Chương 7
ng Waterhouse đang chần chừ do dự trên các bậc thềm nhà số 18, Wilbraham Crescent, quay lại nhìn bà chị với vẻ bồn chồn lo lắng.
“Chị chắc chắn mình sẽ không sao chứ?”
Cô Waterhouse khịt mũi, hơi tức giận.
“Tôi không hiểu cậu muốn nói gì, James.”
Ông Waterhouse có vẻ hối lỗi. Ông đã phải tỏ ra hối lỗi quá thường xuyên đến nỗi hầu như lúc nào vẻ hối lỗi ấy cũng hiện lên trên nét mặt.
“À, em chỉ muốn nói, cứ xem những gì đã xảy ra ở nhà kế bên hôm qua thì…”
Ông đã chuẩn bị sẵn sàng lên đường tới văn phòng của các cố vấn pháp luật, chỗ ông đang làm việc. Đó là một người đàn ông tóc hoa râm, ăn mặc chỉnh tề, vai hơi bị khòm và sắc mặt xám xịt chứ không hồng hào, tuy trông ông không có vẻ ốm đau bệnh hoạn một chút nào.
Cô Waterhouse cao lớn gầy gò, là kiểu phụ nữ bản thân không có chuyện gì bậy bạ vô lý cả, và không dung tha chuyện vô lý bậy bạ của kẻ khác.
“Có lý do nào không James, bởi hôm qua có ai đó bị mưu sát ở nhà bên cạnh, nên hôm nay chị sẽ bị giết chết hay sao?”
“À, chị Edith ơi,” ông em nói, “còn tùy thuộc rất nhiều vào kẻ nào đã gây án mạng, phải không?”
“Cậu thực sự nghĩ là có ai đó cứ đi lui đi tới trên đường Wilbraham Crescent để tuyển chọn một nạn nhân từ mọi căn nhà hay sao? Cậu James à, chuyện đó gần như là hồ đồ.”
“Hồ đồ sao?” ông Waterhouse nói với vẻ kinh ngạc.
“Tôi thích thấy có ai đến đây và tìm cách giết tôi chết,” bà chị nói một cách khí khái.
Ông em thầm nghĩ chuyện đó có vẻ không thể nào xảy ra. Nếu ông phải chọn lựa nạn nhân, ông sẽ không chọn bà chị mình. Nếu ai đó thử làm như vậy, nhiều khả năng là kẻ tấn công sẽ bị hạ gục bằng một thanh sắt nung hay cây chống cửa rồi bị giao nộp cho cảnh sát trong tình trạng đổ máu.
“Em chỉ muốn nói,” vẻ hối lỗi rõ nét hơn trên mặt ông, “là có… à… có những nhân vật rõ ràng không ai ưa ở đâu đó.”
“Chúng ta chưa biết gì nhiều về chuyện gì đã xảy ra,” cô Waterhouse nói. “Đủ thứ lời đồn đại đang lan truyền khắp nơi. Bà Head sáng nay đã kể một số chuyện dị thường.”
“Mong là thế, mong là thế.” Ông Waterhouse nói rồi nhìn đồng hồ đeo tay. Thực sự ông không thích nghe những câu chuyện do bà giúp việc lắm lời mang vào nhà. Chị ông không bao giờ chịu mất thì giờ để lật tẩy những chuyện khủng khiếp do trí tưởng tượng bay bổng, bà rất khoái nghe.
“Có người nói,” cô Waterhouse bảo, “rằng người đàn ông đó là thủ quỹ hay thành viên hội đồng quản trị của Viện Aaronberg; và có sai sót trong sổ sách kế toán nên ông ta đã tới nhà cô Pebmarsh để hỏi chuyện.”
“Và cô Pebmarsh đã giết chết ông ta hay sao?” Ông em tỏ vẻ vui thích một cách dè dặt. “Một người đàn bà mù sao? Chắc chắn là…”
“Lẹ làng luồn một sợi dây quanh cổ ông ta rồi siết cho ông ta nghẹt thở,” bà chị nói. “Ông ta đã mất cảnh giác, cậu hiểu không? Ai lại cảnh giác với người mù chứ? Chị cũng không tin,” bà nói thêm. “Chắc chắn cô Pebmarsh là người có cá tính rất tuyệt. Chị không đồng quan điểm với bà ấy về nhiều việc, nhưng không phải vì vậy mà chị đổ vấy một bản tính tội phạm nào đó cho bà. Đơn giản chị nghĩ những quan điểm của bà ta thật mù quáng cả tin và ngông cuồng vô lý. Suy cho cùng còn có những chuyện khác ngoài giáo dục. Tất cả các trường cơ bản mới thành lập trông có vẻ đặc sắc này thực tế được xây bằng thủy tinh. Cậu có thể nghĩ người ta đã định trồng dưa chuột trong đó, hay là cà chua. Chắc chắn rất có hại cho trẻ em vào những tháng hè. Chính bà Head đã cho chị biết con bé Susan nhà bà ấy không thích các phòng học mới của chúng. Nó không thể nào chăm chú theo dõi bài học vì tất cả những cửa sổ ấy khiến ta không thể nào không nhìn ra bên ngoài suốt cả buổi.”
