Mù Lòa epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 8
ói với một người mù, ông được tự do, mở cánh cửa ngăn cách ông ta với thế gian, Đi đi, ông được tự do, chúng ta bảo ông một lần nữa, và ông ta không đi, ông vẫn bất động ngay giữa đường, ông và những người khác, họ hoảng sợ, họ chẳng biết đi đâu, sự thật là không thể so sánh giữa sống trong một mê cung có chừng mực, nói rõ ra là một nhà thương điên, với mạo hiểm vào mê hồn trận cuồng dại của thành phố mà không có bàn tay dẫn dắt hay một sợi dây buộc chó, nơi ấy trí nhớ sẽ chẳng dùng được cho mục đích gì, vì nó chỉ có thể nhớ hình ảnh của nơi đến nhưng không nhớ đường để đưa chúng ta tới đó. Đứng trước tòa nhà bốc cháy từ đầu này sang đầu kia, người mù có thể cảm thấy những đợt lửa nóng bỏng hắt lên mặt họ, họ đón nhận nó như một thứ có lẽ bảo vệ họ, như các bức tường đã bảo vệ trước kia, nhà tù cũng là nơi trú ẩn. Họ đứng cùng nhau, sát vào nhau như bầy thú, không ai ở đây muốn là con cừu lạc bầy, vì họ biết không có người chăn cừu nào tới tìm họ. Trận cháy bắt đầu tàn dần, vầng trăng lại tỏa sáng, người mù bắt đầu cảm thấy bất an, họ không thể ở lại đó, Mãi mãi, như một người trong bọn họ nói. Có người hỏi bây giờ là ngày hay đêm, lý do cho sự tò mò phi lý này lập tức trở nên rõ ràng, Biết đâu, họ có thể đem thực phẩm cho mình, có lẽ đã có nhầm lẫn gì đó, trước kia đã xảy ra chậm trễ, Nhưng bọn lính không còn đây. Đâu có sao, họ có thể bỏ đi vì không cần nữa, Tôi không hiểu, Chẳng hạn, vì hết sợ lây rồi, Hay vì đã tìm ra cách chữa căn bệnh của mình, Thế thì tốt, tốt quá, Bây giờ mình làm gì, Tôi đợi ở đây tới sáng, Làm sao anh biết là sáng, Nhờ mặt trời, nhờ sức nóng mặt trời, Nếu trời có mây thì sao, Giờ giấc gì thì cũng phải tới lúc sáng. Kiệt sức, nhiều người mù ngồi xuống đất, kẻ yếu hơn đã đổ sụp xuống một đống, vài người đã bất tỉnh, có thể khí mát ban đêm sẽ làm họ tỉnh lại, nhưng chúng ta có thể chắc chắn tới khi giải tán một số trong những kẻ bất hạnh này sẽ không thức dậy, họ đã chống đỡ cho tới nay, họ như người chạy việt dã gục chết trước đích đến ba mét, khi mọi việc đã xong, điều hiển nhiên là mọi cuộc đời đều chấm dứt trước thời hạn. Ngồi và nằm dài trên mặt đất còn có những người mù đang đợi bọn lính, hay đợi ai khác, Hồng thập tự chẳng hạn, có thể mang thực phẩm và các tiện nghi tối thiểu tới, chỉ vì đối với những người này sự tỉnh ngộ sẽ đến hơi chậm. Và nếu còn ai ở đây tin rằng đã tìm ra cách chữa cho bệnh mù của chúng ta thì hình như hắn chẳng hài lòng gì hơn.
Vì lý do khác, vợ bác sĩ nghĩ tốt hơn nên đợi qua đêm, bà bảo với nhóm của bà, Điều cấp thiết nhất bây giờ là tìm thực phẩm và tối thế này tìm không dễ. Em có biết mình đang ở đâu không, chồng bà hỏi, Biết đại khái, Xa nhà mình không, Khá xa. Người khác cũng muốn biết cách nhà họ bao xa, họ cho bà địa chỉ của họ, và vợ bác sĩ cố giải thích, đứa bé mắt lác không nhớ, chả có gì lạ, từ khá lâu nó đã không đòi mẹ. Nếu họ phải đi từ nhà này sang nhà kia, từ nhà gần nhất tới xa nhất, căn nhà đầu tiên sẽ là nhà cô gái đeo kính đen, thứ hai là nhà ông già đeo miếng vải đen che mắt, rồi tới nhà vợ bác sĩ, và cuối cùng là nhà người đàn ông mù đầu tiên. Hẳn nhiên họ sẽ đi theo hành trình này vì cô gái đeo kính đen đã yêu cầu được đưa về nhà cô càng sớm càng tốt, cô nói, Tôi không thể hình dung tình trạng của cha mẹ tôi thế nào, mối ưu tư chân thật này cho thấy sự vô căn cứ của những ai có định kiến chối bỏ khả năng hiện hữu của các tình cảm sâu đậm, bao gồm đạo làm con, chao ôi, trong rất nhiều trường hợp hạnh kiểm bất thường, nhất là trong vấn đề đạo đức chung. Đêm trở lạnh, không còn gì để cháy, sức nóng còn tỏa ra từ than hồng không đủ sưởi ấm những người mù, tê cóng vì lạnh, họ thấy mình ở rất xa cổng nhà thương điên, như trường hợp vợ bác sĩ và nhóm của bà. Họ ngồi tụm lại, ba phụ nữ và đứa bé ở giữa, ba người đàn ông chung quanh, ai thấy họ lúc ấy sẽ nói rằng họ sinh ra như thể quả thật họ đã gây ấn tượng của sự sống, nhưng chỉ một cơ thể, một hơi thở và một cái đói. Người này sau kẻ khác, cuối cùng họ thiếp ngủ, một giấc ngủ chập chờn bị đánh thức vài lần, vì những người mù ra khỏi trạng thái mê mệt, đứng đậy rồi đờ đẫn vấp lên đống thân người cản lối này, một người trong số họ ở lại, ngủ tại đó hay nơi khác nào có quan trọng gì. Khi trời hừng sáng, chỉ còn vài cột khói mỏng từ than hồng bay lên, nhưng cũng chẳng lâu, vì sắp bắt đầu mưa, một cơn mưa phùn lất phất, một màn sương mỏng, đúng vậy, nhưng dai dắng, lúc đầu thậm chí nó không thấm tới mặt đất cháy sém mà bốc hơi ngay, nhưng như mọi người đều biết, nếu mưa cứ tiếp tục rơi thì nước mềm ăn mòn đá cứng, mặc cho ai viết câu này thành vần điệu. Không những mắt của họ mù, sự hiểu biết của họ cũng vẩn đục, vì không thể có câu giải thích nào khác cho lý do quanh co dẫn họ tới kết luận là vì mưa nên thực phẩm họ rất mong đợi sẽ không đến. Không có cách nào thuyết phục họ rằng giả thuyết sai và do đó kết luận cũng phải sai, đừng nói với họ rằng trời còn quá sớm cho bữa ăn sáng, trong nỗi tuyệt vọng, họ lao mình xuống đất khóc nức nở. Thức ăn sẽ không tới, trời mưa, nó sẽ không tới, họ lặp lại, nếu đống đổ nát thảm hại đó còn thích hợp làm chỗ trú ẩn thô sơ nhất, nó sẽ trở lại là nhà thương điên như cũ.
