Chương 8
ậc thềm ấm áp nhưng rất cao. “Nếu đi xuống lối đi,” Arrietty nghĩ, “mình có thể không trở lên lại được,” vì thế cô bé ngồi im lặng giây lát. Một lúc sau cô bé để ý đến cái gạt bùn cho đế giày.
“Arrietty,” ông Pod khẽ gọi, “con đi đâu rồi?”
“Con vừa trèo xuống cái gạt bùn,” cô bé trả lời.
Ông đi đến và nhìn xuống cô bé từ bậc thềm trên cùng. “Không sao đâu,” ông nói sau khi nhìn chăm chú cô bé một lúc, “nhưng đừng bao giờ trèo xuống cái gì không cố định. Giả sử một người đến và di chuyển cái gạt bùn, lúc đó con sẽ làm sao? Con sẽ lên lại bằng cách nào?”
“Di chuyển nó rất nặng,” Arrietty nói.
“Có thể,” ông Pod nói, “nhưng nó di chuyển được. Con hiểu ý bố chứ? Có những quy định, con gái ạ, và con phải học.”
“Lối đi này,” Arrietty nói, “chạy quanh ngôi nhà. Và bờ cỏ cũng thế.”
“Ừ,” ông Pod nói, “thì sao?”
Arrietty cọ chiếc giày da dê đỏ vào một hòn đá tròn. “Cái lưới sắt tường của con,” cô bé giải thích. “Con nghĩ nó phải ở ngay sau góc nhà. Cái lưới sắt của con nhìn ra bờ cỏ này.”
“Cái lưới sắt của con!” ông Pod kêu lên. “Bắt đầu từ bao giờ nó đã trở thành cái lưới sắt của con vậy?”
“Con đang nghĩ,” Arrietty nói tiếp. “Giả sử con đi vòng ra sau góc nhà và gọi mẹ qua cái lưới sắt thì sao nhỉ?”
“Không,” ông Pod nói, “chúng ta nhất định sẽ tuyệt chẳng làm thế. Sẽ không đi vòng ra các góc nhà.”
“Nếu thế,” Arrietty nói tiếp, “mẹ sẽ biết con không làm sao.”
“Thôi,” ông Pod nói, và rồi ông hơi mỉm cười, “thế thì đi nhanh lên mà gọi. Bố sẽ trông chừng cho con ở đây. Nhưng nhớ đừng gọi to nhé!”
Arrietty chạy. Những viên sỏi trên lối đi được rải chìm chắc chắn và đôi giày mềm nhẹ của cô bé hầu như không chạm vào chúng. Thật tuyệt vời khi được chạy - ta không bao giờ có thể chạy ở dưới sàn nhà: ta đi bộ, ta cúi xuống, ta bò - nhưng ta không bao giờ chạy. Arrietty suýt chút nữa đã chạy qua cái lưới sắt. Cô bé nhìn thấy nó vừa đúng lúc vòng qua góc nhà. Đúng, nó ở đó, khá gần mặt đất, được gắn sâu vào bức tường cũ kỹ của ngôi nhà; rêu ở dưới nó tạo thành một vệt xanh loang lổ.
Arrietty chạy đến nó. “Mẹ ơi!” cô bé gọi, mũi gí sát vào lưới sắt. “Mẹ ơi!” cô bé im lặng đợi và, sau giây lát, cô bé lại gọi.
Đến tiếng gọi thứ ba thì bà Homily tới. Tóc bà xõa xuống và bà đang cầm, như thể nó rất nặng, cái nắp vặn của một lọ dưa chuột đựng đầy nước xà phòng. “Ôi,” bà nói với giọng bực mình, “con chẳng để mẹ yên lấy nửa phút! Con nghĩ con đang làm gì vậy? Bố con đâu?”
Arrietty hất đầu sang một bên. “Ngay kia - bên cạnh cửa ra vào!” Cô bé tràn đầy hạnh phúc tới nỗi, thoát khỏi tầm nhìn của bà Homily, những ngón chân của cô nhảy múa trên vết rêu xanh. Thế đấy, cô đang ở bên kia cái lưới sắt - cuối cùng cô bé đang đứng ở đây, từ ngoài nhìn vào!