“Trời ơi là trời!” ông em lại ngó đồng hồ. “À, à, em e rằng trễ quá mất rồi. Tạm biệt chị nhé! Chị bảo trọng nhé! Có lẽ tốt hơn hết cứ buộc dây xích vào cánh cửa nhỉ?”
Bà chị lại khịt mũi. Đóng cửa lại sau lưng ông em rồi và định rút lui lên lầu, chợt bà tạm dừng với vẻ đăm chiêu suy nghĩ, đi tới chỗ cái túi chơi golf, lôi ra một cái gậy rồi đặt nó ở một vị trí chiến lược gần cánh cửa. “Đó,” bà chị có vẻ thoả mãn đôi chút. Tất nhiên ông em James nói vớ vẩn. Tuy nhiên cũng phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng. Cái kiểu ngày nay người ta cho bệnh nhân tâm thần ra khỏi nhà thương điên, thúc giục họ trở về với cuộc sống bình thường, theo bà là quá nguy hiểm cho tất cả những người khác thuộc mọi tầng lớp.
Cô Waterhouse đang ở trong buồng ngủ thì bà Head hấp tấp lên lầu. Bà này nhỏ thó, tròn trịa y hệt một trái banh cao su — bà ta thích thú với mọi chuyện xảy ra.
“Có hai quý ông muốn gặp bà,” người giúp việc nói vẻ rất háo hức. “Ít nhất…” bà ta nói tiếp, “thiệt ra hổng phải quý ông gì ráo — là cảnh sát đó.”
Bà đẩy tới trước một tấm thiếp. Cô Waterhouse cầm lấy.
“Thanh tra Hardcastle,” bà đọc. “Bà có dẫn họ vào phòng tiếp khách chưa?”
“Không, tui đưa mấy ổng vô phòng ăn. Tui đã dọn dẹp bàn ăn sáng rồi và tui nghĩ chỗ đó hợp hơn. Rốt cục họ chỉ là cảnh sát thôi mà.”
Cô Waterhouse không hoàn toàn nghe theo cái kiểu lý sự đó. Tuy vậy bà vẫn nói, “Tôi sẽ xuống dưới.”
“Tui mong là họ muốn hỏi bà về cô Pebmarsh. Muốn biết bà có để ý cái gì kỳ cục trong tính cách của bả hay không. Người ta nói mấy người tâm thần bị bấn loạn đôi khi lên cơn bất tử lắm và có rất ít biểu hiện báo trước. Nhưng thường có cái gì đó, kiểu nói nào đó, bà biết mà. Bà có thể nhận biết qua ánh mắt của họ, người ta nói vậy đó. Nhưng lại không áp dụng được với một bà mù, đúng không? Hà…” bà ta lắc đầu.
Chủ nhà nện bước xuống cầu thang rồi đi vào phòng ăn với đôi chút hiếu kỳ thích thú giấu kín dưới cái dáng vẻ thách thức thường ngày.
“Thanh tra Hardcastle ạ?”
“Chào cô Waterhouse.” Hardcastle đã đứng dậy. Ông dắt theo một thanh niên cao ráo da sẫm màu mà bà chủ nhà chẳng thèm chào hỏi. Bà chẳng hề để ý đến tiếng nói chuyện thì thầm nghe không rõ của Trung sĩ Lamb.
“Tôi hy vọng mình đã không ghé thăm vào một giờ giấc quá sớm,” Hardcastle nói. “Tôi nghĩ cô đã biết là về việc gì rồi. Cô đã nghe nói về chuyện xảy ra ở nhà kế bên ngày hôm qua.”
“Án mạng xảy ra ở nhà hàng xóm kế bên, thế nào người ta cũng có để ý,” bà chủ nhà nói. “Thậm chí tôi đã phải đuổi đi một vài phóng viên tới đây hỏi tôi có quan sát thấy gì hay không.”
“Cô đã đuổi họ đi à?”
“Tất nhiên.”
“Cô hoàn toàn có lý,” thanh tra nói. “Dĩ nhiên họ thích luồn lách vào mọi nơi, nhưng tôi chắc chắn cô hoàn toàn có khả năng đối phó với bất cứ chuyện gì đại loại như thế.”
Cô Waterhouse cho phép mình thể hiện một phản ứng hơi thích thú với lời khen đó.
“Tôi hy vọng cô sẽ không phiền lòng vì chúng tôi hỏi cùng một thứ câu hỏi ấy,” Hardcastle nói, “nhưng nếu cô đã thấy bất cứ điều gì chúng tôi có thể quan tâm đến, tôi xin cam đoan chúng tôi sẽ vô cùng biết ơn. Cô đã ở đây trong nhà này lúc ấy, đúng không?”
“Tôi không rõ án mạng đã xảy ra vào lúc nào.”
“Chúng tôi nghĩ là trong khoảng từ một giờ rưỡi đến hai giờ rưỡi.”
“Khi đó tôi đang ở đây, vâng, chắc chắn như thế.”
“Còn em của cô?”
“Cậu ấy không về nhà ăn trưa. Đích xác ai đã bị giết? Hình như không nói tới trong bản tin ngắn trên nhật báo địa phương buổi sáng.”
“Chúng tôi chưa biết ông ta là ai,” Hardcastle đáp.
“Một người lạ mặt?”
“Dường như thế.”
“Ông muốn nói cũng là người lạ với cô Pebmarsh sao?”
“Cô Pebmarsh đoan chắc với chúng tôi chẳng hề mong đợi ông khách đặc biệt ấy, và cũng chẳng nghĩ ra ông ta là ai cả.”
“Bà ta không thể chắc chắn điều đó. Bà ta đâu có nhìn thấy.”
“Chúng tôi đã miêu tả thật kỹ với bà ấy.”
“Ông ta là hạng người nào vậy?”
Thanh tra rút từ trong phong bì ra một bức ảnh được rửa vội, rồi trao cho chủ nhà.
“Ông ta đây. Cô có nghĩ ra ông ta có thể là ai không?”
Cô Waterhouse nhìn bức ảnh. “Không. Không… Chắc chắn trước giờ tôi chưa hề gặp ông ta. Trời ơi! Trông ông ta hoàn toàn có vẻ là một người đáng kính.”
“Đấy là một người trông khá đáng kính,” thanh tra nói. “Ông ấy trông như một luật sư hay doanh nhân kiểu nào đấy. ”
“Đúng vậy đó. Bức ảnh này hoàn toàn không có gì là đau buồn cả. Trông ông ấy đúng là như đang say ngủ vậy.”
Thanh tra không cho bà cô ấy biết trong số nhiều tấm ảnh cảnh sát chụp cái xác, họ chọn dùng tấm này vì coi được nhất.
“Chết có thể là một việc bình yên,” ông nói. “Tôi không nghĩ người đàn ông này biết chuyện gì xảy ra với mình.”
“Cô Pebmarsh nói gì về tất cả những chuyện này?” cô Waterhouse gặng hỏi.
“Bà ấy vô cùng bối rối.”
“Thật kinh khủng,” cô Waterhouse bình phẩm.
“Nào, cô có thể giúp chúng tôi được không? Nhớ lại chuyện hôm qua đi, cô có nhìn ra cửa sổ chút nào không, hay ngẫu nhiên đang ở trong vườn vào lúc nào đó từ mười hai giờ rưỡi đến ba giờ?”
Cô Waterhouse trầm ngâm.
“Vâng, tôi đã ở trong vườn… Để tôi xem nào. Khi đó chắc là trước một giờ. Tôi từ ngoài vườn vào nhà khoảng một giờ kém mười, rửa tay rồi ngồi ăn trưa.”
“Cô có trông thấy cô Pebmarsh đi vào hay rời khỏi nhà hay không?”
“Tôi nghĩ bà ấy vào trong—tôi nghe có tiếng cánh cổng kêu cọt kẹt — vâng, lúc nào đó sau mười hai giờ rưỡi.”
“Cô không nói chuyện với bà ấy?”
“À không. Chỉ là tiếng cổng kêu cót két làm tôi ngước nhìn lên thôi. Đó là giờ bà ấy trở về nhà như thường lệ. Bà ấy thường kết thúc giờ đứng lớp vào lúc đó, tôi tin là thế. Bà ấy dạy cho trẻ em khuyết tật, có lẽ ông đã biết rồi.”
“Theo lời khai của cô Pebmarsh, thì bà ấy lại ra ngoài lúc khoảng chừng một giờ rưỡi. Cô có xác nhận như thế không?”
“À, tôi không thể nói với ông giờ giấc chính xác, nhưng mà — đúng rồi, tôi nhớ là bà ấy đã đi ngang qua cổng.”
“Xin lỗi cô Waterhouse, cô nói là ngang qua cổng à?”
“Chắc chắn như vậy. Tôi ở trong phòng khách. Phòng khách nhà tôi nhìn ra đường, trong khi phòng ăn nơi chúng ta đang ngồi bây giờ đây, như ông thấy đó, lại nhìn ra khu vườn đằng sau. Nhưng mà tôi đã đem cà phê vào phòng khách sau bữa ăn trưa và ngồi uống cà phê trên cái ghế gần cửa sổ. Tôi lúc đó đang đọc tờ The Times, và tôi nghĩ đúng lúc tôi lật sang trang thì để ý thấy cô Pebmarsh đang đi qua cổng trước. Có gì lạ thường không, ông thanh tra?”
“Chẳng lạ thường gì, không đâu, ” Hardcastle mỉm cười. “Chỉ có điều tôi được biết là cô Pebmarsh ra ngoài để mua ít hàng và đến bưu điện, và tôi nghĩ rằng con đường ngắn nhất đến các cửa hàng và bưu điện phải đi ngược lại theo lối kia trên đường Crescent chứ.”
“Còn tùy ông đi tới những cửa hàng nào,” bà chủ nhà nói. “Tất nhiên theo lối đó các cửa hàng gần hơn và có một bưu điện trên đường Albany.”
“Nhưng có lẽ cô Pebmarsh vẫn thường đi ngang qua cổng nhà bà khoảng chừng giờ ấy?”
“À, thật tình tôi không rõ cô Pebmarsh thường ra ngoài vào giờ nào hay đi hướng nào. Thật tình tôi không theo dõi lối xóm đâu, ông thanh tra à. Tôi là người bận rộn và có quá nhiều việc riêng. Một số người mà tôi biết dành hết thời gian của họ nhìn qua cửa sổ và để ý ai đi ngang qua và ai ghé thăm nhà ai. Nói đúng hơn đó là thói quen của những người đau yếu bệnh tật hay những kẻ vô công rỗi nghề, không biết làm gì hơn ngoài đoán già đoán non và ngồi lê đôi mách chuyện này chuyện nọ về nhà hàng xóm.”
Bà cô Waterhouse nói quá chua cay khiến ông thanh tra cảm thấy chắc chắn trong đầu bà đang nghĩ tới một người cụ thể nào đó. Ông hấp tấp nói: “Đúng thế đấy. Đúng thế đấy.” Ông nói thêm, “Bởi lẽ cô Pebmarsh đã đi ngang qua cổng trước nhà cô, có thể bà ấy đi gọi điện thoại, phải không? Đấy là chỗ buồng điện thoại công cộng?”
“Vâng, nó đối diện với nhà số 15.”
“Câu hỏi quan trọng tôi phải hỏi cô, thưa cô Waterhouse, cô có trông thấy người đàn ông này đến hay không—người đàn ông bí ẩn, tôi e rằng nhật báo buổi sáng đã gọi như thế.”
Chủ nhà lắc đầu: “Không, tôi không thấy ông ta hay bất cứ người viếng thăm nào khác.”
“Cô đã làm gì từ một giờ rưỡi đến ba giờ?”
“Tôi dành chừng nửa giờ để giải ô chữ trên tờ The Times, hoặc chỉ được chăng hay chớ, sau đó tôi đi vô bếp, rửa chén dĩa của bữa ăn trưa. Để tôi xem nào. Tôi đã viết hai lá thư, ghi mấy tấm séc thanh toán các hóa đơn, sau đó tôi lên lầu, chọn ra một số đồ mình muốn đem đi hấp tẩy. Tôi nghĩ chính từ trong buồng ngủ của mình tôi đã để ý thấy nhà kế bên có lục đục. Tôi nghe rõ mồn một ai đó kêu thét lên, vì vậy theo lẽ tự nhiên tôi đi ra cửa sổ. Có một thanh niên và một cô gái ngoài cổng. Cậu ta hình như đang ôm cô ấy.”