Sau khi vấp, người đàn ông mù đã ở lại tối đó không thể đứng dậy. Cuộn tròn như cố giữ hơi nóng cuối cùng trong bụng, ông không nhúc nhích dù mưa đã bắt đầu nặng hạt. Ông ấy đã chết, vợ bác sĩ nói, chúng ta nên ra khỏi chỗ này khi còn sức. Họ chống chỏi đứng lên, lảo đảo và choáng váng, vịn lấy nhau, rồi họ đứng vào hàng, phía trước là người đàn bà có cặp mắt còn thấy, rồi tới những người nghĩ họ có cặp mắt không thể thấy, cô gái đeo kính đen, ông già đeo miếng vải đen che mắt, đứa bé mắt lác, và người đàn ông mù đầu tiên, chồng bà, và bác sĩ sau cùng. Đường họ đi dẫn tới trung tâm thành phố, nhưng đây không phải là ý định của vợ bác sĩ, bà muốn tìm một chỗ càng sớm càng tốt cho bà có thể yên tâm để lại những người đi theo rồi đi tìm thực phẩm một mình. Đường phố vắng ngắt, vì còn sớm, hay vì mưa càng lúc càng lớn hơn. Rác rưởi khắp nơi, vài tiệm mở cửa, nhưng đa số đóng, không thấy dấu hiệu có người bên trong, cũng không có ánh đèn. Vợ bác sĩ nghĩ nên để bạn đồng hành của bà lại trong một cửa hiệu nào đó, nhớ kỹ tên đường và con số trên cửa trong trường hợp bà lạc lúc trở về. Bà dừng lại, nói với cô gái đeo kính đen, Đợi tôi ở đây, đừng đi, bà tới nhìn qua cửa kính một hiệu thuốc, nghĩ bà có thể thấy hình dáng mờ mờ của nhiều người năm dưới đất, bà gõ lên kính, một cái bóng động đậy, bà lại gõ, những hình người khác bắt đầu từ từ cử động, một người ngồi dậy quay đầu về phía tiếng động phát ra, Họ đều mù, vợ bác sĩ nghĩ, nhưng bà không hiểu nổi làm sao họ lại ở đây, có lẽ họ là gia đình của người dược sĩ, nhưng nếu như thế, tại sao họ không ở nhà họ, tiện nghi hơn sàn cứng rất nhiều, trừ phi họ đang canh gác cơ ngơi, chống lại ai, và vì mục đích gì, mặt hàng này có thể chữa bệnh cũng như giết người. Bà bỏ đi, cách đó một quãng ngắn bà nhìn vào một tiệm khác, thấy nhiều người nằm dưới đất hơn, phụ nữ, đàn ông, trẻ con, một số hình như đang chuẩn bị ra đi, một người tới thẳng cửa, đưa tay ra ngoài rồi nói, Trời mưa, Mưa to không, bên trong có tiếng hỏi, Mưa to, mình phải đợi cho tới khi ngớt, người đàn ông, đó là một ông, cách vợ bác sĩ hai bước, không nhận ra sự hiện diện của bà, vì thế ông sửng sốt khi nghe bà nói, Chào ông, chúc ông một ngày tốt lành, ông đã mất thói quen nói Chúc một ngày tốt lành, không chỉ vì ngày của người mù nói đúng ra chả bao giờ tốt, mà còn vì chẳng ai có thể hoàn toàn chắc là đang ngày hay đêm, và trong sự mâu thuẫn hiển nhiên vừa được giải thích, nếu bây giờ những người này thức giấc gần như cùng lúc vào buổi sáng, đó là vì một số người trong bọn họ mới mù vài ngày trước và chưa mất hẳn cảm giác về sự liên tục của ngày và đêm, ngủ và thức. Người đàn ông nói, Trời đang mưa, rồi hỏi, Bà là ai, Tôi ở xa đây, Bà đang đi tìm thức ăn phải không, Phải, chúng tôi không ăn gì đã bốn ngày, Làm sao bà biết là bốn ngày, Tôi đoán, Bà có một mình, Tôi đi với chồng và một số bạn, Họ có bao nhiêu người, Bảy người tất cả, Nếu bà định ở đây với chúng tôi thì thôi đi, chúng tôi đã đông lắm rồi, Chúng tôi chỉ tạt ngang qua, Các ông bà từ đâu tới, Chúng tôi bị nhốt từ khi dịch mù này bắt đầu, À, phải, cách ly, chả được tích sự gì, Sao ông nói thế, Họ cho phép bà đi, Có một vụ cháy và lúc đó chúng tôi nhận ra lính gác chúng tôi đã biến mất, rồi bà bỏ đi, Vâng, Bọn lính của bà chắc trong số người cuối cùng hóa mù, mọi người đều mù, cả thành phố, cả nước, nếu ai còn thấy thì họ không nói, tự biết lấy một mình, Tại sao ông không sống ở nhà ông, Vì tôi không còn biết nó ở đâu nữa, Tại sao ông không biết nó ở đâu, Còn bà, bà có biết nhà bà ở đâu không, Tôi, vợ bác sĩ sắp trả lời rằng đó chính là nơi bà cùng chồng và các bạn đang đi về, họ chỉ cần ăn vội vài miếng để lấy lại sức khỏe, nhưng đúng lúc đó bà thấy tình hình khá rõ, một người mù đã ra khỏi nhà chỉ có phép lạ mới xoay xở tìm lại được nó, không như trước kia, lúc người mù luôn luôn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của khách qua lại, để băng ngang đường, hay để về lại đúng lối trong trường hợp vô ý lạc khỏi lộ trình quen thuộc, Tôi chỉ biết nhà tôi cách đây xa, bà nói, Nhưng bà sẽ chả bao giờ về tới nơi, Vâng, Vậy bà hiểu chứ, giống như tôi, giống như mọi người, các ông bà đã bị cách ly còn