“Ừ,” bà Homily nói, “họ mở cái cửa đó như thế đấy - vào ngày đầu tiên của mùa xuân. Thôi,” bà nhanh nhảu nói tiếp, “con chạy lại với bố đi. Và bảo bố, nếu chẳng may cửa phòng khách mở thì mẹ sẽ không từ chối một miếng giấy thấm màu đỏ đâu. Thôi, bây giờ thì tránh ra - khi mẹ đổ chỗ nước này đi.”
“Đó là cái làm rêu mọc,” Arrietty nghĩ trong khi bước nhanh lại với bố, “tất cả nước chúng ta đổ ra qua cái lưới sắt...”
Ông Pod trông nhẹ nhõm hơn khi thấy cô bé nhưng lại cau có vì lời nhắn. “Làm sao mẹ trông mong bố trèo lên cái bàn viết khi không có cây kim của bố? Lấy giấy thấm là việc đòi hỏi phải trèo lên rèm cửa và leo lên ghế, mẹ con lẽ ra phải biết chứ. Đi thôi nào! Con trèo lên đi!”
“Bố hãy để con ở dưới này,” Arrietty năn nỉ, “chỉ một chút nữa thôi. Chỉ đến khi bố xong việc. Tất cả họ đã đi ra ngoài rồi. Trừ Bà. Mẹ đã nói thế.”
“Mẹ có thể nói bất cứ điều gì,” ông Pod càu nhàu, “khi mẹ muốn nhanh chóng có cái gì đó. Làm sao mẹ biết được Bà không nảy ra ý định ra khỏi giường và chống gậy xuống tầng dưới chứ? Làm sao mẹ biết được bà Driver không ở lại nhà hôm nay - vì một cơn nhức đầu? Làm sao mẹ biết được cái cậu bé đó còn ở đây hay không?”
“Cậu bé nào?” Arrietty hỏi.
Ông Pod trông có vẻ lúng túng. “Cậu bé nào?” ông nhắc lại với vẻ mơ hồ và rồi nói tiếp, “Hoặc có thể là Crampfurl...”
“Crampfurl không phải là một cậu bé,” Arrietty nói.
“Không, ông ấy thì không,” ông Pod nói, “trong chừng mực của ngôn từ. Không,” ông nói tiếp như đang suy nghĩ vấn đề, “không, ta không gọi Crampfurl là một cậu bé được. Không phải, như ta có thể nói, một cậu bé - hẳn rồi. Ừ,” ông vừa nói vừa bắt đầu di chuyển, “cứ ở lại dưới đó một lát nếu con thích. Nhưng ở gần đây thôi!”
Arrietty nhìn ông rời khỏi bậc thềm và rồi đưa mắt ra xung quanh. Ôi, hạnh phúc quá! Ôi, vui sướng quá! Ôi, tự do quá! Ánh sáng mặt trời, cỏ, gió nhẹ và nửa đường lên bờ cỏ, chỗ vòng ra ở góc nhà, một cây anh đào đang nở hoa! Bên dưới cây trên lối đi là một thảm cánh hoa màu hồng và, ngay dưới gốc cây nhạt màu như bơ là một bụi hoa anh thảo.
Arrietty cẩn thận liếc nhìn về phía thềm cửa ra vào và rồi, nhẹ nhàng và nhún nhảy, trên đôi giày da dê mềm của mình, cô bé chạy về phía những cánh hoa. Chúng cong cong như những cái vỏ và đu đưa khi cô bé chạm vào. Cô bé gom nhặt lại vài cánh và xếp chúng cái nọ trong cái kia... mỗi lúc một cao... như một tòa lâu đài bằng tú lơ khơ. Và rồi cô bé làm đổ chồng cánh hoa. Ông Pod đã quay lại bậc thêm cao nhất và nhìn dọc lối đi. “Con đừng đi xa,” ông nói sau giây lát. Nhìn thấy môi của bố cử động, cô bé mỉm cười lại: cô bé đứng quá xa để có thể nghe thấy những lời nói của bố.