Trung sĩ Lamb dịch chuyển hai bàn chân, nhưng cô Waterhouse nãy giờ không nhìn anh ta nên rõ ràng không hề có ý nghĩ anh ta chính là cậu thanh niên đang được đề cập đến.
“Tôi chỉ thấy phía sau ót cậu ấy thôi. Hình như cậu ta đang cãi nhau với cô gái. Cuối cùng cậu ta để cô ấy ngồi xuống, dựa vào cột cổng. Một hành động lạ thường. Rồi cậu rảo bước đi vào nhà.”
“Bà không trông thấy cô Pebmarsh trở về nhà trước đó ít lâu?”
Chủ nhà lắc đầu. “Không. Thật tình tôi không nghĩ mình đã nhìn ra cửa sổ cho tới khi nghe tiếng thét kỳ lạ đó. Tuy nhiên tôi chẳng chú ý nhiều đến tất cả chuyện này. Trai gái lúc nào cũng làm những chuyện kỳ cục — la hét, xô đẩy nhau, cười khúc khích hay gây ồn kiểu nào đó khiến tôi chẳng hề nghĩ có chuyện gì nghiêm trọng. Mãi tới khi mấy chiếc xe chở cảnh sát đậu lại tôi mới nhận ra là đã có chuyện gì đó không bình thường.”
“Cô làm gì lúc ấy?”
“À, lẽ tự nhiên là tôi ra khỏi nhà, đứng trên bậc thềm rồi đi vòng ra sau vườn. Tôi thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng hình như chẳng có gì nhiều để xem từ phía đó. Khi tôi lại trở ra đằng trước, một vài người đang tụ tập. Một số người nói cho tôi biết đã có án mạng trong nhà ấy. Đối với tôi có vẻ quá sức lạ thường. Quá lạ thường!” bà chủ nhà tỏ ra hết sức bất bình.
“Không còn điều gì khác cô có thể nghĩ đến hay sao? Có thể cho chúng tôi biết không?”
“Thật tình tôi e là không có.”
“Gần đây có ai viết thư cho cô gợi ý mua bảo hiểm không? Hoặc có ai đó ghé thăm cô hay đề nghị thăm viếng hay không?”
“Không. Không có chuyện gì kiểu thế. Cả cậu James và tôi đều đã nhận được các hợp đồng bảo hiểm với Hiệp hội Bảo hiểm Tương trợ rồi. Tất nhiên người ta vẫn luôn nhận được những lá thư thật ra là giấy báo gửi khách hàng hay quảng cáo kiểu nào đó, nhưng gần đây tôi không nhớ có bất cứ thứ gì kiểu như thế.”
“Chẳng có bức thư nào ký tên ai đấy gọi là Curry hay sao?”
“Curry à? Không, chắc chắn không có.”
“Và cái tên Curry chẳng có ý nghĩa gì với cô hay sao?”
“Không. Nghĩa lý gì chứ?”
Hardcastle mỉm cười. “Không. Thật tình tôi cũng không cho là có ý nghĩa gì. Đấy chỉ là cái tên mà người bị sát hại tự xưng thôi.”
“Không phải là tên thật của ông ta sao?”
“Chúng tôi có một số lý do để nghĩ đấy chả phải là tên thật.”
“Một kẻ lừa đảo kiểu nào đó à?”
“Chúng tôi không thể nói thế cho đến khi có bằng chứng chứng minh như vậy.”
“Tất nhiên là không, tất nhiên rồi. Các ông phải cẩn thận. Tôi biết chứ,” cô Waterhouse nói. “Không như một số người ở quanh đây. Chuyện gì họ cũng nói được. Tôi không hiểu sao có những người không bị đưa ra tòa vì cái tội lúc nào cũng công khai phỉ báng người khác.”
“Tội vu khống,” trung sĩ Lamb sửa lại cho đúng, lần đầu tiên lên tiếng.
Bà cô Waterhouse ngó anh ta với đôi chút ngạc nhiên, như thể trước đó bà chẳng hề biết anh ta có tồn tại và chẳng khác gì hơn một phụ tùng cần thiết cho thanh tra Hardcastle.
“Tôi rất tiếc không giúp được gì cho ông, thật tình xin lỗi,” cô Waterhouse nói.