phải học nhiều, bà chưa biết thấy mình không nhà là đỡ thế nào, Tôi không hiểu, Những người đi loanh quanh từng nhóm như chúng tôi, như hầu hết mọi người, khi chúng tôi phải đi tìm thức ăn, chúng tôi phải đi chung, chỉ có cách đó mới không lạc nhau, và vì chúng tôi cùng đi, vì không ai ở lại để trông nhà, giả thử chúng tôi xoay xở tìm lại được nó thì rất có thể đã có nhóm khác không tìm được nhà của họ chiếm cứ nó rồi, chúng ta giống như vòng quay ngựa gỗ, lúc đầu có xung đột, nhưng chúng ta sẽ sớm hiểu rằng chúng ta, người mù, trong chừng mực nào đó, trên thực tế không có gì chúng ta có thể gọi là của mình, trừ các thứ chúng ta mang trên người, Cách giải quyết là sống trong một tiệm bán thực phẩm, ít nhất khi nào còn hàng dự trữ thì không cần đi ra ngoài, Ai làm như vậy thì sẽ chả bao giờ yên tâm, tôi nói chả bao giờ là vì tôi đã nghe tới trường hợp có người định tự cô lập, chốt cửa, nhưng họ không thể giấu mùi thức ăn, người muốn ăn tụ tập bên ngoài, và vì người bên trong không chịu mở cửa, cửa hàng bị đốt, đó là biện pháp đáng nguyền rủa, chính tôi chưa thấy, người ta kể cho tôi, dù sao đó cũng là biện pháp đáng nguyền rủa, cho tới nay tôi biết chưa ai dám làm như vậy, Người ta không còn sống trong nhà hay trong chung cư nữa sao, Còn, họ còn, nhưng rồi cũng vậy, chắc đã có vô số người tạt qua nhà tôi, biết bao giờ tôi tìm lại được nó nữa, vả lại, trong tình hình này, ngủ trong tầng trệt các cửa tiệm và trong các nhà kho là thực tế hơn nhiều, đỡ phải lên xuống thang, Mưa tạnh rồi, vợ bác sĩ nói, Mưa tạnh rồi, người đàn ông lặp lại với mấy người bên trong. Nghe câu này, những người còn nằm dài đứng lên, thu góp đồ đạc của họ, túi dết, túi xách tay, bao vải và túi nhựa, như thể họ sắp lên đường trong một chuyến thám hiểm, và đúng vậy, họ sắp đi tìm thực phẩm, từng người bắt đầu ra khỏi cửa hiệu, vợ bác sĩ nhận thấy họ mặc nhiều quần áo tuy màu sắc y phục của họ không hài hòa, quần họ hoặc ngắn tới nỗi lộ ống quyển, hoặc dài tới nỗi phải vén gấu, nhưng cái lạnh sẽ không thấu tới đám người này, vài ông mặc áo mưa hay áo choàng, hai bà mặc áo khoác lông thú, không thấy cái dù nào, có lẽ vì mang dù bất tiện, và nan dù dễ móc lòi mắt kẻ khác. Nhóm có độ mười lăm người ra đi. Trên đường xuất hiện nhiều nhóm khác, thân ai nấy lo, đàn ông quay vào tường thỏa mãn nhu cầu cấp bách của bọng đái mỗi sáng, phụ nữ thích chỗ kín đáo của mấy chiếc ô tô bỏ hoang. Nhão ra vì mưa, đây đó, phân nhoét khắp trên vỉa hè.
Vợ bác sĩ trở lại nhóm của bà, túm tụm theo bản năng dưới tấm bạt của một hiệu bánh bốc mùi kem đã hóa chua và các thứ đã ôi khác. Mình đi, bà nói, tôi đã tìm được một chỗ trú, rồi bà dẫn họ tới cửa hiệu những người kia vừa bỏ đi. Hàng hóa trong cửa hiệu còn nguyên, các món có thể ăn hay mặc được không còn, có mấy cái tủ lạnh, máy giặt và máy rửa bát, mấy cái bếp và lò vi sóng, máy trộn thực phẩm, máy ép trái cây, máy hút bụi, một ngàn lẻ một phát minh điện tử dùng trong nhà nhằm giúp cuộc sống dễ dàng hơn. Không khí nồng nặc mùi hôi khó chịu, khiến cho sắc trắng bất biến của đồ dùng trở nên lố bịch. Nghỉ ở đây, vợ bác sĩ nói, tôi sẽ đi tìm thức ăn, tôi không biết sẽ tìm ở đâu, gần hay xa, tôi không biết, cứ kiên nhẫn đợi, ngoài kia có nhiều nhóm, nếu ai định vào thì nói chỗ này đã có người, như thế đủ để đuổi họ đi, phong tục bây giờ như vậy, Anh đi với em, chồng bà nói, Đừng, tốt nhất em nên đi một mình, chúng ta phải biết bây giờ thiên hạ sống ra sao, em nghe nói mọi người đều mù, Trong cảnh ngộ này, ông già đeo miếng vải đen che mắt chua chát, giống như chúng ta còn trong nhà thương điên, Khác chứ, chúng ta có thể tự do đi lại, và phải có giải pháp cho vấn đề thực phẩm, mình sẽ không chết đói, tôi cũng phải cố tìm một ít quần áo, chúng ta rách rưới cả rồi, chính bà là người cần nhất, gần khỏa thân từ eo lên. Bà hôn chồng, ngay lúc ấy bà cảm thấy như nhói trong tim, Làm ơn, dù việc gì xảy ra, ngay cả nếu có ai định vào, đừng rời nơi này, và nếu bị đuổi đi, tuy em không tin là sẽ xảy ra, nhưng chỉ dặn anh để phòng trước mọi tình thế thì cả nhóm cứ ở gần cửa cho tới khi em quay lại. Bà nhìn họ, mắt bà đẫm lệ, họ lệ thuộc vào bà như trẻ nhỏ mong mẹ. Làm sao mình có thể phụ lòng họ, bà nghĩ. Bà không ngờ khắp chung quanh thiên hạ đều mù nhưng vẫn xoay xở sống, chính bà cũng phải hóa mù để hiểu người ta sẽ quen với mọi việc, nhất là nếu họ đã không còn là người, và ngay cả nếu họ chưa tới mức đó, lấy thí dụ đứa bé mắt lác chẳng hạn, nó thậm chí không còn đòi mẹ nó nữa. Bà ra đường, nhìn và nhớ kỹ trong tâm khảm con số trên cửa, tên cửa hiệu, bây giờ bà phải kiểm tên đường ở góc phố, bà không biết chuyến đi tìm thực phẩm này có thể đưa bà tới đâu, hay thực phẩm gì, có thể chỉ cách đó ba cánh cửa hay ba trăm, bà không được phép lạc, sẽ chẳng có ai để hỏi đường, những người trước kia có thể thấy nay đã mù, và bà, người có thể thấy, sẽ không biết bà đang ở đâu. Mặt trời ló dạng, chiếu trên các vũng nước trong đống rác, hiện rõ cỏ dại đang nhú lên giữa các viên đá lót đường. Bên ngoài đông người hơn. Làm sao họ tìm đường, vợ bác sĩ tự hỏi. Họ không tìm đường, họ cứ nép sát các tòa nhà, tay họ đưa ra phía trước, họ vấp liên tục vào nhau như đàn kiến trên lối mòn, nhưng khi vấp không ai phản đối, cũng chẳng ai phải nói gì, một trong hai gia đình sẽ rời khỏi bức tường, nhóm đi ngược chiều sẽ tiến tới dọc theo tường, và cứ thế họ tiếp tục cho đến khi lại gặp một nhóm khác. Thỉnh thoảng họ ngừng lại, đánh hơi ở cửa các hiệu buôn hy vọng bắt được mùi thức ăn, bất kỳ món gì, rồi tiếp tục đi, họ rẽ ở góc phố, biến khỏi tầm mắt, rồi một nhóm khác xuất hiện, họ hình như chưa tìm thấy thứ họ đang tìm. Vợ bác sĩ có thể đi rất nhanh, bà không phí thời giờ vào các cửa hiệu để tìm có món gì ăn được, nhưng chẳng bao lâu trở nên rõ ràng là không dễ tích trữ bất kỳ số lượng bao nhiêu, vài hiệu tạp hóa bà gặp hình như đã bị ngấu nghiến từ trong và các ngăn kệ như trống rỗng.
Bà đã đi xa khỏi nơi bà rời chồng và các bạn đồng hành, băng qua lại các phố xá, đại lộ, quảng trường, rồi bà thấy mình đứng trước một siêu thị. Bên trong cũng thế, các dãy kệ trống, hàng hóa đổ nhào, người mù lang thang giữa lối đi, hầu hết bò lổm ngổm, tay họ quét rác rưởi trên sàn, hy vọng tìm thấy món có thể dùng được, một lon thức ăn trơ lỳ dưới cái đập của những kẻ đã tuyệt vọng mở nó, một gói nào đó, bất kể bên trong là gì, một củ khoai, dù bị giẫm nát, một cùi bánh mì, dù cứng như đá. Vợ bác sĩ nghĩ, Tuy vậy, phải có cái gì, tiệm này rộng mênh mông. Một anh mù đứng lên thân đầu gối anh ta bị mảnh kính đâm, máu đã nhỏ xuống chân. Người mù trong nhóm vây quanh anh, Chuyện gì vậy, việc gì vậy, và anh kể cho họ, Một mảnh kính đâm vào đầu gối tôi, Chân nào, Chân trái, một cô mù bò xuống. Coi chừng, chung quanh có thể có mành kính, cô dò dẫm, lần mò để phân biệt chân nào, Đây rồi, cô nói, nó đang dựng đứng lên đây, một anh mù bật cười, Ôi dào, nếu nó đang dựng đứng thì tận dụng nó vậy, và những người khác, cả đàn ông và đàn bà, hùa vào cười. Bấu ngón cái và ngón trỏ lại, một cử chỉ tự nhiên không cần huấn luyện, cô mù rút mảnh kính ra, rồi băng đầu gối lại bằng miếng giẻ cô tìm thấy trong túi khoác trên vai, cuối cùng cô nói đùa một câu để làm vui mọi người, Chả làm gì cả, hết dựng đứng, mọi người cười, và người đàn ông bị thương cãi, Khi nào cảm thấy muốn thì mình có thể thử để coi cái nào dựng đứng nhất, nhóm này chắc chắn không có đàn ông và đàn bà đã lập gia đình, vì có vẻ chẳng ai mích lòng, họ hẳn là bọn người đạo đức lỏng lẻo có quan hệ tùy tiện, trừ phi hai người thật ra là vợ chồng, vì thế họ ăn nói tự nhiên với nhau, nhưng họ không cho ta cảm tưởng đó, và không cặp vợ chồng nào nói những điều này trước công chúng. Vợ bác sĩ nhìn quanh, bất kỳ cái gì còn dùng được đều đã bị tranh giành giữa các cú đấm thường không trúng và nhiều lần xô đẩy không phân biệt bạn hay thù, và đôi khi món đồ gây nên xung đột thoát khỏi tay họ rồi rốt cuộc nằm trên sàn nhà, đợi người vấp phải nó, Đồ quỷ, mình sẽ đếch bao giờ cút ra khỏi chỗ này được, bà nghĩ, dùng một câu ngoài ngữ vụng thông thường của bà, một lần nữa cho thấy sức mạnh và đặc tính của hoàn cảnh có ảnh hưởng đáng kể tới ngôn ngữ, ta hãy nhớ lại tên lính đã nói đồ cứt khi ra lệnh đứng yên, Vì thế hãy miễn cho các câu tán thán trong tương lai khỏi mang tội hạnh kiểm xấu dưới các tình huống ít hiểm nghèo hơn. Đồ quỷ, mình sẽ đếch bao giờ cút ra khỏi chỗ này được, bà lại nghĩ, và đúng lúc bà sắp bỏ đi, một ý khác chợt đến với bà, Trong một cơ ngơi như thế này phải có buồng kho, không nhất thiết là lớn, vì kho lớn nằm chỗ khác, có lẽ khá xa đây, nhưng phải có kho dự phòng cho một số mặt hàng bán chạy nào đó. Phân khởi vì ý nghĩ này, bà bắt đầu tìm một cánh cửa đóng có thể đưa bà tới cái hang chứa kho tàng, nhưng tất cả đều mở, và trong đó bà thấy cùng một cảnh tàn phá, cũng những người mù lục lọi cùng một đống rác. Cuối cùng, trong một hành lang tối, ánh sáng ban ngày ít khi lọt vào, bà thấy một thứ giống như thang máy chở hàng. Các cửa sắt bị đóng và bên hông có một cửa khác, trơn láng, thuộc loại lăn trên rãnh, Tầng hầm, bà nghĩ, những người mù tới được chỗ này thấy lối đi bị cản, họ chắc nhận ra có thang máy, nhưng không ai nghĩ bình thường cũng có cầu thang trong trường hợp cúp điện chẳng hạn, như bây giờ. Bà đẩy cánh cửa lăn, và hầu như cùng một lúc bị hai cảm giác tràn ngập, đầu tiên là bóng tối như mực bà sẽ phải xâm nhập để tới tầng hầm, rồi tới mùi thực phẩm không thể lầm, ngay cả khi chứa trong lọ và đồ chứa gắn kín, thực tế là người đói luôn có khứu giác nhạy bén, xuyên qua mọi chướng ngại, giống như loài chó. Bà vội quay lại đống rác tìm bao nhựa bà cần để mang thực phẩm, đồng thời tự hỏi, Không có đèn làm sao mình biết lấy cái gì, bà nhún vai, lo vớ vẩn, bây giờ quan tâm của bà trong tình trạng yếu đuối lúc này nên là liệu có sức để mang mấy cái túi đầy hay không, để lần bước về chỗ cũ, đúng lúc ấy, bà hoảng sợ kinh khủng, sợ không thể trở về chỗ chồng bà đang đợi, bà biết tên đường, bà chưa quên nó, nhưng bà đã đi quanh co rất nhiều, nỗi tuyệt vọng khiến bà tê liệt, rồi từ từ, như thể bộ não đờ đẫn của bà rốt cuộc hoạt động lại, bà thấy mình cúi trên tấm bản đồ thành phố, dùng đầu ngón tay tìm con đường ngắn nhất, như thể bà có hai cặp mắt, một cặp nhìn bà đang xem bản đồ, cặp kia nghiên cứu kỹ tấm bản đồ và tìm đường. May mắn, hành lang vẫn vắng ngắt, trong trạng thái bồn chồn vì khám phá của mình, bà đã quên đóng cửa. Bây giờ bà đóng nó lại cẩn thận để rồi thấy mình lao vào bóng tối hoàn toàn, mù như người mù ngoài đó, khác biệt duy nhất là màu, nếu đen và trắng, nói đúng ra, có thể được xem là màu. Giữ sát tường, bà bắt đầu xuống thang, nếu chỗ này thật ra không bí mật, và có kẻ đi lên từ sâu thẳm, họ sẽ phải tiến tới như bà đã thấy ngoài phố, một trong hai người phải bỏ sự an toàn được dựa vào một vật gì đó, lướt qua sự hiện diện mơ hồ của người kia, có lẽ thoáng ngớ ngẩn sợ rằng vách tường sẽ không còn tiếp tục phía kia, Mình đang hóa điên, bà nghĩ, và có lý do chính đáng, xuống cái hố đen này mà không có đèn hay hy vọng nhìn thấy thì đi được bao xa, các kho dưới đất thường chẳng bao giờ sâu lắm, bậc thang đầu tiên, Bây giờ mình biết mù là sao, bậc thang thứ hai, Mình sắp hét lên, mình sắp hét lên, bậc thang thứ ba, bóng tối như chất nhão đặc sệt dính vào mặt bà, mắt bà biến thành hai viên bi hắc ín, Trước mặt mình là gì, rồi một ý nghĩ khác, thậm chí khủng khiếp hơn, Làm sao mình tìm lại cầu thang, bà bỗng lảo đảo và phải bò xuống để khỏi ngã, hầu như ngất xỉu, bà lắp bắp, Sạch, bà ám chỉ sàn nhà, một sàn nhà sạch đối với bà hình như khác thường. Dần dần bà lấy lại cảm giác, bà cảm thấy cái đau vô tri nơi bao tử, chả có gì mới, nhưng lúc này cơ thể bà như không có bộ phận sống nào khác, phải có cơ quan khác, nhưng chúng không cho thấy dấu hiệu nào, tim bà, ừ, tim bà đập như trống cái, mãi mãi đập một cách mù lòa trong bóng tối, từ chỗ tối tăm nhất, từ bào thai nơi nó thành hình, tới chỗ tận cùng nơi nó chấm dứt. Bà vẫn nắm chặt mấy cái bao nhựa, bà không buông chúng, bây giờ bà chỉ phải nhét đầy chúng, một cách bình tĩnh, kho chứa đâu phải là chỗ cho ma quỷ và rồng rắn, ở đây chỉ có bóng tối, và bóng tối không cắn hay tấn công, còn cầu thang thì mình sẽ tìm thấy nó, dù phải đi vòng quanh khắp chỗ kinh khủng này. Đầu đã nhất quyết, bà định đứng lên, nhưng nhớ rằng bà mù như mọi người, tốt hơn nên làm như họ, bò tới cho đến khi gặp vật gì, hàng kệ chất đầy thực phẩm, bất kỳ thứ gì, miễn là có thể ăn được mà không phải nấu hay sửa soạn khó khăn, vì không có thời giờ nấu nướng cho ngon.