Một con bọ cánh cứng màu lục, sáng bóng trong ánh mặt trời, băng qua các viên sỏi bay về phía cô bé. Cô bé khẽ đặt những ngón tay của mình lên lớp vỏ của nó và nó đứng im, chờ đợi và dò xét, và khi cô bé nhấc tay ra con bọ cánh cứng tiếp tục đi nhanh. Một con kiến đi qua vội vàng theo đường chữ chi. Cô bé nhảy múa ở trước mặt nó để trêu chọc nó và giơ một chân lên trước. Nó nhìn cô bé chằm chằm, bối rối, vẫy râu; rồi bực mình, như phát cáu nó đi chệch sang lối khác. Hai chú chim bay xuống, cãi nhau choác choác, trên thảm cỏ ở dưới gốc cây. Một con bay đi nhưng Arrietty có thể thấy được con kia chuyển động giữa những sợi cỏ trên bờ dốc phía trên cô. Cô bé thận trọng di chuyển về phía bờ cỏ và hơi lo lắng trèo vào giữa những lá cỏ xanh. Khi cô bé nhẹ nhàng rẽ chúng ra bằng đôi tay trần, những giọt nước rỏ xuống váy cô bé và cô bé cảm thấy đôi giày đỏ trở nên ẩm ướt. Nhưng cô bé vẫn đi tiếp, chốc chốc lại bám lên những thân cây dạng rễ để đu mình vào trong khu rừng đầy rêu, violet dại và cỏ ba lá. Lá cỏ trông có vẻ sắc, cao đến tận hông, mềm mại khi chạm vào và nhẹ nhàng cong xuống khi cô bé đi ngang qua. Cuối cùng khi cô bé đến bên gốc cây, con chim sợ hãi bay đi mất và cô bé ngồi sụp xuống trên một lá anh thảo sần sùi. Không khí tràn ngập hương thơm. “Nhưng chẳng có gì chơi với mình cả,” cô bé nghĩ rồi nhìn thấy những vết nứt và đường nhăn của lá cây anh thảo đọng những giọt sương trong suốt. Nếu cô bé ấn chiếc lá thì sương sẽ lăn như những viên bi. Bờ cỏ ấm áp, ở đây gần như quá ấm giữa sự che chở của đám cỏ cao, và đất cát có mùi hanh khô. Đứng dậy, cô bé hái một bông anh thảo. Cuống hoa màu hồng cảm giác thật mềm mại và sống động trong đôi bàn tay của cô bé và được bao bọc bằng một lớp lông tơ lấp lánh ánh bạc, và khi cô bé cầm bông hoa, như một cái ô, giữa đôi mắt cô và bầu trời, cô bé nhìn thấy ánh mặt trời nhàn nhạt xuyên qua những cánh hoa có đường vân. Trên một miếng vỏ cây cô bé tìm thấy một con mối và cô khẽ đập nó bằng bông hoa đang đung đưa của mình. Nó lập tức co rúm lại thành một quả bóng, khẽ nảy nảy xuống con dốc lẫn vào giữa đám rễ cỏ. Nhưng cô bé biết về loài mối. Có đầy mối ở nhà, bên dưới sàn nhà. Bà Homily luôn trách mắng cô bé nếu cô chơi với chúng vì, bà nói, chúng bốc mùi như những con dao cũ. Cô bé nằm xuống giữa những cuống hoa anh thảo và chúng tỏa hơi mát giữa cô bé và mặt trời, rồi sau đó, thở dài, cô bé quay đầu đưa mắt sang bên bờ nhìn vào giữa những cọng cỏ. Giật mình, cô bé nín thở. Cái gì đó cử động phía trên cô bé, trên bờ cỏ. Cái gì đó sáng long lanh. Arrietty nhìn chằm chằm.
Những Người Vay Mượn Tí Hon Những Người Vay Mượn Tí Hon - Mary Norton Những Người Vay Mượn Tí Hon