“Tôi cũng rất tiếc,” ông thanh tra nói. “Một người có trí thông minh và óc phán đoán với khả năng quan sát như cô lẽ ra đã là một nhân chứng rất hữu ích cần phải có.”
“Tôi ước chi mình thấy được điều gì đó,” trong phút chốc giọng bà chủ đầy nỗi khao khát y như một cô gái trẻ.
“Còn ông em của bà, ông James Waterhouse thì sao?”
“Cậu James không biết gì đâu,” cô Waterhouse nói vẻ khinh miệt. “Không bao giờ. Và dù sao khi đó cậu ta cũng đang ở văn phòng Gainsford và Swettenhams trên con đường chính của thành phố. Ôi không đâu, cậu ta không thể giúp các ông. Như tôi đã nói, em trai tôi không về ăn trưa.”
“Ông ấy thường ăn trưa ở đâu?”
“Cậu ta thường dùng sandwich và cà phê ở quán Ba Lông Vũ. Một ngôi nhà khá lớn và xinh xắn, chuyên cung cấp bữa trưa nhanh cho dân văn phòng.”
“Cảm ơn cô Waterhouse,” Hardcastle nói. “Chúng tôi không nên lưu lại thêm nữa.”
Ông đứng dậy, đi ra sảnh. Bà chủ nhà đi theo. Trung sĩ Lamb cầm lên cây gậy đánh golf gần cửa cái.
“Gậy đẹp. Đầu gậy nặng ghê.” Anh cầm gậy quơ lên quơ xuống. “Tôi thấy bà đã chuẩn bị đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra.”
Cô Waterhouse hơi giật lùi.
“Thật tình tôi không hình dung ra tại sao cái gậy ấy lại ở đây.”
Bà giật nó từ tay Colin rồi bỏ trở vào túi chơi golf.
“Một cách cảnh giác rất khôn ngoan đấy,” thanh tra nhận xét.
Cô Waterhouse mở cửa đưa họ ra ngoài.
Colin Lamb thở dài: “À, chúng ta chẳng biết được gì nhiều từ bà cô này, mặc dù ông anh suốt buổi đã nịnh bợ bà ta rất khéo léo. Có phải đó là phương pháp bất biến của ông anh không vậy?”
“Thỉnh thoảng cũng đạt kết quả tốt với người cùng một týp của bà này. Những lời tâng bốc vẫn luôn hiệu quả với kiểu người khó tính ấy.”
“Bà ta cứ kêu rừ rừ thích thú như một con mèo sau cùng được người ta cho một đĩa kem vậy đó,” Colin nói. “Thật không may, chẳng tiết lộ được chuyện gì đáng chú ý cả.”
“Không ư?” Hardcastle nói.
Colin đưa mắt nhìn ông thật nhanh, “Ông anh nghĩ gì trong đầu vậy?”
“Một vấn đề rất nhỏ nhặt không đáng kể và có thể không quan trọng. Cô Pebmarsh đã ra ngoài đi bưu điện và các cửa hàng nhưng lại rẽ trái thay vì rẽ phải, và cuộc gọi điện thoại ấy, theo cô Martindale, đã nhận được vào khoảng chừng hai giờ kém mười.”
Colin tò mò ngó ông bạn.
“Ông anh vẫn nghĩ mặc dù bà ta chối, nhưng vẫn có thể đã gọi cú điện thoại đó hay sao? Bà ta đã rất quả quyết mà.”
“Đúng. Bà ấy đã rất quả quyết,” giọng Hardcastle hờ hững.
“Nhưng nếu đúng là bà ta đã làm, thì tại sao?”
“Ôi, toàn những câu hỏi tại sao,” Hardcastle nói vẻ nôn nóng. “Tại sao, tại sao lại thế? Tại sao lại toàn chuyện không đâu vào đâu thế này? Nếu cô Pebmarsh đã gọi điện, tại sao lại muốn cô gái ấy đến đấy? Nếu là kẻ nào khác, tại sao lại muốn liên lụy đến cô Pebmarsh? Chúng ta vẫn chưa biết được bất cứ điều gì. Giá như cái bà Martindale kia từng quen biết cô Pebmarsh, hẳn bà ta đã rõ có phải là giọng nói của bà mù hay không, hoặc một mức độ nào đấy có hao hao giống giọng bà ta hay không. Hừ, chúng ta chả thu được gì nhiều từ nhà số 18. Để xem nhà số 20 có cho chúng ta điều gì khá hơn hay không.”
Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