymỗi khi các cậu bé giậm chân hoặc tiếng nhạc đến độ cao và nhanh nhất.
Chúng tôi chỉ nán lại vài phút rồi trở lại với con đường dẫnlên núi cao, con đường dẫn thẳng từ quảng trường lên ngôi nhà thờ trên đỉnh.Cha không đề cập gì đến việc mặt trời đang ngả bóng, nhưng tôi cảm thấy chúngtôi đang rảo bước thế này bởi ánh ngày sắp tắt, và chẳng ngạc nhiên khi thấytoàn bộ ánh sáng trên miền quê hoang dã này đã bỏ nó mà đi. Khi chúng tôi lêncao hơn, dãy Pyrénées hiện ra sừng sững, xanh thẫm trên đường chân trời, rồihòa vào nền trời xanh đen. Quang cảnh nhìn từ chân tường nhà thờ thật hùng vĩ - không gây choáng váng như phong cảnh chúng tôi đã thấy ở những thị trấn Ý màtôi tới giờ vẫn hằng mơ tưởng, nhưng rộng mênh mông: đồng bằng xen kẽ nhữngngọn đồi tập hợp nhau lại thành một vùng chân núi, rồi vùng chân núi giận dữnhô vút lên thành những đỉnh chóp đen thẫm, che khuất cả một vùng trời xa. Ngaybên dưới chúng tôi, thị trấn đã lên đèn, mọi người đang cười nói rảo bước trênđường phố hay ngõ hẻm, một mùi hương giống như hương cẩm chướng tỏa lên từ nhữngkhu vườn hẹp có tường bao bọc chung quanh. Những chú chim nhạn lượn vào lượn ratrên ngọn tháp nhà thờ, chao liệng tựa như đang vẽ một cái gì đó vô hình bằngnhững sợi tơ trời. Tôi chú ý có một con chao cánh như say rượu giữa những conkhác, tựa như nó không có sức nặng, vụng về chứ không nhanh nhẹn, và tôi chợtnhận ra đó là một con dơi đơn lẻ, chỉ nhìn rõ nhờ thứ ánh sáng chập chờn.
Cha thở dài, tựa vào tường, gác chân lên một tảng đá - mộtcây cột để buộc dây ngựa, hay cái bục để lấy thế leo lên lưng lừa đây nhỉ? Chanói to băn khoăn này lên để tôi thấy ông vẫn bình thường. Dù là gì chăng nữa,hàng thế kỷ qua nó đã chứng kiến quang cảnh này, vô số buổi hoàng hôn thế này,sự đổi thay khá gần đây từ ánh nến sang ánh điện trong những quán cà phê vànhững đường phố có tường cao bao bọc. Cha đứng đó, có vẻ đã thoải mái trở lạisau một bữa ăn ngon và một cuốc tản bộ trong bầu không khí cực kỳ trong lành;nhưng tôi thấy có vẻ như cha cố tình tỏ ra thanh thản. Tôi không dám hỏi cha vềphản ứng kỳ lạ của cha đối với câu chuyện mà viên quản lý nhà hàng kể, nhưng rõràng một cảm giác đã ập đến với tôi - rằng có thể cha từng gặp phải nhữngchuyện còn kinh khủng hơn câu chuyện cha đã kể cho tôi nghe. Lần này, tôi khôngcần phải yêu cầu cha tiếp tục câu chuyện; dường như ngay lúc đó cha thích kểcâu chuyện đó, hơn là một cái gì đó tồi tệ hơn.
Chú thích
1 Tiếng Pháp: Thảo mộc.
2 Tiếng Pháp: Tôi hiểu, cám ơn ông.
3 Tiếng Pháp, Tây Ban Nha: cũng có nghĩa là Chào buổichiều.
4 Basque: khu vực tự trị ở phía Bắc Tây Ban Nha, bao gồm batỉnh Álava, Guipúzcoa và ~~~Vizcaya; thủ phủ là thành phố Vitoria- Gasteiz, dân sốhơn 2 triệu, diện tích 7.260 ~~~kilomet vuông.
5. Nguyên văn tiếng Pháp: món tráng miệng nhẹ bằng trái cây,chủ yếu bằng trái lê, do nữ hầu tước xinh đẹp Hélène người Pháp sáng chế.
Truy Tìm Dracula Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova Truy Tìm Dracula