Nỗi sợ hãi của bà len lén bò về, bà đã đi chưa tới vài mét, có lẽ bà lầm, có lẽ ngay phía trước bà, vô hình, một con rồng đang há miệng đợi bà. Hay một con ma đang vươn tay ra bắt bà đưa về cái thế giới kinh khiếp của người chết chưa bao giờ ngưng chết, vì luôn luôn có kẻ đến để phục sinh họ. Nói một cách nôm na, với nỗi buồn cam chịu vô tận, bà bỗng cảm thấy chỗ bà đang ở không phải là kho thực phẩm, mà là nơi để xe, bà nghĩ bà ngửi thấy mùi xăng, tâm trí bị ảo giác khi nó đầu hàng loài yêu quái do chính nó tạo ra. Khi ấy tay bà đụng vật gì, không phải ngón tay nhẩy nhớt của yêu tinh, không phải cái lưỡi bốc cháy và nanh của con rồng, bà cảm thấy đụng phải kim loại lạnh, một mặt đứng trơn láng, không biết nó là gì, bà đoán đây là vách của dãy kệ, bà cho rằng phải có nhiều dãy kệ khác như vậy, đứng song song với kệ này như thường thấy, vấn đề bây giờ là tìm xem hàng thực phẩm ở đâu, không ở đây, vì mùi của nó không thể lầm, nó có mùi chất tẩy. Không nghĩ ngợi gì thêm về các khó khăn sẽ gặp để tìm cầu thang, bà bắt đầu kiểm tra các hàng kệ, mò mẫm, đánh hơi, lắc. Có các thùng giấy, chai nhựa và thủy tinh, lọ các cỡ, lon thiếc có lẽ là thức ăn, các loại hộp, bao, túi, ống. Bà bỏ đại vào đầy một bao, Tất cả các thứ này có thể ăn được không, bà hơi băn khoăn tự nghĩ. Vợ bác sĩ lần qua dãy kệ bên cạnh, và việc bất ngờ xảy ra, bàn tay mù lòa của bà không thấy nơi nó tới, đụng và làm đổ vài cái hộp nhỏ.
Tiếng nó đụng sàn nhà hầu như làm tim bà ngưng đập, Diêm quẹt, bà nghĩ. Run rẩy vì phấn khởi, bà cúi xuống, lướt bàn tay trên sàn, tìm thấy thứ bà tìm, mùi này không hề lẫn với mùi nào khác, và tiếng mấy que diêm nhỏ khi ta lắc cái hộp, cái nắp đầy, vẻ thô ráp của giấy nhám bên ngoài, giấy phốt pho, tiếng đánh diêm, cuối cùng lóe lên một tia lửa nhỏ, không gian chung quanh một vòng sáng khuếch tán như vì sao lấp lánh qua sương mù, Trời ơi, ánh sáng hiện hữu và ta có mắt để nhìn, hoan hô ánh sáng. Từ bây giờ, thu hoạch sẽ dễ dàng. Bà bắt đầu lấy các hộp diêm, và hầu như đầy một túi. Không cần lấy hết, tiếng của lý trí bảo bà, rồi ngọn lửa chập chờn của que diêm soi sáng các hàng kệ, đằng này, rồi đằng kia, chả bao lâu đã đầy các túi, túi đầu tiên phải đổ ra vì chứa những thứ vô dụng, các túi kia đã đủ giàu có để mua cả thành phố, ta cũng không nên ngạc nhiên về giá trị chênh lệch, chúng ta chỉ cần nhớ đã có lần một ông vua muốn đổi cả vương quốc lấy một con ngựa, ông sẽ không làm thế nếu ông đang chết đói và thèm khát những túi nhựa đầy thực phẩm này. Cầu thang đằng kia, bên phải lối ra. Nhưng trước tiên, vợ bác sĩ ngồi xuống sàn, mở một bao xúc xích cay, một túi khác có những lát bánh mì đen, một chai nước, và bà bắt đầu ăn, không ân hận. Nếu bà không ăn bây giờ bà sẽ không có sức để mang lương thực về nơi nó cần, bà là người trụ cột. Khi ăn xong, bà luồn những cái túi vào cánh tay, mỗi bên ba túi, và giơ tay trước mặt, bà tiếp tục đánh diêm cho tới khi đến cầu thang, rồi bà khó nhọc leo lên, bà vẫn chưa tiêu hóa thức ăn, chúng cần thời gian để đi từ dạ dày tới bắp thịt và hệ thần kinh, và trong trường hợp của bà, tới chỗ đã chứng tỏ là nơi kháng cự mạnh nhất, đầu bà. Cánh cửa lăn ra không một tiếng động, Nếu có người ở hành lang thì sao, vợ bác sĩ nghĩ, mình sẽ làm gì. Không có ai, nhưng bà lại bắt đầu tự hỏi, Mình sẽ làm gì. Khi tới lối ra, bà có thể quay lại la lớn, Có thức ăn ở cuối hành lang, cầu thang dẫn xuống hầm chứa, tận dụng nó, tôi đã để cửa mở. Bà có thể nói, nhưng quyết định im. Bà dùng vai đóng cửa, tự nhủ tốt hơn đừng nói, cứ tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra, người mù chạy khắp nơi như kẻ điên, lặp lại những gì đã xảy ra trong nhà thương điên khi lửa phát cháy, họ sẽ lăn xuống thang, bị người phía sau đạp và đè bẹp, người phía sau cũng sẽ vấp ngã, đặt chân lên một bậc thang vững chắc sẽ khác với bước lên một thân người trơn trượt. Và khi hết thức ăn, mình có thể quay lại lấy thêm, bà nghĩ. Bây giờ bà giữ chặt mấy cái túi trong tay, hít một hơi sâu, rồi tiến dọc hành lang. Họ không thể thấy bà, nhưng có mùi thức ăn bà đã ăn, Xúc xích, mình thật ngốc, giống như để lộ dấu vết. Bà nghiến răng, nắm chặt mấy cái túi bằng tất cả sức mình, Mình phải chạy, bà nói. Bà nhớ anh mù bị mảnh kính cắt đầu gối, Nếu mình cũng bị như vậy, nếu mình không nhìn kỹ và đạp lên kính vỡ, chúng ta có thể đã quên rằng người phụ nữ này không mang giày, bà vẫn chưa có thì giờ vào một tiệm giày như những người mù trong thành phố, dù họ bất hạnh không thấy, họ vẫn có thể ít nhất chọn giày dép bằng cách sờ mó. Bà phải chạy, và bà chạy. Thoạt tiên, bà cố len qua các nhóm người mù, cố đừng đụng họ, nhưng điều này buộc bà đi chậm, dừng lại vài lần để tìm lối, đủ để tiết lộ mùi thức ăn, mùi thoang thoảng không chỉ thơm và cao tít tầng mây, lập tức một ông mù la lớn, Ai đang ăn xúc xích ở đây, ngay khi câu này thốt ra vợ bác sĩ vứt bỏ thận trọng và liều lĩnh bỏ chạy, đụng, xô, tông ngã thiên hạ, với thái độ bất chấp quỷ thần hoàn toàn đáng chỉ trích, vì đây không phải là cách đối xử với người mù đã có quá nhiều lý do để buồn khổ.
Khi bà ra tới đường, trời đang mưa tầm tã, Càng tốt, bà nghĩ, hổn hển thở, chân bà run, dưới mưa này càng khó nhận ra mùi. Có người đã chộp lấy mảnh áo rách cuối cùng che bà từ eo lên, bây giờ bà đi loanh quanh với bộ ngực trần lấp lánh, nói một cách lịch sự, trong khi nước trên trời trút xuống, đây không phải là vì người ta có quyền tự do, mà may thay vì mấy cái túi đầy, quá nặng để bà giơ chúng lên cao như lá cờ. Điều này hơi bất tiện, vì cái mùi trêu ngươi này bay xa làm lũ chó đánh hơi biết, dĩ nhiên chó không có chủ săn sóc và cho ăn, gần như một bầy theo sau vợ bác sĩ, chúng ta hãy hy vọng không con chó nào nhớ cắn một miếng để thử sức chống đỡ của túi nhựa. Dưới cơn mưa như trút này, gần thành trận lụt, ta nghĩ thiên hạ sẽ trú mưa, đợi thời tiết tốt trở lại. Nhưng không đúng trong cảnh ngộ này, khắp nơi người mù há hốc miệng lên trời, thỏa mãn cơn khát của họ, chứa nước trong mọi ngóc ngách của cơ thể họ, và kẻ khác, nhìn xa hơn, và nhất là biết xét đoán hơn, cầm thùng, bát và xoong chảo, giơ chúng lên bầu trời hào phóng, rõ ràng Thượng đế thỏa mãn cho kẻ khát. Vợ bác sĩ chưa nghĩ được rằng chẳng có một giọt nước quý báu nào chảy ra từ vòi nước trong nhà, đây là mặt hạn chế của văn minh, chúng ta quen với tiện nghi của nước theo đường ống vào nhà mình, và quên rằng muốn điều đó xảy ra thì phải có người mở và đóng các van phân phối, các tháp nước và bơm nước cần năng lượng điện, cần máy vi tính để điều tiết thiếu hụt và kiểm tra các hố dự trữ, và tất cả hoạt động này đòi hỏi phải dùng mắt người. Con mắt cũng cần thấy hình ảnh này, một phụ nữ mang nặng mấy cái túi nhựa, đi trên phố ngập nước mưa, giữa rác thối rữa và phân người cùng phân súc vật, ô tô và xe tải bỏ phế đủ kiểu, chắn ngang đại lộ, một số chiếc đã có cỏ mọc quanh bánh xe, và người mù, người mù mở miệng và nhìn đăm đăm lên bầu trời trắng, dường như không thể hình dung nổi mưa lại rơi xuống từ bầu trời đó. Vợ bác sĩ vừa đi vừa đọc bảng đường, bà nhớ vài tên, tên khác hoàn toàn không nhớ, và tới lúc bà biết bà đã lạc. Không ngờ gì nữa, bà lạc. Bà rẽ, rồi lại rẽ, bà không còn nhớ đường phố hay tên của chúng, rồi trong nỗi khốn cùng, bà ngồi xuống mặt đất bẩn thỉu, dày bùn đen, và cạn kiệt hơi sức, tất cả hơi sức, bà bật khóc. Bầy chó vây quanh bà, đánh hơi các túi, nhưng không kiên quyết lắm, như thể giờ ăn của chúng đã qua, một con trong bầy liếm mặt bà, có lẽ nó đã quen lau khô nước mắt từ khi còn nhỏ. Người đàn bà xoa đầu nó, vuốt tay lên cái lưng ướt sũng của nó, và bà vừa ôm con chó vừa khóc hết nước mắt. Cuối cùng bà ngửng lên, ngàn lần tạ ơn vị thần giao thông, bà thấy tấm bản đồ lớn trước mặt, loại bản đồ hội đồng thành phố dựng lên khắp các trung tâm đô thị, để trấn an và vì lợi ích của du khách, bọn người nôn nóng nói họ đã ở đâu cũng như muốn biết chính xác họ đang ở chỗ nào. Bây giờ mọi người đều mù, ta có khuynh hướng nghĩ rằng tiền đã tiêu lãng phí, nhưng hãy kiên nhẫn, hãy để thời gian diễn tiến, chúng ta nên học điều này một lần cho xong, rằng số phận phải đổi hướng nhiều lần trước khi tới bất kỳ nơi nào, chỉ có số phận biết giá phải trả để đặt tấm bản đồ này ở đây cho người phụ nữ này biết bà ta đang ở đâu. Bà không ở xa lắm như bà nghĩ, bà chỉ cần vòng lại hướng khác, bà chỉ phải theo đường này cho tới khi bà đến quảng trường, tới đó bà thấy hai đường bên trái, rồi bà rẽ vào đường đầu tiên bên phải, đó là chỗ bà đang tìm, bà chưa quên số nhà. Bầy chó dần dần bỏ bà, dọc đường đi có thứ khác hấp dẫn chúng, hay chúng quen với khu này và không muốn lang thang quá xa, chỉ còn con chó đã liếm khô nước mắt bà tháp tùng người đã rơi những giọt lệ đó, có lẽ số phận đã sắp đặt kỹ cuộc gặp gỡ này của người đàn bà và tấm bản đồ, bao gồm cả con chó. Bà và nó cũng vào cửa hiệu, con chó của nước mắt không ngạc nhiên khi thấy người nằm dưới đất, bất động như thể họ đã chết, con chó đã quen với điều này, đôi khi họ cho nó ngủ giữa họ, và khi tới lúc tỉnh dậy, họ hầu như luôn luôn còn sống. Nếu đang ngủ thì thức dậy, tôi đã mang thức ăn về, vợ bác sĩ nói, nhưng trước tiên bà đóng cửa, ngừa trường hợp có ai đi ngang đường nghe thấy bà. Đứa bé mắt lác là kẻ đầu tiên ngóc đầu dậy, nó yếu chẳng làm được gì hơn, người khác lâu hơn, họ đang mơ họ là đá, và chúng ta đều biết đá ngủ say thế nào, một chuyến đi dạo nơi thôn dã sẽ cho thấy như thể chúng nằm đó ngủ, nửa chôn vùi, nào ai biết chúng đợi điều gì đánh thức. Tuy nhiên, chữ thức ăn có sức mạnh thần kỳ, nhất là khi cái đói đang tấn công, ngay cả con chó của nước mắt, nó không biết một ngôn ngữ nào, đã bắt đầu vẫy đuôi, cử động theo bản năng này nhắc nó nhớ rằng nó vẫn chưa làm chuyện con chó ướt phải làm là lắc mạnh, bắn tung tóe chung quanh, đối với chúng là chuyện dễ, chúng có bộ lông như cái áo khoác. Nước thánh thuộc loại hiệu nghiệm nhất, rơi thẳng từ thiên đàng xuống, bắn tung tóe giúp cho đá tự biến thành người, trong khi đó vợ bác sĩ tham dự vào tiến trình biến thái siêu nhiên này bằng cách lần lượt mở các túi nhựa. Không phải mọi thứ có mùi món nó chứa bên trong, nhưng mùi của một khúc bánh mì thiu là đủ, dùng một từ tâng bốc, đủ như thực chất của chính cuộc đời. Cuối cùng tất cả đều thức dậy, tay họ run rẩy, mặt họ nôn nóng, khi ấy bác sĩ, như con chó của nước mắt trước đó, nhớ ông là ai, Cẩn thận, ăn nhiều quá không tốt, có thể có hại, Cái làm hại chúng ta là đói, người đàn ông mù đầu tiên nói, Cứ nghe lời bác sĩ nói, vợ ông trách ông, và chồng bà lặng im, hậm hực nghĩ, Hắn thậm chí chả biết gì về mắt, những lời này không đúng, nhất là nếu chúng ta xét tới sự kiện bác sĩ cũng mù chẳng kém ai, bằng cớ là ông không biết vợ ông lõa lồ từ eo lên, bà là người bảo ông đưa áo khoác của ông cho bà để che thân, những người mù kia nhìn về phía bà, nhưng đã quá muộn, phải chi họ đã nhìn trước đó.
Lúc họ ăn, người phụ nữ kể cho họ về cuộc mạo hiểm của bà, về mọi việc đã xảy ra cho bà và mọi việc bà đã làm, không nhắc tới việc bà đã đóng cửa kho, bà không chắc hoàn toàn về lý do nhân bản mà bà đã tự biện minh, bù lại bà kể cho họ về anh mù bị mảnh kính đâm vào đầu gối, họ đều cười thỏa thuê, ôi dào, chả phải tất cả, ông già đeo miếng vải đen che mắt chỉ phản ứng bằng nụ cười mệt mỏi, và đứa bé mắt lác chỉ nghe tiếng nó nhai thức ăn. Con chó của nước mắt nhận phần nó, lập tức trả ơn bằng cách sủa dữ dội khi có người bên ngoài lắc mạnh cánh cửa. Bất kỳ là ai, họ không quyết tâm, thiên hạ đã kể về lũ chó dại đi lang thang, không biết đặt chân mình vào chỗ nào đã làm mình điên đủ rồi. Họ đã thanh thản lại, và khi ấy, khi cái đói lúc nãy của mọi người đã được thỏa mãn, vợ bác sĩ thuật lại câu chuyện bà đã nói với người đàn ông từ đúng cửa hiệu này đi ra xem trời mưa hay tạnh, rồi bà kết luận, Nếu điều ông ấy nói với tôi là đúng, chúng ta không chắc có tìm được nhà mình nguyên vẹn như lúc mình ra đi hay không, chúng ta thậm chí không biết mình có thể vào nhà không, tôi muốn nói tới những ai quên mang theo chìa khóa khi ra đi, hay đã mất nó, chúng tôi, chẳng hạn, không có, mất nó trong vụ cháy, bây giờ không thể tìm thấy nó giữa đống tro tàn, bà thốt lên lời này và như thể bà đang nhìn ngọn lửa ngấu nghiến cây kéo của bà, trước tiên đốt cháy máu đông trên kéo, rồi liếm lên mũi nhọn, làm cùn nó, và dần dần làm nó mờ đi, dễ uốn, mềm mại, mất hình dáng, không ai có thể tin rằng dụng cụ này đã có thể đâm thủng cổ họng người, khi ngọn lửa đã làm xong việc của nó, không ai có thể phân biệt trong khối hợp kim nấu chảy này đâu là cây kéo và đâu là chìa khóa, Anh có chìa khóa, bác sĩ nói, và vụng về cho ba ngón tay vào cái túi nhỏ gần thắt lưng chiếc quần rách tơi tả của ông, ông lấy ra một cái vòng nhỏ gắn ba chìa khóa, Làm sao anh có khi mà em đã cất nó vào túi xách tay của em bị bỏ rơi lại phía sau, Anh lấy ra, anh sợ lạc mất nó, anh cảm thấy yên chí hơn nếu luôn giữ nó bên mình, và cũng là cách để thuyết phục mình là một ngày nào đó mình sẽ về nhà, Có chìa khóa thật nhẹ người, nhưng mình có thế thấy cửa nhà bị phá và có thế người ta không cố phá đâu. trong khoảnh khắc, họ đã quên mấy người kia, nhưng bây giờ điều quan trọng cần biết từ tất cả mọi người là chìa khóa còn không. Người đầu tiên nói là cô gái đeo kính đen, cha mẹ tôi vẫn ở nhà khi xe cứu thương tới tìm tôi, sau đó ra sao, rồi ông già miếng vải đen che mắt lên tiếng, lúc hóa mù…Khi mọi người đã kể hết chuyện, Bà vợ bác sĩ bắt đầu đứng lên, nhưng nhận thấy sau khi được thỏa thuê và hết đói, đứa bé mắt lác đã ngủ lại. Bà nói, Hẵng nghỉ đã, ngủ một giấc ngắn, rồi sau đó chúng ta có thể đi xem điều gì chờ đợi mình. Bà cởi chiếc áo sũng nước của mình, rồi tìm hơi ấm, bà rúc vào chồng, và người đàn ông mù đầu tiên và vợ ông cũng làm thế. Em đấy à, ông ta hỏi, bà nhớ căn nhà của họ và đau lòng, bà không nói, An ủi em, nhưng bà đã nghĩ tới, điều chúng ta không biết là cô gái đeo kính đen nghĩ gì khi vòng tay qua vai ông già đeo miếng vải đen che mắt, nhưng rõ ràng cô đã làm như thế, và họ nằm im, cô ngủ, nhưng ông thức. Con chó đi ra nằm ở cửa, ngăn lối vào, nó là con thú cộc cằn, dữ tính khi nó không phải liếm khô nước mắt của một người.
Mù Lòa Mù Lòa - José Saramago Mù Lòa